BuddhaSasana Home Page Tìm hiểu Ðạo
Phật Chương
16 Bốn mươi lăm năm thuyết pháp,
Ðức Thế Tôn để lại cho đời một kho tàng quý báu, đó là Pháp
Bảo, là lời giảng dạy của Ngài. Pháp bảo ấy chia ra ba phần. Ta thuờng
gọi là Tam-tạng. Phạn ngữ gọi là Tipitaka, có nghĩa là ba nơi chứa
đựng. Tam tạng pháp bảo ấy có ba phần khác nhau gọi là
Kinh, Luật, Luận. Kinh: Phần này thường dạy về phương
pháp kềm hãm Tâm không cho Tâm vọng móng hay ưa muốn trong trần dục,
hoặc giận dữ hay Si mê. Luật: Phần này chuyên dạy về Thân
Khẩu, khép thân khẩu vào trong một khuôn khổ; không cho Thân khẩu làm tội
lỗi. Luận: Phần này dạy thật chu đáo và dạy
về những Pháp rất vi tế thuộc về thành phần của Tâm, ý, Danh
sắc và Niết Bàn. Những Pháp ấy rất là cao siêu. Sự thật khi Ðức Thế Tôn còn tại thế, Phật tử
chỉ có nghe hai tiếng là Kinh và Luật. Nhưng sau khi Ðức Thế Tôn nhập
diệt ba tháng, chư Thánh tăng hợp lại làm lễ Kết lập Tam tạng, có 5
trăm vị Ðại A-la-hán toàn là những hạng đắc Thần Thông. Có Ðại đức Ca
diếp là tọa chủ. Ngài vấn nạn Ðại đức U-ba-li về Luật, có 21
ngàn Pháp môn, Ðại đức Ubali được Ðức Thế Tôn ca tụng là người
thông hiểu Luật nhứt. Còn Ðại đức Ananda, bị vấn về Kinh (và Luận)
có 63 ngàn Pháp môn. Ngài là người được Ðức Thế Tôn ca tụng là hạng
thông suốt Tam tạng. Ngài là kho tàng Pháp bảo. Sau khi Kết lập Tam tạng xong, chư Thánh tăng có mặt
trong lúc ấy đồng ý là chia ra làm ba tạng là Kinh, Luật, Luận (như đã
kể trên) để cho Phật tử sau này học và nghiên cứu. Chẳng những
vậy các Ngài chọn những bài kinh nào dài để lại với nhau gọi là
Trường A-hàm v.v.... Thật là rất có thứ tự. Sutta, Kinh
Trong ba tạng ấy, Tạng kinh có 63 ngàn Pháp môn, chia ra
làm năm bộ là. 1. Digha-Nikaya, có nghĩa là những bài Kinh dài, ta
dịch là Trường-na-hàm. Trong bộ này có 34 bài Kinh, bài thứ nhứt gọi là
Brahmajala-sutta, ta dịch là Phạm Võng. Ðây giải về Tà- kiến. Theo Phạn
ngữ dịch là Lưới Phạm Thiên. Bộ này chia ra làm từng Vagga (phần), có ba Vagga là: a. Silakhandha-vagga có 13 bài kinh. Tổng cộng là 34 bài kinh, có 3000 pháp môn, có 64 Bhana
vara, có 16000 Gatha, có 6000 Gandha, 50 muôn 20 ngàn chữ. 2. Majjhima-Nikaya, có nghĩa là những bài kinh dài
trung bình, ta dịch là Trung A-hàm. Bộ này có 152 bài kinh. Bài thứ nhứt là
Mulapariyaya-Sutta. Bộ này chia ra làm ba Pannasa. A. Mula-pannasa có 50 bài kinh; chia ra làm năm Vagga
(phần) khác nhau là: I. Mulapariyaya-vagga có 10 bài kinh. B. Majjhima-pannasa có 50 bài kinh: I. Gahapati-vagga có 10 bài kinh. C. Upari-pannasa có 52 bài kinh: I. Devadaha-vagga có 10 bài kinh. Bộ này có 3.000 Pháp môn, có 84 Gantha, có 21.000
Gãthã, có 672.000 chữ. 3. Samyutta-Nikãya (có nghĩa là gom góp lại): Bộ
này có những bài kinh dạy về hạng người. Có 7762 bài kinh. Bài thứ nhứt
tên là Oghatarana. Chia làm ba Vagga (phần) là: I. Khuddaka-vagga. Bộ này có 4000 Pháp môn, có một trăm Bhãnavãra, có
25.000 (hai mươi lăm ngàn) Gantha, có 2.500 Gãthã, có 800.000 chữ. 4. Anguttara-Nikãya (họp lại các pháp ngắn):
có Pháp số từ Một chi đến Mười hai chi. Có cả thảy là 9.557 bài kinh.
Bài thứ nhứt tên là Cittapariyãya. Có 12 Anguttara,nhứt là Ekakaka-nipata, có
chót là Ekadasaka-nipata. Có 5.000 pháp môn. Có 127 Bhãnavãra. Có 31.750 Gantha.
Có 31.750 Gãthã. Có 116.000 chữ. 5. Khuddaka-Nikãya. Các đoạn pháp ngắn. Chia ra
làm mười lăm phần: I. Khuddaka-pãtha. Bộ này có 6000 pháp môn. Có 199.491 Bhãmavãra. Có 9
tỷ, 9 triệu 8 trăm ngàn, 7 muôn 2 ngàn 750 chữ Gantha. Vinaya, Luật. Tạng Luật có 5 bộ và tổng cộng là 21.000 pháp môn.
Ðây là luật của các bực xuất gia. 1. Pãrãjika. Dạy về lý do răn cấm, có cả
thảy là 19 điều học. Mười chín điều đó là: bốn pháp Bất cộng
trụ, mười ba Pháp Tăng tàng, hai pháp Bất định. Có 4200 Pháp môn. Có 34
Bhãnavãra. Có 8 Gantha. Có 246.000 chữ. 2. Pãcittiya, ưng đối tri. Có 201 điều
học. Nhứt là 30 pháp Ưng xã đối tri. Có 5.000 Pháp môn. Có 32 Bhãnavãna.
Có 8.000 Gantha. Có 256.000 chữ. 3. Mahãvagga. Phần trọng đại dạy về Tăng
sự, có những đoạn quan trọng chia ra làm Mười Khandhaka nhứt là
Mahãkhandhaka. Có 5100 Pháp môn. Có 40 Bhãnavãra. Có 10.000 Gantha. Có 230.000
chữ. 4. Cũlavagga, Phần nhỏ. Dạy về những Tăng sự
nhỏ của Tăng. Có 12 Khandhaka (phần), nhứt là Kammakhandhaka. Có 3200 Pháp môn.
Có 40 Bhãnavãra. Có 10.000 Gantha. 5. Parivãra, Phần linh tinh. Dạy về sự hội
họp của các Khandhaka. Bộ này gồm các đoạn phụ thuộc làm cho rõ rệt
những điều học trước. Có cả thảy Mahãvãra. Có 3500 Pháp môn. Có 25
Mahãbra. Có 6250 Gantha. Có 200.000 chữ. Abhidhamma, Luận.
Abhidhamma có nghĩa là Vi Diệu Pháp, hay Pháp
Huyền Diệu, ý nói pháp Vi tế cần phải dùng Trí tuệ quan
sát mới thông hiểu được. Tạng này chia ra làm bảy bộ có 42.000 Pháp môn: 1. Dhammasanganĩ. Có hai Pada. Có 4 Kanda. Có 2.300
Pháp môn. Có 22 Bhãnavãra. Có 5.500 Gantha. Có 177.000 chữ. Ðức Phật
thuyết 16 ngày. 2. Vibhanga (nghĩa thành phần khác nhau). Có 18
Vibhanga, nhứt là Khandhavibhanga (thành phần của uẩn). Có 8.500 Gandha. Có 6.500
Pháp môn. Có 34 Bhãnavãra. Có 272.00 chữ. Ðức Phật thuyết 12 ngày. 3. Dhãtukathã (giải về Dhãtu, chất). Có 5
Mãtikã. Có 7000 Pháp môn. Có 2.750 Gandha. Có 88.000 chữ. Ðức Phật thuyết
6 ngày. 4. Puggalapannatti (Tên của nhân vật). Có 6
Pannatti. Có 5.660 Pháp môn. Có 88.000 chữ. Có 11 Bhãnavãra. Có 275 Gantha. Ðức
Phật thuyết 6 ngày. 5. Kathãvatthu (Nói về vật sanh lên do sự nghi
ngờ). Ðức Thế Tôn dùng thần thông hóa ra hai vị, một vị vấn, và một vị
đáp. Vị vấn, vấn 500 câu. Và vị đáp cũng đáp 500 câu. Có 7.100 Pháp môn.
Có 34 Bhãnavãra. Có 8.500 Gatha. Có 270.00 chữ. Ðức Phật thuyết 13 ngày. 6. Mahãpatthãna (nói về sự rộng lớn). Có 24
Paccaya. Có 8.400 Pháp môn. Có 182 Bhãnavãra. Có 45.500 Gantha. Có 139 muôn, 56
ngàn chữ. Ðức Phật thuyết 23 ngày. 7. Yamaka (nghĩa là Pháp có đôi). Có 10 Yamaka.
Có 5100 Pháp môn. Có 12 Bhãnavãra. Có 30.000 Gantha. Có 960.000 chữ. Ðức
Thế Tôn thuyết 13 ngày. Trong bộ chú giải Sumangalavilãsinĩ, Ngài Ðại đức
Budhaghosã có ghi lại lời nói Ðại đức Ananda nói sau khi kết lập Tam tạng
kỳ nhứt xong như vầy: Dvãvisati Duddhato Ganhim. Những pháp nào ngự trong tâm tôi và do nơi khẩu tôi
thuyết ra. Những Pháp ấy có Tám muôn bốn ngàn Pháp môn. Tôi đã được
học hỏi ngay với Ðức Thế Tôn chỉ có Tám muôn ngàn Pháp Môn. Học
hỏi với các vị Tỳ-khưu, nhứt là Ngài Ðại đức Xá-lợi Phất Hai ngàn Pháp
môn. Xin lưu ý: Những lời của chư A-la-hán thuyết,
được Ðức Thế Tôn nhìn nhận là đúng. Nhưng những lời ấy chỉ có trong
Tạng Kinh, bộ Khuttakanikãya chớ không có trong Tạng Luật. - Hết - Chân thành cám ơn anh HDC đã có thiện tâm giúp
tổ chức đánh máy vi tính (Bình Anson, tháng 6, 2000).
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thongkham Medivongs
Pháp Bảo
b. Maha-vagga, có 10 bài kinh.
c. Pathika-vagga, có 11 bài kinh.
II. Sihanada-vagga có 10 bài kinh.
III. Opama-vagga có 10 bài kinh.
IV. Mahayamaka-vagga có 10 bài kinh.
V. Culayamaka-vagga có 10 bài kinh.
II. Bhikkhu-vagga có 10 bài kinh.
III. Paribbajaka-vagga có 10 bài kinh.
IV. Raja-vagga có 10 bài kinh.
V. Brahmana-vagga có 10 bài kinh.
II. Anupada-vagga có 10 bài kinh.
III. Sunnata-vagga có 10 bài kinh.
VI. Vibhanga-vagga có 12 bài kinh.
V. Salayatana-vagga có 10 bài kinh.
II. Chalayatana-vagga.
III. Sagãthã-vagga.
II. Dhammapada.
III. Udãna.
IV. Itivuttaka.
V. Suttanipãta.
VI. Vimãnavatthu.
VII. Petavatthu.
VIII. Theragathã.
IX. Therĩgãthã.
X. Jãtaka.
XI. Niddesa
XII. Patisambhidã.
XIII Apadãna
XIV. Buddhavamsa.
XV. Cariya-pitaka.
Dve Sahassãni Bhikkhuto
Caturãsĩti Sahassãni.
Ye ye Dhamgã Pavantito.