Thiền sư
Mohnynin Sayadaw
Cầu chúc cho mọi người gặt hái thành công.
Phần trình bày dưới đây chia làm hai phần. Phần đầu dạy về những
khái niệm cơ bản về tứ đại được nhìn theo quan điểm của Vi
diệu pháp, phần hai là phần mô tả những cách tu tập thiền quán dựa
trên những khái niệm này. Sự tu tập đặc biệt đặt nặng về sự
phát sinh tuệ giác từ việc theo dõi những cử động và sự theo dõi oai
nghi. Việc này đã dẫn đến những giai đoạn trí tuệ và tuệ
giác xa hơn mà cả hai là chủ đề và kết quả của việc tu tập.
Các câu hỏi về những khái niệm cơ bản
để cho hành giả hiểu biết
Hỏi: Xin giải thích về bản chất và những hiện tượng của thân
và tâm.
Ðáp: Tất cả hiện tượng thân đều bị hoại diệt, vô ngã và vô
thường. Tất cả những hiện tượng tâm đều vô ngã và vô thường.
Nói chính xác hơn, hai mươi tám loại hiện tượng thân tồn tại trong
tất cả các cơ thể của tất cả chúng sinh. Cũng có tồn tại hiện
tượng tâm, bao gồm tâm, sở hữu tâm và Níp-bàn đều quan trọng đối
với việc tu tập thiền quán của chúng ta là tập trung và xem xét bản
chất của những đặc tính của vật chất về tất cả hiện tượng vật
lý. Ðiều này có thể thực hiện bằng cách chia chẻ tất cả
những thực thể trở thành tám phần của chúng [1]. Ðây là những phần:
Tứ đại
Ðất (Cứng) - Nước (Dính) - Gió (Chuyển động) - Lửa (Tánh nóng lạnh)
Cộng thêm
Sắc - Hương - Vị - Dưỡng tố
Hỏi: Có phải đây là điều mà hành giả phải tìm hiểu để
nhận ra chân lý cơ bản?
Ðáp: Tất cả vạn vật đều có hai đặc tính cơ bản. Do đó những đặc
tính cơ bản tồn tại trong tất cả hiện tượng thân và tâm và chúng ta có
thể nhìn thấy khi chúng ta theo dõi những chức năng và những đặc tính
của chúng. Những sự thật này thì khó nhìn thấy do bởi quan điểm của
chúng ta, bởi sự ảo giác, chúng ta có một cái nhìn thiên kiến về sự
vững chắc và thường hằng trong thế giới vật lý và tâm linh.
Hỏi: Làm cách nào chúng ta tránh khỏi khái niệm về sự vững
chắc liên kết của vật chất?
Ðáp: Ðể tìm hiểu những đối tượng tục đế là một cách giúp
hành giả khám phá bản chất thật của chúng đã tạo nên bởi nhiều thành
phần. Ví dụ khi người ta đổ nước vào sữa, thì sữa đầy ắp giữa những
khoảng trống của nước. Ðây là sự thật cho tất cả những vật vô tri khác -
chúng ta ra một ảo giác về sự liên kết và vững chắc nhưng cuối cùng
chúng ta được hình thành bởi tứ đại, những nhóm mà trong đó những sự
kết hợp khác nhau tạo nên toàn thể vũ trụ. Sự hiểu biết chân
chánh đạt được kết quả khi hành giả hiểu biết được điều
này qua sự cảm nhận trực tiếp trong thiền định.
Hỏi: Làm cách nào để áp dụng chân lý tuyệt đối với những
vật có tri giác?
Ðáp: Những vật có tri giác giống như những vật vô tri mà hành giả phải
nhìn theo quan điểm của người hành thiền để khám phá tính chất
cơ bản của chúng. Tất cả sinh vật, dù dưới hình thức nào, bản chất thật
của chúng đều ẩn trong dáng vẻ vững chắc và liên kết. Ðể loại
trừ ảo giác này và ảo giác về bản ngã, hành giả phải xem những vật vô
tri là được hình thành bởi "nhóm, phần, những yếu tố" của tinh
thần lẫn vật chất. Theo nguyên tắc này, hành giả phải cố gắng xem xét tất
cả mọi vật mà hành giả gặp gỡ đơn thuần là những yếu tố mà chúng
ta bị bám víu vào ý nghĩa của những tên gọi, gọi chúng là đàn
ông, đàn bà, thú vật. . .những sự phân biệt này chỉ tồn tại trên mặt
tục đế và không phải là chân lý tuyệt đối. Như thế, một sự
hiểu biết có phân tích được phát huy trong thiền quán sẽ nhìn
thấy tất cả chúng sinh không có linh hồn thường hằng và bản ngã.
Ðừng có cố chấp vào những ý niệm và những tư tưởng này, hành
giả sẽ nhận thấy rằng tất cả những vật có tri giác chỉ là những nhóm [2]
của thân hoặc tứ đại. Như vậy sự hiểu biết này sẽ dẫn hành giả
đến tuệ giác trong sáng đi vào bản chất và sự liên quan của thân và
tâm, và cuối cùng đi đến tâm thản nhiên về sự sanh diệt của
những đối tượng này, đi đến trạng thái an lạc nội tâm. Thậm chí hành
giả có thể nhận thấy được những bài tập về bác ái, giới và lòng
từ bi có liên quan, mà không cần chú trọng về mặt giá trị, và thậm
chí không còn dính mắc vào những đề mục này.
Hỏi: Làm cách nào để hòa hợp khái niệm tứ đại của Phật giáo
với nền vật lý hiện đại?
Ðáp: Bằng cách loại trừ khái niệm về sự vững chắc, các khoa
học gia đã phân tích tất cả những thành phần vật chất ra hơn một trăm
yếu tố. Cuối cùng ngay cả yếu tố này và các nguyên tử khi được
họ quan sát đã trở thành làn sóng năng lượng trong một khoảng không
rộng lớn. Những làn sóng luôn luôn hoạt động vì thế vật lý hiện
đại cho thấy rằng vật thể thường xuyên thay đổi và không có linh hồn.
Hỏi: Những thực thể cơ bản nào phù hợp với tâm lý Phật giáo?
Ðáp: Hành giả phải hiểu là có bốn loại thực thể cơ bản [3]:
1. Sắc
2. Hành
3. Thức
4. Níp-bàn
Những thực thể này đã vượt qua bất cứ những ý tưởng và những
khái niệm mà hành giả có thể cảm nhận và quán chiếu trực
tiếp. Hành giả cũng sẽ thấy rằng ba thực thể đều có những đặc
tính thường xuyên thay đổi.
Hỏi: Làm cách nào chúng ta có thể hiểu được tâm thức?
Ðáp: Có sáu loại thức:
1. Nhãn thức
2. Nhĩ thức
3. Tỷ thức
4. Thiệt thức
5. Thân thức
6. Tâm thức
Những thức này có đặc tính biết những đối tượng của thức. Bây giờ
chúng ta có thể mở rộng sự hiểu biết đối với toàn thế giới
như lời Phật dạy về nó.
Thức Nhãn thức
Nhĩ thức
Tỉ thức
Thiệt thức
Thân thức
Tâm thức |
Các giác quan Mắt
Tai
Mũi
Lưỡi
Thân
Tâm |
Ðối tượng Sắc
Thinh
Hương
Vị
Xúc
Pháp |
Mười tám phần này tạo nên thế giới của chúng ta. Hành
giả có thể thấy rằng nhãn thức phát sinh có sự liên hệ với mắt và
vật có thể nhìn thấy được và nó phụ thuôc vào đó, nhĩ thức phát sinh
có liên hệ với âm thanh và tùy thuộc vào đó và v.v. mỗi khoảnh
khắc mang lại sự sanh và diệt của một trong sáu thức này liên hệ với
một giác quan và một đối tượng. Bằng cách phát huy thể nhập, hành giả
sẽ thấy rằng không có sự thường hằng về cái tôi hoặc ngã, chỉ là một
chuỗi liên tục của sanh và diệt của mười tám giới. Hành giả phải suy
niệm cho đến khi hành giả không còn đặt niềm tin về một linh
hồn hoặc một thực thể thường hằng. Hành giả phải quán chiếu bản
chất thật của thân và tâm cho đến khi hành giả hiểu được sự quan
hệ giữa hai phần này.
Hỏi: Làm cách nào chúng ta không còn nghi ngờ những gì tạo ra hình
thức và đối tượng và những gì tạo ra những hiện tượng tâm?
Ðáp: Thoát khỏi hoài nghi đối với thân và tâm từ sự suy niệm chân
chánh. Nghiệp (những hành động của thân, khẩu và tâm) thức, khí hậu và
thực phẩm là những điều kiện tạo ra những vật có tri giác [4]. Giống
như thế, sáu căn và sáu trần là những điều kiện của hiện
tượng tâm. Tất cả hành động tạo nghiệp có những quả đến từ một
hành động thiện hoặc ác. Tiến trình tạo nghiệp này là điều
cơ bản của vòng sanh tử luân hồi. Hành giả muốn hiểu rõ, phải quán
chiếu một cách sâu sắc chính ngay những hiện tượng thân tâm của mình
cho đến khi người ấy nhận thức được rõ ràng tiến trình này xảy ra
trong thân tâm như thế nào. Sau đó hành giả sẽ không còn nghi ngờ về
giáo pháp, về Phật. Hành giả sẽ thấy sự khởi đầu và kết thúc của
vòng sanh tử luân hồi, và hiểu được bản chất nhân duyên của tất cả
thân tâm.
Ðể giải thích xa hơn, nhân duyên là sự xoay chuyển của tất cả
những hiện tượng thân tâm, sự hiểu biết về chúng, cùng với
vô ngã tạo nên những cơ bản cho sự nhận thức về giáo pháp của đức
Phật. Nó cho thấy rằng những bản chất khác nhau của hiện tượng thân tâm
thường được gọi là ngã, cá nhân, đàn ông, đàn bà..., không phải là
trò chơi cút bắt, mà là kết quả của nhân và duyên. Nó giải thích rằng
sự tái sinh và đau khổ tùy thuộc vào những điều kiện và như thế
đó, qua sự thay đổi của những điều kiện này, tất cả đau khổ
biến mất. Thập nhị nhân duyên là:
- Vô minh, thiếu trí tuệ, là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Ðây
là duyên cho sự phát sanh của hành nghiệp.
- Hành là duyên của vô minh.
- Thức
- Danh sắc
- Lục nhập
- Xúc
- Thọ
- Ái
- Thủ
- Hữu
- Sanh
- Lão tử
Những sự liên kết 1, 2, 8, 9 và 10 là năm nguyên nhân tạo nghiệp
tái sinh, và liên kết 3, 4, 5, 6 và 7 là năm quả tạo nghiệp trong vòng
sanh tử luân hồi.
Ðây là một bản tóm tắt nhưng hoàn hảo của vòng sanh tử, của nhân quả,
hiện tượng thân tâm dựa trên sự tái sinh xảy ra [5]. Nếu hành giả suy
niệm và cuối cùng hiểu được những nguyên nhân của thân tâm, hành
giả sẽ đạt được sự thanh tịnh, thoát khỏi sự nghi ngờ.
Thực hành sự thanh lọc
Ðể đạt được tri kiến liên quan đến các tầng thánh, hành giả
phải đạt được những tuệ giác như sau: tuệ xác định tam tướng,
tuệ sanh diệt, tuệ hoại diệt, tuệ sợ hãi, là nhân cho sự
nhàm chán tất cả hiện hữu, và cuối cùng là tuệ ham muốn giải thoát
và tuệ hành xả liên quan đến những hình thức thân tâm. Ðây là sự
quân bình hoàn hảo của tâm cần thiết để đạt Níp-bàn.
Trong mỗi phần này, việc tu tập để phát huy tuệ giác liên
quan đến tam tướng, hành giả phải thực hành các bài tập tuệ giác
bằng cách quan sát tiến trình thay đổi có liên quan đến sự chuyển
động và oai nghi của thân. Ơủ đây hành giả có thể thấy rõ rằng bản
chất thay đổi trong thân mình. Ðiều này đưa đến sự hiểu
biết vượt quá khái niệm, để đi đến chân lý tối cao,
rằng sự hiện hữu là một tiến trình thay đổi liên tục của thân và
tâm mà bản thân nó không có sự thường hằng hoặc cá thể. Ðây là
điều thích hợp nhứt để khởi đầu cho mức hiểu biết này và
cảm nhận tam tướng ở đây trước khi phát huy những tuệ giác cao hơn.
Khi bắt đầu tu tập thiền quán, hành giả phải quán chiếu chi li
những cách di chuyển và những sự thay đổi oai nghi, bởi vì ở đây hành
giả có thể thấy tam tướng rõ ràng. Khi di chuyển tay của mình từ
chỗ này qua chỗ khác, trước tiên hành giả phải nhận thấy toàn bộ
bàn tay của mình di chuyển. Khi theo dõi tiến trình này kỹ càng hơn
(đặc biệt qua cảm giác) hành giả sẽ thấy rằng mỗi khoảnh khắc
"những cử động" cũ của nguồn năng lượng sắc pháp sanh và diệt
nhường chỗ cho những sắc pháp mới, và sự quan sát như thế, hành giả
sẽ tiếp cận để am tường định lý vô thường. Sự chuyển động
bàn tay từ một vị trí này sang vị trí khác nhiều lần, hành giả suy gẫm
được đặc tính vô thường của sắc pháp và cảm thọ. Theo ý nghĩa cơ
bản (tiến trình của sự lay động hoặc rung chuyển phát sinh từ sự hoạt
động tinh thần) cho thấy dáng vẻ bề ngoài của bàn tay di chuyển. Sự
theo dõi tiến trình này chỉ áp dụng định tâm và tuệ giác thôi, hành
giả phát huy sự cảm nhận về lý vô thường, xuyên qua tính phù du, bản
chất vô ngã của cuộc đời bao gồm tất cả danh pháp và sắc pháp. Khi tuệ
giác nhận chân được lý vô thường thì hành giả sẽ có thể cảm nhận
được khổ đau, sự bấp bênh và lòng hỉ xả.
Tuy nhiên, một người bình thường sẽ nói rằng có cùng bàn tay trong tất
cả các oai nghi, theo ý nghĩa tuyệt đối, có một ngàn tỷ sắc uẩn -
sanh và diệt trong tiến trình di chuyển khi bàn tay cử động. Nó
giống như một xô cát. Cho phép chúng tôi nói quý vị đâm thủng một
lỗ dưới đáy xô và tự động những hạt cát rơi xuống dòng suối. Mặc dù
quý vị thấy rằng cát trong xô đổ xuống dòng suối, trong thực tế,
những hạt cát kết hợp lại với nhau và hình thành một dòng suối. Thực
vậy những ý niệm, những tư tưởng của chúng ta - thuộc về hình
thức, thì liên tục và rắn chắc - che dấu bởi chân lý thật. Nếu hành
giả thấy rõ hành giả sẽ tiếp cận để biết làm cách nào danh sắc
có liên quan một cách nhân quả, sanh và diệt một cách nhanh chóng, giống
như cát tan trong suối cát.
Ghi nhớ trong tâm điều này, hành giả phải quán thường xuyên sự tan rã
của danh sắc trong thân trong suốt các sinh hoạt hàng ngày, như thức dậy rửa
mặt, đi tắm, ăm cơm, ra vào trong mọi oai nghi.
Ðức Phật dạy quán thân trên thân. Cho nên khi ngồi, một hành giả có
thể xác định sự hoại diệt của sắc pháp trong sự chuyển động bàn
tay từ một vị trí sang một vị trí khác có thể thấy sự hoại diệt của
sắc pháp trên thân một cách dễ dàng hơn. Ðây là việc làm quán đúng
thân trên thân.
Hãy nhắm mắt lại và quán chiếu sự hoại diệt của sắc uẩn trên
thân. Sau đó xoay thân của quý vị qua phía phải, qua phía trái và cái
thân ra phía trước hoặc phía sau. Trong tất cả những oai nghi này và ở
mọi sự chuyển động quý vị sẽ ghi nhận rằng sắc pháp cũ hơn sanh
và diệt, nhường chỗ cho những sắc pháp mới hơn. Hãy ghi nhớ những
bài tập này cho đến khi nào quý vị có thể cảm nhận được
điều này một cách rõ ràng. Hành giả cũng có thể áp dụng hơi thở
để phát huy tuệ giác của mình vào sự sanh và diệt của vạn pháp.
Trong công việc quán những sự hoại diệt của sắc pháp có liên quan với
hơi thở, cũng như trong trường hợp sự chuyển động của bàn tay, một hành
giả phải chú niệm những đặc tính của sắc pháp ở phần giữa của thân.
Không cần thiết để theo dõi hơi thở ra vào ở chóp mũi khi hành giả
thực hiện những bài tập hơi thở. Hãy chú tâm của quý vị trên phần
giữa của thân; sau đó quý vị sẽ cảm nhận được những sự chuyển
động phồng xẹp của phần này của thân - phồng khi hơi thở vào và xẹp khi
hơi thở ra. Hãy quán sự hoại diệt của sắc pháp trong cả hai trường hợp
hơi thở ra vào, và cuối cùng quý vị sẽ thực chứng được sự thay đổi
liên tục một cách trực tiếp mà quý vị có thể cảm nhận nó là
bản chất vạn pháp.
Mặc dù nó là sự quán thân và những cảm thọ của thân, nhưng đặc
biệt những thành phần đó liên quan đến những oai nghi khác, mà hành
giả có thể hiểu biết pháp chân đế tốt nhất.
Trong công việc quán thân trên thân và cảm nhận sự sanh và diệt
của các pháp, sau đó hành giả có thể thấy được tiến trình
chuyển động, sự chuyển động sắc pháp nảy sinh ra hoạt động tinh
thần. Ðiều này là như thế, hành giả thấy được chu kỳ của nguồn
gốc duyên khởi.
Hành giả hiểu rằng nếu ở đó nảy sinh ý nghĩ "tôi sẽ
đứng", ý nghĩ đó tạo ra tiến trình dao động. Tiến trình dao
động này tạo ra sự biểu lộ của thân, toàn thân thẳng đứng, do bởi sự
phân tán của tiến trình dao động, người ta gọi là đứng. Nếu ở
đó hành giả nảy sinh ý nghĩ "tôi sẽ bước bằng chân phải", một
hành giả có thể phân biệt sự sanh diệt của danh pháp trong suốt
tiến trình dao động của thân và cũng nên phân biệt trong suốt những
giai đoạn đi đến những sự dở, bước và đạp.
Sau khi biết được như vậy, một hành giả phải quán như sau: "Thậm
chí trong khi tôi đang đứng, danh và sắc pháp sanh và diệt nhanh chóng ở
mỗi khoảnh khắc, như vậy hành giả thấy được vô thường". Ðiều
đó sẽ xuất hiện trong tâm của một hành giả mà nó là bản chất cơ bản
của tất cả danh và sắc pháp tạo điều kiện nhân quả để sanh
diệt ngay lập tức. Hành giả phải quán lý vô thường theo phương pháp
này thường xuyên, vì quán nhiều ngày, nhiều tháng như thế, hành
giả sẽ đạt được lý vô thường một cách hoàn hảo.
Trong sự quán niệm tinh chuyên, hành giả có thể chú tâm đặc
biệt đến sự hoại diệt của tất cả sự việc xảy ra. Như vậy,
khi một hành giả bắt đầu bước đi bằng chân phải, hành giả xác định sự
hoại diệt của danh và sắc pháp ghi nhận diệt, diệt; mất dạng, mất
dạng; không tồn tại nữa, không tồn tại nữa; hay là vô thường, vô thường.
Khi chân trái bước hành giả phải áp dụng giống như chân phải. Ðiều quan
trọng là một hành giả tiếp tục những bài tập này lâu dài, như
thế hành giả mới có thể cảm nhận được sự hoại diệt của danh và
sắc pháp trong khi hành giả đi nhanh hoặc đi chậm. Kiên tâm những bài tập
này là để thực hiện công việc quán thân trên nội thân.
Ðối với hành giả, để quán chiếu danh pháp cũng như sắc pháp là
điều quan trọng như nhau. Nếu ở đó hành giả nảy sinh ý nghĩ
"tôi sẽ đi", một hành giả phải xác định sanh và diệt của danh
pháp bao gồm trong "hoạt động tinh thần" của sự suy nghĩ. Hành giả
cũng phải chú niệm đến sự sanh và diệt của sắc pháp bao gồm bàn
chân ở mỗi bước. Bây giờ hành giả có thể quan sát cả hai danh và
sắc pháp khi chúng sanh và diệt ở mỗi bước.
Một hành giả khi bước đi nên hiểu "tôi đang bước", và bất
cứ oai nghi gì của thân có thể hành giả hiểu oai nghi đó đồng thời
theo dõi sự hoại diệt của danh pháp bao gồm việc suy nghĩ về
"bước chân", sự hoại diệt của sắc pháp bao gồm bàn chân, và
cũng theo dõi sự hoại diệt của sắc pháp trong những bước chân chạm đất.
Như vậy hành giả chăm chú vào sự quán chiếu thân của chính mình một
cách khách quan. Hành giả vừa chú y sanh vừa chú ý diệt trong thân;
hoặc cả hai sanh diệt trong thân.
Bắt đầu bài tập thiền hành, một hành giả phải đứng trước khi đi.
Sau đó hành giả sẽ theo dõi những đặc tính thuộc về danh và sắc pháp
bao gồm trong thân, và quán như vầy:
"Bây giờ, không có cái gì là tôi đang đứng cả, chỉ là tập hợp danh
và sắc "uẩn" thôi, bao gồm trong thân, trong oai nghi đứng của nó
để tiến trình dao động phát sinh từ hoạt động tinh thần".
Một lần nữa, nếu như ở đó phát sinh ý tưởng "tôi sẽ đi
bằng chân phải", ý tưởng đó tạo nên tiến trình dao động sự
khuếch tán của tiến trình dao động tạo ra ấn tượng trong sự
chuyển động sau đây: dỡ, bước, đạp. Hành giả phải suy niệm sự hoại
diệt của sắc pháp nằm trong thân ở mọi oai nghi, và sự hoại diệt
đồng thời của sắc pháp trên mặt đất mà chân phải của hành giả đạp lên
nó. Hành giả phải liên tục thực hành bài tập này trong nhiều ngày bằng
cách di chuyển nhanh và chậm. Sự suy niệm này cần phải theo dõi trong
mọi oai nghi -đi, đứng, ngồi, nằm - cho đến khi hành giả thể nhập
với sự hiểu biết đầy đủ về những đặc tính của sự sống.
Ðiều cơ bản là hành giả suy niệm sự sanh diệt ở giây phút
hiện tiền, chỉ khi hành giả có thể thấy được những đặc tướng
đó rõ ràng. Hành giả bắt đầu những bài tập của mình với sự chuyển
động rất chậm, thường thì rất hữu ích, hành giả có thể theo dõi rõ
ràng hơn những hiện tượng thân tâm.
Một khi hành giả suy niệm sự sanh diệt của những hiện tượng ở
mọi oai nghi trong tứ oai nghi cuối cùng sẽ nhận thấy rằng những hiện
tượng thân tâm sanh diệt liên tục và hình thức mới của sự sống phát
sinh để thay thế những phần cũ, giống như hạt mè được tách ra với
những tiếng nổ lách tách khi rang chúng trên chảo.
Trong lúc tu tập thiền quán, trong phần này, hành giả có thể cảm
nhận được sự sanh diệt của vạn pháp, ở đó "những phiền não
của tuệ giác" cũng phát sinh đến hành giả. Ðặc biệt những
điều này cũng phát sinh với hành giả đã và đang thực hành thiền
quán kết hợp với thiền định. Một số phiền não vi tế thì bị
dính mắc với hỉ lạc, vắng lặng hạnh phúc, tia sáng, năng lượng, sự nhận
biết, xả và sự khoái lạc phát sinh nơi hành giả.
Những chấp thủ và những phiền não vi tế này được hành giả khống
chế khi nhận thấy rằng chẳng một điều nào là con đường chân chính
để đoạn trừ đau khổ, và do đó hành giả phải từ bỏ sự chấp thủ của
mình và chỉ tiếp tục suy niệm rõ ràng về tiến trình sanh
diệt của vạn pháp.
Ðể hành giả có thể nắm bắt ý tưởng về danh và sắc pháp
này diệt sanh như thế nào, hành giả có thể theo dõi bong bóng
nước được hình thành trên mặt hồ vào một ngày có mưa lớn. Như vậy hành
giả nhận thấy rằng những bong bóng đó sanh diệt liên tục. Giống như
thế, những hiện tượng thân tâm thuộc ngũ uẩn cũng sanh diệt rất
nhanh. Lại nữa, ví dụ như xô cát, quý vị sẽ nhận thấy rằng dòng cát từ
xô chảy ra dù có vẻ rắn chắc do bởi nhiều hạt cát tạo nên và những hạt
cát đó sanh diệt liên tục, những phần cũ đã diệt đi được thay
thế vào những hạt mới.
Khi hành giả cảm nhận được sự hoại diệt về những hiện tượng
trong từng oai nghi của thân, cũng như tất cả những vật chất từ bên ngoài,
hành giả có thể sớm cảm nhận rằng những hành nghiệp tạo ra những
cuộc sống mới mãi mãi thì không vững chắc, sợ hãi, khó chịu, và đau khổ,
và bị nhàm chán cùng với đời thường, hành giả dần dần đạt được tuệ
giác cao hơn.
Hành giả sẽ càng nhận thấy rõ hơn về bản chất của tứ diệu
đế và phiền não nằm trong vạn pháp. Những cảm tưởng đau đớn về
thân tâm và những cảm thọ là những phiền não. Khổ đế hoặc đau
khổ không chỉ đơn thuần đề cập đến những ý tưởng đau đớn,
nhưng còn dạy rằng, do bởi tuân theo luật vô thường, tất cả hiện tượng
của sự sống đều khổ đau, và chúng mang mầm móng của khổ đau.
Cảm thấy chán ngắt đối với mọi hình thức của cuộc sống, mệt mỏi
và không còn ham thích điều gì nữa, tâm của hành giả không bám một
điều gì của những hình thức này, và ở hành giả khởi lên lòng ham muốn
thoát ly.
Sự quán niệm của hành giả bây giờ được tập trung vào tam tướng của
cuộc đời - vô thường, khổ não, vô ngã - với lòng mong cầu tìm thấy sự
giác ngộ từ tất cả những hình thái của cuộc sống đang gia tăng mạnh mẽ nơi
hành giả.
Ví như rơm rạ, bong bóng hay ảo ảnh thì không có bền vững, dễ tan và
rỗng không, như vậy sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì cũng không
bền chắc và dễ tan, rỗng không, phù du và vô ngã. Chúng không có chủ
nhân, hoặc không ai nắm quyền chúng được, chúng không phải trẻ con, đàn
ông, đàn bà, con người, mà cũng không có cái gì thuộc về con ngưgời
cả, không có "tôi" hoặc "của tôi", mà chúng cũng không
thuộc về người nào khác nữa.
Cuối cùng, trong khi liên tục thẩm tra những hình thức của cuộc sống, hành
giả khắc phục được mọi lo sợ, lạc thú, và sự lãnh đạm và ở đó phát
sinh trong hành giả một tâm xả mạnh mẽ. Hành giả thấy rằng tất cả điều
kiện liên quan nhau có nhân quả, sanh và diệt, danh và sắc pháp không
còn bị bó buộc điều gì trong bản chất thực thể của linh hồn,
"tôi", "của tôi", "của anh" và "của cá nhân
nào đó".
Tất cả đều là vô ngã, nghĩa là:
1. Không còn chấp vào cá nhân trường tồn hay linh hồn nào cả.
2. Không có một xuất xứ tuyệt đối.
3. Không kềm chế, không thống trị được.
Bây giờ, trong khi liên tục quán niệm tam tướng của cuộc sống, tâm
hành giả hướng đến an lạc Níp-bàn. Tâm an lạc và xả bỏ phù hợp với
tam tướng để giải thoát, ba con đường này dẫn đến Níp-bàn.
Ba con đường giác ngộ đều đưa đến sự thoát khỏi những hiện
tượng thế gian. Tâm biết tất cả những pháp hành chẳng hạn như thay
đổi và giới hạn và hướng đến sự vô ngã.
Tâm bị thúc dục hướng về sự khổ não của tất cả pháp hành thuộc
về thế gian, và đi đến sự vô tham. Tâm xem tất cả vạn vật
đều rỗng không, không bị ràng buộc và hướng đến sự vô thường.
Như vậy trong khi tu tập thiền quán theo những hướng dẫn này, hành giả
sẽ nhận thấy rằng do bởi sự theo dõi liên tục sẽ thấy được tam tướng
(những sự thay đổi, thay thế, phiền não, những tính cách thay đổi của
thân tâm), hành giả đang tu tập tâm với một hình thức như thế với
tuệ giác mà hành giả cảm nhận được sẽ giúp hành giả đoạn trừ được
niềm tin trường cửu, và hoại diệt [6]. Tâm của người ấy sẽ đoạn
trừ những ảo giác như sau: (1) ý niệm về sự thường hằng, (2)
ý niệm về hạnh phúc thế gian, (3) ý niệm về bản
ngã, (4) ý niệm về tham ái, (5) tham, (6) hữu [7], (7) thủ, (8) ý
niệm về sự vững chắc, (9) tà kiến về những hành tạo
nghiệp, (10) ý niệm về sự bền vững, (11) điều kiện
tạo nghiệp (conditions of becoming), (12) khoái lạc, (13) chấp thủ, (14)
thường kiến, (15) đoạn kiến, (16) cố chấp, (17) vô thường, (18)
kiến thủ. Ðây là kết quả của việc tu tập thiền quán chính
xác. Chân lý này sẽ giúp hành giả vượt ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Hành giả muốn thực hiện việc tu tập này phải bắt đầu bằng cách
quy y tam bảo. Hành giả phải thọ trì giới luật và liên tục theo con
đường từ bi bác ái:
Cầu xin cho tôi được hạnh phúc, cầu xin cho tôi duy trì được hạnh
phúc và không kết oan trái.
Cầu xin cho tất cả chúng sinh được thịnh vượng và hạnh phúc; cầu xin
cho tất cả chúng sinh tâm được an vui, tất cả chúng sinh có sự sống, yếu
mạnh, nhỏ lớn, hữu hình hoặc vô hình, gần hoặc xa, đã sinh hoặc chưa sinh,
cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được an vui.
Cầu xin không ai lừa gạt lẫn nhau, không ai bị chửi mắng, không ai bị
thù hận hoặc đau yếu. Thậm chí như một người mẹ, vào lúc hiểm
nghèo của cuộc sống vẫn chăm lo và bảo vệ người con duy nhất của mình,
như vậy với tâm từ bi vô lượng tôi quý trọng tất cả vạn vật, rải
lòng từ trên khắp thế gian, trên, dưới và khắp mọi nơi, như vậy tôi
đang rải tâm từ đến cho tất cả chúng sinh.
Ði đứng, nằm, ngồi, trong những giờ tôi thức tỉnh, tôi ôm ấp ý
tưởng rằng đây là lòng yêu thương cao quý nhất thế gian.
Như vậy tôi sẽ từ bỏ những cuộc tranh luận và nói chuyện phù
phiếm, bằng cách thiền hành đúng đắn, hành giả sẽ đạt được
tuệ giác, giảm bớt ham muốn dục lạc, và chẳng bao giờ tái sinh trở lại.
Cầu xin tất cả những điều này là nhân cho tất cả chúng sinh hoàn toàn
được sung sướng ở mọi điều kiện dẫn đến giác ngộ Níp-bàn.
Cầu xin cho tất cả tránh khỏi sự nguy hiểm, tuổi già, bịnh tật và
chết. Cầu xin cho tất cả chúng sinh được giải thoát.
Chú thích:
[1] Ðây là những đặc tính của tất cả các loại vật chất khi chúng ta
trực tiếp cảm nhận nó, trước khi có những tên gọi và khái niệm.
Ví dụ sàn nhà được người ta nhìn bằng mắt là một mảng màu, hoặc cách sờ
mó thì người ta cảm thấy lạnh, cứng, không di chuyển. Tất cả những cảm
nhận này là tứ đại, từ đó chúng ta tạo nên những tên và khái niệm.
[2] Sắc uẩn là những thành phần nhỏ nhất của vật chất từ đó tạo ra
những vật thể rắn. Những phần nhỏ nhứt này thường xuyên thay đổi.
[3] Chân lý tuyệt đối nằm trong Vi diệu pháp thì được tạo nên
do sự liên kết của năm uẩn. Thức là thức uẩn, hành gồm có thọ
tưởng và hành, trong khi đó sắc liên hệ với sắc uẩn. Chỉ có Níp-bàn
là vượt ra khỏi ngũ uẩn.
[4] Theo truyền thống những phần này được biết là những thực phẩm
nuôi sống và nhân duyên cho sự phát sanh tất cả vật có tri giác.
[5] Ðể giải thích sâu xa hơn về phần này, xin xem Chương về
Thiền sư Mogok Sayadaw.
[6] Ðiều này ám chỉ đến niềm tin mù quáng về linh hồn ở
bên ngoài như là điều cuối cùng nhất hoặc là sự tương phản cuối cùng
về sự hủy hoại toàn bộ tiến trình thân tâm lúc chết.
[7] Ðiều này nghĩa là ham muốn sanh tử luân hồi.