BuddhaSasana Home Page Tìm hiểu Ðạo
Phật Chương
15 Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng
của người tu Phật. Người tu vì sợ sự thống khổ bởi phiền não gây ra.
Nên chi quí Ngài hành để đến Niết Bàn là nơi không còn
Phiền não, hay để diệt trừ tàn tuyệt, hoặc giụi tắt hẳn
được ngọn lửa Tham Lam, Sân Hận và Si mê. Vì Niết Bàn là mục tiêu chính yếu của Phật
giáo, nên thật khó hiểu được. Tôi (soạn giả) không dám nói rằng đoạn
sách ngắn như thế này có thể giải thích rõ được ý nghĩa của
Niết Bàn hầu chư độc giả, nhưng tôi xin cố gắng hết sức mình
để giải thích, xin trích trong nhiều đoạn kinh khác nhau, trong Tam tạng
và trong bộ Mi-lan-đà, vấn nạn Ðại đức Na-tiên Tỳ kheo. Mong rằng đem lại
phần nào hữu ích cho quí vị và xin hứa rằng: nếu thời giờ cho phép, tôi
sẽ ráng tìm hiểu thêm và sẽ cống hiến quí vị trong những quyển
sách kế tiếp theo. Niết Bàn là danh từ trừu tượng, khó cho người
thông hiểu được dễ dàng, mà cũng khó cho vị Pháp sư hay vị Trí thức
nào có thể giảng giải được rõ rệt. Mặc dầu vị Ðại trí tuệ
thuở xưa nổi danh là vị thông hiểu Tam-tạng nhứt là Ðại-đức Na-tiên
Tỳ-kheo, cũng vẫn công nhận là khó diễn tả được. Vì Niết Bàn là nơi
Tuyệt đối. Mà vạn vật trên thế gian này đều là vật tương đối
nên không thể đem lại để so sánh thí dụ cho dễ hiểu được. Hơn
nữa Niết Bàn cần phải hiểu rằng tuệ giác chứ không phải thấy
bằng tâm thức được. Cũng như người nằm mộng, không thể chỉ giấc mộng
của mình cho ai thấy được, hay là người đang nằm gần, ngồi gần mình, đang
canh chừng mình cũng không thấy người đang nằm mộng thấy những gì. Vì vậy
nên Ðức Thế Tôn gọi là tự đắc và tự mình thấy mà thôi. Có
thể nói chúng sanh là người bịnh, và các pháp như Trì-giới Tham
thiền Trí-tuệ, hay Bát chánh đạo là thuốc. Khi người uống thuốc
trúng căn bịnh, đã mạnh thì người ấy biết mình mạnh và chỉ có người
bịnh ấy mới biết rằng khi bịnh khổ chừng nào, mà khi mạnh cảm thấy trong
mình như thế nào. Sự thơ thới không bịnh ấy chính là Niết Bàn.
Người bịnh ví như hành giả trong cái khổ của thân này do Phiền não.
Bịnh này phải trị bằng Bát-chánh-đạo, khi hành đứng đắn thì căn bịnh
càng thuyên giảm; khi căn bịnh là phiền não thuyên giảm bớt đi, đến
dứt hẳn bịnh thì chỉ có hành giả biết mà thôi, chớ không ai biết,
Cũng như người bịnh vậy, khi mạnh thì chỉ có người bịnh mới hiểu
được mình. Vì lý do ấy, nên Niết Bàn khó mà diễn tả bằng lời
được. Chỉ có thể nói nơi ấy là nơi an vui tuyệt đối mà thôi. Muốn dễ hiểu nơi đây tôi xin giải sơ lược về
tiếng Niết Bàn. Niết Bàn cũng có nhiều tên khác nhau là:
Vimutti, là giải thoát. Nirodha nghĩa là Dụi tắt (phiền não). Nirvana là
Bắc phạn. Nibbãna Niết Bàn là nam phạn. Mặc dầu có nhiều tên chung qui
cũng có một ý nghĩa là Dụi Tắt Phiền Não, Không Còn Khổ. Tiếng Niết Bàn vẫn còn là tiếng Phạn nên
chúng ta khó hiểu rõ rệt được. Tiếng Niết Bàn âm từ
tiếng Nam phạn Nibbãna, hay Bắc phạn là Nirvana. Xin chiết tự tiếng Nibbãna để quí vị có
thể hiểu. Nibbãna chia ra làm hai phần là: Ni và Vãna. Ni có nghĩa là
ra, Vana nghĩa là rừng. Muốn cho dễ đọc, Phạn ngữ đổi chữ Vana thành
Bãna, khi chữ B đứng sau Ni có quyền thêm vào một chữ B nữa nên khi nối
lại Nibbana có nghĩa là "Ra Khỏi Rừng". Rừng đây ý nói Rừng Phiền Não. Phàm người ở
trong rừng thì có rất nhiều tai nạn nguy hiểm như thú dữ, nước độc
và phi nhơn, ngoài ra rất khó mà ra khỏi rừng được, thật dễ lạc mất lối
đi. Ðây là rừng thường, còn cái rừng phiền não trong lòng ta, thì càng
âm u, và nhiều cạm bẫy cùng các giống thú dữ. Cái rừng ấy là Samyojana,
ta dịch là Mười Kiết sử, nói cho dễ nghe là mười điều trói buộc
chúng sanh, không cho giải thoát. Người lạc trong rừng thường có thể ra
được, nhưng đối với rừng phiền não thì rất khó mà ra được. Vì vậy nên Niết Bàn có nghĩa là người ra khỏi
phiền não ở trong thâm tâm. Niết Bàn cũng còn có nghĩa là Dụi tắt. Ý nói
phiền não là một thứ lửa vô hình mà rất nóng, hằng thiêu đốt chúng
sanh nên chúng sanh, sanh trong hoàn cảnh nào, trường hợp nào cũng không khỏi
khổ. Dầu chúng sanh có cố gắng tìm sự an vui cho mình cũng chẳng hoàn toàn an
vui được. Nên chi chư Thinh văn đệ tử Phật hằng ráng cố sức mình dụi
tắt lửa phiền não bên trong, khi dụi tắt được là đã đắc Niết Bàn,
có nghĩa là dụi tắt được Khổ. Giải đến đây tưởng cũng nên nhắc lại câu Phật
ngôn trong Tạng Kinh, Bộ Itivuttaka đoạn Dutĩyavagga. Bài kinh Sattamasutta dạy: Idha Bhikkhave Bhikkhu Araham Hoti Pkhĩnasavo Vusitava
Katakaraniyo Ohitabhabo Anuppattasadattho Parikhinabhavasamyojano Sammadanna Vimutto. Nghĩa: Này các thầy Tỳ-khưu, trong kiếp hiện
tại này vị Tỳ-khưu nào đã xa lìa phiền não, hết những phiền
não, ngủ ngầm trong tâm, đã hành tròn phạm hạnh, làm xong nhiệm vụ,
để gánh nặng xuống, diệt tận kiết sử pháp, tạo điều lợi ích
cho mình, đã giác ngộ và giải thoát. Song nếu còn thân ngủ uẩn này
gọi là Hữu Dư Niết Bàn. Ý nói: Chư A-la-hán đã hoàn toàn giải
thoát nhưng còn mang thân ngũ uẩn này vì chưa hết tuổi thọ của
kiếp sống. Các Ngài vẫn sống như người thường, đây là còn dư sót
thân nhưng không còn phiền não. Khi các Ngài sống hết tuổi thọ xong, nhập
diệt gọi là Vô Dư Niết Bàn. Trong câu Phật dạy, có đoạn nói: "bỏ gánh nặng
xuống". Có nghĩa là bỏ ba điều rất là nặng nề, thường do nơi ba
điều ấy mà chúng sanh bị chìm trong biển khổ mãi. Ðó là: 1. Khandahbhãra, Gánh nặng ngũ uẩn. Có đoạn nói Diệt trừ tận Kiết sử, là mười
điều tiếng Phạn gọi là Samyojana, nghĩa là những sợi dây trói
buộc người lại trong biển trầm luân. Niết Bàn là nơi yên tĩnh tuyệt đối, không
thể giải bằng lời ví dụ, bằng sự vật thực. Nhưng Niết Bàn có ba
đặc điểm khác thường là: 1. Trạng thái: Niết Bàn có sự hoàn toàn an tịnh là
trạng thái. Sở dĩ mà người không thấu đáo hay đoạt được quả
vị thanh cao là Niết Bàn bởi người ấy còn chứa đựng Phiền não là
Tham Lam, Sân hận và Si mê Tà-kiến v.v... tạo ra nhiều nghiệp
chướng Thiện hay Ác nên vẫn còn phải Luân hồi. Tóm lại khi người dụi tắt được ohiền não ngủ
ngầm trong tâm mình là người đắc được Niết Bàn. Nhân tiện đây
tôi xin nhắc lại một đoạn trong bài kinh Aggivacchasutta trong Tạng kinh, bộ
Majjhimanikãya đoạn Majjhimapannãsaka: Ðức-Thế-Tôn có thuyết cho ông Bà-la-môn
đến vấn nạn Ngài như vầy: Thầy Bà-La-Môn Aggivaccha hỏi Ðức-Thế-Tôn rằng: Vị
Tỳ-Khư đã có tâm hoàn toàn giải thoát rồi, sẽ sanh vào đâu? - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, không nên dùng tiếng
sẽ sanh ấy.\ - Bạch Ngài Cồ-đàm, nếu vậy thì không có sanh sao? - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, tiếng nói không sanh
cũng chẳng nên dùng đối với các vị ấy. - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, nếu vậy thì sanh cũng có,
không sanh cũng có? - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, tiếng nói sanh cũng có,
không sanh cũng có, cũng chẳng nên dùng. - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, nếu vậy thì sanh cũng không
phải, mà không sanh cũng không phải? - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, tiếng nói sanh cũng
không phải, mà không sanh cũng không phải thì cũng chẳng nên dùng. - Bạch Ngài như tôi đã hỏi Ngài rằng: Tâm thầy
Tỳ-khưu hoàn toàn giải thoát rồi sẽ sanh vào đâu? Ngài dạy: này thầy
Bà-la-môn Vaccha, không nên dùng tiếng sẽ sanh ấy v.v.. Bạch Ngài, thật
tôi không hiểu biết điều này được. Tôi đã đi đến nơi tối
mê rồi. Sự trong sạch của tôi từ trước đến nay cũng tiêu mất rồi. - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, sự thật thì thầy không
hiểu, thầy sẽ tối mê, vì pháp này là pháp cao siêu vô tận khó cho phàm
nhơn thấy và hiểu, pháp này thật là yên tịnh, vi tế, không phải pháp
để cho người thông hiểu được, vì phải suy gẫm rất là vi tế,
chỉ có bực có rất đầy đủ duyên lành trí tuệ mới thấy và hiểu
được. Pháp này có sự hiểu biết khác nhau của nhiều vị Giáo chủ.
Vậy thì Như Lai hỏi lại thầy, thầy hiểu câu hỏi của Như Lai thế nào
thì đáp lại như thế ấy. Này thầy, Bà-la-môn Vaccha, nếu lửa đang
cháy sáng trước mặt thầy thầy có thể thấy biết rằng: lửa đang cháy
trước mặt thầy, phải chăng? - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, nếu lửa đang cháy trước mặt
tôi, thì tôi sẽ biết lửa ấy đang cháy trước mặt tôi. - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, nếu ai có hỏi thầy như
vầy: Lửa đang cháy trước mặt thầy đây, vậy do nhờ nơi một lý do nào
mới cháy được. Nếu bị hỏi vậy thì thầy phải trả lời thế nào? - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, nếu có người hỏi tôi: Lửa
cháy trước mặt tôi do nơi lý do nào? Tôi sẽ đáp: Lửa cháy trước mặt
tôi là do nơi bổi là cỏ và cây. - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, nếu lửa trước mặt
thầy lại tắt đi, thì thầy có biết rằng: Lửa trước mặt thầy đã tắt
rồi không? - Bạch Ngài, biết, nếu lửa trước mặt tôi tắt,
tôi biết lửa ấy đã tắt? - Này thầy Bà-la-môn Vaccha, nếu có ai hỏi thầy
rằng: Lửa trước mặt thầy đã tắt đi ấy, lửa đó đi về đâu, về
hướng Ðông, hay Nam, hoặc là Tây hay là Bắc. Nếu thầy bị hỏi vậy thì
thầy phải trả lời cách nào? - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, điều này không thể trả
lời được. Vì lửa ấy do nơi bổi là cỏ và cây nên mới cháy được, nhưng
khi bổi ấy đã không còn, và lại không có vật gì khác thay vào làm bổi,
lửa ấy không thể cháy được; nên phải tắt. - Này Vaccha, điều này cũng ví như khi đã gọi
là chúng sanh, gọi là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy, Như-Lai đã
diệt tận gốc rễ của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy đã bị đào tận
rồi, làm như cây thốt nốt bị chặt cụt ngọn không làm sao sống được
nữa. Như-Lai đã giải thoát khỏi sắc (mà người đời cho là) quí báu. Vì
vậy nên không ai có thể ước lượng được, đi đến nơi ấy được,
không thấu đáo được. Cũng như Ðại dương, người có nên nói rằng: sanh
cũng có, diệt cũng có, không sanh cũng có, không diệt cũng có,
Như-Lai đã diệt tận Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như cây thốt
nốt đã bị đứt ngọn không thể sống được. Như-Lai đã đi đến
nơi hoàn toàn giải thoát là điều mà không ai ước lượng được. Thầy Bà-la-môn tên Aggavaccha ngộ được Lý-đạo và
xin qui y Tam Bảo. Và là người thiện nam thật là thông minh. Nhắc lại đoạn này để quí vị thấy rằng, Niết
Bàn là nơi dụi tắt được tất cả những phiền não, vì vậy nên không
thể dùng điều vì để gọi được. Thiết tưởng nơi đây tôi nên đem lại đoạn
"Vấn đáp của Ðức vua Mi-lản-đà và Na-tiên Tỳ-Khưu", để là
cho sáng tỏ ý nghĩa của sự tắt của Niết Bàn. Trong đoạn Nibbãnassa Patthãnapanhã (chỗ ở của
Niết Bàn). Ðức vua Mi-lản-đà hỏi Ðại đức Na-tiên: Bạch đại
đức, vậy Niết Bàn ở nơi nào. Hướng Ðông, hướng Tây, hướng Nam hay
hướng Bắc, Trên hay hướng Dưới? - Tâu Ðại vương, Niết Bàn không có ở nơi nào,
làng xóm, xóm nào cả. - Bạch đại đức, chỗ ở của Niết Bàn không có,
vậy thì Niết Bàn không có sao? Vậy thì tiếng nói làm cho thấu rõ
Niết Bàn là sai rồi. Bạch Ðại đức, Ngài là bực Ðại Trí tuệ. Nơi
đây tôi ví dụ như mặt đất là nơi để cho cây cỏ lúa v.v.... mọc
lên. Có hoa thơm, cỏ lạ, ngũ cốc nuôi người. Biển cả chứa đựng
nhiều châu, ngọc quí báu, người muốn tìm những vật quí báu ấy thì
tìm ở biển cả. Nếu Niết Bàn không có chỗ ở thật sự thì cũng
phải có chỗ ở tạm thời như những điều mà trẫm đã kể ấy. Vì
vậy trẫm nghĩ rằng: Nếu Niết Bàn không có một nơi nào trụ lại thì
Niết Bàn không có, câu nói làm cho thấu rõ Niết Bàn cũng chẳng có. - Tâu Ðại vương, thật ra thì Niết Bàn không có
chỗ ở như Ðại vương đã phán. Niết Bàn ở chỗ mà hành giả quan
sát thấy rõ sự Sanh và Diệt của các pháp hành. Tâu Ðại vương, sự thật lửa mà có ấy chính nó không
có chỗ ở riêng của nó. Khi người cần lửa đem que diêm quẹt lại, quẹt
vào miếng diêm thì nó cháy lên, điều này cũng như khi hành giả muốn
được Niết Bàn, quan sát thấy rõ sự sanh diệt của các pháp hành, rồi
nhờ ấy mà giải thoát là đắc được Niết Bàn, cũng như que diêm quẹt
vào diêm mới sanh ra lửa. Một lẽ nữa là bảy báu của vị Chuyển Luân Thánh
vương là: - Cakkaratanam, Bánh xe báu. Bảy báu kể trên có, nhưng không có chỗ cư
ngụ, khi nào có vị nào có đủ đức cao, phước rộng thì bảy báu ấy sanh lại
cho người dùng. Ðiều này cũng ví như, khi hành giả quan sát thấy rõ sự
sanh diệt của các pháp hành, thì Niết Bàn đến với các vị hành
giả ấy. Ðức vua liền phán hỏi: Bạch Ðại Ðức, nếu
Ngài dạy Niết Bàn không có chỗ nào để ở, nhưng trường hợp đắc
Niết Bàn lại có. Nếu người hành ấy ở trường hợp tương xứng thì
sẽ đắc được, vị hành giả ấy sẽ làm cho thấy rõ Niết Bàn. - Tâu Ðại vương, đúng như lời Ðại vương phán,
trường hợp đắc được Niết Bàn có, như hành giả nào, ở trong trường
hợp tương xứng sẽ đắc được Niết Bàn. - Bạch Ðại đức, vậy trường hợp ấy có xin giảng giải
thế nào cho trẫm hiểu. - Tâu Ðại vương, trường hợp ấy là Giới phải cho
trong sạch tuyệt đối. Hành giả là bực trí tuệ, khi được ở trong
giới trong sạch dùng Trí tuệ quan sát cho chu đáo. Vị ấy dầu ở nơi nào
chẳng hạn thì cũng có thể làm cho thấu rõ Niết Bàn được. Ðiều
này cũng ví như người ở trong rừng Sakãya, trong xứ Alasanda, hay tại xứ
Kasĩkosala, hay ở trong xứ Gandha, hoặc ở trên chót núi, trong cõi Ngũ tinh
Phạm thiên cũng đều trông thấy hư không như nhau. Ðây cũng như hành
giả ở trong giới trong sạch dùng Trí tuệ quan sát thấy rõ rệt Vô
thường, Khổ não, Vô ngã, dầu ở nơi nào, trường hợp nào, cũng đều
đắc Niết Bàn được. Hơn nữa, mặc dầu người ở trong rừng Sakãya cũng như
người ở trong châu thành hay ở trong cõi Phạm thiên đều rõ biết
hướng Ðông ở nơi nào. Cũng như người có giới đức trong sạch thì cũng có
thể làm cho rõ thấu Niết Bàn. Xin Ðại vương hiểu rằng: Người nào có giới hạnh
trong sạch, mặc dầu người ấy ở trường hợp nào cũng là địa điểm làm
cho người ấy rõ thấu Niết Bàn. Ðức vua lấy làm thỏa mãn lời giảng ấy. Ngài liền
nói: Bạch Ngài, Ngài là người dựng lá cờ cao thượng là Giới làm trường
hợp là nơi thấu đáo được Niết Bàn. Trẫm lấy làm thỏa mãn. Trẫm xin
vâng giữ và thật hành theo lời chỉ dạy của Ngài. Theo đoạn này chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng: Niết
Bàn là nơi tuyệt đối cao thượng không có chỗ nào là nơi ở, và
điểm đặc biệt là người đắc Niết Bàn trong tâm mình, và tự
mình trông thấy Niết Bàn mà thôi. Trong Tạng kinh bộ Anguttabanikãya, đoạn Tikanipãta, hai
kinh Nabbutasutta, Ðức Thế Tôn có dạy về kẻ nào đắc được Niết
Bàn thì tự mình trông thấy. Ðoạn ấy như thế này: Khi ấy có thầy Bà-la-môn tên Janusonĩ vào hầu Phật và
bạch hỏi Ðức Thế Tôn rằng: - Bạch Ngài Cồ-đàm, Ngài hằng dạy rằng:
Niết Bàn mà vị nào đắc quả thì sẽ tự mình thấy rõ. Nếu vậy, bạch
Ngài, do bao nhiêu nguyên nhân, nên Niết Bàn có được đặc ân mà người
nào đắc quả thì tự người ấy thấy, không chờ thì giờ, không thể
gọi người khác thấy được, chỉ có một mình người đắc trông thấy mà
thôi? Ðức-Thế-Tôn dạy: - Này thầy Bà-la-môn Jãnusonĩ,
người bị phiền não là Tham ái thống trị, thì tâm người ấy chỉ nghĩ
đến sự làm hại bản thân mình, hay kẻ khác, hoặc nghĩ làm hại mình và
kẻ khác, tâm kẻ ấy hằng thọ khổ. Khi mà Tham ái đã bị tiêu diệt
rồi, thì người ấy không bao giờ nghĩ làm hại kẻ khác và cũng chẳng hề
làm hại bản thân mình. Kẻ ấy không còn có sự đau khổ, nóng nảy trong tâm
nữa. Này thầy Bà-la-môn, nhân mà Như-Lai đã giảng dạy,
nên làm cho Niết Bàn có đặc ân cao thượng là chỉ có người thấu đạo
được Niết Bàn mới thấy và biết rõ Niết Bàn mà thôi, kẻ khác
ngoài ra người ấy không thể thấy được. Này thầy Bà-la-môn, người bị Sân hận thống trị, bị
Si mê cai quản hằng nghĩ làm hại mình hay làm hại kẻ khác v.v... (xin hiểu
như đoạn nói trên). Này thầy Bà-la-môn, khi người thọ hưởng quả của
Pháp là sự không tham lam, sân hận và si mê thì tự mình thấy rõ Niết
Bàn, không chờ ngày giờ, mà cũng không thể chỉ cho ai trông thấy được.
Bực Trí-thức tự mình đắc, và tự mình thấy như Như Lai đã giảng. Tạng kinh bộ Khuddakanikãya, đoạn Pãtiligãmavagga, bài
kinh Nibbãna thứ nhứt có dạy: Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ viên Tịnh xá của Trưởng
giả Cấp-cô-độc gần thành Thất-la-phiệt. Ðức Thế Tôn có dạy chư Tỳ-khưu rằng: này các
thầy Tỳ-khưu, các căn có Ðất, Nước, Gió, Lửa, Không vô biên, Vô sở hữu,
Phi phi tưởng, đời này, đời vị lai không có trong các căn ấy. Này các thầy
Tỳ-khưu, Như Lai không dạy rằng: Là sự đi đến, sự trụ lại, sự sanh
lên, căn ấy không có nơi nào để cư ngụ, không có đề mục, nơi ấy
là nơi hết khổ. Ý Ðức Thế Tôn dạy rằng: tất cả mọi cảnh trong
Tam giới và trong Tam-thế đều không phải là nơi đi đến hay cư
ngụ của Niết Bàn; mà Niết Bàn ngoài những vật ấy, nơi ấy không còn
khổ. Trong bài kinh Niết Bàn thứ hai có dạy rằng: Khi ấy
Ðức Thế Tôn ngự nơi Kỳ viên Tịnh xá. Ngài có dạy chư Tỳ-khưu rằng:
Nơi mà người khó trông thấy nhứt, (nơi ấy) không có ái dục. Niết Bàn
là vật tuyệt đối vì vậy nên người không thể thấy được dễ dàng.
Nếu người nhận thức biết rõ rệt Ái dục thì phiền não là vật
làm cho người bận, và trầm luân sẽ không sanh lên đến người ấy được. (Câu nói không có ái dục, nghĩa là quan sát thấy rõ
Ái dục là nguồn gốc sanh tội lễ là Luân hồi, nên diệt tận gốc vì vậy
các phiền não không dựa vào đâu để sanh được nên giải thoát khỏi
sự làm cho bận bịu, và đã giải thoát). Trong bài kinh Niết Bàn thứ tư có dạy rằng: Sự rung
động (có nghĩa là tâm chạy theo hoàn cảnh bên ngoài) vì người còn có Ái
dục và Tà kiến. Khi có không sự rung động là có sự trong sạch, khi có
sự trong sạch thì không có sự ưa thích. Khi ấy không có sự đến và đi,
không có sự đến và đi thì cũng không có sự Diệt hay Sanh. Khi không
có diệt sanh thì cũng không có đời Hiện tại mà cũng chẳng có vị
lai, khoảng giữa của hai đời ấy cũng chẳng có, và nơi ấy là nơi tận cùng
của Khổ. Tiếng nói "trong sạch" nơi đây không có
nghĩa là: trong sạch là hết phiền não, mà tiếng "trong
sạch" này có ý nghĩa là không yêu mến những phiền não,
nếu không có yêu mến thì không có ưa thích v.v.... Nói về đặc ân của Niết Bàn là làm người đã
thoát khỏi sự khao khát vì phiền não bên trong tâm. Tôi xin trích một
đoạn ở bài kinh gọi là Mãgandiya, bộ Majhimanikãya, Majjhimapannassaka. Ðoạn này Ðức Thế Tôn có thuyết cho một vị
ngoại đạo tên là Mãgandiya như vầy: - Này Mãgandiyã, sự thật, Sa-môn hay Bà-la-môn nào là
người đã giải thoát khỏi dục vọng, là sự làm cho con người khao khát.
Tâm đã vắng lặng, hay tâm đang ở trong sự vắng lặng, hoặc sẽ vào nơi vắng
lặng. Tất cả các vị ấy đều hiểu rõ sự sanh diệt, sự lợi ích,
hay sự tai hại, hiểu rõ phương pháp giải thoát khỏi trần cảnh đúng với
sự thật. Diệt tận được Ái dục trong cõi dục, diệt được sự nóng
nảy phát sanh lên do nơi Ái dục thiêu đốt. Vì vậy nên vị ấy đã giải
thoát khỏi sự thiêu đốt khao khát. Tâm bên trong đã yên lặng, đang ở trong
sự yên lặng hay sẽ ở trong sự yên lặng. (Câu nói Tâm bên trong an-lặng v.v... ấy có nghĩa là
các bực Thánh nhơn, tâm luôn an tịnh, và các Ngài sẽ nhập định nên gọi
là sẽ vào nơi vắng lặng. Hoặc đang ở nơi vắng lặng, nghĩa là đang nhập
đại định). Sau khi dạy dứt câu trên, Ðức Thế Tôn liền dạy
rằng: Arogã paramã Lãbbã Nibbãnam Paramam Sukham Sự không có bịnh tật là sự được lợi lộc cao quí
nhứt. Niết Bàn là nơi an vui tuyệt đối: tất cả các con đường đi,
đường là Bát-chánh-đạo là đường đi đến nơi giải thoát. Sau khi Ðức Thế Tôn thuyết xong câu ấy, thầy
Mãgandiya liền bạch với Ðức Thế Tôn rằng: Bạch Ngài Cồ Ðàm; thật
là chuyện phi thường chưa bao giờ có xảy ra, câu của Ngài đã dạy là:
sự không có bịnh tật, là lợi lộc cao quý nhứt. Niết Bàn là nơi an
vui tuyệt đối. Câu này mặc dầu tôi đã có nghe nơi thầy tổ của chúng
tôi dạy, câu này thật thích đáng. - Này Mãgandiya, điều mà thầy đã được nghe của
các vị ngoại đạo là thầy của thầy dạy. Sự không có bịnh là lợi lộc cao
quý nhứt. Niết Bàn là nơi an vui tuyệt đối. Vậy sự thật không
bịnh là thế nào? Niết Bàn là thế nào? Khi ấy ông Mãgandiya dùng tay rờ khắp châu thân của
ông xong mới bạch Phật rằng: Bạch thầy Cồ Ðàm, không có bịnh là như vầy,
Niết Bàn là như vầy. Bạch ngài Cồ Ðàm, hiện giờ tôi là người
không có bịnh, có sự an vui, không có gì làm khổ tôi được. - Này Mãgandiya, vì như người mù từ trong bụng mẹ,
tức nhiên người ấy không hề thấy màu đen, trắng, xanh, vàng, đỏ v.v..
cũng chẳng thấy gồ ghề hay nơi bằng thẳng, không thấy trăng, sao, mặt
trời. Người ấy chỉ được nghe người sáng mắt nói rằng: các người ơi, xem
đây khố vải trắng thật sạch không có một tí bợn nhơ nào hết, thật
đẹp làm sao. Người mù ấy nghe liền muốn có khố vải trắng để mặc,
nên mới đi tìm mua một khố vải trắng tinh như nghe người nói. Có người đem
lại bán cho một tấm vải đen, bán cho người mù, và bảo rằng: Ðây là vải
trắng, thật là tinh khiết, không chút bợn nhơ. Người mù ấy lấy làm vui
mừng, lấy tấm vải ấy mặc vào và khoe với người ta rằng: này quí vị ơi,
đây là khố vải trắng tinh, không có chút bợn nhơ, thật là đẹp. Này Mãgandiya, vậy người nghĩ sao? Người mù ấy có
thấy và có biết rằng tự mình mặc tấm vải đen, mà còn vui mừng cho là
vải trắng, sạch, lại còn khoe là mặt vải trắng. - Bạch Ngài Cồ Ðàm; Người mù ấy không hiểu,
không biết, không nhận thấy mặc tấm vải đen, lại còn vui vẻ khoe với
người khác: tấm vải trắng không chút bợn nhơ. Sở dĩ người mù ấy vui thích
và nói vậy vì tin người sáng mắt kia. - Này Mãgandiya, các người ngoại đạo cũng vậy, có
nghĩa là người không có mắt; không biết sự không có bịnh như thế
nào, không thấy Niết Bàn ra sao. Mặc dầu vậy vẫn nói: sự không có bịnh
là lợi lộc quí nhứt, Niết Bàn là nơi an vui tuyệt đối. Này Mãgandiya, chư Phật trong lúc quá khứ đã có dạy:
sự không có bịnh là lợi lộc quí nhứt. Niết Bàn là nơi an vui tuyệt
đối. Tất cả các con đường, Bát-chánh đạo là con đường đi đến nơi
giải thoát. Câu Phật ngôn ấy, phàm nhơn học thuộc và
truyền ngôn với nhau. Này Mãgandiya, thân này là ổ của bịnh, thân này ví
như mụt ung thư, thân này ví như mũi tên nó là nơi sanh ra tất cả sự khổ
cực, bịnh hoạn. Các người nói rằng: thân này là ổ của bịnh, là mụt
nhọt, cây tên là nơi sanh ra sự khổ cực bịnh hoạn. Thưa Ngài Cồ-Ðàm,
sự không có sanh là như thế này. Niết Bàn là như thế này. Nhưng
kỳ thật ngươi (Mãgandiya) không có Thánh nhãn, là vật để trong thấy rõ
sự thật của sự không bịnh, là nhân làm cho thấu rõ Niết Bàn. Ông Mãgandiya bạch Phật: - Bạch Ngài Cồ-Ðàm, tôi rất
là trong sạch với Ngài. Ngài là đấng có thể giảng giải Pháp bảo cho
tôi, làm cho tôi thấu được lý do diệt hết căn bịnh hiểm
nghèo là Phiền não và thấu rõ Niết Bàn. (Câu Phật dạy "Bịnh" đây Ngài ngụ ý bịnh
của tinh thần vì vậy nên ông ngoại đạo không hiểu tưởng là bịnh của
thể xác). Sau cùng Ðức Thế Tôn dạy: - Này Mãgandiya, nếu vậy thầy nên thân cận với các
bực Trí thức; vì khi thầy được thân cận với các bực Trí thức thì thầy sẽ
được nghe lời giáo huấn của các Ngài. Khi thầy được nghe lời giáo huấn,
thì thầy sẽ hành theo chánh đạo đúng theo Thánh-pháp. Khi thầy hành chân
chánh thì thầy sẽ đắc được Thánh quả tuỳ theo sở hành của thầy đã hành.
Khi ấy thầy sẽ tự thấy, thấu rõ như vầy: tật bịnh, mụt ung thư, cây tên.
Ðây là ổ của bịnh, đây là mụt ung thư, đây là cái tên. Thì những vật
ấy sẽ tắt hẳn. Vì sự chấp các pháp hành bị dụi tắt thì Hữu (Cảnh giới)
cũng phải diệt. Khi Hữu (cảnh giới) ấy đã diệt thì sự Sanh lại cũng
diệt. Khi Sanh đã bị diệt thì sự Già, Chết, buồn rầu, than khóc,
khổ não, ưu phiền, đau đớn, tuyệt vọng cũng diệt cả. Sau khi nghe đoạn này ông Mãgandiya lấy làm trong sạch
với Phật giáo. Ông liền xin xuất gia. Theo luật của nhà Phật, người ngoại
đạo muốn xuất gia phải bị phạt cấm phòng 4 tháng. Ông rất hài lòng, vì được bị phạt cấm phòng ấy. Và
sau cùng ông xuất gia và hành đạo đắc được A-la-hán quả. Theo Phật ngôn dạy "ổ bịnh" ý nói thân
này là nơi xuất phát chứa tất cả các thứ bịnh, nào là bịnh vật chất, mà
bịnh nguy kịch hơn là bịnh Tham lam, Sân hận, và Si mê. Người bị bịnh ung
thư khó mà thoát khỏi bịnh mặc dầu có thầy hay thuốc quí. Ngài dạy như là
mũi tên, ví nó là vật bén nhọn đâm vào thâm tâm con người. Nên
hiểu rõ ý nói thân này bị tên bắn trúng, tên ấy là tên tẩm độc
hành hạ người không bao giờ chữa hết. Vì người vẫn cố chấp thân này, và vạn vật bên
ngoài, nên ví như người mù mặc vải đen mà cho là vải trắng. Chỉ tin ở kẻ
khác không tìm hiểu trong tâm mình, vì vậy nên không có được Pháp Nhãn
hay Thánh nhãn. Ðể quí vị dễ nhận thức và tham cứu Phật giáo
về vấn đề giải thoát là đến nơi không còn phiền não và nơi
ấy ở đâu, nên tôi xin dịch lại những đoạn vấn đáp giữa lúc Ðức vua
Mi-lản-đà và Ðại đức Na-tiên Tỳ-khưu. Theo bộ Mi-lản-đà Vấn Ðạo thật là nhiều đoạn,
tôi chỉ rút lấy những đoạn nào dạy về Niết Bàn dịch ra đây để
quí vị dễ hiểu về lời giảng dạy của 2 vị thông minh nhất thời kỳ
ấy.
(Vật gì trong Thế gian này sanh lên bởi Nghiệp
thời tiết, vật gì sanh lên không cần hai vật ấy). Ðức vua Mi-lản-đà phán hỏi Ðại-đức Na-tiên: Bạch
Ðại đức Na-tiên. Tất cả vạn vật trong thế gian này sanh lên do nơi Pháp
Thiện hay Ác cấu tạo, nên chẳng hạn như chúng sanh mà ta thấy rõ sanh ra
phải do nơi một nguyên nhân, ngoài ra còn có những vật sanh lên vì thời
tiết cũng có. Vậy bạch Ngai, có vật gì khi sanh lên không cần có
Nghiệp là Tội hay Phước cấu tạo không? Và cũng không phải nhờ nơi thời
tiết mới sanh lên được? Xin Ngài dạy cho Trẩm hiểu. Ðại đức Na-tiên: Tâu Ðại vương, vật mà sanh lên
không cần do nơi nghiệp mà cũng không do nơi thời tiết ấy có hai
điều là Hư Không và Niết Bàn. - Bạch Ngài Ðại đức, xin Ngài đừng khinh thường Phật
ngôn, nếu Ngài có hiểu thì đáp, bằng không thì thôi? - Tâu Ðại vương, Bần đạo có nói gì khác đâu, mà
Ðại Vương lại phán dạy như vậy - Bạch Ngài, xin Ngài giải cho đúng theo Phật ngôn mà
Ðức Thế Tôn đã thuyết, nếu Ngài thông hiểu thì bảo là
hiểu, bằng không thì bảo là không. Tại sao Ngài dạy rằng: Hư không và
Niết Bàn không sanh lên do nơi Nghiệp cấu tạo? Ðức Thế Tôn có
dạy rằng: con đường này, Như Lai thuyết rằng: là nhân làm cho rõ
Niết Bàn. Trái lại Ngài lại bảo rằng: Niết Bàn là không có nhân cấu
tạo. Vậy Ngài có chắc chắn như Ngài đã dạy không? - Tâu Ðại vương, thật ra Niết Bàn không sanh lên
bởi Nhân cấu tạo. Lời Phật dạy: đạo là nhân làm cho thấy rõ Niết Bàn.
Ðức Thế Tôn có thuyết hàng ngàn hàng vạn nguyên nhân, lý do,
nhân sanh lên vạn vật, nhưng đối với Niết Bàn thì lại không. Ðức vua dạy: Bạch Ngài vậy thì cũng như chúng ta ở
trong nơi mờ tối lại đi vào lối tối hơn nữa, hoặc cũng như người ở trong
rừng rậm này ra rồi lại đi đi vào rừng rậm khác nữa. Nếu không vậy thì
cũng như ra khỏi nơi rừng sâu lại vào rừng sâu hơn nữa; điều này ví
dụ thế nào, cũng như Ðại đức dạy rằng: Nhân làm cho Niết Bàn sanh
lên không hề có. Nhân làm cho rõ Niết Bàn có. Thì cũng không khác
nào người ra khỏi rừng này lại vào rừng khác vậy. Nếu Ðại đức dạy
rằng: Nhân làm cho rõ thấu Niết Bàn ấy có, thì cũng nên nói Nhân sanh
Niết Bàn có. Cũng như con thì có cha, tức nhiên phải có ông nội. Nếu
có Ðệ tử phải có thầy, có thầy thì phải có Tổ, những giống cây có
hiện nay thì tức nhiên phải có từ trước. Ðiều này cũng như khi nói
rằng: Có nhân làm thấu rõ Niết Bàn thì cũng phải có Nhân sanh ra
Niết Bàn chớ. Cũng như, khi có ngọn cây thì tức nhiên phải có thân
cây, cũng như khi có nhân làm thấu rõ Niết Bàn thì cũng phải có nhân
sanh Niết Bàn chớ. - Tâu Ðại vương, Niết Bàn không còn có nhựa là
Ái Dục, vì vậy nghĩ rằng, Niết Bàn sanh lên bởi Nhân như lời của Ðại
vương phán ấy là không nên. Vì lẽ Niết Bàn không có nhựa để sanh,
nên gọi Niết Bàn không có Nhân sanh. - Bạch Ngài đại đức, vậy xin Ngài vui lòng đem ví dụ
lại giảng cho Trẩm thông đạt được rõ ràng hơn. - Vậy Bần đạo xin Ðại vươong hãy chú tâm nghe, bần
đạo sẽ giảng cho Ngài thấy rõ Nhân Trạng Thái của Niết Bàn. Vậy nhân
tiện bần đạo xin hỏi Ðại vương: Có một người kia khoẻ mạnh, vậy
ngưòi ấy có thể đi đến Hy Mã lạp sơn chăng? - Bạch Ðại đức tức nhiên là có thể đến nơi
ấy. - Tâu Ðại vương, người ấy đã đến Hy Mã Lạp
sơn, vậy người ấy có thể đem Hy Mã Lạp Sơn về cho người ta xem
được không? - Bạch Ðại đức, cố nhiên không thể nào người ấy
đem quả núi vĩ đại ấy về cho ta thấy được. - Tâu Ðại vương, người ấy không thể đem quả núi
ấy về cho người đời xem được, cũng như Bần đạo có thể nói rằng:
Ðạo làm cho rõ thấu Niết Bàn, nhưng không thể đem lại nhân sanh
Niết Bàn giải rõ để hầu Ðại vương được. Tâu Ðại vương, một
điều nữa: có người kia mạnh khoẻ có thể dùng thuyền vượt qua bờ
bên kia đại dương được hay không? - Bạch đại đức, người ấy có thể vượt qua đại
dương được. - Tâu Ðại vương, vậy người ấy có thể đem bờ
bên kia đại dương qua bên này, để cho người bên này thấy được không? - Bạch đại đức, không thể được. - Tâu Ðại vương, điều này cũng như bần đạo chỉ
có thể nói đạo là nhân làm cho thấu rõ Niết Bàn. Nhưng không
thể giải nguyên nhân tạo tác, cấu tạo nên Niết Bàn được. Vì
Niết Bàn là Asankhatadhamma nghĩa là Pháp Vô Nhân Sanh; hay nói là không
có nguyên nhân, hay lý do nào có thể tạo tác nên được. - Bạch đại đức, vậy Niết Bàn không có một vị
nào có thể đem lại ví dụ giảng giải cho thấy rõ được hay sao? - Tâu Ðại vương, vì Niết Bàn là Pháp vô nhân
cấu tạo. Hơn nữa Niết Bàn không thể gọi là Uppannam nghĩa là Tự
sanh, hay Anuppannam nghĩa là không tự sanh. Hoặc Uppadãniyam, do nhờ nơi một
Pháp nào rồi sanh, hoặc gọi là quá khứ, hiện tại hay vị lai.
Nacakkhuvinneyyam, không thể dùng nhục nhãn mà nhìn thấy được.
Nasotavinneyyam, không thể dùng tai mà nghe được. Naghãnavineyyam, không
thể dùng mũi mà ngửi được. Najivahãvinneyyam, không thể dùng lưỡi
mà nếm. Nakãyavinneyyam, không thể dùng thân này cảm xúc được. - Bạch Ðại đức, nếu Niết Bàn không tự sanh,
không nương nhờ nơi Pháp khác để sanh, không thể dùng nhục nhằn
để thấy v.v.. Như theo lời của Ngài dạy thì Niết Bàn không có phải
không? - Tâu Ðại vương, Niết Bàn có thật, nhưng phải
thấy rõ bằng Tâm, và Phàm nhơn thì không thấy được, ngoại trừ chư Thánh
nhơn mới nhận thấy rõ, vì Tâm của quí Ngài đã diệt được 5 pháp
chướng ngại và sự vật là: Tài lợi v.v... Tâm của các Ngài rất trong sạch
và rất vi tế. - Bạch Ðại đức, Niết Bàn là gì? Niết Bàn có
thật nhưng vì không thể giảng giải bằng ví dụ được. Thật là một
chuyện đáng hoài nghi. Vậy xin Ngài dùng vật gì ví dụ để cho trẫm
được hiểu, diệt trừ nghi ngờ. Vậy trên đời này có vật gì đã có
mà không thể chỉ rõ được? - Tâu Ðại vương, có tiếng nói là: Gió, vậy Gió
ấy có trong cõi thế gian này hay không? - Bạch Ngài dĩ nhiên là có. - Tâu Ðại vương, xin đại vương vui lòng chỉ màu
sắc, hình dáng, của Gió nhỏ, hay lớn, vi tế, hay thô siển, dài hay
ngắn ra sao cho bần đạo thấy? - Bạch Ðại đức, thật ra Trẫm không thể chỉ màu
sắc, hình dáng, dài ngắn của gió được. Vì gió ấy là vật mà ta không
thể nắm lấy hay hốt lấy bằng tay, hay bằng vật chi chi được, nhưng Gió
có thật. - Tâu Ðại vương. Nếu Ðại vương không thể
chỉ được, vậy sao nói là có Gió được? - Bạch Ðại đức, Gió ấy có thật không phải không có,
trẫm thở vào tim phổi của trẫm, trẫm biết rõ, nhưng không chỉ hay nói
bằng lời được. - Tâu Ðại vương, Ngài không thể chỉ màu sắc hình
dáng của Gió được. Niết Bàn cũng vậy, bần đạo cũng không chỉ hình
dáng của Niết Bàn được. - Bạch Ðại đức, Trẫm xin nhận thức theo lời giảng của
Ngài. Nibbãna (vấn đề Niết Bàn) Ðức vua phán hỏi: Bạch Ðại đức, nếu Ngài giảng
cho người đời thấy rõ hình, hình thể, từng bộ phận, bằng sự ước
lượng, ví dụ, bằng nhân bằng lý do. - Tâu Ðại vương, Bần đạo không thể giải rõ
Niết Bàn bằng hình, hình thể, từng bộ phận, bằng sự ước lượng,
bằng ví dụ, bằng nhân bằng lý do. - Bạch Ðại đức, trẩm chưa nhìn nhận lời của Ngài
dạy rằng: Niết Bàn ấy không có hình dáng, nguyên nhân lý do cấu tạo.
Xin Ngài hãy giải thích hoài nghi của trẩm. - Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương hiểu rõ
nguyên nhân lý do như vầy: Người trong thế gian thường gọi đại
dương, vậy đại dương ấy có thật hay không? - Bạch Ðại đức, đại dương ấy có thật vậy. - Tâu Ðại vương, nếu đại dương có thật; và có
người hỏi Ngài rằng: Ðại vương ấy bao lớn, có bao nhiêu nước, có bao
nhiêu thủy tộc lớn nhỏ? Nếu người hỏi vậy Ngài phải đáp sao đây? - Bạch Ðại đức, khi người hỏi Trẫm như vậy, Trẩm sẽ
bảo người ấy rằng: xin người đừng hỏi vậy. Vì đó là vấn đề nan giải
không nên hỏi. Vì không ai ước lượng được đại lượng rộng đến độ
nào, có bao nhiêu nước, bao nhiêu loài thủy tộc ở trong ấy. - Tâu Ðại vương. Ðại vương có ghi chép trong sách
sử, và Ðức Thế Tôn cũng có thuyết dạy trong Kinh Luật, tại sao Ðại
vương không đáp được câu hỏi ấy? - Bạch Ngài, sở dĩ Trẫm không đáp được câu ấy, vì
đại dương thật là rộng lớn, và nước cùng thủy tộc trong đại dương ấy
có bao nhiêu. - Tâu Ðại dương, điều này cũng ví như Niết
Bàn: Ðức Thế Tôn có thuyết thật, nhưng bần đạo không thể giải
rõ. Hình, hình thể, ước lượng lớn nhỏ, nhân và lý do được, vì nó
quá sự giảng của bần đạo. Tâu Ðại vương mặc dầu có người nào có thần
thông quảng đại, có Trí nhớ và Trí tuệ có thể ước lượng được
đại dương bao lớn, có bao nhiêu nước, bao nhiêu loài thủy tộc lớn nhỏ. Vị
ấy cũng không thể diễn tả hay chỉ rõ Niết Bàn hình, hình thể của
Niết Bàn ra làm sao được. Tâu Ðại vương, vậy Ðại vương có biết rằng: có
một vị Chư thiên tên Arupakãyikãdevatã không? - Bạch Ðại đức, Trẫm có nghe. - Vậy Ðại vương có thể diễn tả hình dáng hình
thể, ước độ, ví dụ nhân và lý do có được không? - Bạch Ðại đức, chư thiên là hạng vô hình, thì làm
sao Trẫm có thể diễn tả hình dáng được. - Tâu Ðại vương, Ngài không thể diễn tả được
hình dáng của chư thiên, vậy hạng ấy chắc là không phải chăng? - Bạch Ðại đức, hạng ấy có, nhưng không có hình
dáng. Vì vậy trẫm không thể diễn tả hay chỉ cho ngài biết được. - Tâu Ðại vương, cũng như Niết Bàn không có hình
dáng, cũng như hạng chư thiên vô hình vậy. Tâu Ðại vương vì lẽ ấy xin
Ngài hiểu cho Niết Bàn có thật. - Bạch hóa Ðại đức, nếu Ngài không thể diễn
tả được hình, hình thể, ước độ, ví dụ nhân, nguyên do của Niết
Bàn được. Vậy xin Ngài chỉ dạy đặc ân của Niết Bàn. Hiện giờ đây
trẫm rất nóng nghe đặc ân của Niết Bàn. - Tâu Ðại vương, có thể tạm so sánh đặc ân của
Niết Bàn với những vật sau đây: 1. Hoa sen có một đặc điểm tạm so sánh với
Niết Bàn. Ðức vua liền phán hỏi: Bạch Ðại đức, hoa sen có
một đặc điểm gì khả dĩ sánh được với Niết Bàn? - Tâu Ðại vương đặc điểm của hoa sen ấy là:
Nước không thể thấm vào hoa sen được, cũng như Niết Bàn không bao
giờ bị Phiền não làm cho nhơ đục được? - Bạch Ðại đức, nước có hai đặc điểm gì khả
dĩ tạm so sánh với đặc ân của Niết Bàn được? - Tâu Ðại vương, nước có thể trừ được sự nóng
nảy của con ngưòi được, cũng như Niết Bàn có thể dụi tắt được
sự nóng nảy thiêu đốt trong lòng con người là Phiền não. Nước là vật
mát mẻ và có thể rửa sạch những vết nhơ bẩn, giải được sự khao
khát của người được, cũng như Niết Bàn rửa sạch được sự nhơ bẩn
trong thâm tâm của con người, làm cho không còn khao khát mong mỏi sanh về
kiếp vị lai, là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. - Bạch Ðại đức, thuốc trừ nọc rắn có ba đặc
điểm gì có thể tạm sánh với đặc ân của Niết Bàn được? - Tâu Ðại vương, thuốc trừ nọc độc có ba đặc
điểm là: Khi rắn độc cắn người, dùng thuốc trừ nọc làm cho nọc
rắn không phát ra được, đó là sự công hiệu của thuốc mà người ta có
thể nhờ được, đó là sự công hiệu của thuốc mà người ta có
thể nhờ được, cũng như Niết Bàn là nơi diệt trừ được
phiền não như nọc độc không làm hại được người; đây là điều
thứ nhứt. Thuốc trừ nọc độc rắn dùng để trừ nọc độc, khi
người bị rắn hành hạ khổ sở; cũng như Niết Bàn làm cho người hành
đúng đắn dụi tắt được khổ của chúng sanh, đây là điều thừ nhì.
Thuốc trừ nọc rắn độc, trừ được nọc khi mà người đã bị cắn.
Cũng như Niết Bàn giữ được không cho người phải chết vì sự làm
hại người được. - Bạch Ðại đức, vậy bốn đặc điểm của biển
là gì? - Tâu Ðại vương, bốn đặc điểm của biển là:
biển rất là tinh khiết, không bao giờ có tử thi, cũng như Niết Bàn
rất là trong sạch, không bao giờ có tử thi là phiền não, đây là
điều thứ nhứt. Tâu Ðại vương, biển cả rất là rộng lớn mặc dầu
năm con sông to chảy vào biển cả từ lâu, nhưng cũng không làm cho
biển cả đầy, không thể trông thấy bờ bên kia được. Ðiều này
cũng ví như Niết Bàn rộng lớn không bờ bến, mà người đắc đạo quả
nhiều đến độ nhập Niết Bàn cũng không thể làm cho Niết
Bàn đầy được. Ðây là đặc điểm thứ nhì của biển cả. Tâu Ðại vương, biển cả là nơi cư ngụ của loài
thủy tộc. Cũng như Niết Bàn là nơi cư ngụ của các bực Thánh nhơn. Ðây
là đặc điểm thứ ba của biển. Tâu Ðại vương, biển cả có chứa nhiều thứ hoa
thơm cỏ lạ thật quí. Cũng như Niết Bàn có nhiều thứ hoa thơm cỏ là
Pháp giải thoát. Ðây là đặc điểm thứ tư của biển cả. - Bạch Ðại đức, năm đặc điểm của vật thực là
gì? - Tâu Ðại vương, năm đặc điểm của vật thực là: 1. Ayuvaddhanam. Nuôi chúng sanh sống thêm. Năm điều này cũng như Niết Bàn có năm đặc
ân là: 1. Khi chúng sanh nào đã hiểu thấu Niết Bàn
bằng Pháp nhãn, thì chúng sanh ấy không còn bị tiêu diệt vì Già và
Chết nữa. - Bạch Ðại đức, hư không có mười đặc điểm là
gì? - Tâu Ðại vương Hư-không có mười đặc điểm là: 1. Na Jirati: Không biết già. Niết Bàn cũng có mười đặc ân là: 1. Na Jĩyati: Niết Bàn là nơi không có Già. - Bạch Ðại đức, còn ba đặc điểm của ngọc Ma
ni bửu châu là gì? - Tâu hoàng thượng, ba đặc điểm của Ngọc Mai
ni ấy là: 1. Ngọc Ma ni bửu châu có tánh cách làm cho con
người được toại nguyện. Cũng như Niết Bàn có ba đặc ân là: 1. Niết Bàn làm cho người được kết quả vạn
việc như ý. - Bạch Ngài vậy lõi cây trầm hương có ba đặc
điểm gì/ - Tâu Ðại vương lõi cây trầm có ba điều đặc
điểm là: 1. Thật khó mà tìm được. Cũng như Niết Bàn có ba đặc điểm là: 1. Thật là khó tìm thấy và khó mà gặp được. - Bạch Ðại đức sửa đặc có ba đặc điểm gì? - Tâu Ðại vương, sửa đặc có ba đặc điểm là: 1. Màu thật đẹp. Cũng như Niết Bàn có ba đặc điểm là: 1. Có màu thật đẹp là ân đức cao thượng. - Bạch Ngài, còn 5 đặc điểm của chót núi Giri là
gì? - Tâu Ðại vương, 5 đặc điểm của chót núi Giri
là: 1. Chót núi là nơi cao nhứt của ngọn núi. Cũng như Niết Bàn có 5 đặc ân là: 1. Niết Bàn là nơi cao nhất , nghĩa là ngoài Tam
giới. Tâu Ðại vương, đây là lời ví dụ. Ðức vua Milanda lấy làm trong sạch với lời giải của
Ngài Ðại đức vì Ngài thông hiểu được lý của Niết Bàn. Nibbãnasacchikarana Panhã
(Hỏi về người làm cho thấu rõ Niết Bàn) Ðức Vua Mi lan đà phán hỏi Ðại đức Na-tiên rằng:
Bạch Ðại đức Ngài có dạy trẫm rằng: Niết Bàn ấy không phải là
hiện tại, không phải là vật mà ai ai cũng có thể làm cho thấu rõ,
sanh lên được. Hành giả nào trong Phật-pháp hành chân chánh làm cho thấu
Niết Bàn; vị ấy được gọi là người làm cho rõ Niết Bàn đã sanh
rồi, hay là người làm cho rõ Niết Bàn chưa sanh, hoặc gọi là làm rõ
Niết Bàn đã sanh rồi (ý nói có sẵn rồi) rồi làm cho thấu rõ? - Tâu Ðại vương, Người mà đã hành chân chánh làm
cho rõ được Niết Bàn đã sanh rồi. - Bạch Ðại đức, theo lời giảng dạy của Ngài, còn bí
ẩn làm cho trẫm không hiểu thấu xin Ngài giảng thêm? - Tâu Ðại vương: Nibbãnadhãtu, Niết Bàn có thật.
Sukhapanĩtã, sự an vui tuyệt đối của Niết Bàn có thật. Sammãpatipanno,
người hành đạo chân chánh có thật. Sankhãresammasanto, đã quán tưởng rõ
các pháp hành. Theo giảng dạy của Ðức Ðại giác hành giả làm cho
thấu rõ Niết Bàn bằng Trí tuệ. Ví như học trò, học nghề
với thầy, tin tưởng và vâng lời thật hành theo lời của thầy chỉ dạy. Cũng
như hành giả hàng đúng theo Phật Ngôn thì sẽ thấu rõ Niết Bàn. Như
người học trò học được kết quả những nghề mà thầy đã dạy. - Bạch Ðại đức, vậy thấy rõ Niết Bàn là thấy
bằng cách nào? - Tâu Ðại vương, Niết Bàn là nơi không còn có
khổ, không sanh, không thay đổi, không lay chuyển, người muốn thấy phải
thấy với trạng thái vi tế, yên tịnh, mát mẻ. Ví như người đứng gần
đống lửa khổng lồ đang cháy, người ấy bị nóng nảy. Nếu muốn không bị
nóng thì đều duy nhứt là phải xa lửa ấy thì mới được mát mẻ, và sẽ
được an vui. Tâu Ðại vương điều này cũng ví như hành giả bị
ba thứ lửa rất nóng là Tham ái, Sân hận, Si mê đang thiêu đốt nóng nảy
cùng tột. Khi biết vậy nên xa lánh bằng cách hành cho đúng theo lời Phật
dạy, bằng cách dùng Trí tuệ quang sát thấy rõ ba tướng, nên diệt trừ
được ba thứ phiền não, được mát mẻ an vui. Người mà dụi tắt được ba
thứ lửa ấy, thì thấy rõ sự an vui thanh tịnh, là người đã đắc được
Thánh quả, là A-La-hán quả, là bực Vô Học. Tâu Ðại vương một lẽ nữa như người vào rừng tìm
củi đem về đốt xác rắn, chó, hay thiêu tử thi. Khi người thiêu tử thi
ấy đứng gần lửa bị nóng nảy, thiêu tử thi xong ra đi nơi khác thì không
còn nóng nảy nữa, được thoải mái hơn. Tâu Ðại vương, tử thi ấy ví như
Ngũ trần, người thiên tử thi là hành giả hành đúng theo lời Phật giáo
truyền. Sự lánh xa đống lửa là người không còn Ngũ trần, được
đến nơi an vui là Niết Bàn. Tâu Ðại vương còn một lẽ nữa là, có người kia ở
nơi thật nguy hiểm, tâm thường hay kinh sợ những tai nạn bên mình, nên
muốn bỏ nơi ấy, đi đến nơi an tịnh không tai nạn. Nơi tai nạn nguy
hiểm ấy không khác nào Tam giới. Hành giả hành để giải thoát khỏi
nơi ấy, khi được đắc Niết Bàn là không còn khổ nữa thì cũng như
người ra khỏi nơi kinh khủng ấy. Tâu Ðại vương, một ví dụ nữa là như người ở trong
rừng nơi đất trơn trợt ướt át khó đi vì sợ té và rất nhơ nhớp. Người
ấy thấy tai hại nên cố gắng để ra khỏi nơi khô ráo sạch sẽ hơn.
Ðiều này cũng ví như Hành giả trước kia còn là người chưa hiểu
khổ, đi trên con đường lầy lội trơn trợt dễ té gây tai hại, nhờ hiểu
Phật Pháp nên cố đi ra khỏi nơi ấy. Sau khi ra khỏi nơi ấy thì cảm thấy
thật là khoẻ và không còn phải kinh sợ gì nữa, nơi ấy là Niết Bàn? - Bạch Ðại đức, Hành giả hành thế nào gọi là
hành chân chánh đúng theo Phật ngôn và làm thấu rõ Niết Bàn. - Tâu Ðại vương, vị hành giả hằng dùng Trí tuệ
quan sát ngay vào Pháp hành, thấy rõ bốn điều khổ là Sanh, Già, Ðau,
Chết là khổ tuyệt đối nhưng lại còn mến tiếc vì còn nhân
thấy trong ấy còn lẫn có ít vui, hay, đẹp trong khoản đầu hay đoạn giữa
hoặc đoạn chót. Khi ấy tâm còn do dự không biết phải chấp lấy nơi nào.
Cũng như người trông thấy viên sắt đang đốt cháy đỏ cả một ngày rồi
thật rất nóng không biết cầm lấy đoạn nào. Cũng như hành giả trông
thấy Sanh lão bịnh tử của Pháp hành, nhưng không thật là rõ rệt lắm vì
còn quyến luyến, ưa thích phần nào ở đoạn đầu hay đoạn giữa hoặc
đoạn chót, vì vậy nên làm cho tâm phân vân không biết phải cầm lấy
đoạn nào, nơi nào. Vì vậy nên không thấu rõ Niết Bàn. Tâm của vị hành
giả ấy không thỏa thích, không hoàn toàn an trụ, thân này nóng nảy. Hành
giả này không tạo được cho mình nơi nương nhờ vững chắc. Khi nào Tâm hành giả thật là yên tịnh nhận định rõ
rệt chán nãn Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, không còn
ưa thích sự luân hồi. Cũng như người ở gần đống lửa cháy to, nhận thấy
bị thiêu đốt nóng nảy, nên bỏ nơi ấy ra đi. Ðiều này cũng ví như
Hành giả nhận thấy Tam giới nóng nảy như lửa, không còn để cho tâm
quyến luyến thương tiếc. Tâm thấy rõ rằng: Tâm này sanh rồi
diệt, diệt rồi lại sanh ở trong vòng thống khổ, bẩn chật. Chỉ có nơi
thoát khổ là nơi dụi tắt được các pháp hành diệt trừ tận gốc Ái dục,
Tham ái đó là Ðại Niết Bàn. Khi vị hành giả được trông thấy rõ như
vậy: tâm vui vẻ mát mẻ, đã được nơi nương nhờ vững chắc. Ðiều này
có thể ví như người bị lạc đường, khi tìm lại được lối cũ thì lấy
làm vui mừng. Vì thấy mình sẽ đi đến nơi mục tiêu của mình. Hành giả nên cố gắng tin tấn hành đúng theo Chánh
đạo không lâu sẽ đi đế con đường cùng của Tam giới và đến nơi
Thánh vức, nghĩa là đắc được A-la-hán quả thì không còn luân hồi khổ
nữa. Tâu Ðại vương, hành giả hành như đã giải trên
đây, các Ngài gọi là "Làm cho thấu rõ Niết Bàn". - Bạch Ðại đức, trẫm xin vâng giữ nghe theo lời Ngài. -oOo- [Chương
trước][Mục Lục][Chương Kế]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thongkham Medivongs
Phật Giáo và Niết Bàn
2. Kilesabhãra, Gánh nặng phiền não.
3. Abhisankhãbhãra: Tạo tác nghiệp thiện hay ác là gánh nặng.
2. Vị: Niết Bàn có sự bất diệt là Vị.
3. Hiện tượng: Niết Bàn có sự không có giới hạn là hiện tượng.
- Hatthiratanam, Tượng báu.
- Assaratanam, Ngựa báu.
- Maniratanam, Ngọc Ma ni báu.
- Itthiratanam, Vợ báu.
- Gahapatiratanam, Trưởng giả báu.
- Parinãyakaratanam, Quan tướng báu
2. Nước có hai đặc điểm cũng tạm so sánh với đặc ân của Niết Bàn.
3. Thuốc trừ nọc rắn độc có ba đặc điểm tạm so sánh với đặc ân
của Niết Bàn.
4. Ðại dương có bốn đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của Niết
Bàn.
5. Vật thực có năm đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của Niết Bàn.
6. Hư không có mười đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của Niết
Bàn.
7. Ngọc Ma-ni Bửu-châu có ba đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của
Niết Bàn.
8. Lỗi cây Trầm hương có hai đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của
Niết Bàn.
9. Sửa đặc có ba đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của Niết Bàn.
10. Chót núi Giri có năm đặc điểm tạm so sánh với đặc ân của Niết
Bàn.
2. Balavaddhanam. Làm cho chúng sanh có thêm sức lực dồi dào.
3. Vannajanãnam. Làm cho ngưòi có sắc đẹp thêm.
4. Darathavupasamanama. Dụi tắt được sự nóng nảy vì đói của chúng sanh.
5. Jighacchãdubbalapativinodanam. Dụi tắt được sự đói của chúng sanh.
2. Làm cho người đã đắc được Niết Bàn có oai lực thêm lên.
3. Làm cho dung mạo đẹp thêm lên.
4. Dụi tắt được sự nóng nảy buồn rầu là nguyên nhân ở phiền não tạo
thành.
5. Diệt trừ tận gốc của sự đói khổ là sự khổ sở của Phàm nhơn hằng
bị (là sanh, lão, bịnh, tử)
2. Na Miyati: không hề chết.
3. Na Cavati: không hề thay đổi.
4. Na Uppajjati: Không bao giờ sanh.
5. Appaseyham: Không ai hiếp đáp được.
6. Acoragahaniyam: Kẻ trộm, cướp không thể trộm cướp hay giựt lấy được.
7. Anissaitam: Không có nơi cư ngụ (nghĩa là không có chỗ nào trống
rỗng hết, hay nói là bao quát lớn vô bờ bến).
8. Vihangagamanam: Chỉ có các bực có thần thông và chim mới đi nơi ấy được.
9. Niranaranam: Không có vật gì ngăn đón được.
10. Ananantam: Không có nơi cùng tột.
2. Na Niyati: Niết Bàn lời không có chết.
3. Na Cavati: Niết Bàn là nơi không có sự thay đổi.
4. Na Uppajjati: Niết Bàn là nơi không còn Sanh nữa.
5. Appaseyham: Không có ai hiếp đáp được.
6. Acoragahaniyam: Kẻ trộm cướp không thể trộm cướp đem gì đi nơi khác
được.
7. Anissitam: Không có phiền não làm bận rộn nữa.
8. Ariyagamanam: Là nơi đi đến của các bực Thánh nhơn.
9. Niravaranam: Không có vật gì ngăn đón được.
10. Anantam: Không có nơi tận cùng.
2. Ngọc Ma ni bửu châu có tánh cách làm cho con người được an vui thơ
thới.
3. Ngọc Ma ni bửu châu có tánh cách làm cho người được vui vẻ.
2. Niết Bàn làm cho lòng người được an vui thơ thới.
3. Niết Bàn làm cho tâm người được sáng suốt.
2. Mùi thơm tuyệt đối
3. Tất cả ai ai cũng ưa chuộng và ca tụng.
2. Mùi thơm của Tam học là mùi thơm tuyệt đối.
3. Là nơi của các bực Thánh nhơn an nghỉ.
2. Vị thật ngon.
3. Mùi rất thơm.
2. Có vị rất ngon là vị Giải thoát.
3. Có mùi rất thơm là Giới cao thượng.
2. Chót núi Giri không bao giờ rung động.
3. Nơi ấy không có vật gì mọc lên được.
4. Nơi ấy khó có người lên tới.
5. Chót núi Giri không có sự thương, ghét, buồn, giận
2. Niết Bàn không bao giờ biết rung động gì không còn có phiền
não.
3. Niết Bàn là nơi mà phiền não không thể nẩy nở sanh lên được.
4. Niết Bàn là nơi khó có người đến.
5. Niết Bàn là ngoài vòng Tam giới, không có phiền não nên không có
sự thương hay ghét.