với Achaan
Jumnien tại chùa Wat Sukontawas,
tỉnh Surrathani, Thái Lan
Hỏi: Ngài hướng dẫn loại thiền nào ở đây?
Ðáp: Ở đây, ông sẽ nhận thấy nhiều người đang tu tập nhiều
loại thiền. Ðức Phật vạch ra hơn bốn mươi pháp thiền cho những
đệ tử của ngài. Chẳng có một ai có cùng một giai cấp, cũng không có
cùng một khả năng. Tôi không dạy chỉ một loại thiền mà nhiều loại,
chọn lựa loại thích hợp cho mỗi đệ tử. Một số ở đây đang tu
tập thiền quán hơi thở. Những người khác thực hành dựa trên việc
theo dõi những cảm xúc của cơ thể. Một vài người tu tập tâm từ. Ðối
với một số người, tôi hướng dẫn giai đoạn đầu thiền quán, trong lúc
những người khác những phương pháp thiền định và cuối cùng đưa họ
đến những bài tập thiền quán cao hơn cùng với tuệ giác.
Hỏi: Ngài nói có nhiều phương pháp tốt để tu tập. Thế thì
những vị thầy tuyên bố rằng phương pháp của họ là phương pháp chân
chính của Ðức Phật và những phương pháp khác không dẫn đến sự giác
ngộ là thế nào?
Ðáp: Toàn bộ phương pháp của Ðức phật có thể tóm gọn lại một
câu: Không (bám víu) chấp thủ bất cứ điều gì.
Thông thường ngay những người khôn ngoan sẽ vẫn chấp vào một phương pháp
mà họ tu tập. Họ vẫn chưa có thể hoàn toàn thoát khỏi phương
pháp và vị thầy của họ. Họ không hòa hợp với phần đông trong sự tu
tập của chúng tôi. Ðiều này không có nghĩa là họ không thể trở
thành những vị thầy tốt. Ông hãy cẩn thận đừng đánh giá họ hoặc chấp
thủ vào những ý tưởng của bản thân một vị thầy là phải như thế
này thế nọ. Trí tuệ là một điều gì đó mà chúng ta có
thể bám chặt. Ðơn giản là không chấp thủ sẽ giúp cho trí tuệ thông
suốt.
Tôi đã gặp may mắn. Tôi đã nắm vững được những phương pháp của các
vị thầy trước khi bắt đầu việc hướng dẫn. Có nhiều phương pháp
tốt.
Phương pháp nào thích hợp thì bạn nên hết lòng tu tập phương pháp
đó cùng với niềm tin và nghị lực. Sau đó chính bản thân sẽ chứng thực
được kết quả.
Hỏi: Ngài thường bắt tay vào việc hướng dẫn các thiền sinh của
mình trực tiếp với thiền Quán hoặc thiền Chỉ phải không?
Ðáp: Hầu như họ thường khởi sự với thiền Quán. Mặc dù đôi khi,
tôi dạy thiền Chỉ trước, nhất là họ đã có kinh nghiệm về
thiền hoặc nếu như tâm của họ có khuynh hướng dễ dàng với
thiền tập trung. Nhưng cuối cùng điều quan trọng nhứt là mọi
người sẽ quay lại với thiền quán.
Có một bài pháp trong kinh điển Pàli mà đức Phật đã bàn đến
việc này, trong lúc thu nhận một số cư sĩ tại gia, ngài trình bày một số
tính nết khác nhau của các vị sư đang ngồi dưới tàn cây trước mặt
ngài. Như thế chúng ta biết rằng từ thời đức Phật, các vị thầy có
thiên hướng để giúp mình chọn lựa phương pháp thích hợp cho những
người tu thiền.
Hỏi: Những yếu tố nào có liên quan trong việc chọn một
phương pháp thiền thích hợp?
Ðáp: Khi hướng dẫn một thiền sinh, tôi xem xét những việc tu tập
đã qua và khuynh hướng của người ấy. Tôi cũng xem xét thời gian và năng
lực một thiền sinh phải dốc lòng cho việc tu tập được bao nhiêu. Có
phải người ấy là cư sĩ sẽ tu tập được một giờ, một ngày, hoặc một vị
sư muốn công phu liên tục hai mươi bốn giờ liền? Tính khí. Có phải tính
khí một người hỗ trợ thêm cho việc tu tập? Ðề mục tâm từ đối
với một số người có tính nóng giận là một phương cách tốt để tu tập.
Ðề mục thiền về tâm xả, bố thí, thích hợp cho những ai quan tâm
đến những người xung quanh họ, thay vì tự chính bản thân mình phải tu
tập. Có nhiều yếu tố để người ta có thể chọn lựa một
phương pháp để tu thiền. Thực tế, thiền là một cách sống.
Ở đây chúng ta đang bàn luận về thiền như là những kĩ thuật
để dùng cho một cách sống sâu sắc hơn, nhưng chúng ta phải nhớ rằng
mọi điều trong cuộc sống đều có thể là thiền. Tính theo
như những kĩ thuật, nếu quý vị chọn bất cứ phương pháp thiền
nào của Phật giáo dẫn đến tuệ giác, và tu tập hết lòng, bạn
không thể nào sai lạc được.
Hỏi: Ngài có thể cho thêm một vài lời chỉ dẫn và làm thế nào
để điều khiển việc tu tập của chúng ta?
Ðáp: Việc tu tập cần phải được điều khiển để vượt trội
hơn những triền cái hoặc những sự chấp thủ. Nếu quý vị trung thực
với bản thân thì quý vị có thể dễ dàng chứng thực những điều
này. Ví dụ, nếu tính khí của bạn là một cá tính dẫn dắt quý vị
tới sự lãnh đạm, quý vị cần có sự nỗ lực phụ để nuôi dưỡng
tâm từ bi. Nếu tham ái là một vấn đề, hãy dùng sự suy niệm
về sự nhàm chán xác thân cho đến khi quý vị có thể nhìn thấy
bản chất thật của nó một cách rõ ràng hơn, xúi dục sự ham muốn của quý
vị. Nếu quý vị bị lừa dối và bị nhầm lẫn, hãy trao dồi sự thẩm xét
và sự khôn ngoan có liên quan đến kinh nghiệm của quý vị, hãy
nghiên cứu và theo dõi một cách rõ ràng để vượt qua khuynh hướng này.
Nhưng quý vị phải tu tập hết sức và tận tình, quý vị phải nỗ
lực theo con đường đã vạch ra với một sự ham muốn tột bực là tìm được
chân lý. Ngược lại nói một cách khác, việc tu tập của quý vị sẽ
bị trì trệ và trở thành giống như một thói quen. Chỉ có một cách là
chấm dứt tham, sân, si trong tâm của quý vị. Từng tí một, từng sát-na,
quý vị phải liên tục, kiên định đi theo con đường của quý vị. Gan
dạ đi thẳng vào những chấp thủ của quý vị và thực hành liên tục cho
tới khi đạt được đạo quả giải thoát. Ðó là tất cả.
Hỏi: Việc tu tập thiền một mình thì tốt hơn với một nhóm phải
không?
Ðáp: Có sự khác biệt. Trong trường hợp của những người tu thiền,
nếu họ năng nổ và nhiệt tình thì tốt hơn là để cho họ tu
tập một mình, và chỉ cần giám sát họ cẩn thận trong buổi đầu tu tập.
Ðối với những người không có nỗ lực hoặc không tự giác, hoặc đặc
biệt là không được quân bình và cần gần gũi một vị thầy, họ cần
phải tu tập trong một nhóm có được sự hướng dẫn. Với cách này, họ có
thể được giúp đỡ, được tạo sự phấn khởi và có thể dùng năng
lực của nhóm để củng cố thêm sự tu tập của họ. Ðối với những
thiền sinh có nhiều kinh nghiệm hơn, nếu họ nghiêm ngặt, tận
tâm, đơn độc và im lặng là điều tốt nhứt. Những thiền sinh này có
thể tự mình tu tập và con đường của họ không cần đến sự thúc
đẩy của vị thầy hoặc của nhóm. Với những người kém kỷ luật, thậm chí
thiếu kinh nghiệm, tốt hơn tập họp họ lại thành nhóm. Kỷ
luật và việc tu tập nghiêm khắc sẽ giúp họ vượt qua trở ngại của
nội tâm cho tới khi bản thân của họ thấy rõ giáo pháp chân chính. Sau
đó việc tu tập của họ tự đạt được kết quả hoặc trong nhóm,
không còn bị trở ngại.
Hỏi: Ngài thật sự có thường đề nghị tu tập thiền Quán tích
cực trong biệt lập không?
Ðáp: Ðúng vậy. Ðối với những người đã có sự chuẩn bị, sự tu tập
thiền quán tích cực thì rất hữu ích. Nếu nó được kết hợp cùng
với sự biệt lập, hành giả có thể phát huy được sự tập trung nhanh
cao độ và tuệ giác trong sạch. Thậm chí bây giờ, tôi có thể tự mình
từ bỏ tất cả trong một tháng, một năm với một bộ y, bát duy nhất sống một
mình trong rừng và tu tập tích cực. Hầu hết các thiền sinh ở đây
đều được khuyến khích tu tập như thế. Khi họ đạt được kinh
nghiệm, sau đó họ có thể tìm được sự quân bình cho mình, giữa
việc từ bỏ khóa tu tập tích cực và thay vào đó sẽ sống trong một cuộc
đời mang tính chất thiền hàng ngày.
Về công phu tu tập tích cực, trong một khóa tu tập lâu dài, các
thiền sinh của tôi thường tu tập thiền quán đơn giản, quán chiếu
sự thay đổi của thân và tâm. Trong các khóa ngắn hơn, họ sẽ tiến
hành các bài tập thiền định đặc biệt hoặc cố gắng quán niệm
một oai nghi nào đó. Dù thế, cuối cùng, họ cũng phải trở lại với
thiền quán và hạnh xả ly. Ðây là mục đích của Phật pháp.
Hỏi: Xin ngài vui lòng mô tả tiến trình tìm hiểu rốt ráo một
oai nghi.
Ðáp: Nổi lo sợ vì đau đớn hoặc sự chấp thủ của chúng ta đối với thân,
quấy rầy sự trong sạch và tuệ giác. Ðối với những đệ tử đã có
năng lực và định hướng, tôi đề nghị họ tu tập thiền quán, tập
trung về sự chuyển dịch của các cảm thọ trong thân. Việc này
được thực hiện trong lúc giữ vững duy nhất một oai nghi - ngồi, đứng,
nằm hoặc đi trong một khoảng thời gian dài. Khi hành giả chú tâm đến bất
cứ oai nghi nào, theo dõi thân, sự đau đớn gia tăng, khi hành giả tiếp
tục giữ yên một chỗ, sự đau đớn tiếp tục gia tăng và hành giả tập
trung trực tiếp trên những cảm giác này. Sự đau đớn của thân là một
đề mục chính xác để tâm tập trung vào. Cuối cùng tâm ghi nhận sự
đau không phải đau nhưng là một cảm thọ rõ ràng ham muốn hoặc cũng
không ham muốn, sanh và diệt trong thân. Thông thường những hành giả sẽ
ngồi hoặc đứng mỗi ngày trong một tư thế. Ngay khi chúng ta ngừng di
chuyển, sự đau đớn vẫn còn nằm trong thân của chúng ta. Ðôi lúc sự đau
đớn kéo dài bốn hoặc năm giờ, đôi lúc tám giờ hoặc nhiều giờ hơn nữa
rồi sẽ biến mất trước khi hành giả vượt qua sự chấp thủ đối với sự
đau đớn của thân xác. Sau đó không cần để di chuyển hoặc thay đổi
tư thế. Tâm trở nên hết sức trong sạch, tập trung, và có thể
thích nghi. Một nguồn vui lớn lao và hỉ lạc đi kèm cùng sự đột phá này.
Hành giả thấy rõ ràng với sự xả bỏ, sự sanh diệt của các hiện
tượng thân tâm. Với sự ham muốn về thân không bị xao động và sự tập
trung cao độ phát triển, tuệ giác phát sinh.
Sự đột phá một oai nghi là một trong nhiều phương pháp tu tập chúng
tôi sử dụng ở đây. Nó chỉ được áp dụng cho những thiền sinh nhiệt
tình và có sự giám sát.
Hỏi: Nhiều vị thiền sư của thiền quán nhấn mạnh về sự
khởi đầu về một khía cạnh đặc biệt của sự nhận thức, chẳng hạn
như sự cảm thọ, tình cảm hoặc sự nhận biết. Liệu chánh niệm
có thể được phát huy trên bất cứ khía cạnh của những phần này, sẽ dẫn
tới cùng một nơi, một tâm chánh niệm sâu sắc, hoàn toàn?
Ðáp: Lẽ dĩ nhiên. Ở mỗi sát-na, mỗi cảm nhận phản ánh toàn
bộ giáo pháp. Ðiều này có nghĩa là bất cứ khía cạnh nào của thân hoặc
tâm chúng ta theo dõi có thể dẫn đến sự tập trung cao độ và hiểu
được chúng ta là ai. Khi có nhận thức tổng thể chúng ta là ai, chúng ta
cũng sẽ nhận biết như thế nào về toàn thể vũ trụ... đều
có cùng những đặc tính. Chúng ta sẽ thấy được sự vô thường, sự thay đổi
của toàn bộ sự cảm nhận, chúng ta sẽ thấy sự bấp bênh ở mọi trạng
thái, và quan trọng nhất là chúng ta sẽ nhận ra sự vô ngã của vạn vật.
Người ta có thể hành thiền trên bất cứ phần nào với sự cảm nhận
trực tiếp của chúng ta, hình ảnh, âm thanh, vị, hương, cảm thọ, ý
nghĩ, hoặc những yếu tố của tâm. Việc tập trung vào bất cứ một trong
những phạm vi này là một phương pháp tốt để làm cho sự tập trung và
tuệ giác càng sâu sắc. Nhưng ở một số điểm, tâm trở nên trong sạch
và quân bình mà bất cứ điều gì phát sinh đều được hành giả nhận
thấy mà không bị ảnh hưởng. Hành giả dừng lại để tập trung đến
bất cứ điều gì đặc biệt và tất cả đều được hành giả nhận
thức đơn thuần là thân tâm, một tiến trình sanh diệt trống rỗng
của chính nó, hoặc thấy nó chỉ là những sự rung động hoặc năng lượng, một
sự cảm nhận rỗng không. Bằng một cái tâm quân bình trọn vẹn không
có những phản ứng như vậy, chúng ta tìm được sự giải thoát chân chánh,
vượt qua phiền não, không còn cái ngã. Không còn hành động và thậm chí
không còn cảm giác của sự biết, đơn thuần chỉ là một vũ trụ trống
rỗng, như bản chất của nó.
Hỏi: Có phương pháp nào dùng để suy niệm về sự suy nghĩ,
sử dụng tư tưởng trong thiền không?
Ðáp: Ðầu tiên khi chúng ta bắt đầu tu tập, chúng ta bắt đầu nhận thức
bản chất tiến trình tư tưởng bình thường của chúng ta. Một dòng ý
tưởng vô tận, nhiều điều kỳ dị, những nuối tiếc, những kế
hoạch, những sự phán xét, lo sợ, ham muốn, bình phẩm, lo lắng... sự việc
có thể hữu ích, đặc biệt ở những giai đoạn đầu thiền định,
để thực hành với sự nghĩ, để hướng dẫn tâm suy nghĩ vào việc
tu tập của chúng ta. Những điều này có nghĩa là tu tập những ý
tưởng có liên hệ với giáo pháp, chẳng hạn phản ánh về tứ đại. Suy
niệm về tất cả những gì chúng ta biết đã liên tục thay đổi hình
dạng ra sao, mà thế giới của chúng ta chỉ đơn thuần là một vở kịch
về sự thay đổi các yếu tố. Chúng ta cũng có thể điều
khiển sự nghĩ để suy niệm về tam tướng ở mọi tình huống
trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta có thể suy nghĩ về
cuộc sống và suy niệm cái chết như là một phương pháp để
hiểu được sự cảm nhận của chúng ta về những từ ngữ của giáo pháp.
Toàn bộ điều này là sự tu tập chánh kiến. Từ những cuốn sách và
những lời dạy, chúng ta đi đến ý tưởng trực tiếp của chính
chúng ta, và sự xem xét, và cuối cùng thiền định với một sự hiểu
biết sâu sắc vắng lặng trong tâm của chúng ta.
Hỏi: Sự thảo luận về giáo pháp có giá trị nào cho sự tu tập
không?
Ðáp: Nếu tâm tập trung và vắng lặng sau đó tuệ giác có thể
phát triển khi chúng ta nghe được giáo pháp từ những người thông thái
thuyết giảng. Ðương nhiên, nếu quý vị phải thảo luận, việc
thuyết giảng về giáo pháp là sự đàm đạo thích hợp nhất. Tuy thế
cuộc thảo luận thường thái quá làm mất đi sự trong sạch của chúng ta. Chỉ
khi tâm yên lặng chúng ta mới có thể nghe pháp trong một tính cách thật
sự trong sạch, với bản thân của chúng ta và ở cùng với những người khác có
sự hiểu biết. Ðối với hầu hết mọi người, tâm đã chứa đầy
những lời nói và các ý tưởng và sự tu tập tốt nhất là trao dồi sự tập
trung và sự vắng lặng.
Hỏi: Có sự liên quan với nhiều phương pháp tu tập ở đây, ngài
đề nghị các đệ tử về việc ăn uống như thế nào?
Ðáp: Phân lượng thức ăn không đặt thành vấn đề. Nó cần đủ
để duy trì sức khỏe của thân. Ðiều quan trọng là thực phẩm
được dùng như thế nào. Thông thường chúng ta có nhiều sự ham muốn
mạnh mẽ đi kèm với việc ăn. Thiền định là một cách để vượt
qua sự ham muốn. Chúng ta cần phải chuẩn bị và ăn thức ăn với sự chú ý
cẩn thận đến tiến trình liên hệ. Một số hình thức về
thiền trong lúc ăn gồm có quán tất cả thực phẩm và những chất chung quanh
ta có liên quan đến tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Sau đó quý vị
có thể cảm nhận sự trôi chảy của tứ đại trong và ngoài thân chúng ta.
Hoặc nói khác đi, quý vị có thể nhận thức sự tiếp xúc khi
quý vị ăn. Cái cảm giác về sự cảm thọ thức ăn trên tay và
miệng của quý vị, sự xúc chạm mùi hương ở mũi, sự xúc chạm bàn tay
của quý vị trên bát. Hãy tập trung sâu sắc về sự tiếp xúc, cảm
giác sự xúc chạm trong toàn bộ tiến trình ăn, và quý vị sẽ vượt qua
sự ham muốn. Nếu sự ham muốn của quý vị đặc biệt mạnh mẽ,
quý vị có thể thiền về những khía cạnh ghê tởm thức ăn trong
lúc chuẩn bị nó, tiêu hóa, bài tiết hoặc hành thiền về sự thay
đổi liên tục ở thức ăn từ nông trại cho đến trong dạ dày của mình.
Sự nhận thức về toàn bộ tiến trình nhận và ăn thức ăn sẽ rất rõ
ràng đơn giản. Theo dõi tâm khi sự biết thay đổi, sự ham muốn đi và
đến, chuẩn bị để ăn, nhai, nếm... bất cứ điều gì trở thành
sự biết, hãy theo dõi tiến trình đó. Thiền trong lúc ăn đều
sẽ giúp quý vị vượt qua sự ham muốn, mang lại sự trong sạch và tử bỏ
được ham muốn.
Hỏi: Hatha yoga và những phương pháp tu tập về thân là thế nào?
Ðáp: Những phần này rất hữu ích để giữ cơ thể khỏe mạnh, nhưng
những việc tu tập như thế không phải là vấn đề mấu chốt đối
với việc tu tập của chúng ta, khi việc hành thiền đạt được
tiến bộ, cơ thể chúng ta tự động trở nên quân bình. Sự tập trung
được gia tăng cũng như chánh niệm tự động dẫn đến tư thế tốt
hơn và nguồn năng lực lưu thông thoải mái trong cơ thể. Khi việc hành
thiền của quý vị sâu sắc hơn, quý vị sẽ cảm thấy thân thể
nhẹ nhàng hơn, quân bình hơn, đầy năng lực hơn. Quý vị không cần bận
tâm về vấn đề này hoặc thêm nó vào danh sách ham muốn của mình. Tự
nó sẽ đến.
Bản thân tôi chưa từng tu tập Hatha yoga hoặc bất cứ phương pháp nào
giống như nó, tuy thế bây giờ tôi nhận thấy ngủ không quá ba giờ đồng
hồ là đủ rồi. Tôi luôn luôn cảm thấy thân thể nhẹ nhàng và đầy năng
lực. Tôi có thể đi qua những vùng rừng núi trong nhiều ngày không ăn,
không nghỉ, mà không cảm thấy đau ốm -- tất cả đều do việc giữ tâm
nghiêm nhặt trong thiền định. Chắc chắn là phải bảo vệ thân thể,
nhưng không cần cảm nhận những sự đạt được của thân là nền tảng cần
thiết cho việc tu tập của chúng ta.
Hỏi: Về giới đức là căn bản ra sao trong việc tu tập của chúng
ta?
Ðáp: Hoàn toàn không thể tránh được. Có ba mức độ quan trọng
của giới đức. Trước tiên là sự kềm chế không làm những hành động
vô bổ, giữ các giới luật cơ bản. Thứ hai là sự chế ngự các giác quan,
hướng các căn vào việc tu tập và tránh xa mọi tham muốn. Thứ ba là
giới nội tâm vượt xa bất cứ những giới luật nào, nó đạt được từ một
tâm vắng lặng và trong sạch. Ở phần này, trí tuệ phát sinh có liên
quan đến sáu căn và từng sát-na của sự sống, phải chánh niệm đoạn
trừ cái ngã. Tất cả chúng ta phải bắt đầu tu tập hai loại giới đức đầu,
và khi tâm của chúng ta trong sạch và vắng lặng sau đó giới đức nội tâm sẽ
đến. Nó phát sinh hòa hợp với thân tâm, đoạn trừ được tham muốn và
từ sự hiểu biết sâu sắc về sự rỗng không (vô ngã) của
thế gian.
Hỏi: Ngài đề nghị thời gian bao lâu cho người nội trợ và cư sĩ tu
tập thiền?
Ðáp: Ðối với người vẫn còn nghi ngờ và còn yếu kém trong việc tu
tập, thỉnh thoảng họ nên thiền định một giờ đồng hồ bất cứ khi nào
họ thích, không bắt buộc, tuy thế vẫn tiếp tục đủ để nhận
thấy được lợi ích mang lại cho họ. Ðối với những người đã thấy rõ
ràng kết quả của việc tu tập, nên tham thiền càng nhiều càng
tốt trong ngày làm việc của họ, để một giờ trong yên lặng mỗi
buổi sáng hoặc tối. Ðối với những người hiểu được bản chất tu tập,
dù sống trong thế gian cũng không bị triền cái (trở ngại) và họ
có thể trao dồi chánh niệm và sự trong sạch ở mọi lúc. Họ
hiểu rõ tất cả tình huống những lời dạy là thế nào và thiền
định đích thật không tách rời cuộc sống nhưng lại bồi bổ sự vắng lặng
nội tâm và trí tuệ ở mọi hoàn cảnh. Và rồi sự tu tập giáo pháp của
người đó không còn bị lệ thuộc thời gian hoặc hoàn cảnh.
Hỏi: Tôi đã từng nghe nhiều câu chuyện mâu thuẫn về những
trạng thái An chỉ định (thiền-na, jhana). Một số người cho rằng hầu
hết không một ai có thể đạt những trạng thái đó hiện nay. Một
số người nói rằng chúng cần thiết để đạt được cho việc
tiếp cận vào Níp-bàn. Những người khác tuyên bố rằng bây giờ chúng làm
trở ngại tuệ giác. Ðiều nào đúng?
Ðáp: Hiện nay vẫn còn có người đạt được thiền duyên. Tuy
thế nó không cần thiết cho sự tiếp cận với Níp-bàn, tu tập an chỉ
định là con đường tốt nhất cho một số người. Người khác cũng có thể
đạt được Níp-bàn bằng cách tu tập thiền quán không cần đến an chỉ
định. Những đệ tử của tôi tu tập cả hai phương pháp.
Những người tu tập thiền định dùng hơi thở hoặc quán tưởng một
biến xứ (kasina) cho tới khi họ đạt được an chỉ định. Sau đó họ
chuyển hướng qua thiền quán khi đã vượt qua khỏi giai đoạn an chỉ
định. Ðôi khi tôi cùng với họ tham thiền, lưu lại cùng một mức độ
với họ để theo dõi việc tu tập của họ. Nếu một người có
thể đạt được an chỉ định cũng như tuệ giác, có thêm những lợi
ích phụ. Trong kinh điển có nhiều sự việc đề cập một số
đệ tử giác ngộ của đức Phật đã nhập an chỉ định. Họ đạt được
những lợi ích rõ ràng từ phương pháp tu tập này, ngay cả khi họ đã
giác ngộ hoàn toàn. Vì thế đối với chúng ta, sức mạnh của tâm cũng là
những kết quả để đạt được an chỉ định thì cũng rất hữu ích
để trợ giúp cho tâm xả, thân thể khỏe mạnh, và thể nhập vào
giáo pháp.
Hỏi: Với sự thể nhập đầy đủ vào giáo pháp, một người cảm nhận
được sự an lạc Níp-bàn chỉ một lần cho mỗi giai đoạn trước khi giác
ngộ hoàn toàn, ở những tầng thánh dự lưu, nhất lai, bất lai, và sự giải
thoát tối cao không?
(Lưu ý: Ðây là bốn tầng thánh giác ngộ theo kinh điển Phật giáo
nguyên thủy. Chúng sẽ được diễn giải sâu hơn trong tiến trình đoạn trừ
kiết sử được liệt kê ở dưới).
Ðáp: Người ta có nhắc lại sự cảm nhận về việc thể nhập
Níp-bàn mà không cần phải đoạn trừ thêm những kiết sử này. Mười
kiết sử buộc chúng ta vào vòng tái sinh là:
1. Thân kiến
2. Hoài nghi
3. Giới cấm thủ
4. Tham dục
5. Sân hận
6. Ái sắc
7. Ái vô sắc
8. Ngã mạn
9. Trạo cử
10.Vô minh
Người nhập dòng Dự lưu đoạn trừ được ba kiết sử đầu cùng với sự
thể nhập đầu tiên của mình vào trong giáo pháp. Người Nhất lai làm
yếu đi những kiết sử còn lại, trong lúc đó người Bất lai đoạn trừ
tất cả ngoại trừ năm phần cuối. A-la-hán, người thoát khỏi hoàn toàn
phiền não, không còn tái sinh, đoạn trừ tất cả kiết sử.
Hỏi: Các tỉnh chung quanh chùa của ngài đã bị hệ lụy sâu sắc vào
cuộc chiến giữa quân chính phủ và quân nổi dậy ở vùng Ðông Nam Á. Ngài
có nhận ra vai trò đối với một nhà sư hoặc những thiền sư như ngài ở
trong cuộc chiến này?
Ðáp: Một tính cách mà giáo pháp của đức Phật được tồn tại hơn 2500
năm là các nhà sư không tham gia vào các phe phái chính trị. Giáo pháp cao
hơn cả chính trị. Nhà chùa của chúng tôi là nơi nương náu tránh xa trận
địa, cũng như giáo pháp là nơi nương nhờ để tránh xa tham ái. Tôi chia
sẻ giáo pháp đồng đều cho tất cả mọi người tìm đến, và khi
tôi đi ra ngoài, tôi dạy cho tất cả mọi người đến hỏi. Ở vùng
rừng núi tôi đã thuyết giảng giáo pháp cho quân du kích và ở thành phố
tôi dạy cho quân chính phủ - chỉ sau khi hai bên buông súng. An lạc và hạnh
phúc chân chính sẽ không đến từ sự đổi thay trong trật tự xã hội. Cả
hai bên ở trong những cuộc đấu sức này có thể có những lời kêu ca hợp
lý, nhưng sự an lạc của nội tâm một người chỉ có thể đạt được
qua giáo pháp. Ðối với những nhà sư, các cư sĩ đều như nhau, đạt
được sự an toàn từ giáo pháp, từ tuệ giác họ thấy được sự vô
thường của tất cả vạn pháp.
Hỏi: Chúng ta có cần một vị thầy để hướng dẫn tu tập hoặc có
thể tự mình thực hiện?
Ðáp: Nếu như một người đã đọc nhiều và nghe giáo pháp
đúng, tốt đẹp, họ có thể tự mình tu tập mà không cần đến sự
hướng dẫn xa hơn. Tuy thế, thậm chí với những người với sự hiểu
biết hết sức thông suốt, họ cũng có thể dễ dàng bị trở ngại
hoặc bị đánh lừa bởi những vi tế của tâm. Tôi luôn luôn đề nghị
một cách kiên định là sự tu tập cần được thực hiện dưới sự hướng
dẫn của một vị thầy người có một sự hiểu biết rõ ràng phương cách
và những khó khăn bất ngờ của nó. Nó cũng hữu ích để trở thành một
phần tử của một cộng đồng giáo pháp, ở đó những người bạn quan tâm
về tinh thần có thể hỗ trợ lẫn nhau. Những ham muốn và bợn nhơ
đã lôi kéo và khống chế đời sống của chúng ta. Sự hỗ trợ và
hướng dẫn của một vị thầy giúp chúng ta khám phá bản chất thật của các
pháp.
Hỏi: Có những mục đích rất thanh cao khi đến chùa để tu tập
là điều quan trọng phải không?
Ðáp: Có nhiều nguyên nhân đưa con người đến với giáo pháp. Ðôi
lúc chúng ta có thể nhìn thấy chúng, đôi lúc không. Có thể có những
ham muốn xấu xa đưa quý vị tới nghe giáo pháp hoặc hành thiền và rồi
quý vị cũng vẫn gặt hái những kết quả tốt đẹp. Có những ni sư ở
đây đã kể cho tôi rằng, một phần lý do chính của họ đi đến
là họ nhận thấy tôi hoặc một trong những vị thầy phụ tá của tôi đặc
biệt đẹp trai hoặc thu hút. Tuy thế sau khi ở đây họ từ bỏ lý
do ban đầu đó và bây giờ họ là những hành giả tuyệt vời và
thiền sinh nghiêm túc của giáo pháp. Ðối với bạn là một người thực
hành thì điều gì quan trọng ngay lúc này là bạn phải gắng nhận thức
rằng không có điều gì khác đưa bạn với giáo pháp, mà do bởi tâm, sự
ước ao, và những mục đích của bạn ngay giây phút hiện tiền. Chánh
niệm và sự tu tập thiền quán (tuệ giác) có năng lực dứt bỏ hoàn
toàn nghiệp quá khứ. Ngay cái giây phút chúng ta thật sự có chánh
niệm và nhận thức chúng ta đã đoạn trừ được ham muốn và ngừng tạo
nghiệp mới. Một số nhân cũ của chúng ta sẽ tạo quả, nhưng với tâm chánh
niệm có thể giúp ta phá bỏ xiềng xích của nghiệp quá khứ.
Hỏi: Ngài thường liên kết ba từ: giáo pháp, bản chất và sự bình
thường. Ngài có thể giải thích về điều này?
Ðáp: Tất cả ba từ này đều cùng một cơ bản. Bản chất của nó được
phô bày một cách tự nhiên. Sự bình thường là sự việc xảy ra mà không
có sự trở ngại. Và giáo pháp là chân lý của vạn pháp. Giáo pháp hướng
dẫn tâm trở về với những gì tự nhiên, trở về bản chất thật của
chúng ta. Sau đó chúng ta nhận ra tất cả mọi vật là như thế - chẳng
có gì đặc biệt, bình thường, và quen thuộc với cảm giác sâu kín nhất.
Như vậy giáo pháp mang chúng ta trở về với bản chất và chân lý - sự
thật trong sự bình thường. Nhận thức về bản chất đời sống của chúng ta
rõ ràng hơn, mang lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc hơn
về giáo pháp. Vòng tròn này diễn tiến liên tục cho tới khi thân và
tâm là cùng một bản chất. Cho tới khi tất cả các khía cạnh của đời sống
chúng ta trở nên rõ ràng, đơn giản như giáo pháp mở ra, phơi bày ra.
Hỏi: Những điều gì mà ngài vẫn còn cho đó là một vấn đề
đối với bản thân trong việc tu tập của mình?
Ðáp: Khi bắt đầu dạy giáo pháp tôi đã hết sức quan tâm làm cách
nào để các thiền sinh của tôi thực hành tốt. Tôi muốn họ
hiểu được giáo pháp và nhanh chóng đạt lợi ích từ việc tu tập
thiền. Tương tự, tôi quan tâm về kỷ luật tổng quát cho chùa của
tôi. Ðiều này rất quan trọng vì nó tạo cái nhìn tốt đối với sự
trợ giúp cúng dường của người tại gia, cho nên mọi người tu tập
thiền nghiêm túc. Tôi cảm thấy rằng tôi phải giám sát tất cả mọi sự
việc. Bây giờ hầu như tôi đã hoàn toàn xả bỏ điều đó. Nhà chùa
đã tiến bộ tốt đẹp. Những đệ tử của tôi học hành có kết
quả ở mức độ tự nhiên và phù hợp nhất đối với họ. Tôi đã giáo dục
mọi thiền sinh trong một môi trường thích hợp. Tôi vẫn còn một số
vướng mắc trong vấn đề là, từ khi còn nhỏ tuổi tôi đã tu tập tâm từ.
Ðiều này vẫn còn là một năng lực mạnh mẽ trong cuộc sống của tôi và
tôi bị dính mắc với nó về việc giúp đỡ mọi người. Tôi muốn
họ đạt được lợi ích nhanh chóng từ giáo pháp, từ việc hành
thiền. Tôi muốn họ nhận thức được sự đoạn trừ khổ đau. Bây giờ,
với sự tu tập cho chính bản thân, tôi đang cố gắng chuyển lòng thương
và sự chấp thủ này sang một tình thương vi tế hơn nhiều và hỉ xả.
Ðiều quan trọng phải biết rằng mọi người phải có bổn phận
đối với sự tăng tiến của họ trong giáo pháp. Nó là một tiến
trình tự nhiên. Lời dạy của đức Phật là một chất xúc tác cho sự phát
triển tự nhiên của trí tuệ. Bây giờ nó tùy thuộc vào bạn.
Cầu xin cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc. Cầu xin cho tất cả chúng
sinh đoạn trừ được khổ đau.