|
Những vị Thiền sư đương thời (Living Buddhist Masters,
Jack Kornfield)
Tỳ kheo Thiện Minh dịch Việt, Sài Gòn, 1999
 |
Chương VIThiền sư Sunlun Sayadaw
|
Thiền sư Sunlun Sayadaw có được tên gọi như vậy là vì
ngài đến từ hang động tu viện làng Sunlun ở gần Myingyan ở miền
Trung Miến Ðiện. Ngài sinh ra vào năm 1878 và được đặt tên là U Kyaw
Din. Lớn lên ngài được gởi đến một trường đạo, nhưng ở đó ngài
học ít thôi. Lúc mười lăm tuổi ngài vào làm việc như một cậu bé
văn phòng. Ơủ văn phòng đại biểu chánh quyền quận ở Myingyan. Người
kết hôn với một thiếu nữ Ma Shawe Yi ở cùng làng. Năm ba mươi tuổi,
ngài khước từ chức vụ của mình và trở về ngôi làng quê để làm
nông dân. Ngài thấy rằng cánh đồng của mình thì phì nhiêu trong khi đó thì
những cánh đồng khác thì thất mùa. Năm 1919 có một nạn bịnh dịch, ngôi
làng của ngài vẫn thịnh vượng. Người Miến Ðiện tin tưởng rằng
nếu tài sản của ai đó có được một cách mau lẹ, người ấy sẽ chết
sớm. Lo sợ vì tài sản của mình, nên U Kyaw Din hỏi ý kiến một nhà
chiêm tinh. Ông ta đã bảo rằng một chúng sinh có hai chân sẽ từ bỏ nhà của
ông sớm. Ðiều đó ngụ ý nói là ngài sẽ chết.
Trong nỗi niềm lo sợ to tát đó, U Kyaw Din quyết định hoàn thành
một công việc phước thiện to lớn. Ngài dựng một rạp trước nhà của
ngài và mời dân làng đến ăn ba ngày. Vào ngày thứ ba, một du sĩ khổ
hạnh không mời mà xuất hiện trong buổi tiệc. Du sĩ bắt đầu nói
về thực hành thiền quán và khi nghe những danh từ này, U Kyaw Din trở
nên xúc động mạnh. Ngài không thể ngủ được đêm đó. Ngài muốn thực
hành nhưng ngại không dám nói vì bản thân thiếu hiểu biết kinh
điển. Ngày hôm sau ngài hỏi du sĩ không biết có người nào không am
tường kinh điển mà có thể tu pháp hành được không? Du sĩ trả lời
rằng thực hành thiền quán không cần đòi hỏi kiến thức về giáo
lý mà chỉ cần sự chuyên tâm và thích thú là đủ. Du sĩ dạy U Kyaw Din
thực hành hơi thở vào và hơi thở ra. Thế là từ ngày hôm đó, bất cứ
lúc nào có thời gian, ngài tức khắc niệm hơi thở. Mộảt hôm nọ ngài
gặp một người bạn, ông bạn ấy bảo ngài rằng, trực tiếp thở vào và thở
ra cũng chưa đủ; mà cần phải cảm nhận hơi thở ở chóp mũi nữa.
U Kyaw Din thực hành cảm nhận hơi thở. Thế rồi lúc đó sự thực hành
của ngài trở nên mãnh liệt hơn, ngài cố nhận biết không những cảm
nhận hơi thở mà còn cảm nhận tay cầm dao khi ngài chẻ củi, cảm nhận sợi dây
thừng trên tay khi ngài quay nước, cảm nhận bàn chân trên đất khi ngài đi.
Ngài cố cảm nhận mọi thứ khi ngài làm. Lúc giữ trâu, ngài ngồi dưới
gốc cây và thực hành chánh niệm hơi thở. Suốt thời gian thực hành, ngài
bắt đầu nhìn thấy những ánh sáng màu sắc và những kiểu mẫu hình
học. Ngài không biết chúng là gì, nhưng cảm thấy rằng đó là kết
quả của sự thực hành. Ðiều đó động viên ngài rất nhiều và ngài
bắt đầu thực hành chuyên cần hơn. Nhờ thực hành chuyên chú, đôi khi những
cảm thọ rất khó chịu, nhưng chúng không cản trở ngài được. Ngài tin
rằng chúng là kết quả của sự thực hành, và nếu ngài muốn đạt
được kết quả lớn hơn thì ngài sẽ phải khắc phục và vượt qua chúng.
Từ đó ngài quyết tâm nỗ lực và phát huy chánh niệm để khắc
phục những cảm thọ bất lạc và vượt đến giai đoạn cao hơn của sự
thực hành.
Nhờ nhứt tâm nỗ lực, U Kyaw Din đắc được đạo quả Tu-đà-huờn -
hương vị Níp-bàn đầu tiên - giữa năm 1920. Tháng sau, ngài đắc được đạo
quả Tư-đa-hàm. Tháng thứ ba ngài đắc được đạo quả A-na-hàm. Ngài xin
phép hiền thê để xuất gia; bà nhiều lần khước từ, nhưng sau đó
bà đồng ý. Trước khi đi, U Kyaw Din sắp xếp cho việc đồng áng.
Hướng dẫn cho hiền nội cách thức gieo trồng, trả tự do cho loài thú. Ðặt
ách xuống một cội cây, ngài đi đến một tu viện trong làng, và cầu
xin chư tăng ở đó chấp nhận ngài làm một vị Sa-di trong giáo hội. Sau đó,
ngài tìm đến một hang động và tu tập chuyên cần. Cho đến tháng
mười năm 1920, ngài đạt được đạo quả giải thoát cuối cùng A-la-hán. Sự
thành đạt của ngài trong hàng ngũ chư tăng ai cũng biết đến và
nhiều vị đến thử nghiệm ngài. Ngài là bậc giải thoát hoàn toàn,
cho nên những câu trả lời của ngài giải tỏa những thắc mắc cho những ai tìm
học. Cũng có nhiều lần, họ không đồng quan điểm với câu giải
đáp của ngài, nhưng khi được đối chứng với kinh điển thì họ thấy
lời nói của ngài là đúng. Nhiều vị tỳ khưu uyên bác ở khắp thế
giới đi đến thực hành chánh niệm dưới sự hướng dẫn của ngài, có
một vị rất uyên bác tên là Nyaung Sayadaw, vị này cũng đã giác ngộ sau khi
thực hành thiền quán. Ðến năm 1952, thiền sư Sunlun Sayadaw viên
tịch.
Thiền sư Sunlun Sayadaw là một người trung thực, lời nói nghiêm túc và
súc tích, ngài có một sức mạnh nội tâm và rất cương quyết. Bức ảnh
của ngài tỏ ra một con người đầy khí phách với một cái nhìn sâu sắc, và
đôi mắt thật sáng. Nhìn vào bức ảnh, ta thấy toát ra một đức tánh vĩ
đại, tượng trưng cho một con người thực sự giác ngộ.
Hiện nay có một số thiền sư dạy phương pháp tu tập của ngài ở
khắp Miến Ðiện, và nhiều trung tâm thiền của Sunlun Sayadaw
được thành lập ở thủ đô Miến Ðiện. Một trong những trung tâm lớn
nhứt là thiền viện S. Okkalapa có hai vị hòa thượng trú ngụ, một là
ngài U Tiloka, hai là ngài U Thondera, cả hai đều là đệ tử thâm niên
của thiền sư Sunlun. Ơủ đây chỉ có hai mươi vị tỳ khưu cư ngụ, vì
những lều và phòng lớn còn lại dành cho cư sĩ tu tập. Nhóm thiền
tọa hành bốn hoặc năm lần mỗi ngày, sau mỗi lần chuyên tâm hành,
thì thiền sư thuyết pháp động viên: "Quý vị may mắn được
sinh làm người và thậm chí may mắn hơn nữa là được nghe chánh pháp,
quý vị nên lợi dụng cơ hội đặc biệt này để tu tập, thật sự
chuyên cần và nỗ lực để đạt đến sự giác ngộ".
Thiền đường lớn thì thường đầy ắp vài trăm hành giả ở mọi lứa
tuổi. Họ có thể ngồi kéo dài hai hoặc nhiều giờ hơn nữa. Trong
suốt bốn mươi lăm phút đầu, thiền sinh tập trung thực hành đề mục
thiền hơi thở khắc khổ. Theo lời dạy của thiền sư, sau đó hành giả
trở lại niệm cảm giác trong thân, tiếp tục ngồi bất động cho đến
khi hết thời gian hai hoặc ba giờ.
Những vị thầy dạy thiền theo phương pháp của thiền sư Sunlun Sayadaw
nhấn mạnh rằng, những phương pháp của các vị thì rõ ràng nhứt, đơn giản
và trực chỉ nhứt. Chư vị có lẽ thấy phương pháp tu cởi mở của thiền
sư Achaan Chaa và Budhdadasa quá sơ đẳng và không trực chỉ, và phê bình
những phương pháp tu khác như phương pháp tu Mahasi và Tanngpulu Sayadaw coi
những phương pháp này như sự phát huy định xuyên qua những ý niệm
mà không có trực chỉ tuệ giác.
Ðặc biệt nhấn mạnh vào sự tinh tấn tích cực, tập trung trực tiếp
vào cảm thọ (đặc biệt thọ khổ) là chìa khóa tu tập của thiền
sư Sunlun. Ði vào thiền đường, nhiều hành giả của thiền sư Sunlun
thực tập hơi thở sâu giống như đi tìm chính mình ở giữa vòng tròn nghị
lực. Nhờ theo dõi hơi thở sâu nên nỗ lực tinh tấn này làm tập trung tâm,
khi ngồi trang nghiêm bất động, hoàn toàn kinh nghiệm những cảm thọ
trong thân làm sâu sắùc thêm sự tu tập tuệ giác. Sử dụng cảm thọ,
đặc biệt là khổ thọ, là những gì hầu hết được trình bày trong
phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun. Nó là mục tiêu rõ ràng, trực
tiếp tinh tấn trong mỗi oai nghi ngồi để phát huy định và tuệ
điều đó sẽ dẫn đến giải thoát giác ngộ (Nirvana). Ở đó nhấn
mạnh đến oai nghi ngồi lâu và bất động. Lúc còn là một nhà sư, khi tu
tập ở trung tâm thiền Sunlun, tôi được trao một xâu chuỗi Miến
Ðiện đẹp. Những người cư sĩ mộ đạo dâng một xâu chuỗi cho tôi
với lòng thành ao ước là cả đêm nay có lẽ tôi sẽ ngồi liên tục mà không
nhúc nhích, và sau đó đắc được Níp-bàn sớm hơn.
Tinh tấn tích cực để khắc phục đau nhức và sự phóng túng là phương
pháp tu tập của thiền sư Sunlun Sayadaw. Sức mạnh tập trung sâu vào hơi
thở mới thích hợp để hành giả khắc phục năm triền cái mà thường
chúng làm phóng túng tâm của hành giả. Khi nào quý vị cảm thấy buồn
ngủ, chỉ tập trung một hơi thở sâu trên cảm xúc ở chót mũi thì quý vị
sẽ tỉnh lại ngay. Phương pháp này có giá trị làm dịu đi một tâm thức
phóng túng, lay động, vì đối diện với sự tinh tấn tích cực sâu trong
hơi thở, nên hầu hết những tư tưởng bị phá tan giống như những đám
mây trước một ngọn gió.
Phương pháp tu tập của thiền sư Sunlun là thanh lọc tâm hôn trầm
và phóng túng, để lại cho hành giả sự trong sạch và sự tập trung. Xa hơn
nữa, quan sát đặc tính của tâm thì niệm đau nhức và biến đổi những
cảm giác sẽ làm cho chánh niệm trở nên vững chắc hơn. Trong một thời gian
ngắn, với sự thực hành này hành giả có thể cảm nhận được sức mạnh
của tâm an tịnh, tập trung mà khi đã áp dụng để quan sát tiến trình
thân tâm, hành giả sẽ đạt đến tuệ giác và sự giác ngộ.
Trung tâm thiền S. Okkalapa của thiền sư Sunlun rất dễ thu hút đối
với những hành giả phương Tây. Ơủ đây như bất kỳ nơi nào khác ở
Miến Ðiện, sự hiếu khách đối với những hành giả tham quan rất
dạt dào. Mặc dù ngài thiền sư Sayadaw không nói được tiếng Anh,
nhưng ngài có những đệ tử nói tiếng Anh lưu loát và rõ ràng, những
người đó có thể dịch cho du khách hiểu được. Ngài thiền sư
Sayadaw sẵn sàng trả lời những câu hỏi nhưng nhấn mạnh chủ yếu là tu tập
tích cực, chỉ có cách đó mới thực sự giải tỏa những nghi ngờ về pháp
bảo.
Dưới đây là một bài pháp được thuyết ở Rangoon cách nay vài năm do
đại đệ tử của thiền sư Sunlun Sayadaw.
Hành giả và Thiền quán
(như đã được thiền sư
Sunlun Sayadaw dạy)
Tôi dự định
cống hiến phương pháp thực hành thiền cho quý vị chiều nay.
Tôi sẽ quan tâm đến vấn đề quan niệm của hành giả hơn, khuynh
hướng và sở thích, những chướng duyên của hành giả với những vấn đề
và những khó khăn đắng cay, liên quan và dính mắc nho nhỏ, và lòng tự dối
tinh vi của mình. Trong khi thực hành điều này tôi sẽ cố gắng trình bày
lời dạy của thiền sư Sunlun Sayadaw trên sự thực hành thiền quán
để chứng minh những luận điểm của tôi.
Trang bị chủ yếu đầu tiên của hành giả là tâm tập trung. Chỉ khi nào
tâm tập trung thì tâm mới thanh tịnh. Và chỉ khi nào tâm được thanh tịnh từ
năm triền cái: tham dục, sân hận, hôn thụy, trạo hối,và nghi hoặc thì
mới có thể hiểu biết chính xác tuệ Minh sát.
Ðể bắt đầu tiến trình thanh tịnh, thông thường, mỗi ngày tâm
cần phải có một đề mục nắm bắt. Ðề mục này có thể là một
trong hai loại: tác động bên ngoài đối với hệ thống thần kinh thân
thể của hành giả hay là tùy thuộc vào nó. Những đối tượng đó thì tác
động bên ngoài đến hành giả tùy thuộc vào hoàn cảnh, như là đĩa hát
màu, thi hài, hay thức ăn mà hành giả ăn hàng ngày. Những đối tượng đó
tùy thuộc cơ quan tinh thần thân thể của hành giả là thân và tâm. Bất
kỳ những cái này có thể được xem là một đề mục thiền để
củng cố định tâm.
Ví dụ, dĩa màu có thể dùng được hành giả lấy, chúng ta nói rằng,
một dĩa màu hay đốm và đặt nó ở khoảng cách thích hợp khoảng 3 mét. Hành
giả ngồi kiết già, đối diện với cái dĩa, và giữ thân thể ngay
thẳng hành giả nhìn chăm chú vào cái dĩa với đôi mắt mở vừa phải. Hành
giả để cho tâm của mình trú vào dĩa để đạt được định tâm. Hành
giả làm điều này cho đến khi kết thúc, thậm chí làm với đôi
mắt nhắm lại, hành giả cảm nhận hình ảnh của dĩa phản chiếu tâm. Ðây
là hình ảnh thu được. Lúc hành giả tiếp tục chú tâm vào hình ảnh này,
lúc đó có thể phát sinh một hình ảnh đối lập rõ ràng. Hình ảnh đối
lập này xuất hiện với nhau bằng tâm định. Nếu hành giả định thấy
nó xa, thấy nó xa, nếu hành giả định thấy nó gần, bên trái, bên phải,
bên trong, bên ngoài, trên, dưới tùy theo hành giả thấy nó. Sau khi nhận
được hình ảnh đối nghịch, hành giả bảo vệ nó bằng lòng kính trọng
do nỗ lực liên tục. Do đó hành giả có được sự dễ chịu trong sự thực
hành, và sau sự thực hành đạt tăng thượng định và làm chủ tâm. An chỉ
định thích nghi đi theo sau. Những bài tập này có thể mang lại tất cả
những giai đoạn thiền thích hợp.
Hơn nữa hành giả thực hành đề mục đất, nước, lửa... Một trong những
sự lợi ích là người đó đạt được do thực hành đề mục đất tích
cực, thì thành tựu sức mạnh khác thường, có thể đi bộ trên nước cũng
như đất liền được. Nếu hành giả đạt được sức mạnh khác thường
do nhờ tụ tập đề mục nước thì hành giả có thể làm mưa hay là tạo
ra nước để phun từ thân thể của mình. Nếu hành giả đạt được
sức mạnh khác thường do nhờ tu tập đề mục lửa thì có thể gây ra
khói lửa. Nhưng bằng cách này cách khác điều đó không có dễ dàng
để đạt được những sức mạnh này trong thời của chúng ta. Thiền sư
Sunlun Sayadaw có một lần nói rằng thời đại đã không còn thích hợp nữa.
Hành giả có thể đạt đến mức an chỉ định do nhờ sự tu tập này,
nhưng những lợi ích khác thường của sự tu tập thì khó có thể đạt
được. Chúng ta hãy nói rằng hành giả thực hành bài tập địa đại. Hành
giả đạt đến mức tinh thông. Chúng ta hãy nói là hành giả đi đến
một cái hồ và, tự ngồi xuống gần hồ, hành giả thức tỉnh chính mình trên
cơ sở đề mục đất. Sau đó nhìn hồ nước hành giả cố gắng chuyển
chúng qua đề mục đất để hành giả có thể đi trên chúng. Hành
giả sẽ thấy phần lớn nước đó đầy đất bùn mà không thể nào dở chân
của mình lên được khi mình cố gắng đi bộ trên nó. Có lẽ những hành giả
ở những nước khác có làm tốt đi nữa nhưng tôi tin điều đó có thể
được xem như là một qui luật chung mà sự thu thập toàn bộ những lợi ích
của yếu tố và những bài tập màu sắc thì khó mà đạt được trong thời
đại của chúng ta.
Một nhóm đề mục thiền khác nữa có thể là một điều ghê
tởm, tử thi hay cái chết. Những đề mục tử thi thì không thể nào
là không có sự nguy hiểm như được kể lại trong một giai thoại về
thiền sư Sunlun Sayadaw và một vị tỳ khưu. Vị tỳ khưu này có thói quen
lội qua thung lũng (thung lũng đó phân chia thiền viện với nghĩa địa)
để hành đề mục tử thi. Một buổi sáng nọ thiền sư Sunlun
Sayadaw gặp vị tỳ khưu khi vị này đang bắt đầu hành thiền. Thiền sư
mỉm cười với vị ấy, và nói: "Thực hành hơi thở số tức quán (anapana)
thì thoát khỏi sự nguy hiểm". Vị tỳ khưu không làm theo sự gợi ý
của thiền sư, mà tiếp tục thực hành chăm chú những tử thi. Chiều
hôm đó vị tỳ khưu trở về phòng của mình khi ngài mở cửa và nhìn vào
trong ngài la hét lên. Ngài đã thấy một thây ma nằm ở ngưỡng cửa. Thực sự
thây ma đó chỉ là hình ảnh tưởng tượng đã đạt được trong đề mục
thiền của ngài. Lúc thiền sư Sunlun Sayadaw nghe câu chuyện đó ngài
mỉm cười và nói: "Thiền hơi thở thì thoát khỏi những sự nguy
hiểm".
Thiền định có thể được thực hành là do nhờ phân tích bốn đại.
Bản chất của đất vốn là cứng, mềm, dày, bất động, an toàn, và chịu
đựng. Bản chất của nước là ẩm ướt, độ lỏng, tia nhỏ, sự thấm vào, gia
tăng và chảy liên tục. Tính chất của lửa là nóng, lạnh, bay hơi, nở nang,
tàn phá và giữ chặt. Tính chất của gió là nâng đỡ, lạnh lẽo, sự đi vào
và sự đi ra, dễ chuyển động, xuống thấp và giữ vững. Hành giả thấu
hiểu tứ đại một cách tóm tắt và rõ ràng do nhờ quan sát và suy
niệm. Nhưng khi được chú niệm là nhờ sự kiểm lại những bản chất
cần thiết của bốn đại, chúng không dễ dàng để phân biệt trong
thân; chúng khó để hiểu trực tiếp; chúng được tiếp cận là
nhờ hành động gián tiếp, nhờ lập lại từng từ một trong miệng của
những tướng cần thiết và tập trung hiểu biết bản chất của chúng.
Thông thường sự hiểu biết này diễn ra trước tiên trong lãnh vực
ý niệm. Và một hành giả đạt đến một sự hiểu biết như
vậy thì thường có nhiều niềm tin cho chính mình mà đó là nhu cầu cao
nhất của sự thực hành. Dĩ nhiên điều này không đúng. Sự hiểu
biết đòi hỏi không phải là những yếu tố như là chúng đã được
tạo nên cho chúng ta nhưng mà những yếu tố đúng như bản chất của nó.
Và điều này, bản chất của chúng vượt qua phạm trù, ý niệm và
lý tưởng hợp lý.
Phong thái của một người có thể là những đề mục tốt để dẫn
đến nền tảng đúng đắn cho sự tập trung. Hành giả cố gắng giữ chánh
niệm trong việc đi, đứng, ngồi, nằm, co, duỗi, ăn, uống, nhai,
nếm và đại tiện. Nhưng phong thái thì linh hoạt, tiến trình này
thì đều đặn và khi những phong thái này thật sự được gìn giữ như
vậy, thì tâm được xem như có thể làm cho trong sạch. Tuy nhiên hành giả
nên quan tâm có phải là phong thái có ích hơn như là đề mục thiền
ban đầu hoặc như đề mục thứ hai được áp dụng cho những giây phút thư
giãn khi đề mục thứ nhứt tạm gác qua một bên.
Tất cả những phương pháp đuợc đề cập ở trên là những đề mục
thiền định của Phật giáo nguyên thủy. Tất cả những đề mục đó
đều nằm trong bốn mươi đề mục thiền định trong kinh Ðại
niệm xứ (Maha satipatthana Sutta), hầu hết các đề mục đều ở
trong bộ kinh này. Tất cả các đề mục này đều dẫn dắt hành giả
đến sự tập trung vững chắc, nhiều hay ít. Hành giả có thể dùng
chúng để đạt được sự tập trung mà hành giả cần đến. Ðó là một
phương pháp rất hữu hiệu giúp cho hành giả tìm thấy và sử dụng để
tu tập, đưa hành giả đến mục đích cuối cùng mà hành giả tìm kiếm.
Mục đích đó là Minh sát tuệ.
Bây giờ có hai hình thức tu tập tinh thần. Người ta được biết
đến là thiền chỉ và thiền quán. Thiền chỉ dẫn đến sự an
tịnh và thiền quán dẫn đến sự hiểu biết chính xác về bản
chất các hiện tượng và giải thoát. Thiền chỉ thì có liên quan với
vũ trụ như là vũ trụ đối với chúng ta; thiền quán thì liên quan với vũ
trụ như là nó đối với vũ trụ. Bởi vì phạm trù của thiền chỉ là vũ
trụ như nó đối với chúng ta, các đề mục thiền dẫn đến
thiền chỉ thì tùy thuộc những đề mục mà chính chúng ta đã thực.
Cái dĩa màu dùng để quán tưởng là một vật nào đó mà chính chúng ta
đã tạo nên. Cái ý tưởng nhàm chán là do chính bản thân mình tạo nên.
Sự vững chắc của trái đất, liên kết của nước, sự già dặn của lửa, sự
dày đặc của không khí là phẩm chất của tứ đại mà chúng tạo nên một khái
niệm để giúp cho chúng ta nắm bắt chúng. Thậm chí ý tưởng về
sự đi, sự cúi mình, sự xúc chạm là những ý nghĩ mà chúng ta đã tạo
nên trong tâm để rồi chúng ta có thể đạt được trong hiện thực,
chính những cái đó là những phong thái. Những điều gì mà vũ trụ đã
tạo cho chúng ta đều dẫn đến thiền chỉ; bất cứ những điều
giả tạo nào mà chúng ta tạo nên, bất cứ ý tưởng, hình ảnh, tư tưởng
hoặc ý niệm nào mà chúng ta đã tạo nên đều dẫn đến
thiền chỉ. Bản thân của thiền chỉ không có điều gì sai trái. Tu
tập thiền chỉ thì chánh đáng. Vì thế nên có nhiều lý do
để trình bày về thiền chỉ. Nhưng thiền chỉ thì không phải là
thiền quán. Do đó, người muốn đạt được kết quả của thiền chỉ
thì tu tập thiền chỉ, nhưng người muốn đạt được kết quả của
thiền quán thì phải tu tập thiền quán. Người đó sẽ thực hiện
điều này không sớm thì muộn, hoặc sau khi tu tập thiền chỉ hoặc
chọn một lối tu tập giúp hành giả đi đến con đường cao hơn của
tuệ giác ngay lập tức. Hoặc hành giả muốn tu tập thiền chỉ bây giờ
thì sau đó chuyển qua tu tập thiền quán, hoặc thay đổi để áp
dụng tu tập thiền quán ngay lập tức, đó là vấn đề lựa chọn của
từng cá nhân. Và tôi là người tu tập thiền quán cho nên tôi không vội
vã khuyến khích người ấy chọn lựa thiền quán. Thiền sư Sunlun
Sayadaw đã từng nói: "Người ta thích làm đều gì để người ta
làm, và người ta làm điều gì mà người ta thích thì đừng làm phiền
người ta".
Những câu hỏi được nêu lên: Nếu chúng ta thường xuyên quán tưởng
tứ đại để nắm bắt chúng. Nếu chúng ta luôn luôn tạo nên những tư
tưởng về sự đi, cúi mình và xúc chạm để giúp chúng ta đạt những
điều này tốt hơn, nếu tâm của chúng ta đã từng có khuynh hướng tạo
nên những hình ảnh và những ý tưởng, chúng ta có khả năng để đạt
được tiến trình này như chúng đã diễn ra? Ðiều đó có cần
thiết không để chúng ta xử lý quá trình này với những khái
niệm và ý tưởng hạn hẹp? Ðây là câu trả lời. Nếu đúng là nó
cần thiết để xử lý tiến trình với những ý tưởng và khái
niệm hạn hẹp thì những tiến trình đó không bao giờ thành tựu ngay
lập tức, và rồi sẽ không đi đến con đường giải thoát và giải thoát
tri kiến. Nhưng bởi vì người ta có khả năng đạt được tiến trình
này ngay lập tức khi chúng nó nằm ở trong thiền Minh sát và gặt hái
được tuệ giải thoát tự nhiên.
Chúng ta hãy thực hành một bài tập, nhận biết được sự hít vào và
thở ra. Người ta nói rằng đây là bài tập thích hợp cho tất cả mọi
người. Nếu một người tu tập về hơi thở có chánh niệm, người ấy
sẽ có được một đời sống an vui. Người ấy đã vượt qua những trạng thái
bất thiện do mình tạo nên. Thân và tâm người ấy không có run sợ. Người
ấy có đầy đủ tứ niệm xứ và thất giác chi, thực chứng được trí
tuệ và giải thoát. Ðức Phật đã thực hành về đề mục quán
niệm hơi thở. Hơn thế nữa, người ta nói rằng, theo dõi hơi thở thì
rất chính xác, và không đòi hỏi thêm vào bất cứ điều gì để làm
cho nó đầy đủ.
Bài tập này có thể được tu tập theo một phương pháp thiền Chỉ
đơn giản (Samatha) hay thực hành để mà nhận ra được thiền Quán
(Vipassana). Hít vào thở ra. Khi hơi thở vào và ra, nó chạm đến chóp mũi
hoặc môi trên hoặc một vài chỗ trong phạm vi đó. Tập trung tâm vào sự
xúc chạm đó, đếm hơi thở vào và ra. Ðây là một phương pháp. Hít vào
và thở ra một lần nữa. Tập trung tâm nơi chỗ xúc chạm của hơi thở. Như
vậy là tập trung được tâm, biết được hơi thở ngắn là ngắn và
biết hơi thở dài là dài. Ðây là phương pháp thứ hai. Hít vào và thở
ra một lần nữa. Tập trung tâm vào nơi xúc chạm hơi thở, theo dõi hơi thở
vào và ra. Khi thực hiện việc này, theo dõi hơi thở vào trong cuống bao
tử hay vượt xa hơn nữa. Hơi thở của thân thể cần phải cảm nhận khi vào
và ra. Nó giống như cái cưa. Các răng cưa luôn luôn ở vào một điểm
chạm với thớ gỗ nhưng thớ gỗ cảm nhận toàn bộ chiều dài của cái
cưa bởi vì toàn bộ chiều dài cái cưa phải đi ngang qua một điểm.
Ðây là phương pháp thứ ba. Lưu ý rằng trong cả ba phương pháp hành giả
phải tìm những hơi thở vào và ra không nơi nào khác hơn là nơi xúc chạm.
Ðây cũng là điều chính xác cho phương pháp thứ tư. Hít vào và thở ra.
Tập trung tâm vào nơi xúc chạm của hơi thở. Hãy nhận biết nơi xúc chạm.
Ðừng đếm, không cần biết chiều sâu của hơi thở, đừng theo dõi
hơi thở vào và ra.
Trong bốn phương pháp về chánh niệm hơi thở, ba phương pháp đầu
là những bài tập thiền định đơn giản trong khi đó bài tập thứ tư là
bài tập thiền quán. Ở phương pháp thứ nhất thì có sự đếm.
Những con số là các ý niệm. Ở phương pháp thứ hai, là sự ghi
nhận về hơi thở. Sự việc ghi nhận này tạo nên một hình ảnh. Ở
phương pháp thứ ba, hình thức ghi nhận hơi thở vào và ra. Sự việc này
đạt được kết quả do sự sáng tạo của một ý tưởng. Những ý
niệm, những hình ảnh và những ý tưởng thuộc về vũ trụ như là
nó đến với chúng ta và vì thế cho nên có sự liên hệ với
thiền chỉ. Chỉ duy nhất ở phương pháp thứ tư sự xúc chạm riêng rẽ
được cảm nhận trong sự vắng lặng thì hình thức này là thiền quán. Tuy
nhiên ngay cả việc thực hành này có thể bị pha lẫn với thiền chỉ.
Theo thực tế nếu thay vào đó là sự nhận thức về hơi thở trong sự
vắng lặng, nếu thay vào việc theo dõi sự nhận thức này bằng chánh
niệm, hành giả chú niệm vào nó, rồi thì trong phút chốc đó, hành
giả rơi vào thói quen để tạo nên một ý niệm và một ý tưởng
rồi lại tu tập thiền chỉ thay vì dự định tu tập thiền quán.
Sự chú niệm thường xảy ra với một nhịp độ chậm hơn nhiều so với
tiến trình thực tế hiện tượng. Tuy nhiên, thay vào đó người ta
có thể thực hiện những tiến trình này theo như thường lệ, thì
người ta lại có khuynh hướng rơi vào thói quen cũ nơi mà tiến trình này
được tái tạo bởi cái tâm hồi tưởng.
Ðể có thể theo kịp những tiến trình tự nhiên, hành giả cần
phải giữ tâm chánh niệm. Ðiều này thực hành không có khó khăn mấy.
Ðiều đòi hỏi lúc ban đầu là việc nhận biết. Hãy nhận thức
được sự xúc chạm. Xong rồi hãy giữ gìn và theo dõi sự nhận thức này bằng
chánh niệm. Khi sự nhận thức được gìn giữ với một tâm chánh niệm,
các ý tưởng bị loại trừ đi, chúng không thể xâm nhập vào. Hành giả
không còn cơ hội để liên tưởng tới những ý niệm, hình ảnh hoặc
những ý tưởng. Do đó những tiến trình này sẽ đạt được trực
tiếp ngay chính vào lúc xảy ra, mà không có sự rối loạn của tư tưởng.
Ðây đúng là thiền Quán.
Những ý tưởng luôn luôn có khuynh hướng xâm nhập. Các tư tưởng và
hình ảnh luôn chực sẳn, và sẵn sàng xâm nhập khi tâm yếu đuối nhất.
Phương pháp duy nhất để theo kịp với những tiến trình này là định
tâm, là luyện tập sự tỉnh giác do nhờ tinh tấn. Vì thế phương châm
của ngài thiền sư Sunlun Sayadaw dạy rằng: "Hãy tinh tấn trong sự xúc
chạm".
Ngài nhấn mạnh sự tinh tấn là một yếu tố cơ bản bởi vì ngài hiểu
rõ hành giả. Hành giả ngồi thoải mái và hành thiền một cách thong thả.
Hành giả có thói quen trầm tư và cẩn thận. Sự trầm tư có nghĩa là phản
tỉnh và suy nghĩ về công việc cần được làm hơn là đang thực
hiện nó. Cẩn trọng có nghĩa là thương cảm cho mình, quan tâm để
biết rằng hành giả không bị tác động và không bị tổn thương. Hành giả
đã quá yêu thương bản thân mình và vì thế để cho tâm bị lôi kéo,
để cho tâm phóng dật hơn là tỉnh táo. Sự tỉnh táo cần có sự cố gắng
và đó là lời nguyện của hành giả. Vì thế cho nên khi người ta nói
với hành giả rằng thở thì khó hơn, hành giả liền trích ra chương mấy
và những lời nói để chứng minh rằng mình không cần phải nỗ lực. Có
lẽ ông ta đã trích ra một vài lời nói trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo
(Visuddhimagga) và nói rằng: "Hành giả không nên lý luận quá năng nổ.
Nếu hành giả lý luận quá năng nổ thì hành giả sẽ trở nên phóng
dật".
Câu nói này đúng. Người hành giả lý luận quá năng nổ sẽ trở nên
phóng dật. Nhưng tại sao hành giả lại trở nên phóng dật? Bởi vì thay vào
việc định tâm về cảm thọ hành giả để tâm của mình vào
những nỗ lực mà hành giả đang làm. Ðừng để nỗ lực lôi kéo sự
chú tâm ra khỏi đề mục thiền. Hãy tiếp tục chú tâm vào đề
mục thiền và tuy thế cũng cần có sự nỗ lực, trước tiên hành giả
cần chắc rằng mình thật sự đã chú tâm vào đề mục. Khi hành giả đã
nắm bắt được đề mục với sự tỉnh giác đầy đủ và sự tỉnh giác này
đã gìn giữ được tâm chánh định, hành giả nên gia tăng nỗ lực. Khi
hành giả đi trước trạng thái này, hành giả sẽ nhận thấy rằng nỗ lực
mà hành giả đã phát huy giúp cho hành giả quan tâm nhiều hơn về
đề mục thay vì xao lãng nó theo với nỗ lực. Hơn thế nữa, một tâm
niệm mạnh mẽ sẽ được phát huy sự tăng cường nỗ lực.
Bản kinh ở trên được trích từ Thanh tịnh đạo được dạy như thế
này:
Hành giả là người phải chánh niệm và đừng để tâm phóng dật.
Hành giả không nên lý luận quá sôi nổi mà cũng không quá lơ là.
Nếu hành giả lý luận quá lơ là thì hành giả sẽ rơi vào trạng thái
hôn trầm và thụy miên. Nếu hành giả lý luận quá sôi nổi hành giả
sẽ phóng dật.
Như vậy điều này có nghĩa là sự nỗ lực cần phải vừa đủ cho mục
đích chánh niệm và tuệ giác. Nhưng sự vừa đủ là bao nhiêu? Tôi
nghĩ chính William Blake đã nói điều này: "Một người không bao giờ
biết cái nào là đầy đủ thì tới một lúc nào đó người ấy sẽ biết
việc nào thì đầy đủ hơn".Và một sự đánh giá về sự đầy đủ
là gì có lẽ cần phải được bổ sung thêm. Lời dạy của đức Phật khi ngài
dạy một vị tỳ khưu nên tinh tấn như thế nào.
Này chư tỳ khưu, nếu khăn choàng và tóc của thầy bị bốc cháy quý
thầy sẽ khát khao mãnh liệt, chuyên cần nỗ lực, cố gắng, phấn đấu
chánh niệm và chuyên tâm để đoạn trừ lửa tham. Do vậy, một sự khát
khao mãnh liệt, nỗ lực chuyên cần, cố gắng phấn đấu, chánh niệm
và chuyên tâm do quý thầy thực hiện để mà đoạn trừ từng trạng
thái bất thiện.
Bởi vì hành giả biết rằng sự nỗ lực cần phải đòi hỏi bao nhiêu,
bởi vì hành giả quen thuộc với khuynh hướng lười biếng về một
chỗ nào đó của người hành thiền, thiền sư Sunlun Sayadaw dạy:
"Hãy nỗ lực chánh niệm". Nỗ lực chánh niệm là động
viên những nguồn năng lực của quý vị, để nắm bắt những tiến
trình khi chúng không có suy nghĩ và phản tỉnh. Sự nỗ lực được gọi
là yếu tố năng lực hoặc là chánh tinh tấn.
Khuynh hướng khác nữa của hành giả là sự bồn chồn lo lắng. Hành giả
thích gải, thay đổi vị trí, hoặc nếu hành giả đang thở thì lại muốn
ngừng, rồi thở lại và rồi ngừng. Ðây là dấu hiệu của sự lơ đảng.
Những sự việc này chứng tỏ rằng tâm không được vững chắc. Cần phải
nhắc nhở với hành giả sự lơ đảng cần được loại bỏ và sự giao động cần
phải giữ vững, thiền sư Sunlun Sayadaw dạy rằng: "Ðừng gải khi bị
ngứa, đừng cử động khi bị co cứng, đừng dừng lại khi bị mệt".
Thiền sư yêu cầu hành giả khi thấy ngứa, co cứng hoặc mệt mỏi hãy
thở mạnh hơn nếu hành giả đang thở hoặc đang chú tâm vào sự cảm
thọ, và do đó với sự chú tâm về thành quả của bài tập để phát
huy thêm tâm chánh niệm sâu sắc. Kinh Thanh tịnh đạo dạy rằng: Sự đứng
dậy làm cho dáng vẻ bị giao động, hành giả bắt đầu lại việc hành
thiền mới. Hành giả ngồi xuống hành thiền và một giờ sau đó đứng
dậy rồi xua tan những cảm thọ về sự ngồi, rồi một giờ sau đó nữa
ngồi xuống và loại bỏ những cảm thọ về sự đi, tiếp tục thay đổi
oai nghi ngồi. Bất cứ cảm giác nào trong oai nghi ngồi cần phải được theo dõi
cho đến khi nào biến mất. Bất cứ cảm giác nào xảy ra cần phải được
theo dõi cho đến khi nó biến mất đi.
Ngồi yên và tập trung đến các cảm thọ tạo thành yếu tố chánh
niệm. Nó là yếu tố cơ bản trong sự tu tập, chánh niệm.
Có một thái độ thứ ba của hành giả, là sau khi những phần kiết sử
bậc thấp đã xóa bỏ đi như là những ánh sáng, màu sắc và những kiểu
mẫu hình ảnh đã xuất hiện đến hành giả rồi. Ngược lại đối với
những thứ vừa kể trên là một sự đam mê của hành giả mà chưa từng xuất
hiện cho hành giả giống như lúc trước đây. Trái lại đối với những ánh
sáng, màu sắc và những kiểu mẫu thì lôi cuốn con người. Vì hai sức mạnh
lôi cuốn trên, nên hành giả bắt đầu chú ý vào ánh sáng và kiểu
mẫu, nhìn chăm chăm và dừng lại ở chúng. Và bằng sự lơ là với đề mục
thiền, nên hành giả quên đi mục đích ban đầu của mình.
Tương tự, sau một thời gian thực hành, lúc hành giả thanh lọc tâm
được một ít, thì mới kinh nghiệm phương pháp an lạc và tĩnh lặng. Bởi
vì trước đây hành giả chưa bao giờ kinh nghiệm được tâm an lạc này,
hành giả nghĩ rằng đây là kết quả quý báu của sự thực hành. Vì
hiểu được kinh nghiệm và vì phương pháp an lạc và tĩnh lặng này có
được là do tự nó có sức lôi cuốn, hành giả bắt đầu dừng lại ở đó,
để thưởng thức sự an lạc cho đầy đủ. Hành giả thích say mê cảm giác
an lạc và chán ghét để nói lên sự tinh tấn cần thiết để quay
trở về con đường chánh. Thiền sư Sunlun Sayadaw chứng minh điều
này bằng một lối so sánh: Bãi sông Myngyan là một bãi cát rộng một dặm. Một
du khách đến đó thấy cát nóng cực kỳ dưới chân, qua sức nóng gay gắt
của mặt trời. Trên đường anh đi đến một cội cây. Anh định nghỉ mát
dưới bóng râm một lát. Nhưng mà chốc lát đó trôi qua anh nghĩ rằng anh
không thể nào tự mình thúc giục thức dậy để đi ra khỏi bóng râm
mát mẻ để chịu sức nóng gay gắt của mặt trời. Cho nên anh tiếp tục
ở lại dưới bóng râm. Nhưng cứ như thế sẽ không bao giờ giúp anh ta đi
đến bờ sông được. Ðiểm đến có thể đạt đuợc chỉ khi nào
nếu anh bước ra ngoài ánh nắng mặt trời một lần nữa và thúc giục thân
anh thẳng bước. Vì vậy cho nên thiền sư cảnh báo hành giả là không nên
vì một chút an lạc và tĩnh lặng thấy trên con đường đi mà phải tự mình
bị sa ngã. Có một lần, một hành giả có thói quen hướng đến sự an lạc
này dường như có lẽ sẽ không còn cử động nữa. Thiền sư Sunlun Sayadaw
dạy anh ta: "Người này luôn nâng niu cái đuôi và vuốt ve con kỳ đà dễ
thương mà anh đã bắt giữ". Tôi hy vọng những hành giả hiểu
biết được sẽ không áp dụng phương pháp trên.
Bằng sự gia tăng thêm tâm thanh tịnh và trong sạch, đôi khi hành giả trở
nên cảm nhận nhiều thứ lạc thú thượng hạng hơn. Ðiều đó không
phải là thị giác và thính giác thần thánh thật nào cả mà là hành giả tu
tập đạt được, nhưng nó là một phần nào sức mạnh tương tự đối với
những thứ đó. Vì sức mạnh hành giả có thể thấy những gì những người
khác không thể thấy được, nghe những gì những người khác không thể
nghe được. Người ta đến khảo sát hành giả và những lời dự đoán của
hành giả trở thành hiện thực. Hành giả trở thành một loại người dự
đoán quá khứ và tương lai. Như vậy hành giả đã sa sút từ một hành giả
thiền quán thành một nhà dự đoán. Nhưng sau một thời gian, vì sự xao
lãng của công việc mới nhiều hơn và sự thưc hành thiền trở nên
kém đi, cho nên sự trả lời sa sút, kém chính xác, và dần dần khách hàng đi
mất, không bao giờ quay lại. Hành giả bị sa sút là vì thực hành gián đoạn.
Nhiều lúc hành giả đam mê đến nỗi tự dối mình. Mặc dù hành
giả thực hành một cách tích cực, nhưng hành giả tự dối mình là mục tiêu
giải thoát có thể đạt được trong một phương pháp nhàn nhã. Mặc dù là
hành giả vẫn còn ngồi đó, nhưng hành giả tự dối mình là thay đổi oai nghi
hoặc di chuyển chút ít có thể không gây tai hại gì cả. Có lẽ hành
giả đúng ở giai đoạn đầu của sự thực hành, nhưng ở một giai đoạn thực
hành cao nhứt thiếu chánh niệm một chút có thể làm sa sút phương
pháp hành thiền và công trình tu tập sẽ đòi hỏi phải luyện tập lại.
Bởi vì hãnh giả tự dối mình trong những vấn đề thuộc về thân
thể này, những vấn đề tâm tinh vi hành giả có thể làm điều
đó thêm được bao nhiêu? Một sở thích mạnh mẽ của hành giả là thấy được
dấu hiệu tiến bộ đầu tiên trên bước đường đi là dấu hiệu
biểu lộ những giai đoạn cao hơn. Ví dụ cảm thọ bất lạc đột biến
thình lình. Chẳng hạn có một lúc nào đó cảm thọ bất lạc gia tăng; một
lúc nào đó nữa nó biến mất, tiêu tan, và ở nơi đó có một cảm giác
yên tĩnh và an lạc khó lường. Thông thường hành giả tin rằng đây là tâm
giải thoát. Và đánh dấu ghi nhớ tự mình một giai đoạn của bốn giai đoạn
giải thoát.
Sự việc cho là giai đoạn thực hành sau này cũng có thể thực hành
được vì chính thiền sư chưa dạy rõ ràng trong vấn đề này hay là
lời chỉ dẫn và lời dạy trong sách của ngài chưa có minh bạch lắm. Tuy nhiên,
điều này hành giả muốn tự mình phân biệt ít ra lúc đạt đến
một hoặc hai tiến trình giác ngộ. Và với tâm suy nghĩ này, hành giả cố
gắng tư duy, củng cố niềm tin của mình. Và đáng tiếc cho thiền sư
nào mà gián tiếp gây ra sự phân vân cho hành giả. Thiền sư Sunlun
Sayadaw sẽ không bao giờ phê bình bất cứ ai, trong bất cứ trường hợp nào mà
hành giả đã thực sự đạt đến giai đoạn đã đuợc đề cập. Lời
nhận xét của ngài có lẽ chỉ là: "Nếu điều đó như vậy, thì nó
là như vậy". Trong bất kỳ trường hợp nào, một sự thành đạt thật sự
sẽ không cần sự minh chứng từ người khác. Hành giả sẽ tự mình biết
lấy. Hơn nữa một cảm giác sai lầm về sự thành đạt sẽ không cần
thiết bỏ đi; hành giả sẽ thực chứng điều đó tự mình.
Tai hại chính trong hình thức tự dối mình là sự nhận thức sai lầm về
sự thành đạt mà nó mang đến cho hành giả. Ưùng dụng những gì mà hành
giả suy nghĩ là đã có sự tiến bộ rồi, hành giả xả bớt sự thực hành
nghiêm ngặt của mình và như vậy là bị đình trệ trên con đường đi mà
không thể nào đạt được bất kỳ sự tiến bộ nào có giá trị thực.
Có một cảm thọĩ đáng ghét cho hành giả, đó là cảm thọ bất lạc.
Ðể hành giả đối diện những cảm giác không đáng kể như tù
túng, nóng nực và sự căng cứng của bắùp thịt, và hành giả cố giữ chánh
niệm cho nó một thời gian. Nhưng đau nhức thì phát sinh trong xương tủy
của hành giả, cảm thọ bừng cháy, đau nhức đang hành hạ như dao cắt
dọc theo chân tay, và hành giả sẽ ngưng niệm chúng trong một vài phút.
Thông thường, hành giả trích những câu và những lời nói để sẵn sàng
bào chữa lỗi của mình. Hành giả muốn biết là ai nói người nào muốn
sử dụng cảm thọ bất lạc để tu tập như là một đề mục thiền.
Bất cứ điều gì mà đạt được bằng sự tiếp tục cảm thọ lạc thì
không thể nào một hành giả đạt được. Ai nói hành giả phải chịu
nhiều đau khổ? Ðiều này không phải là tự khổ hạnh.
Câu trả lời cho điều đó là nếu một hành giả được may mắn với
nhân duyên thì hành giả có thể bước theo con đường thọ lạc, hành
giả có thể có được trí tuệ mà không có bị đau nhức, lúc đó hành
giả có thể tiếp tục cảm thọ lạc. Nếu không đa số lấn áp
thiểu số, như đã thấy, không có chọn lựa mà chỉ bước theo con
đường cảm thọ bất lạc, bởi vì chúng ta không may mắn với nhân duyên
như thế.
Hẳn nhiên không có lý do nào để tiếc nuối. Cảm thọ bất
lạc là một đề mục thiền có hiệu quả giúp cho hành giả bước
vững vàng trên con đường đến mục đích tối thượng. Chính đó là hành
giả ít khi thích thú với cảm thọ bất lạc có thể do bởi hành giả tạo
nên để thiết lập một tâm chánh niệm sâu sắc hơn. Với một
đề mục mà hành giả không thích tu tập, thì hành giả sẽ thức tỉnh lòng
nhiệt tâm cần thiết để vượt qua cảm thọ bất lạc. Ðiều
đó khác biệt với cảm thọ khoái lạc. Bởi vì hành giả thích điều
đó, nên hành giả thường bị cuốn hút trong cảm giác đó, và chính hành giả
bị sự khoái lạc đó bủa vây mà không có thể định tâm được. Khi hành
giả rơi vào sự kiện đó, tham sân thì tiềm ẩn ngầm trong cảm thọ
khoái lạc và nó sẽ áp đảo hành giả. Hành giả sẽ không duy trì mãi cảm
thọ như thế đó nhưng cảm thọ đó sẽ đưa hành giả đến sự
khởi đầu nguyên nhân của lòng ham muốn nối tiếp trong chuỗi luân hồi.
Như người ta nói, một người đang bơi trong dòng nước chảy xiết và
anh ta được yêu cầu nắm được bó hoa ở điểm đích. Nếu người ấy
bơi theo dòng nước và xoè tay ra để nắm những hoa và bị hụt mất, người
ấy sẽ bị sức mạnh của dòng nước cuốn anh ta ra xa khỏi điểm đích.
Nếu anh ta bơi ngược dòng nước và bị hụt đi khi anh ta xòe bàn tay ra
để chụp đóa hoa, anh ta vẫn nắm trước nó và như vậy người ấy có một
cơ hội để cố gắng một lần nữa với sự thận trọng và chú tâm.
Người bơi lội với dòng nước thì cũng giống như hành giả với cảm thọ
lạc. Nếu hành giả không thể định tâm với cảm thọ khoái lạc thì
hành giả sẽ bị cảm giác đó cuốn hút. Người bơi lội bơi ngược dòng thì
giống như hành giả với cảm thọ bất lạc. Hành giả không thể định
tâm với chính cảm giác đó, thì hành giả sẽ vẫn tỉnh tâm với cảm giác đó
và sẽ có thể duy trì năng lực và chánh niệm để đạt được
thành quả trong công việc của mình.
Cảm thọ khoái lạc giống như kẻ thù dấu mặt; nắm bắt hành giả nào
không có tỉnh giác. Cảm thọ bất lạc giống như kẻ đối diện; hành
giả có thể nhận ra được cảm giác đó và có hành động đúng đắn cho
nên cơn giận tiềm ẩn trong cảm giác bất thiện không còn có cơ hội
để sanh khởi. Giữa sự không thích theo tự nhiên của cảm giác bất
thiện và một nỗ lực tinh tấn, hoặc là hành giả sẽ bị chìm trong cảm
giác đó hoặc do dự với nó. Hành giả sẽ không bị vướng mắc hoàn toàn vào
cảm giác bất thiện đó, chú trọng cảm giác đó, theo dõi cảm giác mà
không suy nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có liên quan với sự cảm
thọ. Cảm thọ bất lạc được dùng như một điểm tựa vững chắc
để cho tâm không bị phóng dật. Mỗi cảm thọ bất lạc sẽ không bao
giờ đánh lừa hành giả về bản chất tự nhiên của hiện tượng, sự bất
lạc.
Cũng không có lý do nào để lo sợ về cảm thọ bất lạc. Có
những phương pháp để tỉnh giác một tâm chánh niệm sâu sắc để
vượt qua sự mâu thuẫn và đau đớn bất ổn của cảm giác bất lạc. Ðiều
tai ương này do bởi sự nhận thức của hành giả về đau đớn và hậu quả
của cảm thọ bất lạc. Nhưng khi hành giả có chánh niệm đầy đủ
để xâm nhập vào cảm thọ và có một sự nhận thức với quan điểm
một cá thể, một cái tôi có thể bị tổn thương và rồi cảm thọ
bất lạc không còn là nguồn gốc của sự đau đớn.
Mục đích cuối cùng của thiền định là để loại trừ ý niệm
viển vông về "bản ngã". Một hành giả phải làm giảm đi ý
niệm về "bản ngã" nhiều lần trong sự phấn đấu với cảm
thọ bất lạc. Chúng ta hãy nói cảm thọ bất lạc sanh khởi. Hành giả
chánh niệm trên đó cho đến khi nào cảm thọ bất lạc đó tiêu tan.
Bằng cách ấy, nhân bị đoạn trừ trong quả. Hành giả tiếp tục thực
hiện điều này nhiều lần cho đến khi nào thành thạo cuối cùng
hành giả tìm cách đoạn trừ nhân sanh khởi, chấm dứt nhân sanh khởi, để
rồi nó không bao giờ tạo ra quả mà nhân đó sẽ trở thành một nhân khác
trong chuỗi bất tận. Sự kiện đoạn trừ nhân sanh khởi là sự giác ngộ.
Và do bởi đặc tính hiệu quả này trong việc loại trừ khái niệm
về "bản ngã", thiền sư Sunlun Sayadaw dạy rằng: "Phiền
não đích thực là một điều không thể thay đổi, phiền não sẽ
đưa quý vị trôi nổi vào vòng sanh tử luân hồi". Cảm thọ bất
lạc là kẻ thù nội tâm của hành giả. Một khi hành giả đã khắc phục đuợc
kẻ thù nội tâm, thì những nguyên nhân phiền não bên ngoài không còn
nữa.
Sau một thời gian tu tập nhiệt tâm, sẽ đến một thời điểm mà
lúc đó hành giả sẽ đạt được tuệ giác. Những khoảnh khắc này chỉ
đến với một số ít hành giả. Ðể đạt được khoảnh khắc này, chắc
hẳn hành giả phải có một thân tâm chánh niệm. Hành giả chắc hẳn phải
có một nền tảng chánh niệm về các cảm thọ. Ðiều này có
nghĩa là hành giả phải khắc các cảm thọ bất lạc. Những cảm thọ bất
lạc là những chướng ngại vật lớn lao nhứt mà hành giả phải đối mặt trong
quá trình đi đến sự giác ngộ. Ðây là nơi mà hành giả bị thối lui.
Ðể khắc phục chúng, hành giả cần phải có một năng lực vững chắc,
nhiệt tình và năng nổ cũng như những kĩ thuật chính xác. Rồi thì những
cảm giác này sẽ trang bị cho hành giả với những năng lực mạnh mẽ về
chánh định và chánh niệm để đối phó với những tiến trình
biến hóa của giai đoạn kế tiếp, sự vững chắc của một tâm chánh
niệm. Khi hành giả có một tâm chánh niệm vững chắc hoàn toàn, hành
giả sẽ có nhiệm vụ là tạo dựng những nền tảng các đề mục
niệm tâm và những nguyên tắc cơ bản. Ðây là giây phút tuyệt vời
của chân lý. Nếu hành giả không có những nguyên tắc của tâm chánh
niệm vững chắc, khi hành giả đạt đến tuệ giác thì hành giả sẽ
bỏ qua hai khoảnh khắc đó và quên nắm bắt nó. Nếu hành giả có đầy bốn
khía cạnh nhận thức vững chắc, và hành giả sẽ phát huy đầy đủ thất giác
chi, và rồi ngay chính lúc thất giác chi được phát huy đầy đủ, nó sẽ đưa
hành giả đến tuệ giải thoát.
Bất hạnh thay, những hành giả mà có những đặc tính này thì rất ít. Hành
giả không thích nỗ lực tinh cần, và nhanh chóng dẫn đến sự bồn chồn,
hăm hở đi theo những ánh sáng và màu sắc, ham thích nghỉ ngơi yên tĩnh, sẵn
sàng thổi phồng lên những thành công nhỏ nhoi, sẵn lòng dùng sai năng lực
phụ, có khả năng làm gia tăng sự nghi ngờ, sợ hãi những cảm thọ bất
lạc, rồi lo sợ và lúng túng khi khoảnh khắc của chân lý được đạt
đến. Chúng ta không cần thiết để tìm kiếm một hành giả như
thế này ở chỗ nào khác nữa. Chính chúng ta là mẫu người đó. Chính
chúng ta là những người muốn gặt hái thành quả của thiền định nhưng
lại không sẵn sàng gieo những hạt tốt; chính chúng ta, người ước ao muốn thu
gom lợi nhuận mà không muốn bỏ vốn đầu tư. Chúng ta chỉ muốn nói về
bản thân để đi đến một mục đích mà nó chỉ có thể đạt được
bằng nỗ lực cao hơn. Chúng ta tự dối mình vào một tình huống mà chỉ cho
phép chúng ta thể nhập với một chân lý duy nhất.
Có phải điều này là mục đích xa vời đối với chúng ta? Ðiều đó
không phải vậy đâu. Nơi mà thiền sư Sunlun Sayadaw đã tiến bước,
thì chúng ta cũng có thể. Chúng ta chỉ cần tuân theo sự hướng dẫn của
ngài một cách trung thành. Ngài Sunlun Sayadaw dạy chúng ta: "Hãy luôn luôn
tinh tấn chánh niệm về sự nhận thức sự xúc chạm. Chúng ta phải
nhiệt tâm tinh tấn chánh định. Ðừng nghỉ khi mệt, đừng gải khi ngứa,
đừng có nhúc nhích khi bị co cứng. Chúng ta luôn luôn giữ thân tâm hoàn
toàn bất động và nỗ lực cho đến giờ phút cuối. Phiền não đích
thực là điều không thể nào thay đổi; sự khoái lạc sẽ đưa chúng ta
trôi nổi vào vòng si mê. Chúng ta nên thể nhập vào cảm thọ bất lạc,
chỉ hành giả nào đã thể nhập, sẽ nhận thức được những tiến trình
đó như thế nào. Chúng ta không nên hoài nghi, hãy nỗ lực thêm từng
chút và phải chánh niệm liên tục. Hãy có lòng tin, năng lực và sự nhận
thức để tự làm trong sạch, để khắc phục đau đớn và phiền não,
để đạt đến con đường giác ngộ, đạt đến Níp-bàn.
Phát huy phương pháp
Chánh niệm
của Thiền sư Sunlun
Ở thời đại
này những ham muốn về vật chất và sự thù ghét ảnh hưởng đến cảm
xúc của con người cùng với áp lực gia tăng và sự phát triển khác nhau.
Có một sự thôi thúc và những cơ hội lớn lao hơn cho việc thoả mãn các
giác quan. Nhịp độ sống và những áp lực gia tăng tạo nên những sự căng
thẳng dẫn đến sự lo âu căng thẳng thần kinh. Ðời sống ở thành phố trở
nên ồn ào hơn và sự ồn ào là một cái gai nhọn phá vỡ sự tập trung.
Cùng lúc đó, người ta không đủ thời giờ nhàn rỗi cho một việc tu
tập tâm chánh định lâu dài. Kết quả này làm gia tăng sự xao lãng về
sự quan tâm và khuếch trương về sức mạnh tinh thần và lại càng ít
thời gian hơn, thậm chí ngay cả một hành động chính xác tối thiểu.
Ðể nắm bắt tất cả sự việc đó, con người sanh ra sau thời kỳ của
đức Phật, ít có sự nhạy bén hơn thời kỳ trước. Do đó có một nhu cầu
khẩn cấp đối với một phương pháp tu tập tâm chánh niệm, để lý
giải những thôi thúc phát sinh và những sản phẩm cho việc thỏa mãn các
giác quan. Sự ồn ào và xao lãng gia tăng làm kém sự nhạy bén của hành giả.
Phương pháp chánh niệm của thiền sư Sunlun Sayadaw mang lại một kĩ
thuật để nhanh chóng khắc phục hôn trầm và ham muốn. Sự việc này đã
phát sinh từ lúc khởi đầu với tiếng động và sự xao lãng mà hành giả
phải trải qua, nó làm lệch đi sự chú tâm của mình. Ðối với người có
trực giác kém nhạy bén, là nó mang lại một phương pháp nhanh chóng, chắc
chắn và đáng ngạc nhiên để có một sự vững chắc hoàn hảo về Tứ
niệm xứ. Nó không phải là một phương pháp lỗi thời của những nguyên
tắc có sẵn trong sách. Nó là một phương pháp dẫn đầu trong sự đấu tranh
chống lại tính tự kỷ và vô minh. Thiền sư Sunlun Sayadaw là một người
ít học, như vậy thực là may mắn, ngài không bị ý tưởng đóng khung.
Với sự năng nổ, can đảm và bền chí ngài đã giải thoát vào năm 1920.
Phương pháp này bây giờ dành cho những người sống ở đô thị, người mà
không có lòng can đảm và bền chí như thiền sư Sunlun Sayadaw. Phương
pháp tu tập là một bản tóm tắt rất khúc chiếc.
Oai nghi
Hãy cho rằng oai nghi hành thiền có thể duy trì trong một thời gian
mà không thay đổi tư thế. Ðừng nằm trên giường hoặc tựa lưng vào
ghế. Oai nghi phải là một công việc để giúp cho việc tập trung
mọi nguồn lực. Oai nghi phải là một công việc được đặt ra cho một
công việc cần mẫn và không xao lãng. Một oai nghi thích hợp là ngồi
kiết già. Lưng phải thẳng. Hai cánh tay phải giữ chặt ở hai bên hông. Tay
phải đặt lên tay trái. Ðiều này rất thuận lợi cho việc nắm bàn tay
lại khi hành giả tập trung sức mạnh để chiến đấu với cảm thọ
bất lạc có phát sanh sau đó. Ðừng có đan các ngón tay với nhau hoặc nắm
chúng lỏng lẻo với hai ngón tay cái đối với nhau. Hãy để đầu hơi
nghiêng về phiá trước. Hãy ngồi nghiêm trang. Nên biết, khi có một oai
nghi vững chắc nó sẽ giúp cho thân thể có một điểm tựa chắc chắn,
và hành giả sẽ tỉnh giác.
Hãy chọn một nơi hành thiền cho đến khi chấm dứt mà không gặp
phải sự quấy rầy. Tốt hơn là chúng ta hãy chọn một nơi thanh tịnh và
mát mẻ, nhưng điều này không phải luôn luôn như thế. Việc hành
thiền có thể thực hiện bởi một cá nhân hoặc từng nhóm. Ðừng có
chuẩn bị tỉ mỉ nơi hành thiền hoặc làm cho nó rườm rà.
Ðừng có chuẩn bị thời gian trước cho việc hành thiền. Thời gian có
thể thích hợp tùy theo sự thuận tiện của hành giả. Nhưng hành giả
cần phải hiểu rằng một hoặc hai giờ hành thiền thì quan trọng hơn
bất cứ những việc làm nào khác. Những quyển sách của người phương
Tây cho rằng, người mới bắt đầu hành thiền nên khởi sự với thời gian
hai hoặc ba phút trong một ngày, và thời gian này sẽ được gia tăng dần. Kinh
nghiệm thiền sư Sunlun là phải có một giờ hành thiền tích cực lúc
ban đầu, như vậy sẽ đạt được nhiều lợi ích hơn. Khoảng thời gian hành
thiền bình thường là một đến hai giờ. Việc tu tập tích cực là
ngồi suốt ngày và suốt đêm.
Sau khi oai nghi được ổn định thì đừng thay đổi, hành giả giữ nó cho
tới lúc chấm dứt việc hành thiền. Thiền sư Sunlun Sayadaw dạy rằng:
"Nếu co cứng đừng cử động, nếu ngứa đừng gải, nếu mệt
đừng nghỉ".
Thở
Khởi sự hít vào, hành giả ghi nhận hơi thở chạm chót mũi và môi trên.
Hãy chánh niệm vào hơi thở. Duy trì sự chánh niệm một cách thận
trọng, thở mạnh, nhanh và đều đặn. Hơi thở nhanh khoẻ và đều
đặn sẽ ngăn chặn tiếng ồn từ bên ngoài, giúp cho việc kiểm soát
tâm, nhanh chóng xua tan những chướng ngại, giúp tập trung nhanh và giúp cho
hành giả đương đầu với cảm thọ bất lạc có thể sanh khởi sau đó.
Hơi thở nhanh, mạnh và đều đặn sẽ gia tăng sự xúc chạm giữa hơi thở
với chót mũi môi trên, hoặc những phần khác của thân thể ở khu vực đó.
Hãy chánh niệm với sự xúc chạm của hơi thở.
Thiền sư Sunlun dạy: "Khi hơi thở chạm chót mũi và môi trên, hành
giả sẽ nhận thức được điều đó. Hãy để tâm chánh niệm về
sự nhận thức đó". Ðừng để sự xúc chạm nào vượt ra khỏi sự nhận
biết. Hãy nhận thức từng sự xúc chạm. Tâm chánh niệm phải được
chuyên cần. Ðừng để nó lơ là. Ðiều này có nghĩa là phải có một
năng lực tinh tấn, đó là điều hành giả phải nhiệt tâm và tinh tấn.
Ðừng để sự nhận thức là hơi thở của thân thở. Ðừng bị hơi thở lôi
cuốn khi nó ra vào trong cơ thể. Ðừng có đếm nó khi hít vào thở ra.
Ðừng có ghi nhận nơi xúc chạm của hơi thở dù nó ở trên chóp mũi hoặc ở
môi trên. Hãy để sự nhận thức chỉ là cảm giác của sự xúc chạm về
hơi thở. Hãy chánh niệm duy nhất vào sự cảm thọ.
Hít đầy không khí vào một cách cẩn thận, thì cũng như nước được rút
vào ống tiêm. Thở ra mạnh. Sự hít thở vào ra đầy và mạnh mẽ sẽ giúp cho
việc tập trung được nhanh chóng. Nó giúp cho sự cảm thọ phát sinh. Nó
mang lại sức mạnh trong việc phấn đấu với cảm thọ bất lạc. Bởi vì
hầu hết mọi người đều có một sự thở ra mạnh hơn cho nên chúng
ta cần thiết có một sự chú ý nhiều hơn về sự hít vào để
nhận ra một sự quân bình giữa sự hít vào và thở ra. Khi hai sự kiện này
được quân bình, sự xúc chạm sẽ diễn tiến liên tục. Khi sự thở ra hít
vào được quân bình, hành giả sẽ đạt đến một giai đoạn có hơi thở
đều hòa. Khi thở thì đừng để đầu và thân thể bị lay
chuyển. Ðiều này sẽ đạt đến sự tập trung nhanh.
Sự mệt mỏi có thể xảy ra vào những giai đoạn đầu của việc
thở nhanh và mạnh nhưng hành giả đừng nên ngừng hoặc giảm bớt sự mạnh mẽ
và nhanh chóng của hơi thở. Thiền sư dạy: "Ðừng nghỉ ngơi khi
mệt mỏi. Sự mệt mỏi là do bởi sự yếu kém của việc hít vào
hoặc thở ra quá mạnh. Phương pháp điều trị là gia tăng sức mạnh của sự
hít vào. Khi sức mạnh hít vào và thở ra được quân bình ở một cao độ, sự
mệt mỏi sẽ biến mất. Rồi hãnh giả sẽ vượt qua được giai đoạn thở
hít khó khăn để đạt đến một hơi thở đều hòa. Phải chánh
niệm trong sự xúc chạm với hơi thở. Có ba mức độ của hơi thở: cao (hơi
thở rất mạnh, nhanh và đều đặn); vừa (mạnh, nhanh và đều đặn); và
yếu (nhẹ và chậm hoặc thở bình thường). Bởi vì con người không phải là
một cái máy hành giả đôi lúc sẽ mệt mỏi hoặc là dã dượi. Ðiều
cần thiết là hành giả phải đạt ở một mức cao vào lúc ban đầu để
sau đó khi nhịp độ giảm dần, hành giả sẽ đạt đến sự hít thở quân
bình và có thể duy trì nó.
Ðừng có đặt để trước về thời gian thở. Bằng hơi thở nhanh và
vững chắc, các cảm thọ bất lạc sẽ sanh khởi từ chính hơi thở. Các cảm
thọ bất lạc được xem là những hình thức đau, co cứng, nhức nhối, tê
cứng, nóng hoặc lạnh, hoặc một số cảm giác khác. Hãy tiếp tục thở cho
đến khi có cảm giác đầy đủ để ngưng lại sự hít thở mạnh. Ở
đây cảm giác là đồng hồ để đo thời gian sự hít thở. Hành giả có
thể luân phiên điều chỉnh thời gian để thở, niệm mười lăm
phút hoặc một giờ, vào lúc mà hành giả sẽ tiếp tục vào giai đoạn hai
của khóa thiền. Nhưng điều này thì người ta không ưa thích như
phương pháp đầu.
Khi đến giai đoạn sắp ngừng thở mạnh, hành giả phải thực hiện năm
mươi hoặc một trăm lần thở - vào lúc này hành giả điều khiển toàn
bộ sức mạnh. Trong lúc đó, hành giả sẽ không ngừng chánh niệm về sự
xúc chạm hơi thở. Rồi sự hít thở cần phải ngưng bất thình lình vào lúc
hơi thở hít vào, và toàn bộ thân thể cần phải theo dõi một cách kĩ
lưỡng.
Cảm thọ
Sự hít thở cần phải ngừng hoàn toàn và bất ngờ hít vào. Thân thể
phải bất động kết hợp lại với nhau, và theo dõi liên tục. Các cảm giác
đau đớn, co cứng, tê cứng, nóng hoặc lạnh sẽ phát sinh trong cơ thể. Hãy
chú tâm đến cảm thọ nào dễ nhận nhứt. Ðừng để nó trôi đi.
Ðừng chuyển sự chú ý xuống đơn điền, hệ thống thần kinh
hoặc bất cứ vùng nào khác. Ðó là điều tự nhiên mà cái cảm giác dễ
nhận thấy nhất đòi hỏi đến sự chú tâm của một người. Hãy chuyển
sự chú tâm đến những vùng khác mà không có sự cảm thọ rõ ràng
nhất làm cho người đó quên mất đi cái giây phút hiện tại.
Thiền sư Sunlun dạy: "Nếu cái sự cảm thọ yếu đi, hãy
nhận biết cái thực chất của sự yếu đi. Nếu sự cảm thọ mạnh
lên, hãy nhận biết thực chất của cái mạnh đó. Ðừng nhận biết sự
việc đó ít quá hoặc nhiều quá. Hãy nhận biết đúng ngay cái bản
chất của nó. Hãy nhận biết bất cứ điều gì sanh khởi lên, nó sanh
khởi như thế nào khi nó sanh khởi lên, với bản chất thật sự của sự sanh
khởi. Hãy chú niệm đến sự kiện này. Ðừng để cái ý
tưởng về "cái tôi" hoặc "của tôi" xen vào. Ðừng nghĩ
đến đây là chân của tôi hoặc thân của tôi hoặc tay của tôi. Ðừng suy
niệm "Ðây là thân và tâm". Ðừng suy tưởng "Ðây là vô
thường, đây là khổ và đây là vô ngã". Tất cả sự suy nghĩ suy
niệm, suy tư đều thuộc về nhận thức. Chúng không phải là
thiền quán.
Thiền sư Sunlun hướng dẫn và tiếp cận ngay với thực tế. Người
ta không có đủ thời giờ và năng lực vào lúc ban đầu để tạo nên một
chiếc cầu (khái niệm) nhận thức để tiếp cận với thực tế.
Ðể tìm kiếm con voi, chúng ta đừng có đi theo những bước chân đi lui
của nó mà phải đi trở lui lại theo dấu chân thì sẽ gặp voi. Khi có một sự
đau phát sanh hãy nắm bắt ngay bản chất sự đau; đừng tạo nên khái niệm
"đau, đau" nhưng rồi hãy trở lại bản chất của sự đau. Do đó sự
việc trên muốn nhắc nhở cho hành giả: "Hãy tránh đi việc niệm
danh; đừng tạo nên một hiện thực".
Ðừng đi tới cảm thọ mà cũng đừng đi theo nó. Hãy niệm sự cảm
thọ ngay giây phút phát sinh hoặc đoạn trừ nó ngay giây phút hiện
tiền. Trong khi chiến đấu với cảm thọ bất lạc nó có thể phát
sinh ra một sức mạnh cực kỳ và nguy hiểm mà hành giả cần quan tâm đừng
đi quá xa cảm thọ đó. Ðiều này muốn nói rằng sự nỗ lực tinh
tấn đừng có quá mức nhưng chỉ cần thiết để duy trì chánh niệm
vững chắc. Lúc có một năng lực dồi dào người ta cho rằng hành giả đã đạt
được sự tinh tấn trước cảm thọ bất lạc, bằng kết quả đó, chú
niệm vượt ra khỏi cảm thọ đó và tất cả những điều còn giữ lại
đó là sức mạnh của sự tinh tấn. Sức mạnh này không khác hơn là giận. Và
cơn giận là một trong những lực dẫn đến sự sanh tử luân hồi.
Nói cách khác hành giả cần phải quan tâm đến những điều đã làm,
đừng có bị mắc vào cảm thọ ngắn ngủi đó. Ðiều này muốn nói rằng
sự nỗ lực tinh tấn đừng có bị rơi vào cảm thọ ngắn ngủi đó mà
chỉ cần đến để duy trì một sự chú niệm vững chải. Khi nỗ
lực không được quân bình, hành giả rơi vào tình trạng hôn trầm thụy miên
hoặc cảm thọ bất lạc lấn lướt nếu cảm thọ đó quá mạnh mẽ. Cảm
thọ bất lạc quá mạnh mẽ sẽ không giữ được chánh niệm và sẽ phát
sanh sợ hãi, lo âu, giận dữ, tất cả những sự việc này tạo nên một sức
mạnh dẫn đến sanh tử luân hồi. Hôn trầm thụy miên là nền tảng của
vô minh, mà còn có một sức mạnh khác làm duyên cho sự tái sanh.
Vì thế hành giả phải hết sức cẩn thận đừng đi xa quá hoặc bị
chìm vào trong khoảnh khắc đó. Hành giả phải vận dụng sự chú tâm mạnh mẽ
và tinh tấn cần thiết cho trí tuệ và chánh định. Ðiều này có
nghĩa là thời gian liên quan đến sự chú tâm cho sự cảm thọ không
phải là tương lai hoặc quá khứ nhưng là khoảnh khắc hiện tiền.
Ðiều này được nhận ra, thay vì là sự chú tâm một cách tiêu cực (thụ
động) đến phát sanh của cảm thọ và ngay đến sự tan biến trong
tương lai của nó, thì hành giả thường cảm nhận đúng ngay sự tái sanh của
cảm thọ.
Khi phải đối phó với sự phát sinh của nhiều cảm thọ cùng một lúc,
chẳng hạn như ở đầu, tay, chân, cơ thể, tâm hành giả phóng dật sẽ chạy
tán loạn theo chúng và sẽ không có chánh niệm về những cảm thọ
đó ngay trong hiện tại. Kết quả đó sẽ là phiền não lo âu.
Ðể tránh điều này cần phải chánh niệm ngay chính cảm giác dễ
dàng nhận thấy nhứt. Hành giả cần phải cảnh tỉnh liên tục về cảm
thọ đó và sự cảm nhận này được theo dõi liên tục bởi một tâm chánh
niệm. Hành giả cần phải thể nhập vào cảm thọ đó để nhận ra
bản chất của nó. Cần phải có tinh tấn để thực hiện điều này.
Ðiều này được so sánh như là một cây đinh đóng vào miếng gỗ.
Miếng gỗ là cảm thọ, đinh là tâm, ngón tay nắm cây đinh cho thẳng
là chánh niệm, và cái búa là sự tinh tấn.
Lúc tâm thể nhập vào cảm thọ, hành giả sẽ không còn cảm thấy
hình dáng của bàn chân, cánh tay hoặc thân thể, hành giả sẽ không còn
cảm thấy "cái tôi" là đau khổ. Ý niệm này sẽ được thay
thế bởi một nhận thức rõ, đơn giản của cảm thọ duy nhất. Bởi vì
ý nghĩ của "cái tôi" tạo nên sự đau khổ đã được đoạn trừ,
hành giả sẽ không còn cảm thấy sự khó chịu cảm thọ bất lạc. Một vài
tháng trước đây, hành giả cảm thấy rằng sự cảm thọ này là một sự đau
đớn, nóng nảy và bây giờ hành giả sẽ nhận ra rằng nó chỉ như là một cảm
giác mãnh liệt chứ không phải là điều cơ bản để đương đầu.
Ba cảm thọ này là: cảm thọ bất lạc, cảm thọ lạc và cảm
thọ xả, cảm thọ cuối cùng thì rất tinh vi và thường không thích hợp
cho những người bình thường dùng nó làm đề mục ban đầu để làm
nền tảng một tâm chánh niệm vững chắc. Khi nó phát sinh ở những giai
đoạn kế tiếp của sự tu tập, hành giả sẽ phải chánh niệm nó ngay
khi nó phát sinh. Nhưng rồi sau đó hành giả cần phải phát huy sức mạnh
để nắm bắt cảm giác vi tế đó.
Lúc chúng ta đã có sự ghi nhận, cảm thọ bất lạc là trở ngại lớn lao
nhứt trong việc tu tập thiền quán. Chỉ khi nào hành giả có thể
vượt qua trở ngại đó và hành giả có thể tiến thẳng về phía
trước để đạt được những phần thưởng xa hơn cảm thọ bất lạc.
Ðể hành giả có thể vượt qua và hiểu biết được cảm thọ
bất lạc. Bởi vì cảm thọ bất lạc cũng là một vấn đề chính đối với
luật vô thường, một ngày nào đó nó cũng đi đến sự hoại diệt. Sự
hoại diệt này có thể xảy ra bằng nhiều hình thức khác nhau. Sự
mãnh liệt của nó có thể lắng dịu, nhưng điều này sẽ không là
một sự chấm dứt thật sự. Một phạm vi của cảm thọ bất lạc vẫn sẽ còn
tồn tại. Sự vượt qua thật sự của cảm thọ bất lạc chỉ diễn ra khi hành
giả trú vào cảm thọ, theo dõi cảm thọ mà không nghĩ đến bất cứ
ý tưởng nào liên quan đến cảm thọ, và nó bị thiêu hủy, chấm
dứt, đoạn trừ. Người ta nói rằng nó bị thiêu hủy khi nó được giảm xuống
dần dần cho đến khi không còn gì giữ lại. Nó chấm dứt khi hành giả theo
đuổi nó cho đến khi nó không còn nữa, giống như đi đến cuối con
đường, giống như người ta không còn cảm thấy chiều dài của sợi dây
nữa. Nó bị đoạn diệt khi nó bị đứt bất thình lình, bởi vì khi sợi dây
quá căng thì nó bị đứt. Nó bị tiêu hủy giống như da của con rắn. Nó bị
tàn lụi giống như cái đèn khi dùng hết dầu và tim.
Ðau đớn, nhức nhối, nóng lạnh là cảm thọ bất lạc. Trong những cảm
thọ bất lạc nêu trên đều có một sự khó chịu cơ bản. Ðiều này
là yếu tố cơ bản của sự phiền não mà nó là cơ bản của tất cả
những thử thách của chúng ta. Hành giả cảm thấy mệt mỏi tay chân và muốn
thay đổi vị trí, hay tâm của hành giả bị gò bó dẫn đến sự xúc chạm
hạn hẹp và ước ao được thoải mái trong những mục tiêu khoái lạc, ước ao
tránh được sự khó chịu của oai nghi và tâm bị gò bó. Nhưng làm thế
nào hành giả có thể đạt đến sự giác ngộ và vượt khỏi sự đau
đớn của tiến trình thân tâm này do sự khoái lạc tiếp theo sau những
cảm giác thoải mái và thích thú? Thiền sư Sunlun dạy: "Ðiều
phiền não thật sự là một điều không thể tránh khỏi, khoái lạc
sẽ dẫn dắt quý vị trôi nổi trong vòng sanh tử luân hồi. Ngài đang
đề cập đến hậu quả của đau khổ và để vượt qua sự đau khổ.
Làm thế nào hành giả có thể chánh niệm về cảm thọ bất
lạc để đoạn trừ, tận diệt nó? Câu trả lời duy nhất là hành giả
phải tinh tấn chánh niệm với cảm thọ bất lạc ngay khi nó phát sinh, khi
nó phát sinh, ngay giây phút hiện tại này. Nhưng làm cách nào hành giả
có thể giữ tâm vững chắc để đương đầu với cảm thọ bất lạc?
Làm cách nào nắm bắt cảm thọ bất lạc đúng ngay vào thời điểm nó
phát sinh, ngay đúng tính cách của nó phát sinh?
Ðầu tiên, hãy chánh niệm về cảm thọ bất lạc, thu thúc thân
tâm và giữ cho cả hai hoàn toàn bất động. Theo dõi cảm thọ bất lạc với
hơi thở đều đặn. Giữ hơi thở càng lâu càng tốt cho đến khi hành
giả có thể điều khiển nó dễ dàng. Ðây không phải là bài tập
về sự duy trì hơi thở. Nó chỉ là một bài tập bình thường có ảnh
hưởng đến việc hoàn thành sứ mạng của cuộc sống. Dù bất cứ khi làm
việc gì với sự chú tâm cẩn trọng thì hơi thở cần phải giữ một cách
tự nhiên. Ví dụ như khi xỏ kim thường giữ hơi thở cho đều khi làm xong
công việc. Giống như tính cách này hành giả phải theo dõi cảm thọ
bất lạc với hơi thở điều hòa. Ðiều này sẽ có thể giúp hành
giả tu tập sự nhận thức lớn lao hơn và tinh tấn chánh niệm hơn.
Nếu cảm thọ bất lạc quá mãnh liệt đối với sự chú tâm chính
xác, với hơi thở điều hòa hành giả phải kiên trì đương đầu với nó.
Hành giả dùng hết thân thể để đương đầu với cảm thọ
để hỗ trợ cho công việc luyện tâm. Hành giả khép chặt hai
cánh tay vào hai bên hông, giữ chặt nắm tay lại, hành giả gồng cổ và
nghiến chặt răng lại. Hành giả dùng hết năng lực như là trong cuộc
đấu sức chống lại một kẻ thù mạnh mẽ. Hành giả luôn luôn phải giữ tâm
tinh tấn chánh niệm về cảm thọ. Nếu hành giả đang bị cảm
thọ bất lạc hành hạ và cố gắng giữ hơi thở đều hòa cùng với thân
thể căng cứng nhưng không thể vượt qua được thì hãnh giả nên giữ
tâm vững chắc để chống lại nó. Chẳng hạn như khi thở hành giả đã hít
thở mạnh và sâu, như thế cũng cần áp dụng với tâm đối với cảm thọ
bất lạc thì hành giả phải phấn đấu mạnh mẽ và quyết tâm với nó. Hành
giả phải giữ vững nguồn hơi thở, thân và tâm để chống lại cảm thọ.
Với hơi thở điều hòa, cơ thể vững chắc, và một tâm mạnh mẽ, hành
giả sẽ nỗ lực chống lại áp lực của cảm thọ cho đến khi hành giả
có thể nhập vào nó, trú vào trong nó, theo dõi nó mà không suy nghĩ
ý tưởng nào có liên hệ với nó, cho đến khi đoạn trừ tận
diệt cảm thọ đó hoàn toàn.
Ðiều đó hành giả sẽ lưu tâm rằng yếu tố quan trọng trong kĩ
thuật này là tính quyết tâm. Hành giả nên đem hết nghị lực không
để cho tâm do dự, nên sốt sắng, nổ lục, tìm tòi và tinh tấn. Ðức Phật
đã dạy chư đệ tử của ngài nên có tất cả những pháp đó. Hành giả
thoát khỏi sự si mê không phải là đạt được thành quả từ sự phản tỉnh,
quan sát, tinh tấn tích cực. Thành quả chỉ đạt được qua sự nỗ lực kiên
cường mạnh mẽ của tất cả khả năng thân và tâm do nơi hành giả điều
khiển. Ðây là điều mà thiền sư Sunlun mong mỏi.
Mặc dù sự quyết tâm được đánh giá cao trong đề mục thiền
quán, nhưng nó cũng không cần khích động lên sức mạnh về thân trong
chánh niệm cảm thọ. Tuy thế nó sẽ rất cần thiết để khơi
động lên lòng nhiệt tình và sự hăm hở cho tâm chánh niệm liên tục.
Ðối với hành giả đã có tu tập với cảm thọ bất lạc, điều này đã
giúp cho hành giả khả năng đó, sự thực hành về chánh niệm của sự
cảm thọ sẽ không khó khăn. Ngoài ra, vì các cảm giác luôn luôn đi
kềm với cảm thọ bất lạc của thân, hành giả có thể thay đổi sự
chú tâm của mình vào những cảm giác của thân và như thế đã vượt qua
sự dính mắc với những cảm xúc, qua sự chinh phục các cảm thọ bất lạc
về thân.
Vượt xa hơn sự cảm thọ
Khi hành giả đã hoàn toàn trú trong cảm thọ, theo
dõi cảm thọ mà không suy nghĩ bất cứ ý tưởng nào liên quan với sự
cảm thọ, và sự cảm thọ bị nắm bắt hoặc hoàn toàn bị đoạn diệt,
tâm hành giả trở nên trong sáng, tinh khiết, vững chắc và hữu ích. Hành
giả sẽ trở nên yêu thương tất cả mọi chúng sinh và hành giả có thể
rải tâm từ đến với họ, không chỉ là những lời nói, không ham và
không tự tôn, và không có sự khác biệt giữa những hành giả thích, không
thích hoặc khác biệt với hành giả.
Với tâm trong sạch, tinh khiết, vững chắc và hữu ích hành giả tùy
niệm sự nhận thức bằng sự nhận thức. Hành giả biết được sự nhận
thức với tâm tham cũng như bằng tâm tham, hành giả biết được sự nhận
thức với tâm vô tham cũng như bằng tâm vô tham, hành giả biết được với
tâm sân cũng như bằng tâm sân, hành giả biết được với tâm vô sân
cũng như bằng tâm vô sân. Hành giả biết được khi nào tham và sân phát
sinh và giữ tâm chánh niệm với chúng để chúng không thể là nhân
của tham và sân của kiếp sau và như thế sẽ tạo một kiếp khác
trong vòng sanh tử luân hồi. Ðây là sự đoạn trừ nhân quả. Khi hành giả
đương đầu với đề mục có thể khơi dậy tham hoặc sân hành giả liên
tục giữ chánh niệm để cho tham hoặc sân không thể phát sinh. Ðây
là sự đoạn trừ nhân bằng nhân.
Với trạng thái tâm chánh niệm cuối cùng này hành giả đã thực hành
toàn vẹn những điều thánh kinh đã dạy "Những điều chư vị thấy
chỉ là sự thấy; những điều chư vị nghe chỉ là nghe, những điều chư
vị cảm thấy chỉ là cảm thấy; những điều chư vị nghĩ chỉ là sự
nghĩ". Hành giả có thể thực hành điều này và rằng hành giả đã
làm cho tâm trong sạch và tạo cho tâm vững chắc và hữu ích do bởi tâm chánh
niệm về sự cảm thọ bất lạc. Ðối với hành giả yếu kém, trực
giác kém nhạy bén, việc nỗ lực để thấy chỉ là sự thấy hết
sức khó khăn nếu được thực hành với các bài tập tâm chánh niệm ban
đầu. Bởi vì sự nhận thức một đề mục vi tế của sự suy niệm và
không dễ dàng nắm bắt và kiềm giữ được với một tâm vẫn đục, yếu
ớt và không thể điều khiển. Nhưng khi tâm của hành giả đã
được vững mạnh nhờ sự chánh niệm về cảm thọ bất lạc, hành giả
có thể nắm bắt được sự thấy chỉ là thấy, sự nghe chỉ là nghe, sự nghĩ
chỉ là nghĩ.
Người ta cho rằng nếu trong lúc tu tập chánh niệm, những sự xao lãng
sẽ phát sinh, tâm cần phải theo dõi chúng và ghi nhận chúng.
Theo lý thuyết, hành giả cần phải theo dõi mỗi sự lơ đảng
để nắm bắt nó với tâm chánh niệm. Tuy nhiên, trong việc tu tập,
nó là một điều cực kỳ khó khăn đối với tâm phóng dật để chánh
niệm đến những gì đã từng bị (xao lãng) phóng dật. Nếu hành giả
đã tập trung hết sức, chắc hẳn hành giả đã không xao lãng với đề
mục thiền đã chọn từ lúc ban đầu. Hơn thế nữa, trong lúc ghi
nhận sự xao lãng, hành giả thường gặp phải sự nguy hiểm của niềm tin
là hành giả đang chánh niệm về sự xao lãng trong khi đó thật sự là
hành giả đang bị cuốn hút theo nó. Do đó phương pháp an toàn và hữu
hiệu hơn là phát huy thêm lòng nhiệt tâm để chánh niệm hơn
về đề mục thiền đầu tiên, sự xúc chạm hoặc cảm thọ.
Ðối với sự suy niệm về các yếu tố tinh thần, tuy nhiên phải có
nhiều sự tinh tế hơn sự nhận thức. Sự suy niệm về các yếu
tố tinh thần người ta nói rằng chúng có thể là một sự tu tập để
phát sinh tâm chánh niệm liên tục về cảm thọ. Trong suốt thời gian
tâm chánh niệm về sự cảm thọ, các yếu tố tinh thần của năm
triền cái có thể phát sinh. Khi cảm thọ được đoạn trừ, các
yếu tố giác ngộ phát sanh. Hành giả sẽ phải chánh niệm đến những
yếu tố này phát sanh hoặc biến mất. Nếu tâm sân (một trong năm
triền cái) phát sanh, hành giả không cần ghi nhận nó là sân, hành giả
chỉ liên tục nhận thức về bản chất của sân. Nếu tâm xả phát sinh,
hành giả sẽ tiếp tục nhận thức về bản chất của tâm xả. Ơủ đây
một lần nữa hành giả sẽ có thể hoàn tất nhiệm vụ của mình tốt bởi
vì hành giả đã phát huy một sự tập trung mạnh mẽ với một tâm vững chắc và
trong sạch từ việc tu tập về chánh niệm cảm thọ.
Trong thực tế, ý nói chú niệm là: thân, thọ, tâm, pháp
không có phát sanh riêng rẽ nhau. Chúng phát sinh cùng một lúc. Khi hành giả
đã có chánh niệm về sự nhận thức cảm thọ thì đã có nó ở trong
thân, sự chú niệm cảm thọ, sự chú niệm tâm và pháp. Khi chú
niệm về một trong những yếu tố trên, thì hành giả sẽ chú niệm
đến những cái khác. Nó như là một ly nước giải khát với bốn thành
phần: nước, chanh, đường và muối đều cùng có mặt với nhau cùng một
lúc. Và khi một yếu tố vượt trội lên, nước giải khát được gọi
riêng rẽ là chất nước, chất chua, chất ngọt hoặc chất mặn. Khi cảm
thọ vượt trội, nó được gọi là chánh niệm cảm thọ, khi tâm
vượt trội nó được gọi là tâm chánh niệm và . . .
Khi Tứ niệm xứ đã được hoàn hảo, hành giả sẽ phát huy đầy đủ
thất giác chi. Khi thất giác chi được phát huy đầy đủ và hoàn hảo, hành
giả đã đạt được sự giác ngộ. Tuy nhiên đây là một kết quả của
tương lai, và vấn đề này đã không trình bày sâu sắc hơn trong bản tóm
tắt ngắn gọn này về phương pháp chánh niệm của thiền sư
Sunlun. Nếu người ta gieo một hạt xoài, hạt xoài sẽ nẩy mầm. Ví dụ như
một người đem hết sự quan tâm của mình đến việc gieo hạt tốt
thì người ấy sẽ có được quả xoài tốt. Gieo nhân thì gặt quả.
Kết luận
Phương pháp chánh niệm của thiền sư Sunlun được chư tăng và chư
thiện nam tín nữ thực hành tích cực cả ngày lẫn đêm. Ðối với hành giả
kém tinh tấn, một ngày tại trung tâm qui định thiền năm hoặc bảy lần,
mỗi lần từ một đến ba giờ. Ai quá bận rộn với công việc có
thể thực hành thiền hai lần một ngày. Lúc đó tâm không nên phóng
túng bừa bãi trong những giờ thiền ở giữa khóa. Hành giả phải tinh tấn
liên tục với tâm chánh niệm. Hành giả hoàn tất công việc này bằng
tâm chánh niệm về sự cảm xúc. Không mất một lúc nào trong ngày, mà
thân hành giả sẽ không tiếp xúc với đề mục. Nếu hành giả ngồi
thân hành giả sẽ xúc chạm với ghế. Nếu hành giả nằm, đầu sẽ xúc
chạm với gối. Nếu hành giả đi, bàn chân sẽ đụng đất từng bước một.
Nếu hành giả cầm dụng cụ hay đồ vật, những ngón tay sẽ đụng nó. Hành
giả phải chánh niệm thân xúc chạm tựa trên ghế, đầu tựa trên gối,
bàn chân tựa trên đất, các ngón tay tựa trên đồ vật. Nếu có thể,
hành giả nên chánh niệm sự xúc chạm về đối tượng thị giác tựa
trên mắt, âm thanh tựa trên tai, mùi vị tựa trên lưỡi, hương vị tựa trên
mũi. Thiền sư Sunlun Sayadaw dạy: "Hãy chánh niệm chính xác về
sự nhận thức của sự xúc chạm".
Ngài thiền sư Sunlun có một phương pháp đơn giản, nó giống như kẻ
một hàng hay viết một con số không. Ngay cả sự cố gắng đầu tiên của trẻ
con thì cũng kẻ hàng và viết con số không bằng bút chì. Nhưng để kẻ
thẳng hàng và viết con số không cho thật tròn là một điều cực kỳ
khó khăn. Tuy nhiên, khi người ta cho trẻ con thực hành nó bằng sự cố gắng
và chuyên cần trọn vẹn, thì kết quả có thể đạt được một cách
nhanh chóng. Ða phần những phương pháp khác thì khó diễn tả nhưng dễ thực
hiện, kết quả thì có được hơi chậm. Phương pháp của ngài thiền
sư Sunlun dễ diễn tả. Hầu như văn phong của ngài rất bình dị. Ở người
Miến Ðiện, chỉ có hai quyển sách nhỏ đề cập đến
thiền sư, một cuốn nói về phương pháp tu tập, một cuốn nữa nói
về cuộc đời của thiền sư Sunlun Sayadaw. Bởi vì phương pháp tu tập
thì dễ dàng để nói và có rất ít lý thuyết, ở đó đã không sử
dụng nhiều sách vở. Phương pháp thiền sư Sunlun thì khó để thực
hiện. Với điều này không có nghĩa là tiến trình tu tập phức tạp,
chúng thật đơn giản. Ðiều này chỉ có nghĩa, nó là một phương pháp
không thoải mái và thư thả. Nó đòi hỏi sự dũng cảm để đối mặt với
sự khó chịu của hơi thở mạnh và cảm thọ bất lạc, tinh tấn để vượt
qua chúng, và liên tục chánh niệm cho đến khi đạt được mục đích.
Khi điều này được thực hiện tốt, thì phương pháp đó có thể
đạt được kết quả tốt, những kết quả đó đạt được rất nhanh bởi
vì thiền sư Sunlun đã đưa ra một phương pháp tiếp cận ngay với thực
tại và kích thích lòng quyết tâm của hành giả để giúp hành giả
tiến về phía trước với nhịp độ mạnh mẽ.
Thiền sư Sunlun đưa ra nhiều ý kiến đối với người lười
biếng hiện nay có ít thời gian dành cho bất cứ điều gì, có ấn
tượng, có chủ nghĩa lý luận, và chủ nghĩa duy lý thì đi quá xa vời
với hiện thực và tuệ giác. Phương pháp này giúp cho người ấy loại
trừ được hệ thống tư tưởng của mình để nắm bắt trực tiếp và
tức thì cái bản chất của sự vật. Nó thúc đẩy sự năng nổ và sử dụng
hết năng lực của thân và tâm. Nó giúp cho hành giả phương tiện và
sức mạnh để chống chọi sự thăng trầm của cuộc sống. Nó đánh mạnh
vào điểm chính về khái niệm ảo tưởng lầm lẫn về bản ngã mà
nó là nhân của tất cả khổ đau và phiền não.
Phương pháp của thiền sư Sunlun là mạnh mẽ, quyết tâm, nhiệt
tình để làm nền tảng của Tứ niệm xứ. "Thanh tịnh cho chúng
sinh, vượt khỏi sầu bi, đoạn trừ đau khổ, để đạt đến con đường
chánh đạo và Níp-bàn". "Hãy tinh tấn chánh niệm về sự nhận
thức của cảm thọ".
Hơi và Ðáp
Hỏi: Tại sao khi chúng ta bắt đầu hít thở sau mấy phút đầu tiên chúng
ta cảm thấy rất mệt, rồi chúng ta hít thở lâu hơn chúng ta không còn cảm
thấy mệt nữa?
Ðáp: Chúng ta cảm thấy mệt khi hơi thở chúng ta không được quân
bình; thường thường hơi thở ra có khuynh hướng mạnh hơn hít vào. Sự hít
thở cần phải gia tăng. Một khi chúng ta tạo một hơi thở quân bình, khi đó
hơi thở của chúng ta nhịp nhàng; chúng ta không còn cảm thấy mệt nữa và
theo thực tế chúng ta có thể tiếp tục lâu hơn.
Hỏi: Tại sao chúng ta ngưng thở khi hít vào?
Ðáp: Ðể giúp chúng ta có thể tập trung năng lực lại với nhau
để nắm bắt cảm thọ. Nếu chúng ta không ngưng thở khi hít vào
chúng ta có thể bị lơ là điều này làm cho hành giả không có chánh
niệm.
Hỏi: Khi chúng ta ngồi trong oai nghi vững chắc chúng ta cảm thấy những
cảm thọ mạnh mẽ như co cứng. Có phải chúng ta vẫn tiếp tục ngồi cho
đến khi những cảm thọ đó tan biến, và những cảm thọ như
thế tồn tại được bao lâu?
Ðáp: Ðúng vậy, chúng ta hãy để cho tất cả cảm thọ đó tan
biến dần. Thời gian của nó tùy thuộc theo từng cá nhân. Một số người
chỉ mất một thời gian ngắn, một số khác có thể mất nhiều giờ. Bất
cứ cảm thọ nào phát sanh một cách tự nhiên thì chúng ta đừng sợ hãi
phải chánh niệm và kiên nhẫn. Chúng ta phải ngồi yên và đừng cử động,
và phải liên tục giữ chánh niệm liên tục về cảm thọ đến khi
chúng biến mất hoàn toàn.
Hỏi: Ðôi khi sau những cảm thọ dễ dàng nhận ra đã biến mất,
thì vẫn còn một ít sự tê cứng ở bàn chân. Chúng ta có nên tiếp tục cho
đến khi cảm giác này biến mất?
Ðáp: Ðúng vậy, chúng ta nên tiếp tục đến khi tất cả cảm thọ
này biến mất. Các hành giả có thể ngồi trong một thời gian lâu cho
các cảm thọ này biến mất, nhưng điều này cần thiết. Lẽ dĩ
nhiên hành giả có thể tạo nên một tâm chánh niệm liên tục mà nó
không mất nhiều thì giờ. Sự nhiệt tâm là quan trọng.
Hỏi: Nhưng nếu chúng ta không có đủ thời gian để ngồi quá
lâu, chúng ta có thể ngưng lại trước khi sự tê cứng biến mất hoàn
toàn?
Ðáp: Hành giả có thể, tuy thế nó không được tốt lắm; thân hành
giả cảm thấy nặng nề và tâm không hoàn toàn trong sạch. Nếu hành giả
không đủ thời giờ thì lúc bắt đầu hành giả không cần hít thở quá lâu.
Như vậy các cảm thọ của hành giả không được rõ ràng cho lắm và hành
giả không cần phải ngồi lâu để cho tất cả cảm thọ này biến mất.
Nhưng rồi hành giả thật sự không thực hiện những gì mà mình cần phải
làm và rồi có thể có những cảm giác khó chịu phát sanh trong lúc tu tập
hoặc ngay với bản thân.
Hỏi: Tôi đã nhận ra rằng, tôi có thể làm cho cảm thọ của tôi
biến mất, ví dụ như chỉ đơn thuần là co duỗi chân của tôi. Như vậy
tại sao tôi phải ngồi cho đến khi chúng biến mất?
Ðáp: Căn bản của thiền quán là đối phó với cảm thọ để
vượt qua chúng. Lẽ dĩ nhiên chúng ta có thể làm cho các cảm thọ
biến mất bằng cách cử động chân tay, thân thể, nhưng với cách này
chúng ta không đối phó được với cảm thọ của chúng ta. Chúng ta đang
tìm cách để vượt khỏi chúng, và bằng cách làm như vậy chúng ta đương
đầu với cảm thọ mới. Chúng ta phải biết rằng chúng ta không thể
trốn tránh bất cứ cảm thọ nào, đó là những điều mà chúng ta không
từ bỏ những đau khổ còn tồn tại trong thân của chúng ta, và đó là phương
cách duy nhất để chúng ta đương đầu với nó và đạt đuợc tuệ giác
và giải thoát.
Hỏi: Chánh niệm là gì? Ví dụ, có phải là sự suy niệm về
nhân của cảm thọ phát sinh trong chúng ta?
Ðáp: Chắc hẳn là không. Chánh niệm là sự nhận biết có tỉnh giác
và liên tục. Giữa chánh niệm và sự nhận biết này không có một khái
niệm nào được hình thành, mà cũng không có ý tưởng nào phát sinh.
Hỏi: Có sự khác biệt nào giữa thiền quán và thiền chỉ?
Ðáp: Thiền chỉ là tập trung vào những đề mục, ý tưởng, hình
ảnh. Thiền quán dùng sức mạnh của sự tập trung đặt căn bản trên cảm
thọ phát sinh trong thân. Thiền chỉ tạo cho tâm mạnh mẽ, trong khi đó
thiền quán thanh lọc tâm để có thể đạt được tuệ giác.
Một người thành công với sự tập trung, sẽ thuyết phục mọi người
trong lúc tranh luận, và người ấy có ảnh hưởng đến tất cả mọi
người, nhưng thông thường tác dụng này thường đến muộn. Với thiền
quán thì khác biệt, một người thành công ở thiền quán thì tuệ
giác và sự hiểu biết thực rõ ràng, điều này làm cho mọi
người lắng nghe hành giả mà không có sự nghi ngờ lúc này hay lúc khác.
Hỏi: Một người tu tập thiền quán có thể đi đến việc tu
tập thiền chỉ được không?
Ðáp: Thiền chỉ dùng sự tâm định là sự hỗ trợ chính, trong lúc
đó thiền quán sử dụng căn bản của sự tập trung vào cảm thọ. Người
tu tập thiền định có thể làm như vậy mà không cần đến thiền
quán, nhưng một người tu tập thiền quán sử dụng tập trung để đi
đến một điều gì đó xa hơn, để đạt được sự định tâm từ
sát-na, và huấn luyện sự tập trung này đến cảm thọ. Miễn là hành
giả tiếp tục đi trên con đường này hành giả sẽ không đi vào sự tập
trung thuần túy (thiền chỉ). Nhưng hành giả dựa hoàn toàn vào căn bản
của sự tập trung hành giả có thể đi vào con đường thiền chỉ. Hành
giả có thể thấy màu sắc, hình ảnh... và hành giả có thể trở nên lơ
là. Ðiều trở ngại đó là những người đi vào thiền quán có thể
cảm thấy rằng họ đang đạt được một điều gì đó, thực tế trong
lúc đó những sự cảm nhận của họ có khuynh hướng trở thành chướng ngại
vật trên con đường đi đến giải thoát thật sự. Một người tu tập
thiền chỉ tốt có thể gặp khó khăn trên con đường tiến đến
thiền quán. Phương pháp duy nhất giúp cho những người như thế để
tự mình tu tập thì cũng dựa trên căn bản chánh niệm.
Hỏi: Chúng ta phải làm gì nếu những cảm thọ quá mạnh mẽ không
thể chịu đựng được?
Ðáp: Kiên nhẫn và quyết tâm, đây là hai phẩm chất đòi hỏi để
đương đầu với cảm thọ. Tuy vậy chúng có thể rất mạnh mẽ, và
để có thể vượt qua chúng, hãy định tâm, và cảm thọ sẽ biến
mất, thậm chí những cảm thọ mạnh mẽ nhất. Những cảm thọ càng mạnh
mẽ hơn đã vượt qua được thì tâm lại càng trong sạch hơn.
Hỏi: Nếu có sự chú tâm vững chắc được duy trì trên các cảm
thọ về thân, với điều đó, nếu chúng ta có thể nhận
biết được những cảm thọ mà không có phóng tâm, làm thế nào
để có thể có lợi ích cho tâm?
Ðáp: Nó không phải là một câu hỏi về sự phóng tâm, nó là một vấn
đề về chức năng của tâm. Tâm phải liên tục làm việc qua tác
động của sự nhận thức. Chức năng suy nghĩ của nó không được ngắt ngang,
sẽ không có những ý tưởng suy nghĩ về cảm thọ. Nếu chúng ta
định tâm vào bất cứ cảm thọ nào, khi cảm thọ tan biến, tâm trở
nên trong sạch và vững chắc, lúc đó lòng từ và an lạc sẽ phát sinh. Ngoài
ra cảm thọ không chỉ là cảm thọ của thân, nhưng cũng có cảm thọ
của tâm, nhưng những cảm thọ này tốt hơn thì còn lại ở giai đoạn sau.
Hỏi: Chúng ta có thể chánh niệm như thế nào trong đời sống
hàng ngày?
Ðáp: Khi đi, bàn chân của chúng ta đụng đất, hãy niệm sự đụng chạm
này. Khi chúng ta cầm một vật gì, có sự xúc chạm trên tay, khi chúng ta thấy
một đối tượng, có một sự xúc chạm trên đôi mắt, khi chúng ta nghe một âm
thanh, có sự xúc chạm trên đôi tai, khi chúng ta ngửi mùi vị, có sự xúc
chạm trên mũi, khi chúng ta ăn, có sự xúc chạm trên chóp lưỡi. Chúng ta có
thể niệm trong những cái này và trong nhiều cách khác nữa. Nhưng
điều tốt nhất là niệm sự xúc chạm trên bất kỳ phần nào của thân
thể. Ðây là điều tiện lợi hơn để chánh niệm và nắm
bắt.
Hỏi: Những lợi ích của thiền định là gì?
Ðáp: Những lợi ích của thiền định là thanh tịnh cho chúng sinh, khắc
phục được sầu và bi, đoạn trừ khổ não, đạt đến thánh đạo và
Níp-bàn. Thanh tịnh có nghĩa là tâm trong sạch và tâm thức được củng cố.
Tâm tịch lặng là nhờ đoạn trừ năm triền cái, chúng là: tham dục, sân
hận, hôn trầm, phóng tâm và nghi ngờ. Tâm được thanh tịnh - ít nhất cho một
khoảng thời gian - của tham, sân, si. Tâm thức được củng cố không phải là do
chấp nhận các đạo luật xã hội mà do nhận thức mạnh mẽ hơn về những
điều gì xảy ra khi một người không có đạo đức. Sầu bi, khổ và não là
hai hình thái, thân và tâm. Bi và khổ thì thuộc về thân phát sanh khi
thân bị đau yếu hay không có hoạt động một cách hoàn toàn thích đáng.
Sầu và não sanh lên khi tâm bị náo động. Phương pháp của thiền này làm
cho thân hoạt động một cách thích hợp (điều duy nhất mà tôi sẽ đề
cập đến ở đây là có nhiều trường hợp nhờ thiền định mà chữa
được những chứng bệnh tật và sự rối loạn tiêu hóa thuộc về thân
nhưng điều này thì giới hạn, muốn đạt được phải theo con đường giác
ngộ thật sự). Phương pháp thiền này giúp cho con người đạt được tâm
an lạc. Người có tâm an lạc thì không thấy có sự chấp thủ hay sự thay đổi
đột ngột về ý kiến hay tính tình và người ấy thật sự thản
nhiên trước vui, buồn, giận dữ. Ðó là một thứ tâm xả ly để tự nó
đồng nhất hóa với bất cứ công việc gì và như vậy nó trở nên không có
liên lụy đến hạnh phúc và đau khổ bao quanh nó. Ðạt được chánh đạo
thì có khả năng nhận biết những gì cần thiết và những gì không cần
thiết. Và thực vậy vị ấy không bao giờ biết điều này cho đến
khi nào vị ấy đã thực chứng được những gì tự mình thực chứng. Níp-bàn
có thể thành đạt được, chỉ khi nào hành giả có được lòng can đảm
mạnh mẽ và có được sự tinh tấn vượt bậc.
[Mục lục][Chương
kế] |