KINH TỤNG HẰNG NGÀY

MỤC LỤC

KINH TỤNG HẰNG NGÀY

PHỤ LỤC

Phụ Lục 1: TÓM TẮT NỘI DUNG 49 BÀI KINH

1. Thi Kệ Cuộc Đời Đức Phật

2. Kinh Chuyển Pháp Luân

3. Kinh Người Áo Trắng

4. Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp

5. Kinh Nền Tảng Đức Tin

6. Kinh Từ Tâm

7. Kinh Phước Đức

8. Kinh Sáu Pháp Vô Thượng

9. Kinh Hiền Nhân

10. Kinh Quốc Gia Cường Thịnh

11. Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã Hội

12. Kinh Bảy Loại Vợ

13. Kinh Người Vợ Mẫu Mực

14. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

15. Kinh Mười Pháp Quán Niệm

16. Kinh Quy Luật Cái Chết

17. Kinh Nhổ Mũi Tên Sầu Muộn

18. Kinh Nhận Thức Vô Thường và Đau Khổ

19. Kinh Cúng Thí Người Mất

20. Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh

21. Kinh Na-tiên Đàm Đạo

22. Kinh Sống và Tu trong Hoà Hợp

23. Kinh Tôn Trọng các Pháp Môn

24. Kinh Bốn Mươi Hai Bài

25. Kinh Chủ Trương của Như Lai

26. Kinh Quan Niệm về Như Lai

27. Kinh Biết Sống Một Mình

28. Kinh Ba Cánh Cửa Giải Thoát

29. Kinh Dụ Ngôn Bọt Nước

30. Kinh Chánh Kiến

31. Kinh Dụ Ngôn Người Bắt Rắn

32. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

33. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm

34. Kinh Mười Pháp Đến Bờ Kia

35. Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Hàng Bồ-tát

36. Kinh Dẫn Nhập Đại Thừa

37. Kinh Bốn Điều Nương Tựa

38. Kinh Chỉ Bày Chân Tâm

39. Kinh Cúng Dường Pháp

40. Kinh Hạnh Trẻ Thơ

41. Kinh Hạnh Bồ-tát

42. Kinh Lục Độ Dung Thông

43. Kinh Chỉ Bày Phương Tiện

44. Kinh Ý Nghĩa Bát-nhã

45. Kinh Trí Tuệ Kim Cương

46. Kinh các Pháp Tu Viên Thông

47. Kinh Thể Nhập Pháp Môn Không Hai

48. Kinh Viên Giác

49. Kinh Lời Dạy Sau Cùng

Phụ Lục 2: CHÚ THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ DANH TỪ RIÊNG

Phụ Lục 3: VỀ MỘT BỘ KINH THÁNH PHẬT GIÁO

I. Nhu cầu của một bộ kinh thánh Phật giáo: những dấu hiệu đáng mừng và những điều lo ngại

II. Các khó khăn về việc hình thành một bộ kinh thánh Phật giáo

III. Nội dung cần có của một bộ kinh thánh Phật giáo

IV. Phương cách trình bày bộ kinh thánh Phật giáo

V. Phương pháp tổ chức biên soạn bộ kinh thánh PG

VI. Thay lời kết

Phụ Lục 4: CÁC NGÀY LỄ TRONG HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO

Tháng giêng

Tháng hai

Tháng ba

Tháng tư

Tháng sáu

Tháng bảy

Tháng chín

Tháng mười một

Tháng chạp

Phụ Lục 5: CÁC NGÀY ĂN CHAY


PHỤ LỤC

Phụ Lục 1: TÓM TẮT NỘI DUNG 49 BÀI KINH

Dưới đây là phần tóm tắt nội dung của bốn mươi chín bài kinh trong bộ Kinh Tụng Hằng Ngày, để giúp cho người đọc tụng kinh nắm bắt được chủ đề và nội dung căn bản của kinh. Trong phần này, soạn giả không chú ý đến việc phân tích và bình giảng nội dung của các kinh như những tác phẩm chuyên chú giải về Kinh xưa nay. Phần tóm tắt này chỉ đóng chức năng “gợi ý” cho người đọc nắm bắt được ý chính của kinh. Người đọc tụng cần phải tự mình suy nghĩ, chiêm nghiệm và nghiền ngẫm nghĩa lý ẩn chứa trong kinh để phát hiện hết những chân lý sâu xa, vi diệu trong từng chữ, từng lời, từng câu, từng đoạn và từng bài kinh mà phần tóm tắt không sao nêu ra hết được. Sau đó, người thọ trì nên ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày, đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Được như vậy thì sự đọc tụng mới thật sự được lợi lạc.

1. Thi Kệ Cuộc Đời Đức Phật

Do cư sĩ Phan Khắc Nhượng diễn thơ dựa vào tác phẩm Tiểu Sử Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong Phật học Phổ Thông của HT. Thích Thiện Hoa, có tham khảo tác phẩmLịch sử Đức Phật Thích-ca. của HT. Thích Minh Châu. Nguyên tác thi kệ gồm 900 câu, soạn giả đã tỉnh lược một phần ba, nhuận thơ và hiệu đính tư tưởng giáo lý và các sự kiện lịch sử theo truyền thống Đại thừa, có đối chiếu với các tài liệu về cuộc đời đức Phật trong kinh điển Nam tông.

Thi kệ chia làm ba phần chính. Phần thứ nhất miêu tả sự đản sinh, dòng họ gia thế của đức Phật, trình bày tài đức siêu quần của Ngài, đời sống vương giả vợ đẹp con xinh không thể kềm chân Ngài trước lý tưởng xuất gia, cầu quả vị giác ngộ giải thoát. Phần thứ hai trình bày ý chí xuất trần của Phật, trải qua sáu năm khổ hạnh rừng sâu, tu tập tất cả các pháp môn nổi tiếng lúc bấy giờ. Ngài đã chóng chứng ngộ các pháp tu đó nhưng rồi Ngài nhận ra rằng các pháp này chưa đưa đến giải thoát thật sự. Cuối cùng Ngài từ bỏ khổ hạnh, chuyên tâm thiền định, quán lý Duyên Khởi và Trung Đạo mà thành Phật. Phần ba nói về sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của Phật trong suốt 49 năm, bao gồm sự hóa độ theo căn cơ thứ lớp, vận dụng nhiều phương tiện, và độ tất cả những người hữu duyên với tinh thần bình đẳng. Bài thi kệ kết thúc bằng cách nhắc lại những lời giáo huấn sau cùng của Phật trước khi Ngài Niết-bàn vô dư.

Mục đích của thi kệ này là giúp người đọc tụng ôn lại cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp độ sanh của Phật trước khi đi vào các giáo pháp căn bản mà ngài đã dạy, trong 48 bài kinh tiếp theo sau. Nhờ vậy, người đọc tụng và thọ trì kinh điển có thể phát lòng tôn kính đối với Phật và giáo pháp cao thượng của Ngài.

2. Kinh Chuyển Pháp Luân

Bản kinh này do soạn giả dịch từ bản tiếng Anh The Book of Kindred Sayings của Hội Thánh Điển Pāli, vốn có xuất xứ từ bài Dhammacakkappavattana Sutta (S. V. 420-423) và phần Ðại Phẩm (Mahāvagga) thuộc Tạng Luật (Vinaya pitaka) của Tam Tạng Pāli. Người dịch cũng có đối chiếu với bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu trongKinh Tương Ưng, V. 610-16 (ấn bản Đại Tạng Kinh Việt Nam) và các bản dịch tiếng Việt hiện có.

Đây là bài pháp đầu tiên của đức Phật, sau khi ngài thành tựu đạo quả giác ngộ vô thượng Bồ-đề theo truyền thống Nam tông. Về phương diện lịch sử, bài pháp được Phật nói cho những người bạn đồng tu khổ hạnh ngày xưa là năm anh em tôn giả Kiều-trần-như tại vườn Nai, Isipatana, gần Benares. Về phương diện triết lý, bài kinh giới thiệu và khẳng định con đường Trung Đạo, không phải là con đường ở chặng giữa mà là con đường vượt lên trên hai lối sống cực đoan: xem sự hưởng thụ khoái lạc giác quan như là hạnh phúc cao nhất, và lối tu khổ hạnh ép xác như là con đường dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau.

Hưởng thụ dục lạc giác quan là lối sống của đức Phật khi ngài còn là đông cung thái tử trong khi khổ hạnh ép xác là lối tu tập của ngài với những người bạn đồng tu, trong suốt sáu năm tầm cầu chân lý. Cả hai đều thấp kém, vô vọng, và không dẫn đến giải thoát. Con đường hưởng thụ dục lạc như chúng ta đã chứng kiến trong đời, mang lại nhiều đau khổ: trong vui đã có sẵn mầm mống của đau khổ, tạm bợ và mong manh. Con đường khổ luyện để mong được giải thoát đã trở thành một cực đoan đối lập, làm bại hoại thân thể và do đó, hành giả không thể còn minh mẫn để hướng tâm tu tập thiền định và giải thoát. Tự mình kinh qua hai lối sống đó, đức Phật cuối cùng nhận chân ra được con đường Trung đạo, vượt lên trên hai cực đoan thấp kém và hướng đến cứu cánh giải thoát. Đó là con đường gồm tám yếu tố: quan niệm chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nỗ lực chân chánh, chánh niệm và thiền định chân chánh.

Quan điểm chân chánh là cái nhìn mọi sự vật hiện tượng dưới nhãn quan duyên khởi, không có nguyên nhân đầu tiên của thế giới, không có Thượng Đế, tất cả đều vận hành chuyển biến và không thực thể. Tư duy chân chánh là những nếp nghĩ suy vượt khỏi các đối tượng tham ái, sân hận và tổn hại. Nó bao gồm những tư duy đối lập với ba tư duy trên và hướng đến mục đích lợi mình và người khác. Lời nói chân chánh bao gồm tuyên bố sự thật, không nói lời gây sự chia rẽ, không dệt hoa thêu gấm, không nói lời tục tĩu và không nói tán dóc hay những lời không có lợi cho sự phát triển của đạo đức và trí tuệ. Hành vi chân chánh bao gồm các hành động của thân thể, lời nói và tác ý hướng đến các giá trị đạo đức. Đó là hành vi vị tha, lợi ích cho mình và cộng đồng xã hội. Nghề nghiệp chân chánh bao gồm các nghề nghiệp không liên can đến sự lừa đảo, dối trá, luồn cúi, buôn thần bán thánh, buôn bán vũ khí, buôn bán rượu và các chất kích thích có hại cho thể chất và tinh thần. Nó còn đi ngược lại với các nghề buôn lậu, buôn nô lệ, bán súc vật, bán thân nuôi miệng, bói toán xem quẻ. Nói chung nó bao gồm các kế sanh nhai lành mạnh, hiền lương, hướng đến sự phát triển đời sống đạo đức bản thân và phúc lợi xã hội. Nỗ lực chân chánh là những cố gắng theo đuổi các mục đích thiện ích, chấm dứt các nghiệp bất thiện, hướng đến sự thành tựu đời sống tâm linh và đạo đức. Chánh niệm là ý thức và sự tập trung chân chánh, về các đối tượng nội tại và ngoại tại một cách không vướng mắc. Nó là tiến trình quan sát và phản ánh về thế giới của các kinh nghiệm giác quan và năm nhóm nhân thể. Nó còn bao gồm các ý thức đứng đắn về các hoạt động của thân thể, về cảm giác, về tâm và các ý niệm của tâm. Và thiền định chân chánh là sự chuyên nhất của tâm trong các đối tượng thiền quán. Đó là trạng thái an chỉ và sự phát triển an chỉ, hướng đến sự chứng đắc hạnh phúc tối thượng, Niết-bàn.

3. Kinh Người Áo Trắng

Kinh này do HT. Thích Nhất Hạnh dịch từ Kinh Ưu-bà-tắc, số 128, thuộc Trung A-hàm, có tham khảo Anguttara Nikāya, III. 211.

Kinh này đức Phật dạy cho tôn giả Xá-lợi-phất, cư sĩ Cấp Cô Độc và 500 vị Phật tử khác. Nội dung kinh giới thiệu nếp sống đạo đức thanh cao của người Phật tử tại gia, trong việc góp phần kiến tạo một con người gương mẫu, một gia đình hạnh phúc, một đất nước an bình, thịnh vượng và một thế giới an lạc, không còn chiến tranh. Nếp sống đó bao gồm năm nguyên tắc đạo đức và bốn pháp quán tưởng song hành với bốn tâm cao thượng.

Trước nhất về năm nguyên tắc đạo đức. Nguyên tắc thứ nhất là người Phật tử từ bỏ sự giết chóc, buông bỏ khí giới, tu tập tình thương đối với con người, loài vật và sinh thái. Nguyên tắc thứ hai là từ bỏ sự trộm cướp, không cho mà lấy, các hình thức bóc lột, tham nhũng, biến của công thành của riêng v.v… Đồng thời phát triển tâm rộng lượng, giúp đỡ tài sản, vật chất và tình thương cho người khác. Nguyên tắc thứ ba là từ bỏ quan hệ tình cảm phi pháp và bất chánh. Tôn trọng và bảo vệ hạnh phúc lứa đôi của kẻ khác. Nguyên tắc thứ tư là xa lìa các hình thức nói dối, nói lời độc ác, nói lời gây chia rẽ, nói lời vô ích; đồng thời phát triển lời chân thật, từ ái, hài hòa, xây dựng đoàn kết và có ích cho người nghe. Nguyên tắc thứ năm là từ bỏ các hình thức uống rượu, hút thuốc, sử dụng các kích thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí. Đồng thời góp phần tuyên truyền một đời sống lành mạnh.

Để có được bốn tâm cao thượng là tâm thương người và vật, tâm cứu khổ ban vui, tâm hoan hỷ và tâm xả bỏ mọi chấp thủ, người Phật tử nên tu bốn pháp quán niệm sau đây. Quán niệm thứ nhất là quán tưởng với chánh kiến rằng đức Phật là bậc giác ngộ viên mãn, đạo đức và trí tuệ toàn vẹn, là bậc Thầy đáng nương tựa và học hỏi của nhân loại và chư thiên. Nhờ quán tưởng như thế, hành giả an trụ vào tâm cao thượng thứ nhất là tâm từ. Bởi lẽ trí tuệ và đạo đức của đức Phật là để phục vụ cho sự an lạc và lợi ích cho con người. Quán niệm thứ hai là quán tưởng với chánh kiến rằng lời Phật dạy (chánh Pháp) rất thực tiễn, đem lại lợi ích hiện tại và tương lai, được người trí khen ngợi và học hỏi, có khả năng hướng thượng. Nhờ quán niệm như vậy, hành giả an trú vào tâm cao thượng thứ hai là tâm bi. Nói cách khác, giáo pháp của đức Phật có công năng thanh tẩy ác, bồi dưỡng thiện, giúp cho chúng sanh hết khổ được vui. Quán niệm thứ ba là quán tưởng với chánh kiến rằng đoàn thể Tăng Ni tu tập Phật đạo là đoàn thể thanh tịnh, với quyết tâm đạt được thánh quả, thành tựu đạo đức, thiền định và trí tuệ, có khả năng cứu giúp cuộc đời, đáng được cung kính, cúng dường và noi gương học hỏi. Nhờ quán sát như vậy, hành giả an trụ được tâm cao thượng thứ ba là hoan hỷ. Nói cách khác, cung kính và hỗ trợ sự tu học và làm Phật sự của quý Tăng Ni là một hạnh tùy hỷ hay hoan hỷ với các thành tựu về đạo đức và trí tuệ. Quán niệm thứ tư là quán tưởng với chánh kiến rằng giới luật của Phật là hoàn hảo, có khả năng giúp chúng ta an trụ vào đạo đức của Như Lai. Nhờ quán tưởng như vậy, hành giả an trụ được tâm cao thượng thứ tư là tâm xả, buông bỏ tất cả các chấp thủ về bản thân như ngã và thế giới là thường còn.

Nói tóm lại, người tu tập và truyền bá năm nguyên tắc đạo đức, bốn pháp quán tưởng Phật, Pháp, Tăng và Giới luật và bốn tâm cao thượng sẽ từng bước sống an lạc và hạnh phúc ở đời này. Người như vậy là người xây dựng Tịnh Độ tại nhân gian, biến đau khổ thành an lạc.

4. Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp

Kinh này do cư sĩ Phan Khắc Nhượng dịch từ bản dịch tiếng Anh của HT. Narada, vốn dịch từ bản Pāli có tên là Dhammapāda. Trong khi dịch, dịch giả cũng có đối chiếu với bản chữ Hán và các bản dịch tiếng Việt Kinh Pháp Cú của HT. Thích Minh Châu và HT. Trí Đức (Thích Thiện Siêu). Bản dịch được soạn giả hiệu đính và nhuận văn vào năm 1992. Tựa đề của kinh được dịch giả ghi là Kinh Pháp Cú như các bản dịch xưa nay. Soạn giả đã đổi thành Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp, để phù hợp với hình thức và nội dung của Kinh.

Dhammapāda không phải là một bài kinh được đức Phật tuyên thuyết trong một pháp hội, như phần lớn các kinh khác, mà do các vị thánh đệ tử tuyển chọn và kết tập lại phần lớn từ bốn bộ kinh Nikāya. Dhamma có nhiều nghĩa nhưng ở đây có nghĩa là “giáo pháp” hay “chánh pháp” và pāda có nghĩa là câu, và có thể hiểu ý là danh ngôn. Do đó, tựa kinh có thể dịch thoát là Kinh Tuyển Tập Lời Vàng của Phật, hay Kinh Danh Ngôn của Phật, hay Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp. Như bản nguyên tác tiếng Anh và tiếng Pāli, bản dịch có đủ 423 câu. Nhưng vì có nhiều câu trùng lập ý tưởng lẫn nhau, hoặc được trình bày theo các cặp đối lập (chẳng hạn như phẩm Song Đối), soạn giả chỉ tuyển chọn 153 câu có nội dung tiêu biểu nhất. Kinh này như là sách gối đầu giường của Tăng Ni và Phật Tử Nam tông, trên con đường tu học chánh pháp của Phật.

Phần lớn các câu kệ này đều có nội dung độc lập; một số khác cùng chủ đề nhằm để minh hoạ cho nhau; cốt để giáo dục đạo đức và trí tuệ cho người tầm cầu đạo giải thoát. Ở mức độ ứng dụng thấp hơn, mỗi câu kệ trong kinh này có thể được xem như những khuôn vàng thước ngọc để ứng dụng xử thế, một cách khôn ngoan, giúp cho người đọc tụng và thọ trì có khả năng tự lập, tự tu, tự vượt thoát khỏi các gian khó trong đời và đạo. Kinh này có thể được xem như là tinh hoa của lời Phật dạy trong gần 50 năm thuyết pháp độ sinh của Ngài, được trình bày dưới dạng kệ thơ, dễ nhớ, dễ thuộc. Người tu học Phật nếu không có thời giờ đọc tụng Ba kho tàng kinh điển Phật giáo, có thể đọc kinh này để nắm lấy ý chỉ mà vào đạo.

5. Kinh Nền Tảng Đức Tin

Tựa đề nguyên tác Pāli là Kālāma Sutta (A. I. 189-92). Soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (III. 539-43, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng Anh Those of Kesaputta thuộc The Book of Gradual Sayings (I. 170-5), Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1989). Soạn giả đã đặt lại tựa kinh để làm nổi bật nội dung chính của Kinh. Nhân sự kiện dân chúng Kālāma hoang mang về sự kiện nhiều nhà tôn giáo ca ngợi tôn chỉ của mình trong khi hết lời chỉ trích tôn giáo khác, thỉnh cầu Ngài dạy dỗ. Đức Phật đã tuyên nói về mười nền tảng của một đức tin chân chính.

Đức Phật khuyên mọi người sống với lý trí, không nên vội tin bất cứ điều gì, chỉ vì điều đó là: (1) truyền thuyết, (2) truyền thống, (3) tuyên truyền, (4) kinh điển, (5) lý luận logic, (6) phù hợp lập trường mình, (7) không đủ bằng chứng, (8) phù hợp định kiến của mình, (9) có thế lực ủng hộ, (10) các đạo sư hay nhà lãnh đạo tôn giáo nói.

Bên cạnh mười nền tảng này làm thước đo chân lý đúng sai, đức Phật còn khuyên mọi người nên suy nghĩ thật chín chắn, thể nghiệm giá trị đạo đức và lợi ích của nó trước khi nên tin theo một điều gì. Chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, điều nào nếu ứng dụng sẽ mang lại lợi ích, phúc lợi, an lạc cho mình và người ở hiện tại cũng như tương lai thì hãy tin theo. Ngược lại, hãy đặt vấn đề và từ chối chúng.

Có thể nói đây là nền tảng của một niềm tin khoa học, một niềm tin có trí tuệ, một niềm tin cần thiết cho sự tu học của tất cả những ai muốn hướng mình đến an lạc và giải thoát chân chánh.

6. Kinh Từ Tâm

Nguyên tác tiếng Pāli của kinh này là Metta Suttamột bài kinh ngắn trong bộ Kinh Tập (Sutta Nipāta) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikāya). Bản diễn thơ này được Tỳ-kheo Đệ Tử Phật dựa theo bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (III, 11-14, ấn bản 1988).

Bản kinh chứa tải nhiều giá trị đạo đức rất cao, nhất là hạnh ban rải tình thương đến con người và các loài động vật một cách không phân biệt. Tình thương hay từ bi trong Phật giáo là một thứ tình thương siêu vượt khỏi giới tính, thân sơ, bạn thù, ta người. Nó là một thứ tình thương vượt biên giới của tình cảm và tâm lý nhị nguyên. Tình thương như vậy chỉ có thể phát xuất từ một tấm lòng bao la, vô ngã, không vị kỷ, để cứu giúp tất cả chúng sanh đang đau khổ.

Đức Phật khẳng định rằng người tu tập và phát triển tâm từ như vậy sẽ hưởng được an lạc hiện đời và về sau. Về phương diện hiện tại, người tu tâm từ sẽ có giấc ngủ an lành, không có mộng mị khiếp đảm. Khi đi đứng và lúc nằm ngồi, tâm tư luôn thấm nhuần an lạc. Người tu tâm từ như vậy sẽ được mọi người đem lòng kính mến, tin phục, hộ trì và giúp đỡ. Về phương diện đời sau, người có tâm từ sẽ được sanh về cảnh giới tốt. Nếu sanh làm người thì không có kẻ thù, không bị ai hiềm khích, hãm hại, sống trong sự an lành và hạnh phúc. Nói chung hạnh từ tâm không chỉ làm thanh tịnh thân tâm hành giả mà còn có tác dụng chuyển hóa cuộc đời đau khổ, phân chia, tranh chấp, hiềm hận, thù hằn thành an lạc, không phân chia, không tranh chấp, không hiềm hận và không thù hằn. Nói cách khác nơi nào có tình thương vô ngã thì nơi đó có hình bóng của hòa bình, an lạc và giải thoát.

7. Kinh Phước Đức

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh, có xuất xứ từ MahāmangA-la Sutta, một bài kinh trong bộ Kinh Tập (Sutta Nipāta) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya). Nội dung của kinh đề cập đến mười phương pháp tạo nên phước đức / cát tường hay hạnh phúc (mangA-la) cho mình và tha nhân và nói chung cho toàn thể nhân loại. Bài kinh được xem là cẩm nang tu thân, tề gia và an bình xã hội, qua những dòng thơ kệ ngắn gọn.

Phương pháp thứ nhất là lánh xa môi trường xấu, thân cận bậc hiền đức, tôn kính và cầu học ở bậc đạo đức. Phương pháp thứ hai là tận dụng cuộc sống hiện tại để gieo trồng các hạt giống lành mạnh và đạo đức. Phương pháp thứ ba là ổn định nghề nghiệp chân chánh, sống cuộc đời thanh bần đạo đức, lời nói ôn hòa, ái kính. Phương pháp thứ tư là hiếu kính mẹ và cha, thương yêu và bảo hộ gia đình bằng sức mạnh của đôi tay và trí thông minh chân chính, hợp pháp. Phương pháp thứ năm là sống cuộc đời thanh liêm, chính trực, không chịu khuất phục trước gian tà, biết mở lòng thương, giúp đỡ người nghèo khó và thân bằng quyến thuộc.

Phương pháp thứ sáu là từ bỏ vĩnh viễn các hành vi xấu ác và phi pháp, không đam mê rượu chè, hút sách, cờ bạc, ăn chơi sa đọa, sống tinh cần và làm việc lành trong từng phút giây của cuộc sống. Phương pháp thứ bảy là biết khiêm cung, lễ độ, kính trên nhường dưới, biết tiết kiệm để phòng hờ về sau, biết ân và trả ơn người đã giúp đỡ và dạy dỗ mình và không bỏ quên việc học đạo, trau dồi đạo đức và trí tuệ. Phương pháp thứ tám là biết kiên trì, nhẫn nại trước gian khó, thân cận và học hỏi các bậc thầy, phục thiện khi sai lầm và trau dồi phẩm cách, đạo đức cho hoàn thiện hơn. Phương pháp thứ chín là sống chánh niệm và tỉnh giác trong từng hơi thở, ra sức học chánh pháp không mệt mỏi, để thể chứng an lạc và giải thoát. Phương pháp thứ mười là giữ tâm bất động trước các ngọn gió khen chê, vui buồn, được mất, thành bại của cuộc đời; giữ tâm an nhiên trong đời như hoa sen trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Sống trong đời ô trược nhưng tỏa ra thanh tịnh và giải thoát.

Đây là mười phước lành giúp cho con người sống cuộc đời an vui và hạnh phúc tại thế gian này. Đời sau nếu sanh làm người thì chắc chắn sẽ sanh trong gia đình giàu có và an lạc. Bằng không, sẽ sanh về các thế giới chư thiên, tiếp tục tu tập bất thối chuyển.

8. Kinh Sáu Pháp Vô Thượng

Bài kinh có xuất xứ từ A. III. 324-8, được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (II. 319-322, ấn bản năm 1988) có tham khảo bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (III. 229-32) của hội Thánh Điển Pāli.

Bài kinh trình bày sáu cặp quan điểm hoàn toàn đối nghịch nhau: một đàng thuận theo dòng đời và đàng còn lại ngược dòng đời. Cặp đối lập thứ nhất là: nếu người đời thích xem các bảy báu thế gian và thăm viếng các Bà-la-môn có tà kiến tà hạnh, thì người Phật tử chỉ nên yết kiến Thế Tôn và các hàng Thánh Tăng. Cặp đối lập thứ hai là: nếu người đời thích nghe các loại nhạc cụ, bài ca thế gian, hoặc lời của các Bà-la-môn nói, thì người Phật tử chỉ nên thích nghe chánh pháp. Cặp đối lập thứ ba là: nếu người đời cảm thấy hạnh phúc khi có được người bạn đời, con cái, tài sản v.v... thì người tu đạo giải thoát chỉ hạnh phúc với các tài sản thánh. Cặp đối lập thứ tư là: nếu người đời vui sướng khi học các ngành nghề thế gian thì người tu đạo giải thoát cảm thấy vui sướng khi trau dồi ba học thánh đó là giới định và tuệ. Cặp đối lập thứ năm là: nếu người đời hạnh phúc khi được hầu cận và phục dịch vua chúa và hàng phú quý thì người Phật tử cảm thấy hạnh phúc khi được phụng sự Tam Bảo. Và Cặp đối lập sau cùng là: nếu người đời hạnh phúc khi nhớ nghĩ đến vợ con, tài sản, thầy tà bạn xấu thì người tu đạo giải thoát cảm thấy hạnh phúc khi nhớ đến Phật, Pháp, Tăng, đạo đức và việc làm thiện.

Qua sáu cặp phạm trù khác biệt về sở thích này, chúng ta thấy đạo Phật quả là “đạo ngược đời” hay “đạo đi ngược dòng đời,” để hướng đến dòng thánh, dòng an lạc và dòng giải thoát.

9. Kinh Hiền Nhân

Bài kinh do cố HT. Thích Hành Trụ dịch và HT. Thích Nhất Hạnh nhuận văn. Nội dung kinh dạy về phép trị quốc an bang, dưới hình thức đối đáp giữa một đức vua và Hiền Nhân, một bậc đạo đức thông tuệ, tiền thân của Phật Thích-ca. Bài kinh có thể được xem là cẩm nang của những kẻ cầm cân nảy mực, trong chí hướng đưa đất nước tiến đến đời sống giàu mạnh về vật chất, an lạc về tâm linh, toàn dân thuần hoà, vui vẻ, bốn biển một nhà, trên dưới hòa thuận đều chung sức gây lại một cuộc thái bình, thạnh trị. Đây là phép trị nước theo quan điểm Phật giáo Đại thừa, công thành thân thoái. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ biết làm lành, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ tu hành truyền bá chánh đạo, góp phần làm giàu mạnh đất nước.

Kinh cũng vạch ra những nét tiêu cực của nhiều chế độ lỏng lẻo về quản lý, tin dùng các nịnh thần, nạn tham nhũng hối lộ lan tràn không chỉ làm cho đất nước lâm nguy mà còn đem lại cơ cực và đau khổ cho người dân. Thông qua đó, bài Kinh khuyên các bậc vua chúa nên giao việc trị nước cho người hiền, phó thác việc trọng đại cho bậc tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt kẻ gian ác, không tin nghe kẻ nịnh thần.

Bậc Đại Nhân ở đây không chỉ là người thấu suốt nhân quả, thể hiện lòng nhân từ độ lượng, mà còn đại diện cho hình ảnh Bồ-tát trong cuộc sống đời thường. Bài kinh còn dạy về nhân quả báo ứng, họa phúc rõ ràng như âm vang theo tiếng, bóng theo hình. Tất cả sự thiên sai vạn biệt trong thế gian như kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ nhiều bệnh, người ít bệnh, kẻ xấu xa, người tốt đẹp, kẻ nghèo hèn, người giàu sang, đều do hành vi tác tạo có chủ ý của con người; không có ông Thượng Đế hay thần linh nào can thiệp hay ban phước giáng hoạ. Hoạ phước hay hạnh phúc khổ đau đều do con người tạo ra và do đó con người phải chịu trách nhiệm về đời sống đạo đức của mình.

Kinh còn đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau như phép giao du kết bạn, bốn điều không nên tin, năm cái đáng ghét, năm tính tốt, tám dấu hiệu của ghét nhau, tám điều kiện hạnh phúc, tám điều nên yêu thích, mười yếu tố xác định người trí, mười dấu hiệu của tình người, mười điều khó khuyên can, mười trường hợp không nên nói, mười dấu hiệu của người nữ bất khả tín, mười đối tượng mà mình không nên mời về nhà, mười hạnh tốt, mười điều hổ thẹn, mười hai điều luôn phải nghĩ tới không bao giờ lãng quên, mười hai điều khó, mười lăm tội nặng và bốn mươi lăm việc của bậc trí, v.v...

Nói tóm lại bài kinh này là một cẩm nang xử thế, mỗi lời mỗi câu là những khuôn vàng thước ngọc của phép tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ, thấm nhuần trí tuệ siêu phàm, có giá trị ứng dụng không chỉ cho con người hôm nay mà còn cả ngàn sau.

10. Kinh Quốc Gia Cường Thịnh

Bài kinh có xuất xứ từ Anguttara Nikāya (IV. 16-8), được soạn giả tóm lược từ bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (II. 415-55, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (IV. 11-3 Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1988). Tựa đề của kinh do dịch giả ra đặt cho phù hợp với chủ đề và nội dung của Kinh.

Nhân sự kiện vua A-xà-thế định trả thù nước Bạt-kỳ (Vajji) bằng cách cất quân xâm chiếm nước này, sai đại thần đến thỉnh ý Phật, đức Phật đã dạy về bảy tiêu chí làm cho một đất nước cường thịnh, đồng thời có thể bảo vệ được bờ cõi và đảm bảo được đời sống thanh bình cho muôn dân. Bài kinh cho thấy mặc dù đức Phật không trực tiếp đàm luận về vấn đề chính trị, chiến tranh và chiến lược, nhưng những điều Ngài gián tiếp nói về sự cường thịnh và bất khả chiến bại của đất nước Vajji đã làm cho vua A-xà-thế từ bỏ mộng báo thù. Điều đó cho thấy đạo Phật không đứng ngoài đời, không xoay lưng với các vấn đề của con người, chẳng những không chán đời mà rất lạc quan với một đời sống lợi mình, lợi người trong hoà bình và thạnh trị.

Một xã hội an bình và thạnh trị theo đức Phật không nhất thiết giàu có về vật chất, đầy đủ các tiện nghi hiện đại như các nước đại tư bản hiện nay, mà là một xã hội mà các vị lãnh đạo và nhân dân của nước đó: 1. thường nhóm hợp với nhau, 2. tụ hợp, làm việc và giải tán trong tinh thần đoàn kết, 3. không ban hành những luật lệ không cần thiết và không huỷ bỏ các luật pháp thích đáng, 4. tôn trọng, lắng nghe và học hỏi những bậc trưởng thượng, 5. không cưỡng bức, không chà đạp phụ nữ, 6. tôn trọng và giúp đỡ các cơ sở tôn giáo, 7. bảo hộ và giúp đỡ cho các bậc thánh nhân và các nhà tu hành chân chánh truyền bá đạo.

Yếu tố đầu có thể bao gồm các hình thức họp quốc hội, các đại hội khoáng đại để trưng cầu dân ý, phát huy và phát triển chính sách có lợi cho đất nước và nhân dân. Yếu tố thứ hai nhằm loại bỏ các chủ nghĩa cá nhân, địa phương để hướng đến việc hình thành vào bảo vệ sự hoà hợp và đoàn kết trong các hội đoàn và cộng đồng xã hội. Yếu tố thứ ba liên hệ đến ý thức tôn trọng và sống phù hợp với luật pháp, bảo vệ các phong tục và truyền thống tốt của một quốc gia, không ban hành các chính sách hà khắc dân. Yếu tố thứ tư tạo nên sự hài hoà giữa các thế hệ già và trẻ, bằng thái độ ứng xử tôn trọng và lắng nghe những người trưởng thượng và các thế hệ đi trước. Yếu tố thứ năm nhằm bảo vệ quyền bình đẳng và các quyền con người của phụ nữ, giúp họ đứng vững và góp phần làm xã hội giàu mạnh và an vui. Yếu tố thứ sáu là bảo vệ các tôn giáo, khích lệ các hoạt động tôn giáo và tâm linh, để tạo điều kiện cho các tôn giáo chu toàn chức năng giáo dục xã hội. Yếu tố thứ bảy là tôn trọng các bậc thánh nhân, những bậc đức hạnh và các bậc anh tài của đất nước.

Quốc gia nào hội đủ bảy yếu tố trên chắc chắn sẽ an bình, thịnh trị và muôn dân sẽ sống trong cảnh hạnh phúc và ấm no. Do vậy không có nước xâm lăng nào có thể thôn tính được.

11. Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã Hội

Tên nguyên tác Pāli là Singālovāda Sutta (D. III. 180-93)Đây là bài kinh thứ 31 trong Trường Bộ Kinh, được cư sĩ Phan Khắc Nhượng diễn thơ, phỏng theo bản tiếng Anh trong bộ Dialogues of the Buddha (III. 172-84, Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1995). Bản diễn thơ có tham khảo Trường A-hàm (I, 555-547, Đại Tạng Kinh Việt Nam) và đối chiếu bản dịch của HT. Thích Minh Châu “Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt” (Trường Bộ II, 529-548, Đại Tạng Kinh Việt Nam). Soạn giả đã đặt lại tựa Kinh, hiệu đính và nhuận thơ cho bản phỏng dịch.

Nhân sự kiện một thanh niên Bà-la-môn tên là Thi-ca-la-việt đảnh lễ sáu phương vào mỗi buổi sáng mà không hiểu ý nghĩa của việc mình làm, đức Phật đã giảng dạy về các mối quan hệ đạo đức xã hội, thông qua sáu phương. Phương Đông tượng trưng cha mẹ. Phương Nam tượng trưng cho thầy cô giáo. Phương Tây tượng trưng cho đạo vợ chồng. Phương Bắc tượng trưng cho bạn bè. Phương Trên tượng trưng cho các bậc tu hành. Phương Dưới tượng trưng cho quan hệ chủ thợ.

Về quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đức Phật dạy 5 nguyên tắc đạo đức cho cha mẹ và 5 nguyên tắc đạo đức cho con cái. Phàm làm cha mẹ phải thương yêu con cái theo 5 nguyên tắc đạo đức: (1) ngăn chận con làm việc ác, (2) khuyên dạy con làm việc thiện, (3) tạo dựng nghề nghiệp chân chánh cho con, (4) xây dựng gia đình xứng đáng cho con, (5) truyền trao gia tài cho con đúng thời. Ngược lại phần làm con phải đối xử với cha mẹ theo năm cách: (1) nuôi dưỡng mẹ cha, (2) làm tròn bổn phận, (3) giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, (4) bảo vệ tài sản thừa tự, (5) chu toàn tang lễ cho cha mẹ.

Về đạo vợ chồng, đức Phật dạy mỗi bên cũng có 5 bổn phận như nhau. Chồng đối với vợ phải: (1) trọng nể vợ, (2) chung thủy với vợ, (3) tin tưởng khả năng của vợ, (4) giao quyền hạn cho vợ, (5) sắm nữ trang cho vợ. Ngược lại, người vợ phải đối xử với chồng theo 5 cách: (1) làm tốt trách nhiệm, (2) cư xử tốt đối với bên nội và bên ngoại, (3) chung thủy thương yêu chồng, (4) giữ gìn và bảo quản tài sản gia đình, (5) siêng năng và khéo léo trong giao tế.

Về đạo bằng hữu, đức Phật dạy năm điều sau đây: (1) giúp đỡ bạn, (2) nói lời từ ái với bạn, (3) vì lợi ích của bạn, (4) xem bạn như mình, (5) thành thật và giữ lời hứa với bạn. Ngược lại, người bạn cũng nên đối xử với ta như sau: (1) không để bạn sa ngã, (2) không làm cho bạn sợ hãi (3) bảo vệ bạn hoạn nạn, (4) giúp bạn trong gian khó, (5) ca ngợi tánh tốt của bạn.

Về đạo chủ thợ, đức Phật dạy như sau. Chủ phải đối với thợ: (1) giao công việc cho thợ đúng với khả năng và sức khỏe, (2) trả lương và tặng quà thích đáng, (3) chăm lo sức khỏe khi thợ bị bệnh, (4) chia xẻ thức ăn cho thợ, (5) cho thợ nghỉ ngơi hợp lý. Ngược lại, thợ cũng phải đối với chủ: (1) dậy trước chủ, (2) ngủ sau chủ, (3) hài lòng với những gì chủ cho, (4) làm tốt công việc được giao, (5) giữ gìn danh giá và uy tín của chủ.

Về đạo cư sĩ và tu sĩ, đức Phật dạy như sau. Người cư sĩ phải xử sự với người tu sĩ: (1-3) từ ái bằng lời nói, ý nghĩ và việc làm đối với người tu, (4) cung kính và chào đón tu sĩ, (5) cúng dường và ủng hộ tu sĩ. Ngược lại, người tu cũng đối lại: (1) khuyên cư sĩ từ bỏ ác, (2) khuyến khích cư sĩ làm việc thiện, (3) trải lòng từ ái đối với cư sĩ, (4) dạy cho cư sĩ những gì chưa được học hỏi, (5) hiệu chỉnh và thanh tịnh những gì chưa hoàn thiện ở cư sĩ, (6) chỉ dạy cho cư sĩ cách tái sanh về cõi trời.

Trên nền tảng các mối quan hệ đạo đức như vừa nêu, kinh này được xem là giềng mối đạo đức của gia đình và xã hội.

12. Kinh Bảy Loại Vợ

Bài kinh có xuất xứ từ Anguttara Nikāya (IV. 91-3) được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (II. 515-7, ấn bản 1988), có tham khảo tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (IV. 56-8, Hội Thánh Điển Pāli ấn bản 1988). Tựa do soạn giả đặt cho phù hợp chủ đề và nội dung của Kinh.

Như tựa đề của kinh, bài kinh ngắn này được đức Phật giảng cho cô Su-cha-ta (Sujātā), nàng dâu ngỗ nghịch của cư sĩ Cấp Cô Độc, nhân dịp đức Phật viếng thăm vị cư sĩ này. Được cư sĩ Cấp Cô Độc thỉnh cầu khuyên dạy nàng dâu, đức Phật không hề quở trách cô, mà chỉ giới thiệu cho cô biết về bảy hạng người vợ trên đời, để cô tự xác định mình thuộc vào hạng nào. Bảy hạng vợ đó là: vợ như kẻ sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người em gái, vợ như người bạn, và vợ như người hầu. Sau khi giải thích rõ ràng về các loại vợ, đức Phật khuyên rằng ba hạng vợ đầu nên tránh và nên học hỏi và noi gương theo bốn hạng vợ sau cùng.

Hạng vợ sát nhân bao gồm những người vợ thiếu chung thuỷ trong đời sống hôn nhân, không tôn trọng chồng, có nhiều tánh xấu ác và thường thích việc sát hại. Người vợ như vậy đúng là kẻ sát nhân của chồng, của gia đình hai họ. Hạng vợ như người ăn trộm chỉ chung cho những người vợ, không tự tạo ra của cải vật chất trong gia đình, không biết giữ gìn và phát triển tài chánh gia đình, mà trái lại, còn tiêu xài xa hoa, hoang phí những tài sản của chồng tạo ra từ mồ hôi nước mắt bằng nghề nghiệp chân chánh. Hạng vợ như chủ nhân chỉ cho những người vợ muốn “quản lý” chồng mình, chẳng những không biết nhường nhịn tôn kính chồng mà còn lấn lướt chồng trước mọi người, như một người “xếp” không biết điều. Hạng thứ nhất phá vỡ hạnh phúc gia đình, hạng thứ hai làm tiêu tan tài sản và hạng thứ ba tạo ra những gia đình mà người chồng chẳng khác gì kẻ nô lệ.

Hạng vợ như người mẹ bao gồm những người vợ hiền nhu, biết lo lắng sức khoẻ cho chồng, tánh tình dịu dàng, ngăn nắp từ trên xuống dưới, chu tất mọi việc từ nội gia cho đến giao tế trong xã hội, để đem lại tiếng thơm và hạnh phúc cho cả hai và con cái. Hạng vợ như em gái chỉ cho những người vợ tánh tình khiêm cung, nhã nhặn, biết tôn trọng và cung kính chồng như một người em gái ngoan ngoãn nghe lời và lo lắng cho người anh trai trong gia đình. Hạng vợ như bạn là những người vợ biết thương yêu, tôn trọng, cảm thông, giúp đỡ, chia sẻ và tha thứ chồng để cả hai cùng thăng tiến trên đường đời cũng như đường đạo. Thái độ đồng hành và bạn hữu của vợ đối với chồng là yếu tố dẫn đến một gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Hạng vợ như người hầu là người vợ có tánh chịu đựng bền bỉ, năng động, biết nhường nhịn, biết hy sinh, nhằm đem lại hạnh phúc và thành công của chồng cũng như của cả hai.

Dựa trên tinh thần giáo dục của bài Kinh, chúng ta có thể quy ra bảy loại người chồng tương ứng với bảy loại người vợ, đó là: chồng như kẻ sát nhân, chồng như người ăn trộm, chồng như chủ nhân, chồng như người cha, chồng như người anh trai, chồng như người bạn, và chồng như người hầu. Ở đây, giáo dục hôn nhân theo tinh thần của lời Phật dạy không chỉ dừng lại ở nữ giới, mà bao trùm cả nam giới, một thành phần quan trọng không thể thiếu trong việc tạo dựng hạnh phúc lứa đôi. Nói cách khác, để đời sống hôn nhân được loan phụng hoà minh, trăm năm hạnh phúc, cả đôi bạn đời phải biết từ bỏ các thái độ và lối cư xử phụ tình, phụ bạc, tiêu xài phung phí của cải của chung, và muốn làm “xếp” của người kia. Thêm vào đó, đôi bạn đời phải biết lo lắng và chăm sóc cho nhau như cha mẹ của nhau, chung lo cho con cái. Cả hai phải sống với thái độ tận tâm giúp đỡ nhau trong đời, để cùng thăng hoa. Cả hai phải biết chăm sóc, lo lắng và chu toàn cho nhau như người em gái lo cho anh trai hay như người anh trai lo cho em gái của mình. Cả hai phải xem nhau như hai người bạn đồng hành trong mọi lãnh vực: phu xướng phụ tuỳ và ngược lại. Và không kém phần quan trọng, cả hai phải biết sống với thái độ dâng hiến cho nhau và vì nhau như người hầu lo cho chủ nhân của mình.

13. Kinh Người Vợ Mẫu Mực

Bài kinh này có xuất xứ từ bản Pāli (A. III. 294-8) được soạn giả tóm lược từ bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu Kinh Tăng Chi (II. 295-8, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (III. 211-4, Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1988). Tựa kinh do dịch giả đặt.

Bài kinh kể về một sự kiện ly kỳ hiếm có, đó là cha của Nakula thoát được thần chết trong cơn bệnh vô cùng ngặt nghèo, nhờ vào lòng chung thuỷ, thương kính và niềm tin Tam Bảo sắt đá của người vợ hiền dịu và đảm đang. Thái độ quyến luyến và lo sợ của vị cư sĩ cho tương lai của vợ ông, của con ông, và của gia đình ông, có lẽ đã làm cho bệnh tình của ông ngày thêm trầm trọng. Nào ông sợ vợ ông có thể tái giá sau khi ông qua đời; nếu vậy thì ông vĩnh viễn mất bà! Nếu vợ ông độc thân thì ông lại lo cho bà không có thể đủ sức để nuôi lớn con cái, cho chúng ăn học thành tài? Rồi điều gì sẽ xảy ra đối với gia tài và sự nghiệp của ông để lại một cách bất đắc dĩ? Còn nhiều điều suy nghĩ miên man khác trong khi ông đang nằm trên giường bệnh chờ tử thần đến rước!

Là một người vợ đảm đang, thông minh và chung thuỷ, mẹ của Nakula như hiểu được tất cả những suy nghĩ thầm kín của chồng, lại càng thầm thương ông hơn bao giờ hết. Vốn là người tin vào Tam Bảo, bà hiểu rõ tầm quan trọng của những giờ phút trước khi chết, có thể có khả năng dẫn người vừa qua đời tái sanh vào những cảnh giới tốt hay xấu, tuỳ theo khuynh hướng của dòng tâm thức lúc đó. Bà đã khuyên chồng mình không nên quyến luyến cuộc đời. Mọi vật có thịnh phải có suy. Thời gian có ngày phải có đêm. Người có sanh thì có tử. Sum hợp, thương yêu phải có lúc chịu cảnh âm dương đôi ngã, đau khổ vô cùng! Bà đã mạnh dạn khuyên ông không nên để cho tâm niệm ái luyến về vợ con, tài sản, gia đình chi phối, để có thể ra đi một cách nhẹ nhàng. Không những thế, bà còn khẳng định với ông về lòng chung thuỷ của bà. Bà sẽ không bước thêm bước nữa. Bà sẽ nỗ lực gánh vác toàn bộ công việc của gia đình, thay ông chăm sóc và dưỡng nuôi con cái. Bà không những duy trì mà còn phát triển tài sản và truyền thống gia đình. Và bà tuyên thệ sẽ đi trọn con đường phụng sự Ba Ngôi Báu, sống an lạc trong chánh pháp của đức Phật như khi ông còn khoẻ mạnh. Tất cả những điều đó đã làm cho ông cảm động tột bực, truyền thêm sức sống cho ông. Nhờ đó, ông đã thoát chết một cách mầu nhiệm và sống hạnh phúc bên vợ con trong tinh thần lời Phật dạy thêm nhiều năm nữa.

Bài kinh cho thấy lòng chung thuỷ, đảm đang và vững tiến trong lý tưởng chân chánh của người bạn đời có công năng không chỉ giáo dục hay khích lệ người kia, mà còn như thuốc thần giúp cho người kia vượt qua những khúc ngoặc ngặt nghèo, hiểm nguy trong cuộc sống.

14. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

Bài kinh này được HT. Thích Nhất Hạnh dịch từ Tăng Nhất A-hàm, phẩm Thi Thường, thứ 51, kinh số 8, có tham khảo và phối dịch với kinh Anathapindikovada Sutta, kinh thứ 143 thuộc Trung Bộ Kinh, và Giáo Hoá Bệnh Kinh, kinh thứ 26 thuộc Trung A-hàm.

Bài kinh kể lại cuộc thăm bệnh của tôn giả Xá-lợi-phất và A-nan-đa đối với cư sĩ Cấp Cô Độc. Trước sự đau đớn về thể xác của Cấp Cô Độc, tôn giả Xá-lợi-phất đã hướng dẫn ông tu pháp quán Tam Bảo, để khẳng định niềm tin chân chánh đối với Phật, Pháp và Tăng. Niềm tin này nhằm xác quyết cuộc đời phụng sự Tam Bảo và cứu giúp người cơ hàn, nghèo khó của ông là đúng và có quả báo thiện to lớn. Kế đến tôn giả Xá-lợi-phất đã dạy ông quán sát: (1) sáu giác quan, (2) sáu đối tượng của giác quan, (3) sáu thức, (4) sáu yếu tố hình thành nên thế giới vật chất, (5) năm hợp thể tạo nên con người, (6) chuỗi thời gian ba đời. Tất cả những thứ này không phải là ta, ta không bị giới hạn trong chúng. Tất cả nương vào nhân duyên mà hình thành, phát triển và hoại diệt để tiếp tục hình thành nên cái khác. Bản chất của các pháp không đến không đi, không sanh không diệt, không có tự tánh riêng biệt. Đó là pháp quán tính "không" của các pháp. Một khi hành giả nhận chân được rằng không có một ngã thể bất biến trong con người và thế giới thì đâu là chủ thể của cảm thọ?

Cấp Cô Độc vừa thực hành, vừa cảm động rơi nước mắt vì tính hiệu năng của phương pháp. Khi thực hành pháp quán này, Cấp Cô Độc cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Ngay khi hai tôn giả Xá-lợi-phất và A-nan-đa từ giã ra về thì Cấp Cô Độc qua đời và sanh về cõi trời Đao-lợi.

15. Kinh Mười Pháp Quán Niệm

Đây là bản dịch tiếng Việt theo thể văn vần của HT. Hộ Tông từ Kinh Tăng Chi bộ, (A.V.108-60; KS. V. 74-77), trích từ Kinh Nhật Tụng, hệ Nam Tông, trang 107-124. Soạn giả đã tỉnh lược những đoạn trùng lập và điều chỉnh một số câu thơ cho sát ý. Bản dịch này tương ứng với bản dịch của HT. Thích Minh Châu ở Kinh Tăng Chi III, 401-405.

Kinh này kể lại bệnh tình đau đớn của Tỳ-kheo Gi-ri-ma-nan-đa. Tôn giả A-nan-đa thương xót mới bạch Phật, xin Phật chỉ bày cách khắc chế các cảm thọ đau khổ của thân xác. Đức Phật đã dạy mười pháp quán niệm, đó là: (1) quán vô ngã, (2) quán vô thường, (3) quán bất tịnh, (4) quán bệnh khổ, (5) quán từ bỏ, (6) quán ly tham, (7) quán tịch tịnh, (8) quán yểm ly, (9) quán các hành, (10) quán hơi thở ra vào.

Tôn giả A-nan-đa đã vâng lời Phật dạy trùng tuyên lại mười pháp quán niệm trên cho Thầy Gi-ri-ma-nan-đa. Quả thật, khi Thầy này chuyên tâm thực tập các pháp quán niệm và an trú trong niềm an lạc của tâm thức, quên đi các cảm giác đau khổ của thân xác.

16. Kinh Quy Luật Cái Chết

Bài kinh có xuất xứ từ A. III. 56, được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (II, 60-63, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng AnhThe Book of Gradual Sayings (III. 47-8) của hội Thánh Điển Pāli.

Bài kinh này kể lại câu chuyện thương tâm về sự qua đời đột ngột của hoàng hậu Mallika, vợ của vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) trong khi vua đang nghe đức Phật thuyết pháp. Trước hung tin đó, đức vua bất giác sững sờ, mất hết thần sắc. Đức Phật liền dạy rằng có 4 sự kiện như một quy luật không từ một ai, đó là, già, bệnh, chết và hoại diệt. Ngoài ra, đức Phật còn dạy cách khắc phục cơn đau sanh ly, tử biệt này với một nhận thức như sau:

"Không phải chỉ riêng ta lâm vào cảnh âm dương chia cách này, phàm các loài hữu tình có đến phải có đi, có sanh tất có diệt, có hợp phải có tan. Quy luật này không loại trừ một ai."

Bài kinh này như một tuyên ngôn về quy luật sống chết mà không ai có thể tránh khỏi. Người Phật tử khi đứng trước cảnh đau thương đó phải biết phát khởi chánh tín, không nên khóc lóc, than thở, mà trái lại nên bình tĩnh, niệm Phật trợ tiến hương linh, giúp hương linh không còn vướng bận, nhờ đó, vãng sanh một cách nhẹ nhàng.

17. Kinh Nhổ Mũi Tên Sầu Muộn

Bài kinh có xuất xứ từ A. III. 57-9, được cư sĩ Phan Khắc Nhượng dịch từ bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (III. 48-91), có tham khảo bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi II, 63-8, ấn bản năm 1988.

Duyên khởi của kinh này cũng gần giống với Kinh Quy Luật Cái Chết. Khi hay tin hoàng hậu Bhaddā thăng hà, đức vua Munđa (Muṇḍa) sửng sốt, bỏ bê việc triều chính, đau khổ tột cùng. Vua tẩm liệm hoàng hậu bằng một loại quan tài đặc biệt, được bao bọc bằng nhiều lớp, những mong giữ thi thể của hoàng hậu được lâu. Nhờ có đại thần Piyaka hướng dẫn, đức vua đã đến gặp tôn giả Nan-đa để cầu mong ngài cứu giúp. Tôn giả đã từ tốn giảng dạy về quy luật của cái chết, và khuyên đức vua:

"An lòng gác chuyện sầu bi,

Tử sinh sinh tử có chi bận lòng!"

Với pháp thoại gần gũi nhưng sâu xa, đức vua đã giác ngộ được quy luật vô thường sanh tử, trở nên trầm tĩnh và an lạc. Sau thời pháp thoại, đức vua từ giã tôn giả ra về, làm lễ hỏa táng hoàng hậu và bắt đầu mọi việc triều chính trở lại.

Câu chuyện này cho chúng ta thấy con người thường chỉ đau thương trước sự tử biệt của người thân mình trong khi dửng dưng trước hàng trăm triệu ngàn cảnh âm dương cách biệt của người khác. Bài kinh nhắn nhủ chúng ta nên bình tĩnh trước cơn sống chết, lo tang lễ một cách giản đơn nhưng chu đáo, đúng với tinh thần chánh pháp, để cho người qua đời và người còn sống đều được lợi lạc.

18. Kinh Nhận Thức Vô Thường và Đau Khổ

Kinh này do HT. Hộ Tông dịch, in trong Kinh Nhật Tụng, hệ Nam Tông, (Thành hội Phật giáo HCM xuất bản năm 1990, trang 55-78). Bài kinh được chuyển ngữ theo thể thơ song thất lục bát. Soạn giả đặt lại tựa Kinh, hiệu chỉnh một số từ cần thiết cho các vần thơ thêm mạch lạc.

Nội dung kinh nhằm phân tích về thuộc tính của mọi sự vật hiện tượng trên đời là không thường còn, không có thực thể và dẫn đến đau khổ. Nguyên lý vô thường của mọi sự vật được ghi nhận trên chiều thời gian, trong khi nguyên lý vô ngã được đánh dấu về mặt không gian của sự vật. Nói cách khác, thuộc tính đôi này không tách rời nhau: mọi sự vật hiện tượng không phải là ngã, không có thực thể và do đó trở nên vô thường, mong manh, giả tạm, có đó rồi mất đó. Hiện tượng sanh diệt, chóng vánh này thường dẫn đến cảm giác đau khổ ở con người.

Thông qua ba nguyên lý này, bài kinh dạy chúng ta nên sống an trú trong từng phút giây hiện tại, không để cho các kinh nghiệm đau khổ hay hạnh phúc của quá khứ lôi kéo và chi phối, cũng như không hướng vọng và mơ tưởng về tương lai không thật. Lối sống an trú trong hiện tại, một mặt giúp chúng ta xả bỏ được tất cả thế giới kinh nghiệm, mặt khác giúp chúng ta sống an nhiên tự tại trong mọi thăng trầm và biến cố của cuộc đời. Nhờ đó, chúng ta vĩnh viễn xa lìa được các nghiệp ác, bất thiện, an trú trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc.

19. Kinh Cúng Thí Người Mất

Kinh này được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi III, ấn bản năm 1988, có tham khảo bản tiếng Anh của Hội Thánh Điển Pāli. Tựa đề do soạn giả đặt.

Bài kinh giới thiệu cuộc pháp thoại giữa đức Phật và Bà-la-môn Janussoni, một người chuyên làm lễ hiến tế người chết. Bà-la-môn này hỏi đức Phật rằng sự cúng kiến cho người đã qua đời có lợi ích hay không? Người chết có nhận được sự cúng dường đó hay không? Đức Phật trả lời rằng chỉ khi nào có sự “tương xứng” thì người chết mới nhận được những gì người thân nhân cúng cho họ.

Theo đức Phật chỉ có một trường hợp tương xứng duy nhất là nếu người chết tái sanh vào loài ngạ quỷ, loại chúng sanh sống bằng sự cúng kiến của người còn sống, thì họ sẽ nhận được sự cúng đó. Chúng sanh nào khi sống làm nhiều điều ác độc, chết bị đọa vào ngạ quỷ hoặc các loài động vật. Tại đây, các chúng sanh đó không thể nhận được sự cúng của người thân, vì họ có sự sống riêng. Tương tự, chúng sanh nào khi sống do làm điều thiện, lúc chết được tái sanh làm người hay chư thiên thì cũng không nhận được sự cúng của người thân, vì tại thế giới loài người và loài trời, họ có sự sống khác biệt, được cha mẹ của họ nuôi nấng.

Khi cúng kiến cho người thân như vậy, dù trong trường hợp người thân quyến của người cúng không bị đọa vào ngạ quỷ, người phát tâm cúng kiến đó cũng gặt hái nhiều lợi ích. Nhân đây, đức Phật dạy về lợi ích của bố thí và cúng dường. Người tu hạnh bố thí dù cho có làm ác khi chết bị tái sanh vào các loài thú, như voi, ngựa, v.v… cũng được phước báu hơn các loài thú khác. Do quả báo của bố thí, chúng sẽ được chủ nhân chăm sóc, cho ăn uống và trang phục đầy đủ hơn các con thú khi làm kiếp người không biết bố thí và cúng dường. Tương tự, nếu người sống biết bố thí và cúng dường lại còn tu tập nhiều hạnh lành, xa lánh điều tội lỗi, thì khi còn sống được mọi người kính nể, thương yêu, khi qua đời thì được tái sanh làm chư thiên để hưởng quả phước. Nói chung trong mọi trường hợp, hạnh bố thí cúng dường mang lại nhiều giá trị đạo đức cho người thực hành.

20. Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh

Kinh này được soạn giả tóm tắt từ Kinh Trường A-hàm (I, kinh thứ 7, tr 329-364, Đại Tạng Kinh Việt Nam), bản dịch của Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Tựa kinh trong nguyên tác bản dịch là Kinh Tệ-túc. Soạn giả đổi thành Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh để phù hợp với chủ đề của Kinh.

Bài kinh này là một cuộc đối thoại đầy triết lý, diễn ra sau khi đức Phật Niết-bàn chẳng bao lâu, giữa tôn giả Đồng-nữ Ca-diếp và Bà-la-môn Tệ-túc, về các bằng chứng của tái sanh. Bà-la-môn Tệ-túc là người chủ trương không có đời sau, không có quả báo thiện ác. Ông vận dụng "chủ nghĩa kinh nghiệm" để phủ bác không có nghiệp báo và tái sanh. Trong suốt cuộc đời của ông, ông chưa từng chứng kiến cảnh một người nào, ngay cả người thân của ông, làm nhiều điều tội lỗi, sau khi chết bị đọa vào địa ngục rồi trở về mách bảo ông rằng họ bị đọa đày trong ngục khổ. Ông cũng biện luận rằng cũng chưa từng gặp một người nào làm nhiều thiện và đạo đức khi chết được tái sanh vào cõi trời, trở về báo cho ông rằng phước báo làm lành là có thật. Và còn nhiều cách lý luận khác nữa để phủ định nhân quả báo ứng.

Tôn giả Đồng-nữ Ca-diếp đã vận dụng nhiều phương tiện để chứng minh ngược lại. Đối với trường hợp thứ nhất tôn giả cho rằng người bị đọa địa ngục do vì nghiệp báo nên không thể có dịp trở về báo với người thân trên dương thế. Đối với trường hợp thứ hai, người sanh cõi trời do hưởng các an lạc và hạnh phúc cõi trời, không còn thiết tha với cõi Ta-bà đầy đau khổ nên không muốn trở về mách bảo. Đó là chưa nói đến sự khác nhau về thời gian và không gian giữa các hành tinh và cõi sống, do đó khó mà trở về trái đất để mách bảo được. Sau khi đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể và sinh động, tôn giả Ca-diếp đã thuyết phục được Bà-la-môn Tệ-túc tin vào nhân quả báo ứng và khuyến khích vị Bà-la-môn này làm nhiều điều bố thí và tế lễ không có máu thịt của chúng sanh, để gặt hái các quả báo hạnh phúc và an vui ngay hiện đời và đời sau.

21. Kinh Na-tiên Đàm Đạo

Kinh này do cư sĩ Cao Hữu Đính dịch từ bản chữ Hán. Tựa của kinh được soạn giả đổi lại cho phù hợp với thể thức của bài Kinh. Bài kinh được ghi lại theo thể vấn đáp đàm đạo giữa đức vua Di-lan-đà và đại đức Na-tiên, tóm thâu gần như toàn bộ các lời dạy của Phật trong kinh tạng Pāli. Kinh được phân theo nhiều chủ đề, mỗi chủ đề chứa đựng một giáo lý nền tảng của Phật giáo. Ở đây, soạn giả chọn lọc 11 chủ đề liên hệ đến các vấn đề nhân quả, nghiệp báo, tái sanh và niết-bàn. Trật tự và tên của các chủ đề trong kinh được soạn giả thay đổi để ý tưởng của chúng được liên kết. Soạn giả cũng hiệu chỉnh và nhuận văn để cho bản dịch được mạch lạc và thuần Việt hơn.

Bài kinh khẳng định rằng không có tính thực thể, thường hằng bất biến trong con người và mọi sự vật. Danh xưng tên gọi chỉ là các mặc ước để giao tế trong đời, không có gì có thể gọi là bản ngã. Mối tương quan “không phải đồng nhất nhưng cũng không phải khác nhau” giữa đời trước và đời sau của một hiện hữu đã được đại đức Na-tiên trình bày bằng nhiều hình ảnh rất ấn tượng. Con người sinh ra với nghiệp lực, rồi lớn lên, già, và chết. Chết rồi lại mang một thân mới mà sinh trở lại. Mất thân trước, liền thọ thân sau. Chuỗi thời gian là vô cùng tận, không thể phanh ra sự khởi thuỷ và sự tận cùng. Trong đó, chúng sanh trôi lăn trong ba cõi sáu đường theo ba chiều thời gian là quá khứ, hiện tại và vị lai với một quy trình gồm mười hai mắc xích: vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu giác quan, cảm thọ, tham ái, chấp thủ, hiện hữu, tái sanh, già và chết. Chỉ có những bậc tu tập chứng được giải thoát, chuỗi thời gian trong không gian ba cõi mới bị chặt đứt hoàn toàn.

Tất cả con người, thế giới và mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này đều sanh ra, tồn tại và hoại diệt theo định luật nhân duyên, cái này tuỳ thuộc vào cái khác, và cái khác đó lại tuỳ thuộc vào cái khác nữa. Không có nguyên nhân khởi thuỷ. Không có Thượng Đế, không có sự tạo dựng. Chỉ có các hiện tượng diễn ra theo nhân duyên, vô thường và vô ngã. Dù các chúng sanh có đi đầu thai từ đời này sang đời khác, biết bao nhiêu lần sự chết chóc đã diễn ra, thân thể trở về với cát bụi, nhưng những hành vi đã tạo tác sẽ không bao giờ mất. Đó là lý do dẫn đến sự thiên sai vạn biệt trong thế giới hữu tình như là kết quả của tất cả các hành vi tạo tác có ý thức của chúng sanh trong chuỗi kiếp sống dài vô tận. Sự chấm dứt mạng sống ở nơi này là lúc kết thành một mầm sống mới ở nơi khác. Thời gian chuyển tiếp giữa cõi chết ở đời này và cõi sống ở đời sau chỉ là các tích tắc.

Các phiền não như tham ái và chấp thủ là hai nguyên nhân đưa đẩy chúng sanh trôi lăn trong ba cõi sáu đường, trong khi sự chuyên tâm tu tập thiền định và phát triển trí tuệ là hai cửa ngõ dẫn đến sự giải thoát, chứng đạt niết-bàn tại thế gian này. Cuối cùng, bài kinh nói về bản chất siêu việt của niết-bàn, vắng mặt hoàn toàn các khổ đau, phiền não và nhiễm ô. Niết-bàn chỉ thực chứng được khi mọi hành vi bất thiện và các phiền não đã được nhổ sạch gốc rễ ở thân tâm của hành giả. Đó là trạng thái an lạc nhất, có thể cảm nhận được qua quá trình kinh nghiệm thực chứng hay cảm nhận.

22. Kinh Sống và Tu trong Hoà Hợp

Kinh này do Tỳ-kheo Đệ Tử Phật diễn thơ ngũ ngôn từ bài Tiểu Kinh Sừng Bò, thuộc Trung Bộ Kinh (I. 449-61, bản dịch của HT. Thích Minh Châu, ấn bản Đại Tạng Kinh Việt Nam). Soạn giả đã sửa lại tựa kinh theo nội dung của bài Kinh.

Bài kinh kể lại kinh nghiệm chung sống và tu tập trong hoà hợp của ba vị huynh đệ Tỳ-kheo, tên là Anurudha, Nandiya, và Kimbila. Nhờ vào sự tu học trong hoà hợp, như nước hoà với sữa, giúp đỡ nhau như những người anh em ruột thịt, và hỗ trợ nhau cùng chứng đạt bốn thiền sắc giới (thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư) và năm định vô sắc giới (định không vô biên, định thức vô biên, định vô sở hữu, định phi phi tưởng và định không còn tri giác và cảm thọ), và cuối cùng chứng đắc thánh quả, giải thoát.

Bài kinh không chỉ mang ý nghĩa giáo dục về đời sống lục hoà trong cộng đồng Tăng mà Tăng Ni và Phật tử cần phải noi gương, còn nhằm khẳng định rằng chỉ khi nào những người con Phật, dù khác hệ phái và ý thức hệ, biết bỏ đi các dị biệt, không còn chống trái nhau, hỗ trợ nhau cùng tu tập và truyền bá giáo pháp của đức Phật thì đạo Phật sẽ mãi mãi hưng thịnh trên đời này.

23. Kinh Tôn Trọng các Pháp Môn

Tựa kinh nguyên tác là Mahācunda Sutta (A. III. 355-7). Kinh này được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (II. 347-8, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (III.252-3, Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1988).

Nội dung kinh phản ánh: những thái độ cho rằng con đường và pháp môn mình thực hành là hay, là đúng trong khi con đường và pháp môn của người khác là dở hoặc sai, cần phải được loại ra khỏi tâm tưởng và cách ứng xử của những người con Phật lấy mục tiêu giải thoát làm trọng tâm. Mặc dù bài kinh chỉ đưa ra cặp trường hợp điển hình chống trái và phê bình nhau là người chuyên về thiền định và người chuyên về phân tích và luận giải kinh điển. Nội dung của kinh này còn nhằm khuyên tất cả những người con Phật không những không nên chê bai, phỉ báng người tu pháp môn khác mà còn tôn trọng và học hỏi ở những người đó để bổ sung, hỗ trợ và hoàn thiện lẫn nhau.

Tán đồng người cùng sở hành, sở tu với mình; phê bình và phủ nhận người khác sở hành, sở tu với mình, thỉnh thoảng đã trở thành khuynh hướng ứng xử của một số người tu học Phật. Người đệ tử Phật cần phải tôn trọng tất cả các pháp môn khác. Không những thế, người học Phật còn tôn trọng và học hỏi các pháp môn đó, vì mình thiếu chuyên môn trong lý thuyết cũng như thực hành các môn đó. Thái độ bao dung, hiểu biết, cảm thông và cùng hoàn thiện cho nhau như nước hoà với sữa, trong chánh pháp Phật-đà, sẽ giúp cho tất cả những người con Phật cùng lớn mạnh trong tu tập và giải thoát.

24. Kinh Bốn Mươi Hai Bài

Kinh này được cư sĩ Phan Khắc Nhượng diễn thơ từ bản dịch tiếng Việt trong tác phẩm Tìm Hiểu Kinh Tứ Thập Nhi Chương (bản cảo, dịch và diễn giảng phổ biến nội bộ năm 1989) của soạn giả. Toàn bộ các tiêu đề chương được soạn giả đặt, để giúp người đọc hiểu được đại ý của các bài Kinh.

Giống như Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp (Kinh Pháp Cú), kinh này là một tuyển tập về các lời dạy tiêu biểu của đức Phật trong truyền thống kinh điển Đại thừa và kinh điển A-hàm, và được xem là kinh cẩm nang của tất cả những người mới tu theo Bắc tông. Bài kinh còn có giá trị lịch sử truyền bá Phật giáo ở Trung Quốc, khi hai tôn giả Ca-diếp-ma-đằng và Trúc-pháp-lan mang sang Trung Hoa và là bản kinh được dịch và phổ biến đầu tiên ở nước này.

Bài kinh trình bày một cách ngắn gọn nhiều chủ đề như thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức học, phép xử thế, các quan niệm sống tốt đạo đẹp đời, tại ngay thế gian này. Nhiều triết lý được trình bày trong kinh này rất tương ứng với những điều Phật dạy trong kinh điển Pāli, nhưng cũng có một số khác lại phản ánh tư tưởng tiêu biểu của Đại thừa. Hành trì kinh này, chúng ta sẽ thấy giáo pháp của Phật trong hai truyền thống đan quyện vào nhau trong một mạng lưới, để cùng xiển dương một chân lý duy nhất, đó là, tất cả giáo pháp của Phật chỉ thuần một hương vị giải thoát.

25. Kinh Chủ Trương của Như Lai

Bài kinh này được soạn giả tóm lược từ bản dịch của HT. Thích Minh Châu trong Kinh Tăng Chi (III. 29-32, ấn bản năm 1988), có tham khảo bản tiếng Anh The Book of Gradual Sayings (IV. 171-8, Hội Thánh Điển Pāli ấn hành năm 1988).

Kinh ghi lại cuộc đối đáp của đức Phật và Bà-la-môn Veranja về sáu học thuyết / chủ nghĩa / chủ trương mà vị Bà-la-môn này đã hiểu sai hay cố tình gán cho đức Phật. Sáu chủ nghĩa / học thuyết đó là: thiếu ý vị, thiếu tài sản, không hành động, đoạn diệt, yếm thế và hư vô.

Cái tuyệt vời của đức Phật ở đây là Ngài không hề phủ nhận những gì người ta đã cố tình gán hay chụp mũ Ngài, trái lại, Ngài đã vận dụng tinh thần “bầu cũ rượu mới” vào trong các chủ nghĩa và học thuyết khô khan và vô dụng đó. Nói cách khác, cũng dùng chung một khái niệm, một ngôn từ, nhưng nội dung và triết lý mà đức Phật sử dụng hoàn toàn khác và vượt lên trên các cách thức mà các truyền thống tôn giáo và triết học bấy giờ đã hiểu và sử dụng. Chúng ta thấy, thường đức Phật ít khi dùng đến những khái niệm mới, ngoại trừ không thể tìm ra trong các truyền thống trước đó các khái niệm có thể vay mượn để diễn tả triết lý cao siêu huyền diệu của ngài, ví dụ như Bồ-tát, Bồ-đề tâm, Phật và Phật tánh v.v...

Kể từ thế kỷ 19 trở lại đây, Phật pháp đã trở thành đối tượng nghiên cứu và thực hành nở rộ ở phương Tây. Nhiều học giả đã xem đạo Phật như là một nền triết học, một tôn giáo, một hệ thống đạo đức. Các học giả khác thì cho rằng đạo Phật là khoa học, là xã hội học, là tâm lý học trị liệu v.v... Tuỳ theo cái nhìn và cách thế tiếp cận, đạo Phật đã trở thành và hiệp nhất với các quan điểm của người đánh giá. Nhiều Tăng Ni và Phật tử đã không hài lòng về cách lý giải đạo Phật qua các môn học hiện đại, và cho rằng làm như vậy sẽ thế tục hoá đạo Phật, v.v... Theo tinh thần của kinh này, việc làm đó không có gì là sai cả, nếu nội dung mà người ta hiểu và định nghĩa cho đạo Phật trong các chủ nghĩa học thuyết đó không đi ngược lại với tinh thần giáo pháp. Nói cách khác, điều quan trọng không phải là tên gọi của học thuyết mà người ta đặt cho đạo Phật, mà chính là nội dung chứa đựng trong tên gọi của học thuyết đó. Quan trọng hơn là sự thực hành nội dung chánh pháp được chứa tải trong các danh xưng và học thuyết để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình và người, chứ không phải danh xưng và bản thân của các học thuyết.

26. Kinh Quan Niệm về Như Lai

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh từ Samyutta Nikāya, 22, 6. Bài kinh tường thuật lại câu hỏi của một vị Bà-la-môn về bản chất của Như Lai sau khi chết, dưới hình thức bốn mệnh đề (tứ cú). Bốn mệnh đề đó là Như Lai tồn tại sau khi chết, Như Lai không tồn tại sau khi chết, Như Lai vừa còn vừa không còn tồn tại sau khi chết và Như Lai vừa chẳng còn vừa chẳng phải chẳng còn tồn tại sau khi chết. Được hỏi vậy, tôn giả Anuradha đã trả lời rằng đức Phật chưa bao giờ giảng dạy hay tuyên bố liên hệ đến hình thái của bốn mệnh đề: có, không có, vừa có vừa không có; chẳng phải có chẳng phải không có. Mệnh đề đầu rơi vào chủ nghĩa thường còn. Mệnh đề thứ hai rơi vào chủ nghĩa đoạn diệt. Mệnh đề thứ ba tổng hợp hai mệnh đề một và hai, trở nên mâu thuẫn vì tính cách loại trừ nhau. Mệnh đề thứ tư đối lập với mệnh đề thứ ba, do đó cũng trở nên vô nghĩa vì tính cách mâu thuẫn và loại trừ với mệnh đề thứ ba. Cả bốn mệnh đề đều rơi vào hai chủ nghĩa hoặc thường kiến hoặc đoạn kiến. Giáo pháp của Phật phủ định hai loại kiến chấp này. Do đó, sẽ trở nên vô nghĩa nếu áp đặt sự kiện Như Lai sau khi chết vào trong khuôn khổ của bốn mệnh đề này.

Không thoả mãn với câu trả lời ngắn gọn của tôn giả Anuradha, các du sĩ ngoại đạo đã khinh chê tôn giả là người kém học ít biết hoặc chỉ là người mới tu tập nên không có kiến thức chuyên sâu về vấn đề. Tôn giả không buồn đính chính, đến bên Phật trình bày lại sự kiện và thỉnh cầu đức Phật giảng giải.

Đức Phật dạy rằng không thể tìm kiếm Như Lai trong hay ngoài năm tổ hợp nhân tính (thân thể, cảm giác, suy luận, tâm tư và ý thức). Tìm kiếm Như Lai khi Ngài còn sống còn không được huống hồ là sau khi Ngài chết! Cuối cùng đức Phật lưu ý rằng giáo pháp của Ngài không để phục vụ cho kiến thức thuần tuý, vượt khỏi chủ nghĩa duy lý. Xưa và nay, Ngài chỉ tuyên bố hai điều đó là vạch mặt khổ đau và chỉ ra con đường để chấm dứt khổ đau. Tất cả các câu hỏi cũng như các câu trả lời về bản chất của Như Lai sau khi chết đều không hướng đến mục đích chấm dứt đau khổ trong đời.

27. Kinh Biết Sống Một Mình

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh. Kinh này gồm 2 phần: phần I dịch từ kinh số 1071, Tạp A-hàm và phần II dịch từ Bhaddekaratta Sutta, thuộc Majjhima Nikāya, 131.

Phần một tường thuật lại hạnh tu một mình của vị Tỳ-kheo tên là Thượng Tòa. Vị Tỳ-kheo này hành trì và ca ngợi hạnh sống một mình trong khất thực, ăn uống, đi đứng nằm ngồi và trong tu tập thiền quán. Đức Phật một mặt ca ngợi về hạnh viễn ly đó, mặt khác dạy phương pháp sống có ý nghĩa tích cực và lợi ích lớn hơn. Đó là cách sống chánh niệm và tỉnh giác trong hiện tại. Nói cách khác, sống một mình mà không có chánh niệm và tỉnh giác thì không có lợi ích gì cả. Người sống chánh niệm trong từng phút giây của hiện tại, không để tâm vướng mắc vào các tham đắm, từ bỏ mọi lo âu, hối hận, sầu khổ, cắt đứt mọi ràng buộc của cuộc đời, an trụ vào thánh trí, giải thoát. Được vậy, mới xứng đáng được gọi là người “biết” sống một mình.

Trong phần hai, đức Phật giải thích một cách chi tiết về hạnh sống trong hiện tại. Sống trong hiện tại là thái độ sống tỉnh thức trong từng tích tắc của thời gian, không tìm về quá khứ, không hướng vọng tương lai. Nó còn là thái độ sống tinh tấn trong chánh pháp ngay bây giờ và tại đây, không trông chờ một cái gì khác. “Không tìm về quá khứ” không có nghĩa là cắt đứt mọi suy nghĩ về quá khứ, thờ ơ với lịch sử, mà thực chất là không để tâm bị ràng buộc quyến luyến về những gì đã qua. Tương tự, “không tưởng đến tương lai” không có nghĩa là đóng bít các giác quan về những gì sẽ xảy ra, mà thật ra là không để cho tâm bị ràng buộc vướng mắc vào tương lai. Khi tâm không vướng bận về quá khứ, hành giả sẽ thoát khỏi những cảm giác vui buồn của những kinh nghiệm hạnh phúc hay đau khổ trong quá khứ. Khi tâm không hướng đến tương lai, hành giả sẽ không bị các cảm giác lo âu như ta "sẽ thế nào? sẽ ra sao? sẽ làm sao?” v.v… chi phối, khống chế. Tâm hành giả sẽ trở nên thơ thái, an tịnh, không bị buộc ràng.

Nhờ an trú một cách có chánh niệm vào hiện tại, hành giả sẽ nhận chân được rằng từng cá thể hay năm hợp thể tâm vật lý như hình thể, cảm thọ, tưởng tượng, tâm tư và nhận thức đều không phải là ngã, không thuộc về ngã và ngược lại, cái gọi là “ta” cũng không lệ thuộc vào chúng. Nhờ quán chiếu như vậy, hành giả sẽ vượt khỏi mọi ràng buộc chấp mắc ở đời; sống ung dung và giải thoát.

28. Kinh Ba Cánh Cửa Giải Thoát

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh từ Phật Thuyết Pháp Ấn Kinh, kinh thứ 104 trong ấn bản Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Tựa đề của dịch giả ghi là Kinh Pháp Ấn. Soạn giả sửa lại Kinh Ba Cánh Cửa Giải Thoát, để giúp độc giả dễ hiểu được chủ đề của Kinh. Như tựa đề, bài kinh này trình bày ba cánh cửa giúp hành giả đạt được giải thoát ngay thế gian này. Ba cánh cửa đó là pháp quán “không, vô tướng và vô tác.”

Quán chiếu về “không” là sự nhìn rõ về bản chất của “khổ, không thực thể và biến chuyển” của năm tổ hợp nhân tính (hình thể, cảm giác, tưởng tượng, tâm tư và nhận thức), để thoát khỏi mọi chấp mắc về chúng. Quán chiếu về “vô tướng” là sự nhìn rõ về bản chất của các đối tượng của giác quan (hình thái, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm và ý niệm của tâm) vốn không phải là “ta” (ngã) cũng không phải “những gì thuộc về ta” (ngã sở hữu), vì chúng cũng không có thực thể và luôn biến chuyển không thường còn. Quán chiếu về “vô tác” là sự nhìn rõ về bản chất của “các pháp và sự thấy nghe hiểu biết về chúng” vốn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố nhân duyên, và không có chủ thể tạo tác.

Nhờ thực hành quán chiếu về ba cánh cửa giải thoát này, vị hành giả không còn chấp mắc vào ngã và ngã sở, diệt trừ hết các phiền não tham-sân-si, nhìn rõ được bộ mặt thật của mọi sự vật hiện tượng, không còn kẹt vào một pháp nào nữa và nhận ra được tính cách tịch diệt của các pháp, và nhờ vậy, sống an nhiên và giải thoát trong đời.

29. Kinh Dụ Ngôn Bọt Nước

Bản kinh này do cư sĩ Phan Khắc Nhượng diễn thơ từ Kinh Tương Ưng V, bản dịch của HT. Thích Minh Châu, Đại Tạng Kinh Việt Nam. Bài kinh này được đức Phật giảng cho các vị Tỳ-kheo nhân đi ngang qua sông Hằng, nhìn thấy các bọt nước trồi lên mặt sóng rồi bỗng chốc vỡ tung và tan biến. Đức Phật dạy mọi người nên quán sát tổ hợp nhân thể gồm năm yếu tố (ngũ uẩn) tạo nên sắc thân và tâm thức của con người cũng vô thường, chóng vánh và vô ngã như bọt nước. Năm tổ hợp tạo nên con người là (1) thân thể, (2) cảm thọ, (3) ý niệm, (4) tâm tư, và (5) nhận thức.

Đức Phật đã dùng 5 hình ảnh để sánh ví tính vô thường và vô ngã của hợp thể con người tâm vật lý. Thân thể con người như bọt nước, có đó rồi tan biến đó. Cảm thọ (đau khổ, hạnh phúc và trung tính) như các bong bóng nước khi trời mưa rơi xuống đất, tạm bợ, thay đổi, không dừng. Ý niệm của con người cũng như ráng trời, như mây tụ tán, bỗng chốc liền không. Sự vận hành hay sự sống của chúng sanh cũng như thân cây chuối, tưởng chắc thật nhưng vốn không có lõi bên trong. Thức phân biệt như trò ảo thuật, vốn không có thật. Đức Phật khẳng định rằng ai tu tập quán chiếu về tổ hợp tâm vật lý vô thường và vô ngã nhất định sẽ thoát khỏi các sự say đắm về đời sống năm dục lạc thấp kém, hướng tâm đến thiền vị cao hơn, xả bỏ các chấp mắc về ngã và pháp, chứng đạt sự an lạc và giải thoát.

30. Kinh Chánh Kiến

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh về bài kinh thứ 301 trong Tạp A-hàm, có tham khảo kinh Kaccayanagotta, thuộc Samyutta Nikāya II, 16-7. Tựa đề của dịch giả ghi làKinh Trung Đạo Nhân Duyên, được soạn giả sửa lại thành Kinh Chánh Kiến, vì nội dung của Kinh nhằm giải thích về ý nghĩa của thuật ngữ chánh kiến cũng như các giá trị nhận thức và đạo đức của chánh kiến.

Chánh kiến trước nhất là cái nhìn vượt thoát khỏi hai quan niệm về hiện hữu và phi hiện hữu của bản ngã và mọi sự vật hiện tượng. Cho rằng mọi vật hiện hữu sẽ dẫn tới thường kiến luận, trong khi cho rằng mọi vật không hiện hữu sẽ rơi vào đoạn kiến luận. Cả hai đều dẫn đến các hệ quả bất thiện về phương diện đạo đức.

Kế đến, chánh kiến là cái nhìn về mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này dưới nhãn quan của nguyên lý duyên khởi và tương thuộc: cái này có vì cái kia có, cái này sanh vì cái kia sanh, cái này không vì cái kia không và cái này diệt vì cái kia diệt. Tất cả các quan niệm cho rằng thế giới này được hình thành từ nguyên nhân khởi thuỷ, dù gọi bằng tên gì như Thượng Đế, Phạm Thiên, Thiên Chúa, Chúa Trời v.v... chỉ là quan niệm sai lầm.

Với cái nhìn chánh kiến, thế giới của chúng sanh có tình thức được hình thành, phát triển và hoại diệt từ 12 mắc xích: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Từ đó, đau khổ chồng chất theo nhau từ đời này sang đời khác. Chỉ với chánh kiến và trí tuệ như thật, con người có thể chặt đứt được dòng tiếp nối của sanh tử trong ba cõi sáu đường.

31. Kinh Dụ Ngôn Người Bắt Rắn

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh từ kinh thứ 22 trong Trung Bộ Kinh, có tham khảo Kinh Tương Ưng trong Trung A-hàm, đó là kinh A-lê-sá, thứ 220. Nhân sự kiện vị Tỳ-kheo Arittha hiểu và tuyên truyền sai về giáo pháp của đức Phật, thay vì đức Phật dạy “ái dục là một chướng ngại cho con đường giải thoát”, thầy hiểu sai và nói ngược lại, đức Phật đã dạy cho đại chúng về phương pháp học tập và nắm bắt kinh điển có lợi ích cho bản thân. Trước nhất, người đệ tử Phật phải tìm hiểu tường tận những gì đức Phật dạy, rồi hành trì và ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày. Người học hỏi chánh pháp chỉ để nâng cao kiến thức thuần tuý, tranh luận hơn thua, sẽ không đem lại lợi ích gì cho bản thân, mà chỉ tăng thêm nhiều chướng ngại, cũng giống như người muốn bắt rắn mà không biết thủ thuật bắt, sẽ có thể bị rắn độc cắn chết.

Kế đến, đức Phật nói về dụ ngôn chiếc bè. Mục đích chính của chiếc bè là để vượt qua sông. Sau khi qua được bờ bên kia, người có trí không thể mang chiếc bè về thờ, mà phải thả nó trở về bên kia để nó có thể giúp được nhiều người khác. Tương tự, sau khi giác ngộ, hành giả phải xả bỏ luôn cả chánh pháp, huống hồ những gì không phải chánh pháp.

Bài kinh còn dạy không nên chấp thủ vào năm tổ hợp nhân tính (hình thể, cảm giác, tưởng tượng, tâm tư và nhận thức) cũng như thế giới này, vì tất cả là vô ngã, không nằm trong ngã và không phải là ngã và ngược lại. Kinh cũng phân tích các nỗi buồn và lo sợ dù có nguyên nhân nội tại và ngoại tại, đều có gốc rễ do quan niệm có một bản ngã thật gây ra. Một khi từ bỏ được sự chấp ngã, tất cả nỗi lo sợ và đau khổ sẽ chấm dứt. Kinh cũng cho thấy rằng ai cho rằng đức Phật chủ trương chủ nghĩa đoạn diệt thông qua triết lý vô ngã của Ngài đều là hiểu sai về triết lý cao siêu này. Đức Phật còn nhắn nhủ thêm rằng người tu học Phật phải có thái độ bình thản trước mọi phê bình và chỉ trích của người khác, cũng như những lời khen ngợi tán dương, vì tất cả những điều này không có liên hệ gì đến mục tiêu giải thoát. Để giải thoát các hành giả phải tự mình nhổ sạch gốc rễ của các phiền não, nhiễm ô, và các kiết sử để từng bước thanh tịnh tâm và an lạc ở đời.

32. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

Bài kinh này do HT. Thích Nhất Hạnh dịch từ Kinh Ānāpānasatisutta (M. III. 79-99). Đây là bài kinh thứ 118 thuộc Kinh Trung Bộ, giới thiệu mười sáu cách quán niệm hơi thở ra và vào, trong sự chánh niệm và tỉnh giác. Mười sáu cách quán niệm hơi thở đó là:

Thở vào / ra một hơi dài, người ấy biết: ta đang thở vào / ra một hơi dài.

Thở vào / ra một hơi ngắn, người ấy biết: ta đang thở vào/ ra một hơi ngắn.

Ta đang thở vào / ra và có ý thức về toàn thân ta.

Ta đang thở vào / ra và làm cho toàn thân an tịnh.

Ta đang thở vào / ra và cảm thấy mừng vui.

Ta đang thở vào / ra và cảm thấy an lạc.

Ta đang thở vào / ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta.

Ta đang thở vào / ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh.

Ta đang thở vào / ra và có ý thức về tâm ý ta.

Ta đang thở vào / ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc.

Ta đang thở vào / ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định.

Ta đang thở vào / ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát, tự do.

Ta đang thở vào / ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.

Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp.

Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.

Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về sự buông bỏ.

Đức Phật khẳng định 16 pháp quán niệm hơi thở này có mối liên hệ mật thiết với bốn pháp quán niệm. Nhờ chánh niệm và tỉnh giác trong hơi thở ra vào, hành giả an trú trong (1) pháp quán thân trong thân, (2) quán cảm thọ trong cảm thọ, (3) quán tâm ý như tâm ý, (4) quán đối tượng tâm ý trong trạng thái vượt thoát mọi tham đắm ở đời.

Thông qua việc thành tựu bốn lãnh vực quán niệm, 16 pháp quán niệm hơi thở này cũng dẫn đến thành tựu bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đó là: chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ lạc xuất thế, khinh an, định và hành xả. Như vậy phương pháp quán niệm hơi thở ra vào trong chánh niệm tỉnh giác không chỉ có công năng khắc chế các cảm thọ đau khổ của thân xác mà còn hướng đến sự giải thoát ngay hiện tại và bây giờ.

33. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm

Kinh này là bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh từ Kinh Niệm XứTrung A-hàm 98, phối hợp với bản dịch chữ Hán của Tăng-già-đề-bà (Sanghadeva, 317-420 AP), có tham khảo các bản Pàli tương đương là Satipathana Sutta, bài kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh.

Bốn lãnh vực quán niệm là (1) pháp quán thân trong thân, (2) quán cảm thọ trong cảm thọ, (3) quán tâm thức như tâm thức, (4) quán đối tượng tâm ý như đối tượng tâm ý.

Quán thân trong thân là thái độ chánh niệm tỉnh giác trong từng cử chỉ vận hành của thân như đi, đứng, nằm, ngồi, ngước lên, cúi xuống, duỗi ra, co vào, thở ra vào, bản chất duyên khởi và vô ngã của tổ hợp tâm vật lý v.v… để đối trị các tâm niệm xấu ác, bất thiện bằng các tâm niệm an lạc và lợi ích. Pháp quán này còn bao gồm các pháp quán khác như quán vô ngã, vô thường, bất tịnh, thây ma để từ bỏ các tham đắm ngũ dục lạc thấp kém.

Quán thọ trong các cảm thọ là trạng thái chánh niệm và tỉnh giác trong từng cảm giác hạnh phúc, đau khổ hay trung tính, để làm chủ các giác quan, hướng tâm đến sự an trụ hỷ lạc siêu thế.

Quán tâm thức như tâm thức là trạng thái chánh niệm và tỉnh giác trong từng tâm lý thiện và ác của chúng ta. Khi tâm bị tham, sân, si, bỏn xẻn, kiêu mạn v.v... chế ngự thì phải nhận thức rõ chúng để khắc chế chúng bằng các tâm lý đối nghịch là rộng lượng, hoan hỷ, sáng suốt, ban cho, khiêm hạ, v.v… Sự khắc chế tâm ý như vậy là một quá trình sàng lọc và thanh tẩy, từ xấu thành tốt, từ bất thiện thành thiện và do đó từ phàm phu tục tử trở thành bậc thánh.

Quán đối tượng tâm ý như đối tượng tâm ý là thái độ chánh niệm và tỉnh giác trong từng ảnh niệm của các giác quan sau khi tiếp xúc với các cảnh trần của chúng. Phải nhận chân những hình ảnh, khái niệm, ý niệm lưu lại trong tâm tư: cái nào là thiện, bất thiện, cái nào là nội kết và tháo mở, cái nào đã phát sanh, chưa phát sanh, cái nào đã tiêu diệt và chưa tiêu diệt. Trên cơ sở đó, hành giả từ bỏ các cảm giác xấu, tháo mở các nội kết của tâm, phát triển các tâm niệm, khái niệm, ý niệm thiện và có lợi cho sự tu tập.

Bốn pháp quán niệm này là con đường mà các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đã, đang và sẽ đi qua, có công năng đem lại hỷ lạc khắp thân, tâm niệm, thanh lọc các cấu uế của tâm, hướng đến tuệ giác. Người an trụ trong bốn lãnh vực quán niệm này sẽ có thể chứng được thánh quả hay trí tuệ cứu cánh ngay hiện đời.

34. Kinh Mười Pháp Đến Bờ Kia

Kinh này có xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy, được soạn giả trích lại từ Nghi Thức Tụng Niệm của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam, do chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ xuất bản. Tựa đề kinh theo Pāli là Dasapāramī, có nghĩa là mười Ba-la-mật, hay mười pháp độ, mười pháp hành có khả năng đưa hành giả đến bờ bên kia, tức là giác ngộ và giải thoát. Bản dịch in trong quyển nghi thức trên chỉ ghi là Kinh Đáo Bỉ Ngạn, soạn giả sửa lại cho thuần Việt và sát với nội dung chủ đề của kinh: Kinh Mười Pháp Đến Bờ Kia. Bốn câu kệ trùng lập sau mỗi pháp Ba-la-mật “hy sinh ngoại vật tứ chi... theo chân đại từ” đã được tỉnh lược trong ấn bản này. Do đó, các âm vận cũ cũng được điều chỉnh lại cho phù hợp với âm vận mới sau khi tỉnh lược.

Trong Phật giáo Đại thừa, chỉ có sáu pháp đến bờ bên kia là: bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Trong truyền thống Phật giáo Thượng Toạ bộ, có đến mười pháp đến bờ bên kia là: bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, từ tâm và hành xả. Trong hai truyền thống trên, có năm pháp tu sau đây là thống nhất: bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn và trí tuệ. Nhìn chung, các pháp đến bờ kia này có công năng giúp hành giả giải thoát chính mình và người khác. Do vậy, cái gọi Phật giáo Thượng Toạ bộ là Tiểu thừa, là thấp kém chỉ là sự hiểu sai về các pháp môn hành trì trong truyền thống này mà thôi. Nói cách khác, người hành trì các pháp đến bờ kia sẽ trở thành các thánh nhân, các vị Bồ-tát và Phật, nếu không ở hiện tại thì chắc chắn ở tương lai.

35. Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Hàng Bồ-tát

Tỳ-kheo Thích Kiên Anh dịch thơ từ bản chữ Hán của ngài An Thế Cao, kinh 779, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Nguyên tựa đề ghi là Bát Đại Nhân Giác Kinh, có nghĩa là Kinh Nói về Tám Điều Giác Ngộ của các Bậc Đại Nhân. Đại nhân (Pāli: mahāpurisa), chỉ chung cho những người có đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện hơn hẳn người thường. Trong văn học Phật giáo Đại thừa, đại nhân chỉ cho các vị Bồ-tát.

Điều giác ngộ thứ nhất là nhận rõ thế gian này vô thường, năm hợp thể nhân tính là vô ngã, tâm là nguồn gốc của mọi khổ đau cũng như hạnh phúc. Điều giác ngộ thứ hai là nhận rõ rằng nguồn gốc của mọi đau khổ trong đời là do tham ái và chấp thủ gây ra. Đời sống ít muốn biết đủ và cởi bỏ mọi trói buộc là những bước đường hướng tới giải thoát. Điều giác ngộ thứ ba là nhận rõ rằng đường danh lợi mà thế gian đam mê có ít giá trị đạo đức và tâm linh, trong khi con đường trí tuệ như là sự nghiệp giải thoát duy nhất của các bậc trí. Điều giác ngộ thứ tư là nhận rõ rằng mọi sa đoạ và lạc hậu trên con đường tâm linh đều do tâm lười biếng mà ra, do vậy, phải tinh tấn tu tập ngày đêm để hướng đến giải thoát cho bản thân và tha nhân. Điều giác ngộ thứ năm là nhận rõ rằng vô minh là đầu mối của sự trôi lăn trong sanh tử, trong khi trí tuệ có khả năng soi sáng và giải thoát. Điều giác ngộ thứ sáu là nhận rõ rằng nghèo khó thường sanh thù oán. Hàng Bồ-tát chuyên hạnh ban cho không phân biệt thân sơ, bạn thù, để giúp tất cả chúng sanh hướng đến giải thoát. Điều giác ngộ thứ bảy là nhận rõ rằng năm dục lạc không phải là mục đích thật sự của cuộc sống. Người xuất gia nhờ quan niệm như vậy nên sống đời thanh bần, chuyên tâm thiền định, mong giải thoát cho mình và tha nhân. Điều giác ngộ thứ tám là nhận rõ rằng vòng sanh tử triền miên đang thiêu đốt tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Thương đời, hàng Bồ-tát phát tâm từ bi rộng lớn để hoá độ tất cả cùng chứng được niết-bàn.

Tám điều giác ngộ này không phải dành riêng cho hàng Bồ-tát. Nói chung, bất cứ ai thực hành theo đều có thể đạt được giải thoát cho bản thân, và trở thành các bậc Bồ-tát có khả năng chuyển hoá đau khổ của cuộc đời thành an lạc.

36. Kinh Dẫn Nhập Đại Thừa

Trích toàn bộ Thắng Man Phu Nhân Hội, (hội 48 thuộc Kinh Đại Bảo Tích), do HT. Thích Trí Quang dịch từ bản dịch chữ Hán của ngài Bồ-đề-lưu-chi (thuộc kinh số 310 củaĐại Tạng Kinh bản Đại Chính Tân Tu). Bản dịch ghi là Kinh Thắng Man, soạn giả đặt lại tựa kinh để làm nổi bật các chủ đề chính mà kinh muốn giới thiệu.

Kinh này giới thiệu bao quát các giáo nghĩa căn bản của Đại thừa, đặc biệt là thai tạng Như Lai tiềm ẩn trong tất cả chúng sanh. Phần cốt lõi của kinh do phu nhân Thắng Man tuyên thuyết dưới sự khuyến khích và chứng minh Phật. Kinh gồm 15 chương, mỗi chương trình bày về một học thuyết trọng yếu của Đại thừa.

Chương một giới thiệu đức tính siêu việt của Phật về nhục thân và trí tuệ. Giáo pháp của Ngài thật là cao siêu mầu nhiệm. Chương hai trình bày mười điều tâm nguyện của Bồ-tát là: giữ giáo pháp, tôn trọng sư trưởng, không sân hận, không ganh tỵ, không bỏn xẻn, ban bố và giúp đỡ mọi người, nhiếp hoá mọi người, giải phóng chúng sanh bị giam cầm, chuyển người ác làm lành, và thực hành các pháp Ba-la-mật. Chương ba giới thiệu ba nguyện lớn: luôn hướng tâm trí về chánh pháp, truyền bá chánh pháp không mệt mỏi và hy sinh thân mạng vì chánh pháp. Chương bốn giải thích các phương diện của thu nhận chánh pháp, phù hợp với căn tánh chúng sanh. Chương năm khẳng định Đại thừa là nguồn gốc của tất cả các pháp lành trên thế gian. Do đó sự tồn vong của Đại thừa liên hệ đến sự tồn vong của chánh pháp.

Chương sáu đề cập đến trí thánh đế của Phật siêu việt các hàng Thanh Văn và A-la-hán. Chương bảy nói về thai tạng Như Lai. Chương tám trình bày về pháp thân. Chương chín nói về hai loại Như Lai tạng: như thật không và như thật hữu. Chương mười và chương mười một xác quyết chỉ có Niết-bàn là chân lý duy nhất, chân thật, thường còn và đáng nương tựa, còn ba chân lý còn lại chỉ là giả lập để hiển thị Niết-bàn. Chương mười hai giới thiệu các quan niệm sai lầm, đối lập với chánh kiến, trong mối liên hệ đến con người, thế giới và Niết-bàn.

Chương mười ba nói đến tánh dụng và thể của Như Lai tạng trong dòng sanh tử. Chương mười bốn giới thiệu ba đối tượng “con thật của Phật” là người chứng tuệ giác, người tuỳ thuận chánh pháp và người có đức tin chân chánh về giáo pháp. Chương cuối nêu ra nhiều tên gọi của kinh và khuyên tất cả truyền bá kinh này.

Nhìn chung, bản kinh này được xem là nền tảng của đạo đức học và nhận thức luận Đại thừa, trình bày các khía cạnh giới luật và các hành trì của hàng Bồ-tát.

37. Kinh Bốn Điều Nương Tựa

Trích từ phẩm Tứ Y trong Kinh Đại Bát-niết-bàn, (tập I, trang 182-6, ấn bản 2 tập) do HT. Thích Trí Tịnh dịch. Tựa đề do soạn giả đặt, để tóm yếu nội dung của Kinh. Bốn điều nương tựa là: (1) nương tựa chánh pháp, không nương tựa người, (2) nương tựa ý nghĩa, không nương tựa văn tự, (3) nương tựa trí tuệ, không nương tựa thức, (4) nương tựa kinh điển liễu nghĩa, không nương tựa kinh điển thiếu liễu nghĩa.

Pháp nương tựa thứ nhất giúp chúng ta xa lìa chủ nghĩa tôn sùng cá nhân và những hệ quả bất thiện của nó gây ra một khi thần tượng cá nhân đó bị sụp đổ. Chỉ có chánh pháp tối thượng của đức Phật là nơi chúng ta có thể nương tựa để tìm an lạc và giải thoát. Ngoài ra, pháp ở đây còn được hiểu là pháp tánh, người được chỉ chung cho hàng phàm phu và cho đến các bậc Thanh Văn. Nương tựa pháp là nương tựa pháp tánh, tức Như Lai, không nương tựa vào các hàng phàm phu và Thanh Văn vì đó chưa phải là chỗ nương tựa cao tột.

Pháp nương tựa thứ hai giúp chúng ta nắm bắt được nghĩa lý sâu xa huyền diệu, không vướng mắc vào văn tự chữ nghĩa. Nói cách khác, đó là thái độ “được ý quên lời.” “Nghĩa” ở đây còn ám chỉ cho chân lý cao siêu, trong khi “ngữ” được ám chỉ cho các lời lẽ chủ trương trái với lời Phật dạy, vì mục đích lợi dưỡng.

Pháp nương tựa thứ ba dạy chúng ta hướng đến trí tuệ cao siêu, bỏ qua nhận thức phàm phu thông thường. Trí ở đây là nhìn thấy được đức Phật có ba thân: pháp thân, ứng thân và báo thân, trong khi nhận thức thông thường chỉ thấy sắc thân của Phật giới hạn trong năm uẩn và mười tám giới.

Trong pháp nương tựa thứ tư, kinh liễu nghĩa chỉ cho kinh điển Đại thừa, hay những giáo pháp hướng đến Phật quả. trong khi kinh không liễu nghĩa chỉ cho kinh điển ngoài Đại thừa, không có khả năng độ thoát rốt ráo. Các phán đoán sau đây là liễu nghĩa: Như Lai thường trụ, Như Lai chỉ nhập pháp tánh chứ không chết, không thật có ba thừa mà chỉ có một Phật thừa v.v.... Các phán đoán ngược lại được gọi là bất liễu nghĩa.

Nói tóm lại, bốn pháp nương tựa này được xem là nền tảng đạo đức và nhận thức của người tu học Phật pháp Đại thừa, là kim chỉ nam để hướng đến giải thoát, và là chiếc cầu nối dài phàm phu tới Phật quả. Điều nương tựa thứ nhất nhằm phá chấp về chủ nghĩa cá nhân. Điều nương tựa thứ hai nhằm phá chấp vào văn tự chữ nghĩa. Điều nương tựa thứ ba hướng đến trí tuệ bát-nhã, vượt bỏ các nhận thức phàm phu. Điều nương tựa cuối cùng hướng tất cả chúng sanh đến Đại thừa để lợi ích mình và người trong tu tập.

38. Kinh Chỉ Bày Chân Tâm

Trích từ chương Gạn Hỏi cái Tâm thứ hai trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực Chỉ Đề Cương (tập I, trang 19-53, xuất bản năm 1986), do HT. Thích Từ Thông dịch và giải. Tựa đề do soạn giả đặt cho phù hợp với nội dung của Kinh. Các tiêu đề phụ trong kinh dựa theo bản dịch trên, có thay đổi đôi chút.

Bài kinh kể lại bảy lần đức Phật gạn hỏi chân tâm thường trú, thể tánh tịnh minh, cho vị đệ tử thân tín của Ngài là tôn giả A-nan-đa, vị Đa văn đệ nhất, người có công trùng tuyên toàn bộ lời dạy của Ngài trong suốt cuộc đời hoằng pháp. Tôn giả A-nan-đa lần lượt cho rằng: tâm ở trong thân, tâm ở ngoài thân, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén thủy tinh, nhắm mắt thấy tối là tâm thấy ở trong tâm, sự suy nghĩ hợp với chỗ nào thì tâm ở chỗ đó, tâm ở chặng giữa, và tâm không dính dáng vào đâu cả. Theo đó, đức Phật lần lượt chỉ ra cho chúng ta thấy chân tâm thường trú không phải là bảy thứ đó.

Phật dạy rằng tất cả chúng sanh thường nhận lầm cái tánh theo duyên, bám víu các đối tượng giác quan, thành cái chân tâm thường trú, nên phải chịu cảnh luân hồi trong ba nẻo sáu đường. Nền tảng của Niết-bàn và trí tuệ giải thoát vốn không mất trong tâm của chúng sanh. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh che lấp nên từng giây phút sống trong thể tánh thanh tịnh mà trở thành điên đảo, không hay không biết.

Đức Phật tha thiết khuyên tất cả chúng ta phải siêng tu thiền định, để từ bỏ thái độ nhận giặc sắc trần làm con, xem các giác quan như tâm chân thật của mình. Chỉ với con đường thiền định chín thứ lớp, không trụ chấp vào các cảnh giới chứng đắc, hướng tâm ra khỏi ba cõi, chúng sanh mới có thể từ bỏ được pháp trần tạm bợ, nhận chân ra được chủ nhân chân thật, đó là cái tâm tánh thanh tịnh xưa nay của mình.

39. Kinh Cúng Dường Pháp

Trích phẩm Cúng Dường Pháp trong Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết, bản dịch của HT. Thích Huệ Hưng (Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh tái bản 1993, các trang 165-73).

Nhân sự kiện Thích-đề-hoàn-nhân tức Đế-thích (Vua cõi trời Đao-lợi) phát nguyện sẽ hỗ trợ và bảo hộ cho những ai đọc tụng, hành trì và truyền bá kinh Phật, đức Phật khuyến khích và ca ngợi tinh thần phổ biến và hoằng dương chánh pháp đến với các chúng sanh như là cách cúng dường các đức Phật một cách cao thượng và đáng khen nhất.

Bài kinh khẳng định cúng dường pháp có giá trị vô song so với các cách cúng dường khác như xây dựng chùa cao, Phật lớn, dựng tháp bảy báu thờ xá-lợi Phật, hoặc cúng dường các thứ cần dùng hay hầu hạ đức Phật trong vô lượng kiếp. Các cúng dường vật chất như thế giá còn thua kém một người nghe chánh pháp của đức Phật rồi phát tâm hành trì và truyền bá. Bởi lẽ, vật chất chỉ có thể nuôi sống thân mạng vô thường, trong khi chánh pháp của Phật có thể trưởng dưỡng tâm giác ngộ và giúp chúng sanh thoát khỏi nhà lửa ba cõi, an lạc vĩnh hằng.

Cúng dường pháp ở đây bao gồm việc tán dương và hoằng truyền chánh pháp của đức Phật, để giúp chúng sanh theo đường Bồ-đề, sanh lòng đại bi, nuôi lớn trí tuệ, phá các tà kiến, vững tiến trên đường giải thoát các lậu hoặc phiền não. Đó là sự truyền bá chân lý duyên sanh, không có Thượng Đế, vạn vật muôn sự nương duyên mà thành, trụ và hoại. Đó là bốn chân lý thánh: nhận diện mặt mũi khổ đau, truy tìm nguyên nhân khổ đau, trạng thái an lạc vắng mặt khổ đau và con đường thánh chấm dứt khổ đau. Đó là chân lý cho rằng con người và thế giới này là vô ngã và không thường còn. Đó là nhân quả nghiệp báo, thiện ác rõ ràng. Đó là bốn tâm cao thượng: từ, bi, hỷ và xả. Đó là sáu pháp đến bờ kia: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Đó là nương tựa chánh pháp, ý nghĩa, trí tuệ và kinh điển Đại thừa, chứ không phải người, ngôn ngữ, kiến thức thông thường và kinh điển cho người sơ cơ.

Nói chung, cúng dường pháp trước là sự hành trì chánh pháp của bản thân và sau là tâm hạnh truyền bá đến mọi người để tất cả cùng an lạc và giải thoát. Nói cách khác, cúng dường pháp là hạnh ban bố pháp mà tất cả người con Phật cần thực hiện.

40. Kinh Hạnh Trẻ Thơ

Trích phẩm Anh Nhi Hạnh thứ mười mộttrong Kinh Đại Bát-niết-bàn, (tập I, trang 205-7, bộ hai tập), do HT. Thích Trí Tịnh dịch. Soạn giả dịch tựa kinh ra tiếng Việt cho dễ hiểu. Do vậy, toàn bộ từ “hạnh anh nhi” trong suốt mạch kinh đều được đổi thành “hạnh trẻ thơ.”

Đức Phật mượn hình ảnh trẻ thơ không có các khả năng nói năng, đi đứng, không biết phân biệt, chấp mắc, để chỉ cho tánh Phật thanh tịnh vô nhiễm trong mọi chúng sanh. Ngài khuyên chúng ta nên trở về với hạnh trẻ thơ của mỗi người, để từ bỏ vĩnh viễn các thái độ nhị biên, phân biệt, chấp trước, nhờ đó mà hướng đến giải thoát.

Sự kiện không biết nói năng của trẻ thơ tượng trưng cho đức Phật thuyết pháp mà thật ra chẳng nói một lời nào. Nói pháp chỉ là phương tiện để độ sanh, chỉ là cung cấp chiếc bè giúp chúng sanh tự vượt sông sanh tử chứ không phải để thờ phượng.

Sự kiện không biết khổ vui, ngày đêm của trẻ thơ ám chỉ cho hàng A-la-hán, Bồ-tát và Phật không còn tâm phân biệt nhị nguyên, không còn tạo nghiệp sanh tử, tâm luôn an trụ vào Bồ-đề và giải thoát.

Hạnh trẻ thơ còn được ví cho các phương tiện thiện xảo mà người hoằng pháp độ sanh cần vận dụng vào đời sống thường nhật để giúp đỡ và cứu độ chúng sanh. Đó là giải lập ra ba thừa (Thanh Văn, Bồ-tát và Phật thừa) nhưng cốt nhằm qui về một Phật thừa mà thôi.

Hạnh trẻ thơ còn được ví cho các phương tiện thiện xảo mà người hoằng pháp độ sanh cần vận dụng vào đời sống thường nhật để giúp đỡ và cứu độ chúng sanh. Đó là giải lập ra ba thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát) nhưng cốt nhằm qui về một Phật thừa mà thôi.

Hạnh trẻ thơ còn được sánh với thái độ tuỳ thuận, hoà quang đồng trần, sử dụng các mặc ước ngôn ngữ và phong tục tập quán của chúng sanh, để truyền bá chánh pháp, giúp chúng sanh dứt được các tà kiến, hướng đến chánh kiến, vượt thoát khỏi ba cõi sáu đường, đạt được Niết-bàn tại thế gian này.

41. Kinh Hạnh Bồ-tát

Trích từ phẩm Bồ-tát Hạnh, thứ 72 trong Kinh Bát-nhã (tập III, trang 189-960, bộ 3 tập), do HT. Thích Trí Tịnh dịch. Soạn giả dịch lại tựa kinh và dịch tất cả các cụm từ chữ Hán trong bản dịch trên thành các cụm từ tương đối thuần Việt trong ấn bản này. Như tựa đề của kinh, kinh này tán dương và khuyến khích tất cả mọi người nên tu tập và truyền bá hạnh Bồ-tát.

Hạnh Bồ-tát là hạnh hướng đến mục tiêu duy nhất là giác ngộ vô thượng, thành Phật. Hạnh Bồ-tát là sự hành trì miên mật các pháp quán “không thực thể” về năm nhóm nhân thể, sáu giác quan, sáu đối tượng giác quan, và tất cả mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này. Hạnh Bồ-tát còn gồm thâu các hành trì bốn thiền sắc giới, từ bi hỷ xả, bốn thiền vô sắc giới, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy yếu tố giác ngộ, tam-muội “không, vô tướng và vô tác,” tám giải thoát, chín thiền định, mười lực, bốn không sợ sệt, bốn trí vô ngại, mười tám đặc tính của Phật, tâm đại từ đại bi, trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, các thứ biện tài, văn tự, các môn Đà-la-ni, và tất cả hạnh, chỉ vì mục đích duy nhất là chứng đạt được Vô Thượng Bồ-đề mà thôi, chứ không vì một mục tiêu nào khác.

Vô thượng Bồ-đề ở đây được hiểu là trí tuệ siêu việt nhìn thấy được mặt mũi thật của tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian này như chúng đang là. Đó là sự nhận chân được thật tướng và pháp tánh, vượt khỏi các danh tướng ngôn thuyết thế gian, xoá bỏ mọi phân biệt và chấp thủ nhị nguyên. Nhờ vậy mà chứng đắc Nhất Thiết Chủng Trí hay Phật Trí.

Vị hành giả khi thực hành được trí tuệ siêu việt đó, không còn chấp mắc thì trong một hành trì thiện đã dung thông và bao gồm tất cả căn lành khác. Muốn được vậy, hành giả trước phải siêng năng học tập, thực hành và cúng dường pháp bằng cách truyền bá chánh pháp của Phật đến với tất cả chúng sanh. Bất cứ ai làm được điều nầy đều được gọi là hàng Bồ-tát không còn thối chuyển.

42. Kinh Lục Độ Dung Thông

Trích phẩm Lục Độ thứ 68 trong Kinh Bát-nhã (tập III, trang 88-108, bộ 3 tập), do HT. Thích Trí Tịnh dịch. Soạn giả đặt lại tựa đề kinh và nhuận văn để giúp người đọc dễ hiểu được mạch văn.

Như tựa đề của Kinh, bài kinh này dạy về cách tu pháp đến bờ kia một cách dung thông và bao nhiếp tất cả các pháp đến bờ kia của hàng Bồ-tát. Có sáu pháp đến bờ kia là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bố thí Ba-la-mật là trong lúc bố thí không chấp trước có chủ thể bố thí, người nhận phẩm vật và tặng phẩm. Trì giới Ba-la-mật là lúc giữ giới không thấy mình là người giữ giới, có giới để giữ và sự kiện giữ giới. Nhẫn nhục Ba-la-mật là lúc thực hành nhẫn nhục không thấy mình bị hành hạ, không thấy có người hành hạ và không thấy có sự hành hạ. Tinh tấn Ba-la-mật là lúc tinh tấn làm các pháp lành, không thấy mình là người làm, có chúng nhận hưởng các pháp lành đó, và không có các pháp lành để làm. Thiền định Ba-la-mật là lúc hành thiền, không còn chấp trước vào chủ thể hành thiền, đối tượng hành thiền và sự kiện hành thiền. Trí tuệ Ba-la-mật là không phân biệt mình là chủ thể trí tuệ, không thấy có đối tượng của trí tuệ và sự kiện trí tuệ. Nói chung các Ba-la-mật là các đặc tính đạo đức và trí tuệ mà một vị Bồ-tát cần tu tập cho trọn vẹn để chứng đắc đạo quả giác ngộ cùng tột, và hướng dẫn tất cả chúng sanh cùng đạt được.

Đối với hàng Bồ-tát sáu pháp Ba-la-mật không phải được thực hành một cách rời rạc. Khi thực hiện một hạnh Ba-la-mật nào đó, vị Bồ-tát đồng thời cũng hoàn thiện luôn năm Ba-la-mật còn lại. Trong bố thí, vị Bồ-tát vẫn thể hiện đủ trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Ngược lại, các Ba-la-mật khác cũng vậy. Sự kiện tương dung này cho chúng ta thấy, trong một pháp thiện, với một tâm tu tập tinh chuyên, không vì phước đức ở cõi người cõi trời, không vì quả vị Thanh Văn và Duyên Giác, mà chỉ vì trí tuệ và giác ngộ tối thượng cho mình và tất cả chúng sanh, các pháp thiện khác đã hội đủ. Một pháp lành dung chứa các pháp lành khác. Tất cả các pháp lành được dung thông trong một pháp lành.

Chỉ với cách tu tập như vậy, hành giả hoàn tất được hạnh nguyện Bồ-tát của mình.

43. Kinh Chỉ Bày Phương Tiện

Trích Phẩm Phương Tiện, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Hoa Sen Chánh Pháp), do HT. Thích Trí Tịnh dịch. Tựa đề do soạn giả sửa lại cho rõ nghĩa.

Phẩm này có thể được xem là phần tinh hoa nhất của toàn bộ Kinh Pháp Hoa, giới thiệu nhiều vấn đề mấu chốt của triết lý Đại thừa, dưới hình thức các phương tiện. Phương tiện ở đây có 2 nghĩa: thứ nhất là phương pháp vận dụng khác nhau trong hoằng pháp độ sanh để đạt được kết quả cao nhất, thứ hai là chỉ chung cho tất cả những gì ngoài Phật thừa đều thuộc về phương tiện, chứ chưa phải cứu cánh. Chẳng hạn đức Phật sau khi thành đạo quả, dùng vô số ngôn ngữ, sắc tướng, tỷ dụ, trải suốt cuộc đời hoằng pháp gần 50 năm không mệt mỏi, chỉ để hướng dẫn các căn cơ chúng sanh khác nhau cùng chứng được trí tuệ Phật giống nhau. Tất cả những thứ đó đều là phương tiện. Nói chung, cho đến khi nào, chúng sanh chưa giác ngộ được cảnh giới mà đức Phật đã đạt được, chỉ dạy, thì tất cả các pháp môn giảng dạy của Ngài đều thuộc về pháp môn phương tiện.

Bài kinh khẳng định đức Phật Thích-ca cũng như các đức Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, ra đời chỉ vì một mục tiêu duy nhất, đó là, mở (khai) trí tuệ Phật cho chúng sanh, chỉ bày (thị) trí tuệ Phật cho chúng sanh, giúp chúng sanh tỏ ngộ (ngộ) và thâm nhập (nhập) trí tuệ Phật.

Nói cách khác, mục đích của đức Phật là giúp cho tất cả chúng sanh cùng được thành Phật như ngài. Chân lý “tất cả chúng sanh sẽ thành Phật như đức Phật” đó quả sâu xa, khó tin, khó hiểu. Đức Phật phải dùng đến phương tiện, diễn bày thành ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát, thông qua chín thể loại kinh điển khác nhau, để độ cho các chúng sanh với nhiều căn cơ khác nhau, mà cốt yếu chỉ bày một Phật thừa, còn gọi là trí tuệ Phật hay Phật quả.

Chỉ với trí tuệ Phật, chúng sanh mới có thể thấu tột tướng chơn thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tánh như vậy, tướng như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy. Pháp tánh cao siêu mầu nhiệm đó, chỉ có các đức Phật mới biết rõ với nhau mà thôi, người chưa đạt đến trí tuệ Phật không thể hiểu hết được. Kế đến, kinh còn khẳng định rằng dù chúng sanh có bị trôi lăn trong ba cõi sáu đường theo nghiệp báo mà chúng đã tạo tác, khác nhau về hình thù, đạo đức và trí tuệ, nhưng cái tri kiến Phật hay Phật tánh vốn không mất trong họ. Do đó, một khi đã gieo hạt giống với Phật, Pháp, Tăng thì trước sau gì hạt giống này khi gặp đủ duyên sẽ trổ quả Phật.

Nói cách khác, cái chân lý mầu nhiệm mà đức Phật đã dùng phương tiện để trình bày cho chúng sanh hiểu trong kinh này là đức Thích-ca Mâu-ni là Phật-đã-thành và tất cả chúng sanh là Phật-sẽ-thành.

44. Kinh Ý Nghĩa Bát-nhã

Trích Phẩm Bát-nhã, trong Kinh Pháp Bảo Đàn, thuộc bộ Chư Kinh Nhật Tụng (trang 147-60, do Thành hội Phật giáo Hồ Chí Minh, ấn hành năm 1993), do HT. Thích Duy Lực dịch. Soạn giả thêm từ “ý nghĩa” vào tựa kinh để làm rõ chủ đề và ý nghĩa của bài Kinh.

Bài kinh này do thiền sư Huệ Năng, tổ thứ sáu của dòng thiền Trung Quốc, nói nhân Vi Sử Quân thưa hỏi về ý nghĩa của “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.” Bát-nhã là trí tuệ ở tự tâm, phải thực hành mới nhận chân được. Tâm là nguồn gốc của Phật, chúng sanh, thiện ác, mê ngộ, bao hàm muôn pháp, nên cũng gọi là “lớn” (đại). Tâm lượng rộng khắp pháp giới nhưng dung thông vạn tượng: một là tất cả, tất cả là một. Chỉ với trí tuệ Bát-nhã, phá tất cả chấp, không dính mắc pháp nào, tự tại vô ngại, chuyển ba độc thành giới định huệ, chúng sanh mới có thể đến được bờ giải thoát bên kia (Ba-la-mật). Người tỏ ngộ được trí Bát-nhã thì không còn khởi tâm vọng niệm, phân biệt nhị nguyên, không nắm không bỏ, tự tại diệu dụng.

Cái tự tánh Bát-nhã của tất cả chúng sanh vốn thường vắng lặng, thanh tịnh, không tăng không giảm, chiếu sáng xưa nay, vượt ngoài ngôn ngữ văn tự. Kẻ mê thì rong ruổi tìm kiếm bên ngoài. Người ngộ thì trực nhận ở tâm. Dùng tâm vô niệm để bỏ các nhiễm trước thế gian, thông đạt các pháp, thì chắc chắn sẽ thấy tánh thành Phật.

45. Kinh Trí Tuệ Kim Cương

Bản dịch của HT. Thích Nhất Hạnh. Soạn giả sửa lại tựa kinh và vài từ trong bản dịch, để giúp người đọc dễ hiểu ý kinh hơn.

Bồ-tát độ vô số chúng sanh nhưng không thấy mình có độ bất kỳ một chúng sanh nào cả. Bồ-tát bố thí với tâm không vướng mắc vào đối tượng giác quan. Không thể nhìn Như Lai qua 32 tướng tốt. Chỉ khi nào nhìn thấy được đặc tính “vô tướng” trong các tướng trạng và hình thái thì ngay đó thấy được Như Lai. Phải quan niệm chánh pháp của đức Phật chỉ như chiếc bè để qua sông. Khi đạt đến bờ kia, chánh pháp còn phải buông bỏ, huống hồ là những thứ không phải chánh pháp. Tất cả các pháp đều là giả danh, do đó, không có cái gọi là chứng đắc hay không chứng đắc. Cúng dường pháp là tối thượng trong các cúng dường. Không thấy có sự chứng đắc về bốn quả Thanh Văn thì đó mới thật sự chứng đắc. Đức Phật cũng chưa từng cho rằng Ngài đắc quả Vô thượng Bồ-đề trong khi tu học với đức Phật Nhiên Đăng. Các hàng Bồ-tát nên trang nghiêm Tịnh Độ trong tinh thần vô sở trụ.

Bồ-tát khi thực hành sáu Ba-la-mật mà không thấy mình đang thực hành thì đó mới là thực hành đúng nghĩa. Bồ-tát độ vô lượng vô số chúng sanh qua bờ giải thoát nhưng không thấy có chúng sanh nào được mình hoá độ. Bồ-tát phải giữ tâm không vướng mắc (vô sở trụ) vào bất cứ khái niệm nào, làm tất cả pháp thiện nhưng không vướng mắc vào pháp thiện nào. Nhờ vậy, Bồ-tát không bị bốn tướng “mình, người, chúng sanh và mạng sống” trói buộc, chi phối. Khi không còn bị kẹt vướng trong khái niệm và bốn tướng đó, Bồ-tát sẽ thấy rõ rằng tất cả các pháp là Phật pháp; tu tập chứng đắc đạo quả mà chẳng thấy mình chứng đắc gì cả, đó mới là thật chứng đắc.

Tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai đều không thể nắm bắt được. Như Lai có đủ năm mắt: mắt thịt, mắt trời, mắt tuệ, mắt pháp và mắt Phật. Chúng ta không thể nhận diện Như Lai qua hình tướng được. Người phát tâm tu đạo giải thoát của Phật không bao giờ quan niệm rằng thế giới và con người này là hư vô, đoạn diệt, thay vì do duyên sanh.

Như Lai là bậc không từ đâu tới và cũng chẳng đi về đâu cả. Tất cả các sự vật hiện tượng trên đời này không liên hệ gì đến các khái niệm, ngôn ngữ, đặc tính mà con người đã áp đặt cho chúng. Ngay cả chính bản thân của các khái niệm, ngôn ngữ, đặc tính cũng không phải là khái niệm, ngôn ngữ và đặc tính. Người tu hạnh Bồ-tát nên quán sát các pháp hữu vi vô thường, tạm bợ, như sương mù, sấm chớp, có đó liền không đó, để xa rời mọi chấp thủ và chứng đắc giải thoát ở đời.

46. Kinh các Pháp Tu Viên Thông

Trích nửa chương thứ năm và gần hết chương thứ sáu của Kinh Thủ-lăng-nghiêm, bản dịch của HT. Thích Từ Thông. Tựa đề do soạn giả đặt, cho phù hợp với chủ đề chính của Kinh.

Bài kinh giới thiệu 25 pháp tu viên thông của các hàng A-la-hán và Bồ-tát có mặt trong pháp hội Thủ-lăng-nghiêm. Đây là các pháp tu tiêu biểu mà chúng ta có thể chọn và hành trì theo. Các pháp tu đầu liên hệ đến sáu đối tượng giác quan (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), sáu giác quan (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý), sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức và thân thức, ý thức), và bảy đại (hoả, địa, thuỷ, phong, không, thức, kiến). Trong đó, chỉ có pháp môn “nhĩ căn viên thông” của Bồ-tát Quán Thế Âm được đức Phật xác chứng phù hợp với căn tánh của chúng sanh trong cõi Ta-bà nhất, và khuyên đại chúng cùng tu học và truyền bá vì tính cách phổ quát và viên mãn của nó.

Pháp môn nhĩ căn viên thông liên hệ đến tiến trình văn-tư-tu chánh pháp, dẫn vào thiền định, và chứng đắc giải thoát. Đầu tiên Bồ-tát quán tiếng động và tĩnh, rồi bỏ đi hai tính đối lập này, ngay cả bỏ luôn chủ thể nghe và đối tượng nghe. Sau khi đạt được tánh giác thanh tịnh, hành giả cũng không chấp vào tánh giác này. Nhờ vậy, nhận chân được thế giới bất nhị, hiện tiền và thông suốt.

Một mặt đưa ra các hạn chế nhất định của 24 pháp tu viên thông của các hàng Thanh Văn và Bồ-tát khác, đức Phật mặt khác giới thiệu hạnh nguyện độ sanh của Bồ-tát Quán Thế Âm, thể hiện 32 ứng thân, và hiện thân ngàn tay ngàn mắt, để hoá độ thích ứng với nhiều loại căn cơ khác nhau, nhằm hướng dẫn chúng sanh trở về với đạo Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát còn vận dụng “văn huân và văn tu” để thành tựu 14 đức tính không sợ hãi và bốn đức tính không thể nghĩ bàn.

47. Kinh Thể Nhập Pháp Môn Không Hai

Trích phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn, trong Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết (Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh tái bản năm 1993, trang 147-60), do HT. Thích Huệ Hưng dịch. Soạn giả đặt lại tựa đề và nhuận văn vài chỗ cần thiết.

Bài kinh tường thuật lại sự kiện ba mươi hai vị Bồ-tát lần lượt trình bày về phương pháp thể nhập “pháp môn không hai.” Đó là lìa phân biệt, chấp mắc về: sanh và diệt, ngã và ngã sở, dơ và sạch, động và tĩnh, một và nhiều, Bồ-tát và Thanh Văn, thiện và ác, tội và phước, hữu lậu và vô lậu, hữu vi và vô vi, thế gian và xuất thế gian, sanh tử và Niết-bàn, tận cùng và không cùng tận, ngã và vô ngã, trí tuệ và vô minh, sắc và không, bốn đại và hư không, chủ thể và đối tượng, bố thí và hồi hướng, đắc và vô đắc, thích và chán, chánh và tà, thực và không thực v.v...

Bồ-tát Văn-thù chỉ rõ rằng pháp môn không hai vượt khỏi ngôn ngữ, trình bày và vấn đáp. Riêng Bồ-tát Duy-ma-cật chứng minh và thể hiện pháp môn không hai, như Bồ-tát Văn-thù vừa trình bày, bằng cách chỉ im lặng, không nói một lời.

48. Kinh Viên Giác

Bản dịch của HT. Thích Duy Lực, trong bộ Chư Kinh Nhật Tụng (Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 1993). Soạn giả đã tỉnh lược tất cả các đoạn thưa thỉnh trùng lập, đổi các cụm từ chữ Hán thành các cụm từ thuần Việt, để giúp người đọc tụng dễ hiểu lời Kinh.

Kinh này trình bày pháp môn trực nhận thể tánh viên giác vốn sẵn có trong tất cả chúng sanh, là pháp môn tổng trì, lập nên chân như, Niết-bàn, Bồ-đề, các Ba-la-mật và tất cả pháp lành. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh che lấp nên tánh viên giác không hiển hiện được. Vô minh không có thật thể, chỉ là huyễn hoá khi chúng sanh chưa giác ngộ. Do đó, tu tập chỉ là “lấy huyễn giác để trị huyễn mê.” Khi mê hết thì giác cũng bỏ đi, không nắm lấy. Khi lìa hết tất cả huyễn và giác thì lúc đó mới thật là chân giác ngộ.

Để dứt huyễn mê, các pháp phương tiện thiện xảo cần được sử dụng để tu tập như: chánh niệm, thiền định, giữ giới, quán tính không thực thể của bốn đại, v.v... Thể tánh viên giác vượt khỏi sắc tướng như hạt châu Ma-ni vốn trong suốt không màu. Tánh giác này cùng khắp không gian và thời gian, vốn không bị trói buộc nên không cần tháo mở; vượt lên trên các đối đãi nhị nguyên. Rốt ráo không có thật năng chứng và sở chứng, chẳng nắm chẳng buông. Một khi thể nhập được thể tánh viên giác thì tất cả vọng tưởng và giả huyễn đều tan biến vĩnh viễn, như khi vàng ròng đã được điều chế thành sản phẩm rồi thì không thể thành quặng trở lại nữa.

Ân ái, dâm dục là gốc của sanh tử luân hồi. Do đây mà có yêu ghét, lấy bỏ, tạo nhiều nghiệp thiện ác, chìm trong vô minh. Chủng tánh của chúng sanh tuy nhiều nhưng không ngoài năm loại, đó là phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát, bất định và ngoại đạo. Bồ-tát phải tuỳ thuận theo từng chủng tánh để hoá độ tất cả mà không thấy mình có hoá độ. Do đó nên biết rằng tất cả kinh điển chỉ như ngón tay để chỉ mặt trăng chứ không phải bản thân của mặt trăng. Thấy được trăng thì hãy quên và đừng chấp vào ngón tay trỏ.

Kinh cũng dạy cách trừ bốn loại bệnh: làm, mặc kệ, dừng lại và diệt, và còn trình bày hai mươi lăm pháp tu định, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các pháp môn thiền định để diệt trừ các huyễn hoặc, giác ngộ thanh tịnh. Vận dụng thiền định để diệt trừ các quan niệm sai lầm về tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ mạng trong quá trình tu tập.

49. Kinh Lời Dạy Sau Cùng

Soạn giả dịch từ bản dịch chữ Hán của ngài Cưu-ma-la-thập. Kinh này ghi chép những lời di chúc của đức Phật cho hàng đệ tử Phật, nhất là hàng xuất gia, trước lúc Ngài qua đời tại rừng Ta-la. Nội dung di chúc của đức Phật xoay quanh các vấn đề chính sau đây:

Đệ tử đức Phật phải xem giới luật là Thầy tối thượng. Xa rời các hình thức sinh hoạt bận rộn của thế tục, sống đời giản dị, thanh bần lạc đạo, phát huy chánh mạng và chánh nghiệp, xem trí tuệ là sự nghiệp của người tu. Giới là nền tảng của trí tuệ và thiền định, và của tất cả cánh cửa giải thoát. Người xuất gia phải ý thức và sống chế ngự các giác quan, không để chúng đam mê các đối tượng cảnh trần. Luôn quan niệm rằng ăn uống cốt để giữ gìn sức khoẻ, tiến tu đạo nghiệp, không đam mê của ngon vật lạ. Phải nỗ lực không ngừng và tinh tấn ngày đêm trong tu tập. Hạn chế ngủ nghỉ, dành hết thời gian cho thiền định, tụng kinh, hành trì đạo giải thoát. Phát triển tâm hổ thẹn về những nếp nghĩ và hành vi bất thiện để thăng tiến mình trên đường đạo.

Người tu hành phải trau dồi hạnh nhẫn nhục. Không ôm lòng sân si, thù hận, trả đũa những ai đã đem lại đau khổ cho mình. Tu tập từ bi để xoá bỏ mọi oán kết với tha nhân. Người tu phải luôn phát huy hạnh khiêm cung, từ bỏ vĩnh viễn thái độ ngạo mạn, cống cao. Phải tự nhắc nhở mình đã từ bỏ các thú vui thế gian, sống bằng cách ăn xin thì có gì mà tự phụ chứ! Thể hiện đời sống đạo bằng cách giữ lòng chánh trực, không a dua, nịnh bợ những kẻ bất chánh. Những gì đáng nói thì nói đúng sự thật, bằng không thì im lặng đúng chánh pháp. Phải sống tiết chế bằng cách giảm thiểu tối đa các ham muốn, nhờ vậy thoát được các ưu phiền. Song song, phải trau dồi hạnh biết đủ, thoả mãn với những gì có được. Hạnh phúc thật sự không tuỳ thuộc khối lượng và số lượng tài sản ta có, mà tuỳ thuộc vào thái độ hài lòng với những gì có được.

Người xuất gia nên tu tập hạnh viễn ly, xa rời nơi huyên náo, chuyên tâm thiền định để thanh lọc thân tâm. Siêng năng phấn đấu và tinh tấn không ngừng trên đường tu tập. Phải nương tựa chính mình, như ốc đảo thật sự của giải thoát. Siêng năng tu tập thiền định để phát huy trí tuệ. Nhờ có trí tuệ, thấu rõ được bản chất duyên khởi của mọi vật, các thái độ tham đắm và đau khổ ở đời đều tan biến. Từ bỏ cái thói tán dóc, bình luận chuyện thế sự, không có ích cho sự tu học. Nên quan niệm rằng Như Lai chỉ đóng vai trò lương y, chẩn bệnh cho thuốc, cũng như người chỉ đường, để khỏi ỷ lại nơi đức Phật, mà quên tự độ. Cuối cùng đức Phật nhắc nhở quy luật vô thường, để khuyên bốn hàng đệ tử của Ngài không nên bi lụy than khóc trước sự kiện từ giã cõi đời của Ngài, khi hạnh nguyện độ sanh của Ngài đã viên mãn.

Như đã nói, phần tóm tắt nội dung này chỉ nêu ra các gợi ý, nhằm giúp cho người đọc tụng và thọ trì nắm được đại ý và nội dung của các Kinh. Người đọc tụng và thọ trì cần phải tự mình thường xuyên tư duy và chiêm nghiệm nghĩa lý sâu xa, huyền diệu chứa đựng trong các Kinh, để tự mình thâm nhập và thực hành.

Kinh điển của Phật chứa nhiều ẩn dụ và biểu tượng. Người đọc tụng và thọ trì cần “được ý quên lời,” để tránh tình trạng hiểu sai ý Kinh, nhất là thái độ lầm chấp cho kinh điển là chân lý tối hậu. Kinh Phật chỉ là ngón tay giúp chúng ta thấy được mặt trăng, là chiếc bè đưa chúng ta sang bờ an lạc và giải thoát. Đọc tụng, thọ trì và truyền bá kinh Phật theo tinh thần như vậy thì phước đức sẽ tăng trưởng, an lạc sẽ trổ hoa, cửa giải thoát sẽ rộng mở chào đón tất cả chúng ta!

Ấn Độ, ngày1 tháng 1 năm 2002

Tỳ-kheoThích Nhật Từ

Kính bút

Phụ Lục 2: CHÚ THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ DANH TỪ RIÊNG

Thích Giác Hoàng

(Đọc bằng phông chữ Arial Unicode MS)

Mặc dầu trong Kinh Tụng Hằng Ngày này, soạn giả đã nỗ lực Việt hoá tối đa các thuật ngữ Phật học Hán Việt, nhưng do vì bộ Kinh được nhiều vị Tôn đức phiên dịch, nên vẫn còn một số các thuật ngữ có nguồn gốc từ Sanskrit, Pāli hoặc Hán Việt, được chuyển sang tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau. Do đó, chúng tôi cũng chọn một số thuật ngữ và danh từ riêng tiêu biểu thường lập đi lập lại trong Kinh Tụng Hàng Ngày này để giải thích sơ bộ, đồng thời đối chiếu với từ nguyên của nó vốn xuất thân từ Sanskrit hoặc Pāli hoặc các từ đã Hán hoá mà người Việt mình quen dịch và đọc tụng.

Phần chú thích này chủ yếu giúp cho người đọc tụng có thể hiểu được ý nghĩa của các thuật ngữ Phật học một cách nhanh chóng, nhất là đáp ứng tạm thời cho quý Phật tử nào không có nhiều thời gian tra khảo các thuật ngữ Phật học trong các bộ từ điển Phật học chuyên ngành. Do vậy, các mục từ được giải thích ngắn gọn, không chú trọng đến nội dung chuyên sâu.

Ngôn ngữ Pāli, Sanskrit và hai ký hiệu khác trong phần phụ chú này được mặc ước như sau:

(P): Pāli; (S): Sanskrit; (S=P): Sanskrit và Pāli giống nhau;

®: tham khảo thêm mục từ; = các hình thức viết khác của một mục từ.

A-hàm 阿 含 phiên âm của Āgama (S), có nghĩa là bộ kinh hay là tuyển tập các lời dạy của Đức Phật. Giải thích theo quan điểm của ngài Đại sư Trí Khải thì Đức Phật đã tuyên thuyếtKinh A-hàm suốt 22 năm, gồm bốn bộ: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. Từ A-hàm (Āgama) được các nhà Đại thừa sử dụng chỉ cho Kinh bộ, tương đương với chữ kinh bộ (Nikāya) trong văn học Pāli.

A-la-hán 阿 羅 漢 phiên âm của Arhat, Arhant (S) hoặc Arahat, Arahant (P), còn một phiên âm không chuẩn xác khác là La-hán. A-la-hán có nghĩa là bậc đáng cúng dường, nên người Hoa dịch là Ứng Cúng 應 供. Do vì bậc A-la-hán không còn bị đoạ lạc vào cõi này nữa nên cũng gọi là bậc "Vô Sanh." 無 生.

A-lan-nhã 阿 闌 若 phiên âm của araṇya (S) hoặc arañña (P), Hán dịch là “nhàn tịch” (nơi thanh tịnh) hay “viễn ly xứ” (nơi xa lánh ồn ào), "Tinh xá" (nơi trong sạch, trang nghiêm) hay "Tự" (chùa), "Viện." (các trung tâm tu học lớn). Tên gọi chung nơi các vị tu sĩ Phật giáo trú ngụ.

A-la-ra phiên âm vắn tắt người Việt của từ Āḷāra-kalāma (P) hoặc Ārāḍa-kālāma (S),Trung Hoa phiên âm là A-la-ma 阿 羅 摩. Ông là vị Thầy đầu tiên của Bồ-tát Tất-đạt-đa đã dạy “Vô sở hữu xứ định” cho Bồ-tát. Đến khi Đức Phật thành đạo thì A-la-ra đã mất.

A-na-hàm 阿 那 含 phiên âm của từ Anāgāmi (S=P). Vị chứng đắc quả vị này đoạn trừ hoàn toàn năm kiết sử đầu. Khi bỏ báo thân, vị ấy không còn trở lại cõi đời này mà được hoá sanh lên cõi trời Tịnh Cư thuộc Sắc giới, nên còn gọi là "bất lai" 不 來 hoặc bất hoàn 不 還. Ở đó, hành giả chứng quả vị A-la-hán, giải thoát vòng luân hồi.

A-na-luật-đà =A-nậu-lâu-đà.

A-nan 阿 難 còn viết là A-nan-đà 阿 難 陀 phiên âm của Ānanda (S=P). Một số Kinh trong Kinh Tụng Hằng Ngày phiên âm là A-nan-đa, đây là cách phiên âm của người Việt. Ānanda là vị thị giả cần mẫn suốt 25 năm cuối của Đức Phật. Tôn giả Ānanda cũng là vị trùng tuyên Pháp tạng trong kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ nhất tại hang Thất Diệp thuộc thành Vương Xá vào mùa hạ thứ nhất sau khi Đức Phật vừa Vô dư Niết-bàn. Trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ suy cử tôn giả là vị đệ nhị Tổ Sư. Phật giáo Thiền tông Ấn-Hoa cũng suy tôn Ngài là vị Tổ Sư thứ hai.

A-nan-đa = A-nan.

A-na-ru-đa phiên âm của Anaruddha (P), tên của một vị Tỳ-kheo sống rất hoà hợp với hai vị Tỳ-kheo khác trong Kinh Sống và Tu trong Hoà Hợp.

A-nậu viết đủ là A-nậu-đạt 阿 耨 達, phiên âm của Anavatapta (S), Hán dịch là Vô Nhiệt 無 熱, tên của ao A-nậu-đạt trong Hi-mã-lạp sơn, nơi phát nguyên tám con sông lớn của Ấn Độ. Ao này thường được xuất hiện trong Kinh điển Đại thừa dụ cho giáo lý Đại thừa là pháp cao tột, là nơi phát nguyên của vô số pháp môn khác.

A-nậu-lâu-đà 阿 耨 樓 陀 phiên âm của Aniruddha (S) hoặc Anuruddha (P), còn được phiên âm là A-na-luật 阿 那 律 hoặc A-na-luật-đà 阿 那 律 陀. Tên của một vị đại đệ tử trong thập đại đệ tử của Đức Phật. Tôn giả được Đức Phật khen ngợi là bậc đạt được Thiên nhãn đệ nhất. Chính tôn giả đã theo dõi các trạng thái thiền định khi Đức Phật xả bỏ báo thân.

Anh em Ca-diếp chỉ cho ba anh em ruột có họ là Ca-diếp (S. Kāśyapa), trong Kinh thường gọi là ba anh em tôn giả Ca-diếp, gồm có Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp 優 樓 頻 螺 迦 葉 (S. Uruvilvā-kāśyapa), Na-đề Ca-diếp 那 提 迦 葉 (S. Nadī-kāśyapa) và Dà-da Ca-diếp 伽 加 迦 葉 (S. Gayā-kāśyapa).

A-nhã Kiều-trần-như 阿 若 橋 陳 如 phiên âm từ Ājñāta Koṇḍañña. Từ A-nhã là từ phiên âm của Ājñāta (S) hoặc Añña (P) để suy tôn cho tôn giả Kiều-trần-như (Koṇḍañña) khi tôn giả nghe xong bài pháp đầu tiên của Đức Phật tại Vườn Nai chứng được pháp nhãn ly trần cấu, nghĩa là chứng được quả vị Tu-đà-hoàn.

A-nu-ra-đa phiên âm của từ Anurādha (P), tên của một vị Tỳ-kheo.

A-ri-tha phiên âm của từ Arittha (P), tên của một vị Tỳ-kheo.

A-tư-đà 阿 斯 陀 phiên âm của từ Atisa (S=P). Tên của vị tiên tri, tu trên Hy-mã-lạp sơn. Người xem tướng thái tử Tất-đạt-đa và đoán rằng thái tử sẽ thành Chuyển Luân Thánh Vương, nếu xuất gia thì thái tử sẽ trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.

A-tu-la 阿 修 羅 phiên âm của từ Asura (S=P), đôi khi được phiên âm thành A-tu-luân 阿 須 輪. Hạng chúng sanh này phước báu hơn người, nhưng đức trí kém hơn người. Họ cũng có thần thông và thường gây gỗ đánh nhau với chư thiên. Người nam của cảnh giới này cực kỳ xấu và người nữ cực kỳ đẹp. Đây cũng là một cảnh giới được Đức Phật xếp vào bốn cõi tối tăm, đau khổ.

A-xà-thế 阿 闍 世 phiên âm của từ Ajātaśatru (S) hoặc Ajātasattu (P). Ông là con của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) và hoàng hậu Vi-đề-hi (Vidhehi) ở thành Vương Xá thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha). Ông đã từng nghe lời Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) thả voi dữ hại Phật và đã giết chết cha mình để cướp ngôi vua. Sau ông nghe lời cận thần ngự y Kỳ-bà (Jīvaka) đến Đức Phật đảnh lễ sám hối tội lỗi của mình.Đức Phật xác nhận với hội chúng Tỳ-kheo rằng nếu vua A-xà-thế không phạm tội giết cha thì đã chứng được sơ quả khi nghe xong bài pháp Ngài thuyết. Ông cũng là đại tín chủ ngoại hộ đắc lực nhất cho kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất. ba cánh cửa giải thoát dịch từ cụm từ "tam giải thoát môn" 三 解 脫 門, gồm có: Không, Vô Tướng và Vô Tác. ba cõi dịch nghĩa của từ “tam giới” 三 界, gồm có cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. ba hữu dịch nghĩa của từ "tam hữu" 三 有, nghĩa là 3 cõi dục, sắc và vô sắc. ba mươi bảy yếu tố giác ngộ hay Ba mươi bảy phẩm trợ đạo dịch nghĩa của cụm từ “tam thập thất trợ đạo phẩm” 三 十 七 助 道 品, gồm có Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ-đề phần, Bát chánh đạo. ba mươi hai thể trược: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thần kinh, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương và nước tiểu. ba sắc thái còn được viết là "Ba luân." Thuật ngữ Pāli là Tiparivaṭṭa, tiếng Hoa dịch là “tam chuyển” 三 轉 bao gồm: 1. Thị chuyển: Đây là Khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là trạng thái vắng mặt khổ, đây là con đường chấm dứt đau khổ; 2. Khuyến chuyển: Khổ nên biết, nguyên nhân của khổ nên chấm dứt, niết-bàn nên chứng, con đường diệt khổ nên tu; 3. Chứng chuyển: Khổ ta đã biết, nguyên nhân của khổ ta đã dứt, niết-bàn ta đã chứng và con đường diệt khổ ta đã tu. Chính vì vậy, nên trong các sách Hán thường viết là tam chuyển pháp luân三 轉 法 輪. ba thừa giáo dịch nghĩa của thuật ngữ “tam thừa giáo” 三 乘 教 nghĩa là giáo lý của ba thừa, đó là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát thừa.

Ba Viên Ngọc Quý dịch sát nghĩa của thuật ngữ Tam Bảo 三 寶, xuất phát từ Tri-ratana, Ratna-traya (S), hoặc Ti-ratana hoặc Ratanattaya (P). Ratana có nghĩa là Viên Ngọc, nên vài nơi dịch danh từ "Tam Bảo" 三 寶 là Ba Viên Ngọc Quý, hoặc dịch thoát là Ba Ngôi Báu. ba y, một bát dịch nghĩa của cụm từ "tam y nhất bát" 三 衣 一 鉢. Ba y nghĩa là ba bộ y phục che thân của một vị Tỳ-kheo, gồm: 1. Tăng-già-lê còn gọi là Thượng y (S. Saṅghāṭī): y khoát bên ngoài, chỉ đắp khi lễ Phật, tụng kinh, Bố-tát hoặc khi đi ra đường; 2. Uất-đa-la-tăng hay còn gọi là trung y (S. Uttarāsaṅga): giống như cái áo; 3. An-đà-hội hay còn gọi là hạ y (S. Antarvāsa): như cái quần. Bát là dụng cụ chứa đựng thực phẩm trong khi khất thực.

Bậc Giác Ngộ dịch nghĩa của thuật ngữ Buddha, Trung Hoa phiên âm là Phật-đà 佛 陀, gọi tắt là Phật Việt Nam còn phiên âm khác là Bụt. Về sau, danh từ này chỉ chung cho những vị giác ngộ như Phật.

Bạch y 白 衣 nghĩa là áo trắng, chỉ chung cho hàng cư sĩ tại gia. Áo trắng tượng trưng cho sự tinh khiết.

Ba-ga phiên âm của Bhaggā (P), tên một bộ tộc và cũng là tên một quốc gia nhỏ nằm giữa Vesāli (P) và Sāvatthi (P). ba-la-mật 波 羅 密 phiên âm của Pāramitā (S) hoặc Pāramī, Pāramitā (P), Trung Hoa dịch là "đáo bỉ ngạn" 到 彼 岸, nghĩa là "qua / đến bờ bên kia". Dịch chính xác là "hoàn hảo" "tối thắng". Cách dịch "đáo bỉ ngạn" chỉ là cách dịch ý, dùng hình tượng để biểu đạt sự giải thoát, giác ngộ, qua được sông mê bể khổ. Một vị tu tập 6 pháp hay 10 pháp ba-la-mật theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa hoặc 10 pháp ba-la-mật theo quan điểm của Phật giáo Nam truyền có thể qua được sông mê đến bờ giải thoát.

Bà-la-môn 婆 羅 門 phiên âm của Brāhmaṇa (S=P), giai cấp đứng đầu trong bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ, có trách nhiệm về việc nghi lễ tôn giáo. Những người trong giai cấp này không hẳn là giới tu sĩ, nhưng họ được đặc ân của thế tập cha truyền con nối. Thuật ngữ Bà-la-môn còn được dịch là Phạm Chí 梵 志. bàng sanh 螃 生 chỉ chung cho các loài động vật có mặt trong thế giới này, thỉnh thoảng còn được dùng đồng nghĩa với từ súc sanh 畜 生. Đây là cảnh giới khổ thứ 3 trong 4 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la. bánh xe pháp (S. dhammacakra, P. dhammacakka) hay còn gọi là Pháp luân 法 輪. Đây là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể giáo pháp của Đức Phật. bất hoàn 不 還 = A-na-hàm.

Bát-đà phiên âm của Bhaddhā (P). Tên của hoàng hậu của vua Muṇḍa.

Bạt-đà-bà-la 跋 陀 婆 羅 phiên âm của Bhadrapāla, dịch nghĩa là Hiền Hộ, tên của một vị Bồ-tát trong Kinh điển Đại thừa. bát-nhã = Trí tuệ tối thắng.

Ba-tư-nặc 波 斯 匿 phiên âm của Prasenajit (S) hoặc Pasenadi (P). Ông là vua nước Kiều-tát-la (Kosalā), một trong những vị vua hùng mạnh nhất thời Đức Phật và cũng là một trong những vị ủng hộ Phật pháp đắc lực thời bấy giờ. bảy bậc đang còn tu học nghĩa là: người đang hướng đến quả Tu-đà-hoàn, người đã chứng quả Tu-đà-hoàn, người đang hướng đến quả Tư-đà-hàm, người đã chứng quả Tư-đà-hàm, người đang hướng đến quả A-na-hàm, người đã chứng quả A-na-hàm và người đang hướng đến quả A-la-hán. bảy đại dịch nghĩa của thuật ngữ thất đại 七 大 nghĩa là bảy yếu tố cấu tạo nên con người và thế giới địa: (thể rắn), thuỷ (thể lỏng), hoả (thể nóng), phong (thể khí), không (hư không, khoảng cách), kiến (tính thấy của nhãn căn=các tế bào thần kinh bên trong), và thức (sự phân biệt do căn tiếp xúc với trần). Thuyết bảy đại được giới thiệu trong các Kinh điển Đại thừa, trong khi trong kinh điển Nikāya chỉ đề cập đến bốn yếu tố đầu. bảy yếu tố giác ngộ dịch nghĩa của Saptabdhyaṅgāni (S), thuật ngữ Hán Việt là thất bồ-đề phần 七 菩 提 分, thất đẳng giác chi 七 等 覺 支, thất biến giác chi 七 遍 覺 支, thất giác phần 七 覺 分, thất giác chi pháp 七 覺 支 法, thất giác ý pháp 七 覺 意 法. Bảy yếu tố giác ngộ này thuộc Đạo đế, bao gồm: trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.

Bích-chi Phật 辟 支 佛 phiên âm của Pratyeka-buddha (S), hoặc Pacceka-buddha (P) vị chứng quả giác ngộ nhờ nhờ quán sát lý duyên khởi, vì thế còn có được gọi là "Duyên Giác Phật"緣 覺 佛. Bậc Giác Ngộ này tuy chứng được đạo quả nhưng không phát nguyện hoằng hoá độ sanh, mà nhập Niết-bàn nên cũng gọi là "Độc Giác Phật" 獨 覺 佛. bồ-đề 菩 提 phiên âmcủa từ Bodhi (S=P) Trung Hoa, dịch là "giác" 覺, có nghĩa là sự giác ngộ. Tâm bồ-đề có nghĩa là tâm giác ngộ.

Bồ-lân-nại cách phiên âm khác của “Ba-la-nại” 波 羅 奈. Hai cách phiên âm trên đều xuất phát từ Vārāṇasī, Varaṇasī (S); hoặc Bārāṇasī (P). Ba-la-nại được dùng dung thông cho cả thành Ba-la-nại, và quốc gia Ba-la-nại thời cổ Ấn Độ. Đây là nơi Đức Phật chuyền pháp luân lần đầu tiên cho năm anh em tôn giả Kiều-trần-như. Nay người ta vẫn giữ tên cũ là Vārāṇasī, thuộc bang Uttar Pradesh. bốn câu nghĩa lý trong Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp số 273 có nghĩa là Tứ Đế (P. saccanaṃ cA-turo). bốn chân lý thánh dịch nghĩa của Tứ Diệu Đế 四 妙 諦 hay Tứ Thánh Đế 四 聖 諦. Trong bản Kinh này nhiều chỗ dịch là: bốn chân lý vi diệu, hay bốn chân lý nhiệm mầu. Bao gồm: chân lý về Khổ (khổ đế), chân lý về nguyên nhân của khổ (tập đế), chân lý về sự tịch tịnh-trạng thái chấm dứt về khổ (diệt đế) và chân lý về con đường dẫn đến sự chấm dứt về khổ (đạo đế)--> Bốn chân lý vi diệu. bốn chúng gồm có chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo-ni, chúng Cư sĩ nam và chúng Cư sĩ nữ. Chúng ở đây có nghĩa là cộng đồng hay tập thể gồm bốn người trở lên. bốn đại dịch nghĩa của Tứ đại 四 大 1. địa (thể rắn); 2. Thuỷ (chất lỏng); 3. phong (khí); 4. hoả (hơi nóng). bốn đường ác gồm có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la. bốn không sợ sệt thuật ngữ Hán viết là "Tứ vô sở uý" 四 無 所 畏, dịch nghĩa của cụm từ catvāri vaiśāradyāni (S) hoặc cattāri vesārajjāni (P). Có hai loại Tứ vô sở uý, một loại "Tứ vô sở uý" của Đức Phật và một loại của hàng Bồ-tát. Tứ vô sở uý trong Kinh Hạnh Bồ-tát chỉ cho “tứ vô sở uý” của Đức Phật. Tứ vô sở uý của Đức Phật: 1) Nhất thiết trí vô sở uý 一 切 智 無 所 畏: trí tuệ lưu xuất biết hết thảy các pháp tánh tướng của chúng sanh, nên không hề sợ hãi trước đại chúng. 2) Lậu tận vô sở uý 漏 盡 無 所 畏: Đức Phật đã đoạn tận mọi phiền não trong tâm thức nên không hề sợ hãi dù đứng trước bất cứ hội chúng nào. 3) Thuyết chướng đạo vô sở uý 說 障 道 無 所 畏: Đức Thế Tôn thuyết về các nguyên nhân dẫn đến đau khổ không hề sợ hãi. 4) Thuyết xuất thế đạo vô uý 說 出 世 道 無 所 畏: thuyết các pháp môn đưa hành giả đến giải thoát, Niết-bàn không hề sợ sệt, vì tự thân đã thể nghiệm và chứng đạt. bốn lĩnh vực quán niệm thuật ngữ Hán viết là "Tứ Niệm Xứ" 四 念 處, hay còn gọi là bốn pháp quán niệm, nghĩa là hành giả cần phải quán niệm về thân thể, cảm giác, tâm thức và các ý niệm của tâm. bốn loài chỉ cho bốn hình thức sanh sản, đó là loài sanh ra từ trứng, gọi là "noãn sanh", loại sanh ra từ bào thai gọi là "thai sanh", loài sanh ra từ nơi ẩm ướt gọi là "thấp sanh" và loài sanh do nghiệp lực và phước đức, tự nhiên mà hoá sanh, gọi là "hoá sanh." bốn ma dịch nghĩa của cụm từ catvāro mārā (S) hoặc cattāro mārā (P), thuật ngữ Hán gọi là Tứ ma 四 魔, gồm có 1) Thiên ma 天 魔: ma Ba-tuần ở cõi Tha Hoá Tự Tại; 2) Tử ma 死 魔: những người chết mà vì quyến luyến tài sản, thân nhân hoặc những người chết oan, tự vẫn, bất đắc kỳ tử mà chưa đi đầu thai được; 3) Ngũ ấm ma 五 陰 魔 tức là sắc thọ tưởng hành thức, năm thứ này biến hoại, sanh diệt không lường, làm ám chướng trí tuệ của hành giả, nên gọi là ma; 4) Nội ma 內 魔 nghĩa là các trạng thái tâm lý bất thiện của hành giả. bốn nhiếp pháp dịch nghĩa của cụm từ Catvāri saṃgraha-vastūni (S) hoặc catthni saṃgaha-vatthūni (P), Trung Hoa dịch là “tứ nhiếp pháp” 四 攝 法, gồm có bố thí (rộng lượng), ái ngữ (lời nói đàng hoàng, dịu dàng), lợi hành (sẵn sàng giúp đỡ), đồng sự (chia sẻ ngọt bùi trong mọi tình huống). Trong ngôn ngữ hiện đại, từ này có thể được dịch thành bốn cẩm nang đắc nhân tâm. bốn ơn nặng dịch nghĩa của "Tứ trọng ân", gồm có ơn Tam Bảo, ơn Thầy Tổ, ơn cha mẹ, và ơn quốc gia (hoặc ơn tín chủ). bốn pháp siêng năng chân chánh dịch nghĩa của cụm từ tứ chánh cần 四 正 勤: 1) Điều thiện đã và đang làm cố gắng làm hơn nữa; 2) Điều thiện chưa làm cố gắng sẽ làm; 3) Điều ác đã và đang tạo cố gắng dứt trừ sớm; và 4) Điều ác chưa phát khởi trong tâm cố gắng không cho phát khởi. bốn pháp sung túc như ý dịch nghĩa của cụm từ "Tứ như ý túc" 四 如 意 足, gồm có: Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Niệm Như Ý Túc Và Xả Như Ý Túc. bốn tâm cao thượng đó là tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ và tâm Xả. Bản Hán dịch là "Tứ vô lượng tâm" 四 無 量 心. Bốn tâm này là nhân để sanh vào thế giới Phạm Thiên nên cũng được dịch là "Tứ phạm trú" 四 梵 住. bốn tâm vô lượng = bốn tâm cao thượng. bốn thánh dịch nghĩa của Tứ thánh 四 聖, gồm có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát và Phật.

Bốn thiền sắc giới thiền thứ nhất (sơ thiền), thiền thứ hai (nhị thiền), thiền thứ ba (tam thiền), và thiền thứ tư (tứ thiền). bốn thiền vô sắc giới sau khi đã vào ra tự tại 4 thiền Sắc giới từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, hành giả nỗ lực bước vào 4 thiền Vô sắc như sau: Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ. bốn yếu tố tạo muôn loài trong Kinh Tám Điều Giác Ngộ của hàng Bồ-tát tức là bốn đại: đất (chất rắn), nước (chất lỏng), lửa (nhiệt lượng) và gió (lực lưu động).

Bồ-tát 菩 薩 Viết đủ là Bồ-đề-tát-đoả 菩 提 薩 埵, phiên âm của Bodhisatva (S), hoặc Bodhisatta (P), Hán văn dịch là “giác hữu tình” 覺 有 情, nghĩa là một người đã giác ngộ, không còn bị sanh tử chi phối. Theo Phật giáo Đại thừa, khái niệm này chỉ cho các vị đã thành tựu các công hạnh lớn, phát nguyện trở lại cõi này tuỳ duyên hoá độ như Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Địa Tạng, v.v….Trong trường hợp Kinh Hiền Nhân ở trong Chuyện Tiền Thân của Đức Phật, khái niệm "Bồ-tát” thuộc cách dùng của Thượng Toạ bộ, chỉ cho quá trình đang tu tập hướng đến giác ngộ tối thượng.

Ca-chiên-diên viết đủ là Ma-ha Ca-chiên-diên 摩 訶 迦 旃 延, phiên âm của Mahākātyāyana (S) hoặc Mahākaccāyana, Mahākaccāna (P). Tên của một trong mười vị đệ tử lớn của Đức Phật, có năng lực luận nghị vô song, được Đức Phật xác nhận là "luận nghị đệ nhất."

Ca-diếp 迦 葉 phiên âm của Kāśyapa (S) hoặc Kassapa (P). Trong Kinh điển Phật giáo có đề cập rất nhiều vị Ca-diếp. Nhưng Kinh điển Đại thừa thường đề cập đến tôn giả Đại Ca-diếp (Mahā Kāśyapa), vị thực hành hạnh đầu-đà đệ nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật, là vị triệu tập chúng tăng kiết tập Kinh điển lần đầu tiên tại hang Thất-diệp, cũng là vị tổ thứ nhất theo truyền thống Thiền tông Ấn Hoa.

Ca-diếp Phật 迦 葉 佛 Phật Ca-diếp, tiếng Phạn là Kāśyapa Buddha (S) hoặc là Kassapa Buddha (P). Đức Phật Ca-diếp là Đức Phật quá khứ trước Đức Phật Thích-ca, thuộc thời Hiền kiếp.

Ca-la-cưu-tôn-đà 迦 羅 鳩 孫 馱 phiên âm của Krakucchanda-buddha (S) hoặc Kakusandha-buddha (P) Tên của một vị Phật quá khứ, còn viết là Ca-la-cưu-đà Phật 迦 羅 鳩 馱 佛 hoặc Câu-lưu-tôn Phật 拘 留 孫 佛. cam lộ 甘 露 hay “cam lồ thuỷ” 甘 露 水 nghĩa là những giọt sương trong vắt ngọt ngào dụ cho giáo pháp của Đức Phật có công năng giải trừ nỗi bức não (đau khổ) của chúng sanh. cận sự nữ = tín nữ ® ưu-bà-di cận sự nam = thiện nam® ưu-bà-di

Cấp Cô Độc 給 孤 獨 dịch nghĩa của Aṇathapiṇḍika, nghĩa là người hay ban ơn giúp đỡ những người cô đơn, khốn khổ. Đây là tên của một nhà triệu phú và cũng là một đại tín chủ cúng dường, ủng hộ cho Tăng đoàn bậc nhất trong thời Đức Phật còn tại thế. Ông đã bỏ ra cả kho vàng mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà và cất một Tinh Xá rất lớn đầu tiên tại nước Kiều-tát-la để cúng dường Phật và chúng tăng. Trong Phật giáo, Ông là biểu tượng của hạnh ban bố và giúp đỡ chúng sanh. ® Tu-đạt. ca-sa 袈 裟 phiên âm của kaṣāya (S), kasāya (P) nghĩa là y phục của các tu sĩ. Cũng được đọc trại thành Cà-sa.

Ca-tỳ-la-vệ phiên âm của Kapilavastu (S) hoặc Kapilavatthu (P). Cung thành của bộ tộc Thích-ca, nay thuộc đất nước Nepal.

Câu-tát-la 枸 薩 羅 phiên âm của KauśA-la (S), hoặc Kosalā (P), trung tâm văn hoá lớn nhất thời Đức Phật. Người Hoa thường phiên âm cụm từ Kiều-tát-la 橋 薩 羅 hoặc Câu-tát-la 枸 薩 羅 từ KauśA-la (S).

Chánh Biến Tri 正 遍 知 (S. Saṃyak-sambuddha; P. Sammā-sambuddha), nghĩa là bậc có trí tuệ đúng đắn và rộng khắp trong mọi lĩnh vực. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Chánh Giác 正 覺 Viết đủ là Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là Sự Giác Ngộ viên mãn không gì so sánh được. Trong một số trường hợp, thuật ngữ Chánh Giác nghĩa là quả vị Giác Ngộ hay là thành Phật quả.

Cha-nu-sô-ni phiên âm của Janussoni, tên của một Bà-la-môn được đề cập trong Kinh Cúng Thí Người Chết.

Châu-lợi-bàn-đặc cũng còn đọc là Chu-lị-bàn-đặc 周 利 槃 特, phiên âm của Cūḍapanthaka, Cullapatka, Kṣullapanthaka, Śuddhipaṃthaka (S) hoặc Cullapanthaka, Cūḷapanthaka (P). Tên của tôn giả đệ tử Đức Phật, vị này bị nghiệp chướng sâu dày, chỉ học một bài kệ mà không thuộc, đọc câu trước, quên câu sau, nhưng do nỗ lực tu tập, cuối cùng cũng chứng được quả vị A-la-hán.

Chiên-đàn 旃 檀 phiên âm từ Candana (S=P), một loại cây thơm giống như cây gió, cây trầm ở Việt Nam. chín bộ pháp tức chín thể loại văn học Kinh điển bao gồm Khế Kinh, Cô Khởi, Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu, Nhơn Duyên, Thí Dụ,Trùng Tụng, Luận Nghị. Xem thêm mục Mười hai bộ Kinh. chín pháp quán tưởng dịch nghĩa của “Cửu tưởng” 九 想, nghĩa là 9 pháp quán tưởng trong phép quán "Bất tịnh" để giúp hành giả đoạn trừ các tâm tham dục. Cửu tưởng gồm có 1) Trướng tưởng (Tưởng thấy tử thi trương phồng lên). 2) Thanh ứ tưởng (Tưởng thấy xác chết do dãi dầu sương gió nên biến thành thâm đen). 3) Hoại tưởng (Tưởng thấy tử thi bị huỷ hoại); 4) Huyết đồ tưởng (Tưởng thấy xác chết sau khi huỷ hoại, máu thịt lầy đất); 5) Nùng lạn tưởng (Quán tưởng thấy xác chết bị thối rửa); 6) Hám tưởng (Quán tưởng thấy chim muông đến ăn xác chết); 7) Tán tưởng (Quán tưởng sau khi tử thi bị muông thú ăn, gân cốt đầu mình chân tay bị xâu xé tan nát); 8) Cốt tưởng (Quán tưởng sau khi máu thịt đã hết, chỉ còn đống xương trắng vung vãi); 9) Thiêu tưởng (tưởng thấy xương trắng bị đốt thành tro). chín thiền định dịch nghĩa của thuật ngữ Cửu định 九 定, tức là 4 thiền định của Sắc giới (tức Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền), bốn cấp độ thiền định của Vô sắc giới (tức Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ định), và diệt thọ tưởng định. chư thiên 諸 天 dịch nghĩa của deva (S= P). Chư thiên là chỉ cho các chúng sanh hữu tình có phước đức lớn hơn loài người. Các vị nầy sống dưới sự cai quản của một vị vua có uy đức lớn nhất tại cõi trời vị đó đang ở. chuyển pháp luân 轉 法 輪 dịch nghĩa của cụm từ Dhamma-cakkappavattana (P), có nghĩa là "Vận chuyển bánh xe pháp." Cụm từ hình ảnh nầy lúc đầu được dùng để chỉ Đức Phật tuyên thuyết giáo pháp thậm thâm, vi diệu của Ngài lần đầu tiên tại Vườn Nai. Về sau, các hoạt động của Tăng Ni và Phật tử nhằm hướng dẫn người chưa biết Phật pháp vào đạo Phật, đều được gọi là công việc chuyển pháp luân.

Cồ-đàm 瞿 曇 phiên âm của từ Gautama (S) hoặc Gotama (P). Đây là họ của Đức Phật. Các ngoại đạo ít khi tôn xưng Đức Phật là Thế Tôn hay Đức Phật mà thường gọi Ngài bằng họ của Ngài, như Sa-môn Cồ-đàm hoặc Sa-môn Cù-đàm. Trong trường hợp Kinh Hiền Nhân, Cù-đàm là tên của một Phạm-chí cha của Hiền Nhân. cội Bồ-đề dịch nghĩa của bodhi-druma, bodhi-taru, bodhi-vṛkṣa (S) hoặc bodhi-rukkha (P), nghĩa là cây giác ngộ. Cây này có tên là Aśvattha (S), với tên khoa học là Ficus religiosa. Đức Phật đã an trụ thiền định 49 ngày đêm và thành đạo ngay dưới cội cây này, nên dân chúng gọi cây này là “cây / cội Bồ-đề." cõi lành chỉ chung cho các cõi chư thiên hoặc các cõi Phật ở mười phương. Vì 4 cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la đều bị xếp vào các cõi xấu, cõi bất thiện, chúng sanh trong các cõi đó chịu nhiều đau khổ và ít có duyên tạo công đức. Cõi người thì có cả khổ đau và hạnh phúc, có cả kẻ ác và người lương thiện sống chung. Cõi này không được xếp vào cõi ác mà cũng không xếp váo cõi lành. con đường tám nhánh = Bát chánh đạo.

Cù-đàm = Cồ-đàm. cưu-bàn-trà 鳩 槃 茶 phiên âm của Kumbhāṇḍa (S) hoặc Kumbhaṇḍa (P) nghĩa là loại quỷ thô bạo, thường hay uống tinh đảm khí của người.

Da-du-đà-la 耶 輸 陀 羅 phiên âm chư Yásodharā (S) hoặc Yasodharā (P). Tên của công chúa con Vua Thiện Giác, kết duyên với thái tử Tất-đạt-đa, sinh ra La-hầu-la. Sau khi Vua Tịnh Phạn băng hà, bà theo Di mẫu là Ma-ha Ba-xà-ba-đề xuất gia làm đệ tử của Phật, chẳng bao lâu bà chứng được quả A-la-hán.

Đà-hàm = Tư-đà-hàm.

Đà-hoàn = Tu-đà-hoàn.

Đại Phạm = Phạm Thiên.

Đại Thuần-đà 純 陀 phiên âm và dịch nghĩa của Mahācunda (S=P). Tên của một tôn giả được đề cập trong Kinh Tôn Trọng các Pháp Môn, khác với vị đệ tử cúng dường bữa cơm cuối cùng cho Đức Phật.

Đại Tự Tại thiên 大 自 在 天 dịch nghĩa của từ Mahésvara (S) hoặc Mahissara (P). Thường được phiên âm là trời Ma-hê-thủ-la. Đây là cõi trời cao nhất thuộc Sắc giới.

Đà-la-ni 陀 羅 尼 phiên âm từ dhāraṇī (S), có nghĩa là “thần chú." Theo quan điểm của Mật tông, thần chú có khả năng thâu nhiếp được các pháp thiện và có thể đoạn trừ được tất cả các pháp ác.

Đấng Giác Ngộ = Bậc Giác Ngộ.

Đấng Thế Hùng cách tôn xưng khác của hàng Phật tử đối với Đức Thế Tôn.

Đấng Vô Thượng Tôn trong một số Kinh, thỉnh thoảng dùng cụm từ Vô Thượng Tôn, nghĩa là không ai cao hơn nữa để chỉ cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Một số dịch giả dùng thuật ngữ Chí Tôn để chỉ cho Đức Phật. danh sắc 名 色 dịch nghĩa của nāmarūpa (S=P) có nghĩa là tinh thần và vật chất tạo nên hợp thể con người. Danh gồm 4 yếu tố Thọ, tưởng, hành và thức là phần tinh thần. Sắc chỉ cho các thân thể. Danh sắc là cách gọi khác của năm tổ hợp nhân thể (ngũ uẩn).

Đao-lợi thiên 忉 利 天 phiên âm và dịch nghĩa của Trāyastriṃśa (S) hoặc Tāvatiṃsa (P), cõi trời Đao-lợi có 33 tầng. Tiếng Hán dịch là Tam Thập Tam Thiên 三 十 三 天, làm cho người đọc dễ có cảm tưởng là cõi trời tính từ dưới lên trên hay từ trên xuống dưới thì nó thuộc vị trí thứ 33. Trời Đao-lợi là cõi trời thứ 2 nếu tính từ dưới tính lên trong 6 cõi trời thuộc cõi Dục. Đây là cõi trời do Vua Trời Đế-thích trị vì. đầu-đà phiên âm của dhūta (S=P), nghĩa là hạnh tu của tu sĩ chuyên sống trong rừng, dưới gốc cây, am trống, chòi tranh, chỉ khất thực xin ăn qua ngày, dành trọn thời gian cho việc tham thiền nhập định. Trong các vị đại đệ tử của Đức Phật, tôn giả Đại Ca-diếp được Đức Phật khen ngơị là thực hành hạnh đầu đà đệ nhất. dạ-xoa phiên âm yakṣa (S) hoặc Yakkha (P), một âm khác là “dược xoa” 藥 叉 một loài quỷ thần, giống như La-sát. Dạ-xoa có nhiều loại, có loại Dạ-xoa thiện, cũng có loại Dạ-xoa ác. đệ nhất nghĩa đế 第 一 義 諦 còn gọi là chân đế, thánh đế, thắng nghĩa đế, niết-bàn, chân như, thực tướng, trung đạo, pháp giới, chân không…, dùng để gọi chung cho chân lý thâm diệu. đệ tử áo trắng người Phật tử tại gia hay hàng cư sĩ, vốn được dịch thoát từ thuật ngữ "bạch y cư sĩ."

Đề-bà-đạt-đa 提 婆 達 多 phiên âm của Devadatta (S=P). Ông là một trong những người đầu tiên của dòng họ Thích-ca xuất gia làm đệ tử của Đức Phật. Sau khi xuất gia, ông muốn thống lãnh Tăng đoàn, âm mưu hại Đức Thế Tôn nhiều lần và sau khi chết, bị đoạ vào địa ngục.

Đế-thích 帝 釋 còn gọi là Thích-đề-hoàn-nhân hoặc Thích-đề-hoàn-nhơn 釋 提 桓 因 (S. Śakro-devānāmindra). Tên của vị thiên chủ cõi trời Đao-lợi hay cõi trời có 33 tầng. địa ngục 地 獄 dịch nghĩa của Naraka, Niraya (S) hoặc Niraya (P). Đây là cảnh giới đau khổ nhất trong các cảnh giới. Cảnh giới này tương ứng với tâm thức của những người cực ác. diêm vương 閻 王 viết tỉnh lược của "Diêm-la vương" 閻 羅 王, phiên âm và dịch nghĩa của Yamarajā (S=P). Yama phiên âm thành "Diêm-la" 閻 羅 hoặc "Diêm-ma" 閻 魔, còn Rajā thì dịch nghĩa là "vương." Kinh điển Bắc tạng và các sách chú sớ về sau ở Trung Hoa cho rằng có một vị vua thường gọi là Diêm Vương ở dưới địa ngục để trừng trị bọn người làm ác.

Diêm-phù gọi đủ là "Diêm-phù-đề" 閻 浮 提. Thuật ngữ này là phiên âm của Jambudvīpa (S) hoặc Jambudīpa (P), có nghĩa là cõi đất này, còn gọi là cõi ta-bà. Đây là một châu trong 4 châu theo thế giới quan Phật giáo. Châu này nằm ở phía Nam của núi Tu-di nên gọi là Nam Thiệm Bộ Châu. Bốn Châu gồm có Nam Thiệm-bộ Châu, Bắc Câu-lô Châu, Tây Ngưu-hóa Châu và Đông Thắng Thần Châu. diệt tận định 滅 盡 定 còn gọi là Diệt thọ tưởng định 滅 受 想 定, trạng thái thiền định vắng mặt hoàn toàn cảm giác và tưởng tượng, hơi thở rất vi tế, gần như là dứt bặt.

Điều Ngự Trượng Phu 調 御 丈 夫 (S. Puruṣa-damya-sārathi, P. Purisadamma-sārathi): Bậc đã điều phục chính mình và có khả năng điều phục, nhiếp hoá người khác. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Di-lặc 彌 勒 phiên âm của Maitreya (S) hoặc Metteyya (P), dịch nghĩa là Từ Thị 慈 氏 hoặc Từ Tôn 慈 尊. Tên của một vị Bồ-tát sẽ thành Phật trong kiếp vị lai.

Di-lan-đà 彌 蘭 陀 phiên âm của Milinda (S=P), một vị vua gốc Hy Lạp, thuộc vùng Bactriya. Ông còn được biết với tên khác như là Vua Menander. Ông là vị vua đa văn, thông thái vào thế kỷ thứ II trướcTL. Cuộc đối đáp của nhà Vua và Tỳ-kheo Na-tiên được biên tập thành tác phẩm Milindapañhā (P), dịch sát nghĩa là Vua Milinda Hỏi Đạo. Bản tiếng Hoa dịch là Di-lan-đà Vương Vấn Kinh. định 定 còn gọi là Thiền định, được dịch từ Samādhi (S=P). Đây là một pháp môn tu tập tâm để làm đình chỉ các vọng động của tâm thức. Thiền gọi đủ là Thiền-na, vốn phiên âm từ tiếng Sanskrit là dhyāna, tiếng Pāli là jhāna. Trung Hoa dịch là "định" 定 hay "tĩnh lự" 靜 濾. Trải qua quá trình dịch thuật, người Hoa đã ghép cách đọc phiên âm và dịch nghĩa thành ra “thiền định." Đây là một quá trình tu tập cần thiết cho các hành giả của bất kỳ pháp môn hay truyền thống nào muốn thanh lọc tâm thức, chứng thành quả vị giải thoát, giác ngộ. do-tuần 由 旬 phiên âm của Yojana (S=P), âm khác là do-diên 由 延. Đây là đơn vị đo lường địa dư của Ấn Độ cổ đại. Có nhiều thuyết khác nhau cho rằng một do tuần bằng 16 dặm, 30 dặm hoặc 40 dặm. đoạn kiến 斷 見 quan điểm hay học thuyết cho rằng sau khi chết là hết, không có tái sanh luân hồi. Quan điểm này thì đi ngược lại quan điểm cho rằng có một linh hồn bất tử, thường tại, gọi là "thường kiến" 常 見.

Đồng-nữ Ca-diếp 同 女 迦 葉 phiên âm của từ Kimāra Kassapa (P), còn một phiên âm nữa là Cưu-ma-la Ca-diếp 鳩 摩 羅 迦 葉. Tên của một tôn giả trong Kinh Nghiệp Báo Tái Sinh, tôn giả Kimāra Kassapa đã chứng minh hùng hồn sự tái sanh luân hồi là điều có thật qua các minh chứng. dự lưu 預 流 dịch nghĩa của từ Srotāpanna (S) hoặc Sotāpanna (P). ® Tu-đà-hoàn. dục tư duy 欲 思 惟 nghĩa là suy nghĩ về các dục lạc đã kinh qua hoặc tưởng tượng các điều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến dục. Trong kinh tạng Pāli thường được dịch là "dục tầm." dược-xoa 藥 叉 = dạ-xoa.

Duyên Giác 緣 覺 còn gọi là Độc Giác 獨 覺. ® Bích-chi Phật. duyệt chúng 悦 衆 nghĩa là vị làm cho đại chúng vui lòng. Trong các khoá lễ tụng, “duyệt chúng" là vị chịu trách nhiệm đánh mõ đứng bên tay trái vị chủ lễ.

Duy-ma-cật 維 摩 詰 phiên âm của VimA-lakīrti (S), Hán dịch làTịnh Danh 淨 名, vị cư sĩ Bồ-tát bổ xứ được đề cập trong Kinh Duy-ma tại thành Tỳ-xá-ly 毘 舍 離 (S. vaiśāli), làm cho cả hội chúng Thanh Văn phải kính nể vì trí tuệ biện tài của Bồ-tát. duy-na 維 那 từ được kết hợp giữa phiên âm vừa dịch nghĩa của Karmadàna (S). Thuật ngữ karmadāna này được phiên âm sang tiếng Hán là Yết-ma-đà-na 羯 磨 陀 那, vốn có nghĩa là vị quản chúng trong chùa. Chữ "duy" có nghĩa là "nắm lấy", "quản lý." Các dịch giả Trung Hoa đã ghép lấy hai chữ, một lấy ý của Karmadāna và cách phiên âm của nó mà tạo thành thuật ngữ mới "duy-na." Đây là một trong 3 chức vị quan trọng trong tự viện của Trung Hoa. Trong các khoá tụng niệm, vị duy-na thường chịu trách nhiệm đánh chuông, đứng bên tay phải của vị chủ lễ. giải thoát tri kiến 解 脫 知 見 dịch nghĩa của Vimukti-jñāna-darśana-skandha (S), cũng gọi là "Giải thoát sở kiến" 解 脫 所 見, tức là tri kiến nhận biết mình đã giải thoát, không còn phiền não lậu hoặc, chứng đắc quả A-la-hán hay Phật. Về sau thuật ngữ này còn được dùng để chỉ cho sự buông bỏ tất cả các tri kiến, ngay cả tri kiến về sự chứng đắc. giải thoát 解 脫 dịch nghĩa của mokṣa, vimokṣa, vimukti hoặc mukti (S); hoặc vimutta, vimokkha, vimutti (P). “Giải thoát” đồng nghĩa với "tự tại", nghĩa là không còn bị các nhiễm ô trong tâm, dứt hết mọi triền phược. Đây là trạng thái tâm lý hoàn toàn không còn khổ não, sầu muộn. Trạng thái tâm lý này tuỳ thuộc vào quả vị của hành giả nên có những cấp độ khác nhau. giới 戒 dịch từ śīla (S) hoặc sīla (P). Trung Hoa phiên âm là thi-la 尸 羅. Tức các nguyên tắc đạo đức được Đức Phật quy định cho hai hàng đệ tử xuất gia và tại gia. Giới có nhiều loại và được chia ra nhiều cấp độ khác nhau. Giới có nhiều dạng như giới tướng, giới tánh, giới thể. Trong Kinh Nhật Tụng Hàng Ngày này nhiều chỗ dịch là "nguyên tắc đạo đức."

Gi-ri-ma-nan-đa phiên âm của Girimānanda (P). Tên của một tôn giả đệ tử Phật. Khi vị này bị bệnh nặng, Đức Phật đã tuyên thuyết mười pháp quán tưởng cho tôn giả Ānanda để đến thuyết lại cho Gi-ri-ma-nan-đa. Sau khi nghe tôn giả Ānanda lập lại mười pháp quán tưởng, tôn giả Gi-ri-ma-nan-đa liền khỏi bệnh.

Go-sin-ga phiên âm của Gosinga, tên khu rừng, nơi ấy 3 vị tôn giả Anurudha, Kimbila và Nandiya sống và tu tập trong hoà hợp, nhờ vậy cả ba đều sống an lạc và chứng đắc giải thoát.

Gô-ta-mi phiên âm của Gotamī (P) hoặc Gautamī (S), thứ hậu của vua Tịnh Phạn. Sau khi hoàng hậu Ma-da băng hà, bà Gô-ta-mi tận tình chăm sóc nuôi nấng thái tử còn hơn con ruột của mình. Sách Hán thường gọi là Kiều-đàm Di mẫu hoặc Ma-ha Ma-xà Ba-đề 摩訶 波闍 波 提. Về sau, bà xuất gia làm đệ tử Phật và trở thành vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên. hà sa 河 沙 chỉ cho số cát trên sông nói chung, từ "hằng sa" cũng chỉ cho cái gì vô số không thể đếm hết được như số cát trong sông Hằng ở Ấn Độ. hai mươi lăm cõi sống dịch nghĩa của cụm từ “Nhị thập ngũ hữu” 二 十 五 有, gồm có mười bốn cõi dục, bảy cõi sắc giới, và 4 cõi vô sắc giới. hai thừa dịch nghĩa của cụm từ nhị thừa 二 乘 Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. hận tư duy 恨 思 惟 suy tư về sự thù hằn hay suy tư về nó để tìm cách trả thù cho hả lòng tự ái, chấp ngã của mình. Trong Kinh Pāli gọi là "sân tầm."

Hằng Hà 恆 河 Sông Hằng, phiên âm và dịch nghĩa của Gaṅgā (S), ngày nay người Ấn viết là Ganges. Đây là một trong hai con sông lớn nhất ở Ấn Độ. Thời Đức Phật còn tại thế, các lưu vực sông Hằng là nơi dân cư đông đúc. Trong các bài Kinh, Đức Phật thường lấy số cát ở sông này (Hằng hà) để dụ cho số nhiều, đến nỗi không thể tính đếm được. hành giả 行 者 chỉ cho các vị đang tu tập các pháp môn theo Phật giáo. Đặc biệt là chỉ cho các vị chuyên tham thiền, nhập định. Từ này được dịch từ dhūta (S=P), nghĩa là người mong cầu quả vị giác ngộ mà xả bỏ thân mạng tu hành. hiền giả 賢 者 bậc hiền. Tiếng Pāli gọi là āsuvo, từ xưng hô của các vị lớn tuổi đạo gọi các vị nhỏ tuổi đạo hơn, hoặc giữa hai người đồng tuổi đạo.

Hoa Nghiêm 華 嚴 dịch nghĩa của cụm từ Avataṃsaka sūtra (S), tên của một bộ Kinh điển Đại thừa. Theo truyền thống Đại thừa, sau khi Đức Phật thành đạo dưới cội cây Bồ-đề liền quảng thuyết bộ Hoa Nghiêm độ cho vô số Bồ-tát, chư Thiên. hữu học 有 學 dịch nghĩa của śaikṣa (S) hoặc sekha (P), nghĩa là bậc còn phải học và tu nữa mới chứng được quả A-la-hán. Nói cách khác thuật ngữ này chỉ chung cho các bậc chứng từ quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm.

Ka-la-ma phiên âm của Kālāma (P), một sắc dân ở tại Kesaputta, thuộc nưóc Kiều-tát-la.

Kê-sa-pu-ta phiên âm của Kesaputta (P), một thị trấn nhỏ thuộc nước KoSa-la.

Kế-tân 罽 賓 phiên âm của Kaśmīra (S) hoặc Kasmīra (P). Vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ hai, Kaśmīra là trung tâm Phật giáo Đại thừa. Ngày nay, nó cũng được gọi là Kasmir, thuộc vùng Bắc Ấn.

Khẩn-na-la 緊 那 羅 phiên âm của Kiṃnara (S) hoặc Kinnara (P), dịch nghĩa là phi nhân, một hạng thần, còn gọi là ca thần, một trong 8 loài thần dưới quyền của vua Tứ Đại Thiên Vương. khất sĩ 乞 士 một trong ba nghĩa của Tỳ-kheo, có nghĩa đen là người hành khất. Trong Phật giáo từ này có nghĩa là một vị xuất gia xin giáo pháp của Đức Phật để nuôi pháp thân huệ mạng, xin thực phẩm của bá tánh để nuôi thân. Trong các bản dịch của HT. Nhất Hạnh, từ khất sĩ thường được thay thế cho từ tỳ-kheo. khổ uẩn 苦 蘊 còn gọi là khổ ấm 苦 蔭. "Uẩn" có nghĩa là tích tụ, "ấm" có nghĩa là che đậy. Khổ uẩn được dịch là xác thân nầy khổ, vì có xác thân là có bệnh tật, có đau thương, sầu muộn, có chết chóc chia lìa, nên gọi là "khổ uẩn." không 空 dịch nghĩa của śūnyatā (S) hoặc suññatā (P). Khái niệm "không" là chỉ cho bản chất của mọi sự vật hiện tượng là không thực thể, do các duyên tạo thành. Tính chất của mọi sự vật là không thực thể nên cũng gọi là 'không tánh." không vô biên xứ định 空 無 邊 處 定 (S. Ākāśānantyāyatana dhyāna): một trong bốn cảnh giới thiền của sắc giới.

Kiều-phạm-ba-đề 橋 梵 波 提 phiên âm của Gavāṃpati (S) hoặc Gavāṃpati (P), dịch ý là Ngưu Từ, Ngưu Chủ. Tên của một tôn giả, năm trăm kiếp trước bị đọa làm thân trâu, dầu kiếp này dầu chứng quả A-la-hán nhưng tập khí nhai lại vẫn còn, nên miệng hay nhơi nhơi như trâu nhai thức ăn.

Kiều-trần-như 僑 陳 如 phiên âm của Kauṇḍinya (S), Koṇdanna (P). Tên của một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tôn giả cũng chính là một trong 8 vị chiêm tinh gia trẻ nhất đã từng đến đoán tướng của thái tử Tất-đạt-đa khi Thái tử vừa mới chào đời.® A-nhã Kiều-trần-như.

Kim-bi-la phiên âm Kimbila (P). Vị Tôn giả này cùng sống rất hoà hợp với hai vị tôn giả khác nữa là Anuruddha và Nandiya trong khu rừng Gosinga. Kimbila (P) và Anuruddha (P) cũng là những người trong nhóm thuộc dòng họ Thích-ca xuất gia theo Phật đầu tiên.

Ko-sa-la phiên âm của Kośalā, KauśA-la (S) hoặc Kosalā (P). ® Câu-tát-la

Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên 祗 樹 給 孤 獨 園 dịch nghĩa của cụm từ Jetavanānāthapiṇḍasyārāma (S), hoặc Jetavanāthapiṇḍkārāma (P), nghĩa là vườn rừng của ông Cấp Cô Độc, rừng cây của thái tử Kỳ-đà. Đôi khi, cụm từ Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên được gọi tắt là "Kỳ Viên" hay Kỳ-hoàn." Đây là Tinh Xá đầu tiên tại thành Xá-vệ của nước Kiều-tát-la.

Kỳ Viên ® Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên

Kỳ-đà lâm 祇 陀 林 phiên âm và dịch nghĩa của Jetavanā (S=P). Rừng của thái tử Kỳ-đà. ® Kỳ-đà.

Kỳ-đà 祇 陀 phiên âm của Jeta (S=P). Tên của thái tử, con vua Ba-tư-nặc thuộc nước Kiều-tát-la thời Đức Phật còn tại thế. Ông Cấp Cô Độc đã lót vàng mua khu vườn rừng của thái tử, và thái tử đã phát tâm cúng dường Đức Phật cùng chúng tăng rừng cây xinh đẹp của mình. ® Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.

Kỳ-hoàn 祇 桓 tên của một ngôi Tinh Xá lớn nhất thời Đức Phật còn tại thế.

Kỳ-xà-quật 耆 闍 崛 phiên âm của Gṛdharakūṭa (S), Gijjhakūṭa (P) dịch nghĩa là Thứu Sơn hoặc Linh Thứu Sơn, tên của một ngọn núi nằm sát kinh đô Vương Xá của Vua Tần-bà-sa-la thuộc nước Ma-kiệt-đà. Theo truyền thuyết có rất nhiều chim Thứu (giống như chim ưng) ở trên ngọn núi này nên gọi là Linh Thứu. Còn một cách lý giải khác là vì núi này có đỉnh núi giống như đầu con chim Thứu, nên gọi là Thứu Sơn. Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Đức Phật thuyết hầu hết Kinh điển Đại thừa tại nơi này.

La-duyệt-kỳ 羅 閲 耆 phiên âm của Rājagṛaha (S) hoặc Rājagaha (P), được dịch là Vương Xá. Một trong các đô thị văn hoá lớn thời Phật. ® Vương Xá.

La-hán 羅 漢 = A-la-hán.

La-hầu-la 羅 候 羅 phiên âm của Rāhula (S=P), con trai của thái tử Tất-đạt đa và công chúa Da-du-đà-la. Khi Đức Phật về thăm quê hương, Ngài đã độ La-hầu-la xuất gia trở thành vị Sa-di đầu tiên. Tôn giả tu mật hạnh và được truy tôn là “Mật hạnh đệ nhất”, một trong mười vị Thánh đại đệ tử của Đức Phật.

La-sát 羅 剎 phiên âm của Rākṣasa (S), một loài quỷ dữ, rất ác độc, thường ăn thịt người. La-sát nữ cực đẹp, còn La-sát nam cực xấu, được diễn tả như mình đen, tóc đỏ, mắt xanh, v.v…. lậu hoặc 漏 惑 dịch từ āsrava (S) hoặc āsava (P). Lậu là rỉ chảy, sét ghỉ, dơ bẩn. Cũng có nghĩa là si mê, tối tăm. Do đó, thuật ngữ "lậu hoặc" cũng chỉ cho các phiền não nhiễm ô trong tâm. Một bậc chứng quả A-la-hán đã đoạn trừ tất cả lậu hoặc trong tâm. lậu tận thông 漏 盡 通 còn gọi là Lậu tận trí chứng thông 漏 盡 智 證 通, dịch từ āsrava-kṣyana-jñāna-sākṣātkriyābhijñā (S), nghĩa là thần thông biết rõ tâm không còn vô minh phiền não, đạt đến giác ngộ viên mãn tối thượng. Đây là thần thông tối thượng nhất trong 6 thông mà một bậc giác ngộ có thể chứng được.

Linh Thụy ® Ưu-đàm.

Lộc Uyển 鹿 宛 hay còn gọi là Lộc dã uyển, dịch từ Mṛgadāva (S), nghĩa là Vườn Nai, nơi Đức Phật chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên pháp luân. ® Vườn Nai, Chuyển Pháp Luân. lục đạo 六 道 sáu đường luân hồi, gồm: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la, nhân và thiên.

Lưỡng Túc Tôn 兩 足 尊 một danh hiệu khác của Đức Phật, nghĩa là "Bậc đáng được tôn trọng trong loài hai chân", tức loài người. Về sau được hiểu nghĩa bóng là "Bậc đã trọn vẹn hai phương diện, đó là Trí tuệ và Đạo đức." ma vương 魔 王 đồng nghĩa với ác ma 惡 魔. Phiên âm và dịch nghĩa của Māra. Nam và Bắc tạng đều ghi Ma vương chỉ cho vị chúa của loài ma. Đây là cảnh giới cao nhất của Dục giới, gọi là Tha Hoá Tự tại Thiên. Trong các bản chữ Hán thường dịch nghĩa là Ma vương cõi này là Thiên ma Ba-tuần (P. Mara Sainya Pramardana). Theo như Kinh điển ghi lại, khi Đức Phật sắp thành đạo quả vô thượng giác thì chính ma vương Ba-tuần này đã sai khiến con gái của mình đến quyến rủ Đức Phật trở về đời sống thế tục. Sau khi Đức Phật thành đạo thì Ma Vương xuống thỉnh Đức Phật nhập Niết-bàn. Khi Đức Phật tới tuổi 80, Ma vương lại đích thân thỉnh Đức Phật nhập Niết-bàn. Tuy nhiên, trong một vài ngữ cảnh khác, ma vương cũng chỉ cho các dục vọng nhiễm ô trong tâm thức của mình nên sau này mới phân biệt thành 2 loại ma, tức ngoại ma và nội ma là vậy.

Lâm-tỳ-ni: phiên âm của chữ Lumbini (S=P), tên khu vườn nơi Đức Phật đản sanh, nay thuộc Nepal.

Ma-da: 麼 耶 phiên âm của từ Māyā (S=P). Hoàng hậu của Ca-tỳ-la-vệ, Mẹ cuả Thái tử Tất-đạt-đa. Sau khi sanh hạ thái tử Tất-đạt-đa được bảy ngày thì bà băng hà và được sanh lên cõi trời Đao-lợi.

Ma-đăng-già 摩 登 伽 phiên âm của Mātaṅga (S=P). Tên của một dòng họ tiện dân thuộc bậc nhất nhì trong hệ thống giai cấp Ấn Độ. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, nhân danh chỉ cho cô gái sắc nước hương trời của giai cấp mang cùng tên, đã dùng chú thuật mê hoặc tôn giả Ānanda làm tôn giả sắp mất giới thể. Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền, thì nàng Ma-đăng-già chỉ thương tôn giả Ānanda và được Đức Phật hoá độ, chẳng bao lâu chứng được Thánh quả A-la-hán.

Ma-hê-thủ-la = Đại Tự Tại thiên.

Mạt-lợi 末 利 (cũng thường gọi là Ma-li-ka) phiên âm của Mallikā hoặc Mālikā (S=P), vợ của vua Ba-tư-nặc nước Câu-sa-la.

Mâu-ni hay Mưu–ni 牟 尼 phiên âm của Muni (S=P). Có nghĩa là bậc ẩn sĩ, bậc tu hạnh tịch tịnh. Trung Hoa dịch là "Tịch Mặc" 寂 默. Sau khi Đức Phật đoạn trừ được các lậu hoặc, các vận động của nghiệp lực và ý thức tạo tác đều dừng tắt, các hành trong tâm của Ngài được an tịnh, Ngài được tôn xưng với danh hiệu "bậc ẩn sĩ của dòng họ Thích-ca (Thích-ca Mâu-ni).

Minh Hạnh Túc 明 行 足 (S. Vidyā-caraṇa-saṃpanna; P. Vijjā-caraṇa-sampanna), nghĩa là bậc Trí tuệ và đức hạnh viên mãn. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Mục-kiền-liên 目 犍 連 phiên âm của Maudgalyāyana (S), hoặc Moggallāna (P). Trong kinh điển Pāli và Sanskrit, Ngài là bậc có thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật. Ngoài ra, theo kinh điển Đại thừa, Ngài là biểu tượng của hạnh hiếu thảo. Để phân biệt với nhiều vị có cùng họ, nên Ngài thường được gọi là Đại Mục-kiền-liên (S. Mahāmaudgalyāyana).

Mun-đa phiên âm của Muṇḍa (P), con của Vua Anuruddha, cháu nội của Vua A-xà-thế. Ông giết cha mình chiếm ngôi và sau này cũng bị chính người con trai của mình Nāgadāsaka cuớp ngôi. mười danh hiệu của Đức Phật gồm: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Xem thêm từng mục liên hệ. mười địa thuật ngữ Sanskrit là daśabhūmi, chữ Hán là “Thập địa” 十 地, gồm có Hoan Hỷ, Ly Cấu, Phát Quang, Diệm Huệ, Nan Thắng, Hiện Tiền, Viễn Hành, Bất Động, Thiện Tuệ và Pháp Vân Địa. mười điều ác ngược lại với mười hạnh lành. mười hai khía cạnh dịch nghĩa của “thập nhị hành” 十 二 行 trong Kinh Chuyển Pháp Luân. Đức Phật thuyết pháp Tứ Đế hoàn thiện trên ba phương diện, đó là chỉ bày (thị chuyển), khuyến tấn (khuyến chuyển) và giới thiệu tự thân Đức Phật đã chứng đạt (chứng chuyển). Bốn đế nhân với ba phương diện thành 12 khía cạnh. mười hai thể loại kinh tiếng Sanskrit là dvādaśāṅga-buddha-vacana, Hán dịch là “thập nhị bộ Kinh” 十 二 部 經 hoặc “Thập nhị phần thánh giáo” 十 二 分 聖 教. Theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa thì kinh điển Đức Phật thuyết thuyết trong 49 năm gồm 12 thể loại sau: 1. Sūtra: Trường hàng 長 行 còn gọi là Khế kinh 契 經, thuộc văn xuôi. 2. Geya: Trùng Tụng 重 頌, loại kệ có tiết điệu được lập lại phần văn xuôi. 3. Gātha: Cô Khởi 孤 起, hay còn gọi là "Cảm hứng ngữ", những vần thi kệ do Đức Phật cảm hứng mà trình bày hoặc kể lại cho đại chúng. 4) Avadāna: Thí dụ 譬 喻: loại Kinh thuộc ẩn dụ hay dụ ngôn. 5) Nidāna: Nhân duyên 因 緣 những Kinh nói về nhân duyên khi Đức Phật thuyết pháp. 6) Udāna: Tự thuyết 自 說 những Kinh do Đức Phật tự thuyết, không do ai thỉnh cầu. 7) Jātaka: Bổn sanh 本 生 các câu chuyện tiền thân của Đức Phật. 8) Itivṛttaka: Bổn sự 本 事 các công hạnh của Đức Phật khi đang tu hạnh Bồ-tát. 9) Adbhuta-dharma: Vị tằng hữu 未 曾 有: những điều ít có trong cuộc đời. 10) Vaipulya: Phương Quảng 方 廣 chỉ cho các kinh căn bản của Đại thừa. 11) Upadeśa: Luận nghị 論 儀 các bài Kinh có tính chất vấn đáp và lý luận. 12) Vyākarṇa: Ký biệt 記 別 hoặc thọ ký 授 記: lời tiên đoán của Phật về việc các hàng đệ tử thành Phật trong tương lai. mười hai xứ dịch nghĩa của “thập nhị xứ”, bao gồm 6 căn và 6 trần. Sáu căn gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần gồm: hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngon, sự xúc chạm êm dịu, các đối tượng của tâm. mười hạnh lành thuật ngữ Hán gọi là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Mười hạnh lành gồm: 1. Không sát sanh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà hạnh; 4. Không nói dối; 5. Không nói khoe khoang; 6. Không nói đâm thọc; 7. Không rủa chửi; 8. Không tham lam; 9. Không sân giận; 10. Không si mê. mười lực dịch từ “Thập lực” (S. daśaBa-la, P. dasaBa-la), 10 khả năng trí giác của Đức Phật, gồm có 1) Tri giác xứ phi xứ trí lực: trí lực biết về sự vật nào là có đạo lý, sự vật nào là không có đạo lý; 2) Tri tam thế nghiệp báo trí lực: trí lực biết rõ ba đời nghiệp báo của chúng sanh; 3) Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực: trí lực biết các Thiền định và trí lực biết tám giải thoát, ba tam-muội; 4) Tri chúng sanh tâm tính trí lực: trí lực biết tâm tính của tất cả chúng sanh; 5) Tri chủng chủng giải trí lực: trí lực biết mọi loại trí giải của tất cả chúng sanh; 6) Tri chủng chủng giới trí lực: trí lực biết khắp và đúng như thực mọi loại cảnh giới khác nhau của tất cả chúng sanh); 7) Tư nhất thiết chí đạo sở trí lực: trí lực biết hết đạo mà người tu hành sẽ đạt tới, như người tu ngũ giới thập thiện thì được ở cõi người, hoặc lên cõi trời, người tu pháp vô lậu thì sẽ chứng đạt Niết-bàn; 8) Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: trí lực vận dụng thiên nhãn nhìn thấy sự sinh tử và nghiệp thiện ác của chúng sanh, lại còn biết rõ vô lậu Niết-bàn; 9) Tri túc mạng vô lậu trí lực: trí lực biết túc mạng của chúng sanh, lại còn biết rõ vô lậu Niết-bàn; 10) Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: trí lực có thể biết rõ được như thực đối với mọi tàn dư tập khí sẽ vĩnh viễn đoạn diệt chẳng sinh. mười nhơn duyên dịch nghĩa của từ Thập nhân duyên十 因 緣, gồm có: danh sắc, thức, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. mười tám đặc tính của Phật dịch nghĩa của cụm từ “Thập bát bất cộng pháp” 十 八 不 共 法. Đây là 18 đặc tính mà chỉ có Đức Phật mới có, còn các hàng Bồ-tát, Thanh Văn không thể có được. Mười tám đặc tính như sau: 1) Thân vô thất: thân không có sai sót; 2) Khẩu vô thất: miệng không sai sót; 3) Niệm vô thất: ý niệm không sai sót; 4) Vô dị tưởng: không có tư tưởng khác; 5) Vô bất định tâm: Đức Phật dù đi đứng nằm ngồi đều không lìa Thắng định; 6) Vô bất tri dĩ xả: Phật đối với tất cả các pháp đều biết rõ rồi mới xả bỏ; 7) Dục vô giảm: Phật có đủ điều thiện thường muốn độ cho tất cả chúng sanh, tâm không biết chán; 8) Tinh tiến vô giảm: siêng năng làm các việc thiện không mệt mỏi; 9) Niệm vô giảm; 10) Tuệ vô giảm: chư Phật ba đời, hết thảy trí tuệ sáng ngời, đầy đủ, 11) Giải thoát vô giảm; 12) Giải thoát tri kiến vô giảm; 13) Tất cả thân nghiệp làm theo trí tuệ; 14) Tất cả khẩu nghiệp làm theo trí tuệ; 15) Tất cả ý nghiệp làm theo trí tuệ; 16) Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại; 17) Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại; 18) Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại. mười tám giới dịch nghĩa của "thập bát giới" 十 八 界, bao gồm 6 giác quan (lục căn), 6 đối tượng giác quan (lục trần) và 6 thức giác quan (lục thức). mười tám yếu tố = mười tám giới. na-do-tha phiên âm của nayuta hoặc niyuta (S), đơn vị đo lường khoảng cách của Ấn Độ, tương đương với 10 vạn dặm của Trung Quốc. Kinh thường ghi con số muôn ức na-do-tha, nghĩa là rất nhiều, không thể tính đếm được.

Na-hàm = A-na-hàm.

Na-ku-la phiên âm của Nakula. Tên của người con trai của hai vị cư sĩ hiểu đạo. Chính thân mẫu Na-ku-la đã thuyết pháp cho thân phụ của Nakula, nhờ đó thân phụ của Na-ku-la hết bệnh. Đức Phật khen ngợi và xác nhận Mẹ của Nakula là một người vợ lý tưởng. năm căn tiếng Sanskrit là pañca-Indriya, tiếng Hoa là "ngũ căn" 五 根 nghĩa là năm nhóm căn bản cần tu tập để đưa hành giả đến giác ngộ, gồm có: 1) Tín căn (S. Saddhā-Indriya): có niềm tin kiên cố đối với Tam Bảo. 2) Tấn căn (S. Vīrya-Indriya): nỗ lực tu tập thiện pháp. 3) Niệm căn (S. Smṛti-Indriya): luôn nhớ nghĩ đến lời dạy của Đức Phật. 4) Định căn (S.Samādhi-Indriya): Trụ tâm vào một cảnh. 5) Tuệ căn (S. Paññā-Indriya): nhìn mọi sự vật hiện tượng đúng như bản chất thật của nó. năm đồng tu tức năm anh em tôn giả Kiều Trần Như đồng tu khổ hạnh với Đức Phật tại Khổ Hạnh Lâm. ® năm anh em Kiều-trần-như. năm dục dịch nghĩa của ngũ dục 五 欲. Theo cả hai truyền thống Kinh điển Nam và Bắc truyền cho rằng: năm dục là sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu. Năm dục cũng còn hiểu là năm đối tượng để thoả mãn của thân và tâm: của cải (tài), sắc đẹp (sắc), tiếng tăm (danh), thực (ăn uống) và ngủ nghỉ (thuỳ). năm giới dịch nghĩa là ngũ giới 五 戒, nghĩa là năm giới luật hay năm nguyên tắc đạo đức mà một Phật tử phải tuân thủ, bao gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu. năm giới pháp = năm giới. năm lực tiếng Sanskrit là Pañca Ba-la, tiếng Hoa là "ngũ lực" 五 力 nghĩa là năm sức mạnh do tu tập năm căn viên mãn, đó là: 1) Tín lực (S. Sadhā-Ba-la); 2) Tấn lực (S.Viriya-Ba-la); 3) Niệm lực (S.Smṛti-Ba-la); 4) Định lực (S. Samādhi-Ba-la) và 5) Tuệ lực (S. Paññā-Ba-la). năm nguyên tắc đạo đức = ngũ giới. năm pháp chướng ngại tâm nghĩa là năm phiền não thiêu đốt, trói cột, làm trở ngại cho việc tu tập thiền định của hành giả. Trong Kinh, năm pháp chướng ngại này được gọi là "năm triền cái", thuật ngữ Hán gọi là “ngũ cái” 五 蓋 (S. pañca āvaraṇāni), gồm có: Tham dục (S. rāga-āvaraṇa), sân hận (S. pratigha-aavarṇa), trạo hối (S. auddhatya-kaukṛtya), hôn trầm (S.stāna-middha) và nghi ngờ (S. vicikitsā). năm sợi dây ràng buộc đầu còn gọi là năm kiết sử đầu, tiếng Hán gọi là "ngũ thượng phần kiết sử". ® năm thứ độn sử. năm sợi dây ràng buộc sau còn gọi là năm kiết sử sau, tiếng Hán gọi là "ngũ hạ phần kiết sử" 五 下 分 結 使, chúng còn gọi là "lợi sử" 利 使 vì chúng dễ trừ, gồm có thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến. năm sự ngăn che = năm pháp chướng ngại tâm. năm thứ độn sử dịch nghĩa của cụm từ pañca-ūrdhvabhāgīta-saṃyojanāni (S),Hán dịch là "ngũ độn sử" 五 cũng được gọi là “ngũ thượng phần kiết sử” 五 上 分 結 使 nghĩa là năm thứ phiền não trói buộc con người, gồm có dục tham, sân nhuế, si, mạn, nghi. Vì chúng rất khó trừ nên gọi là "độn" năm thứ dục lạc dịch nghĩa của "ngũ dục lạc" 五 欲 樂 gồm: sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon và xúc chạm êm dịu. năm thứ phước đức cõi người: sống lâu, sắc đẹp, sức khoẻ, an vui và trí tuệ. năm tổ hợp nhân thể hay năm nhóm nhân thể dịch nghĩa của từ năm uẩn. Trong một vài chỗ còn viết là "hợp thể tinh thần và xác thân." Năm hợp thể cấu tạo nên con người, bao gồm, xác thân, cảm giác, ý niệm hóa, sự vận hành và thức phân biệt. ® năm uẩn. năm uẩn dịch nghĩa của pañca-skandha (S) hoặc pañcakhandhā (P) tiếng Hoa là "ngũ uẩn" 五 蘊, hay là "Ngũ ấm" 五 陰, nghĩa là năm nhóm tích tụ hay năm nhóm che đậy. Trong bảnKinh Nhật Tụng Hàng Ngày này có chỗ dịch là "năm nhóm nhân thể." Năm uẩn gồm sắc uẩn (S. rūpa-skandha), thọ uẩn (S. vedanā-skandha), tưởng uẩn (S. samṃjñā-skandha), hành uẩn (S. saṃskāra-skandha) và thức uẩn (S. vijñāna-skandha). năm vị Tỳ-kheo đầu tiên dịch nghĩa của cụm từ Pañca bhikṣava (S) hoặc Pañca-vaggiyā bhikkhū (P). Còn gọi là năm anh em Kiều-trần-như: 1. Ājñāta Kauṇḍinya (S), Añña Koṇḍañña (P) A-nhã Kiều-trần-như 阿 若 僑 陳 如; 2. Āśvajit (S), Assaji (P) Mã Thắng 馬 勝; 3. Bhadhrika (S), Bhadiya (P) Bà-đề 婆 提; 4. DaśaBa-la Kāśyapa (S), DasaBa-la Kassapa (P) Thập Lực Ca-diếp 十 力 迦 葉; 5. Mahānāma Kulika (S) Ma-ha-nam 摩 訶 男.

Nan-đà phiên âm của Nārada (P). Kinh Nhổ Mũi Tên Sầu Muộn đề cập Nan-đà, tên một trưởng lão sống sau thời Đức Phật, khác với tôn giả Nan-đà, người em cùng cha khác Mẹ với Đức Phật.

Nan-di-ya phiên âm Nandiya (P), tên của một vị Tỳ-kheo sống rất hoà hợp với hai vị khác tên là Anaruddha và Kimbila.

Năng Nhân nghĩa là một bậc có năng lực rộng lớn và có lòng từ bi quảng đại. Đây là danh hiệu của Đức Phật mà người Hoa dịch từ Śākya (Thích-ca).

Na-tiên 那 先 phiên âm của Nāgasena (S=P). Tên của một Tỳ-kheo có tài biện luận, đã thuyết phục được vua Milinda quy y Tam Bảo. ngạ quỷ 餓 鬼 nghĩa là quỷ đói, vốn từ nguyên của nó là Preta (S) hoặc Peta (P) nghĩa là các loài chúng sanh đã chết chưa đi đầu thai sang kiếp khác. Đây là cảnh giới đau khổ thứ hai tính từ dưới lên. nghiệp cuối đời tiếng Hán gọi là "cận tử nghiệp" 近 死 業 (S. maraṇasnṛti; P. maraṇa-sati), nghĩa là các niệm khởi của người sắp chết tạo thành một động lực, còn gọi là nghiệp. Nghiệp này rất mạnh, nó thúc đẩy thần thức đi tái sanh vào cõi tương ứng. ngũ dục 五 欲 = năm thứ dục lạc. ngũ nghịch 五 逆 năm tội lớn: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu và phá sự hoà hợp của Tăng chúng. Người nào phạm một trong tội này đều đoạ vào địa ngục Vô Gián (nghĩa là đạ ngục trong đó sự hành phạt không có dừng nghỉ). ngũ nghiệp 五 業 Trong Kinh Nhận Thức Vô Thường và Đau Khổ, ngũ nghiệp gồm như sau: thời phân bất định dị thục nghiệp, thuận hậu thứ hậu nghiệp, thuận hiện pháp thụ nghiệp, thuận thứ sinh thụ nghiệp ngũ phần hương 五 分 香 năm loại hương cúng dường chư Phật, đó là hương của giới, hương của định, hương của tuệ, hương của giải thoát, hương của giải thoát tri kiến. ngũ thông 五 通 năm thần thông do công phu tu tập các loại thiền định mà đạt được, đó là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông và túc mạng thông. Năm loại thần thông này một vị còn lậu hoặc phiền não cũng có thể đạt được (trong khi lậu tận thông chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới chứng được). ngũ uẩn = năm uẩn.

Như Lai 如 來 dịch nghĩa của Tathāgata (S=P), một trong mười danh hiệu của Đức Phật. Danh hiệu nầy là từ xưng mình của Đức Phật đối với các hàng đệ tử. Kinh Kim Cang định nghĩa bậc "vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai" nghĩa là bậc từ không có chỗ đến mà cũng không có chỗ đi, gọi là Như Lai. Một số Kinh điển Bắc truyền viết về trạng thái của Như Lai như sau: Như Lai là trạng thái cao quý, Như Lai là trạng thái mát mẻ, Như Lai là trạng thái không nóng bức, Như Lai là trạng thái không còn khóc than. Kinh tạng Pāli định nghĩa Như Lai là một bậc làm sao nói vậy, nói sao làm vậy. nhứt hoàn 一 還 = Tư-đà-hàm. nhứt thiết chủng trí, cũng đọc là Nhất thế chủng trí 一 切 種 智 tức trí tuệ vô lậu rốt ráo của chư Phật Thế Tôn. nhứt thừa 一 乘 dịch nghĩa của ekayāna (S), nghĩa là người học Phật học hỏi và tu tập theo giáo pháp của Đức Phật với mục đích duy nhất là để thành Phật, nên nhiều chỗ gọi là "Phật thừa" Buddha-yāna.

Niết-bàn phiên âm của Nirvāṇa (S) hoặc Nibbāna (P). Đây là trạng thái tịch tịnh vắng lặng của một bậc A-la-hán, nên người Hoa cũng dịch là "tịch tịnh" 寂 淨. Niết-bàn có hai loại: hữu dư Niết-bàn (S. Rupadhiśeṣa-nirvāṇa): trạng thái Niết-bàn chứng được ngay khi hành giả còn sống, còn có thân thể năm uẩn. Vô dư Niết-bàn (S. Nirupadhiśeṣa-nirvāṇa): trạng thái Niết-bàn chứng đạt ngay khi hành giả từ bỏ cõi sống, từ bỏ xác thân. Trạng thái này không thể diễn đạt bày bằng ngôn ngữ mà phải thân chứng. Khái niệm này thường để chỉ cho Đức Phật khi qua đời, Trung Hoa dịch là "diệt độ" 滅 度 hoặc "thị tịch" 示 寂.

Ô-sô-sắt-ma 烏 芻 瑟 摩 còn được phiên âm là Ô-sô-sa-ma 烏 芻 沙 摩 phiên âm của Ucchuṣma (S). Tên của một vị Bồ-tát được đề cập trong Kinh Lăng Nghiêm.

Phạm Chí 梵 志 thuật ngữ này dịch nghĩa của từ Bà-la-môn (S. Brāhmaṇa). Tuy nhiên, thuật ngữ này chính xác là dịch từ Brāhmacārin (S), cũng có nghĩa là "phạm hạnh" 梵 行. Tên gọi một vị Bà-la-môn ở trong giai đoạn cuối của đời người theo truyền thống của họ. Theo họ, đời người có bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn một từ 8 tuổi đến 20 tuổi theo các danh sư học Kinh điển Veda. Giai đoạn hai từ hai mươi tuổi trở lên được quyền lập gia đình, sinh con cái, lo làm ăn; giai đoạn 3 là phải đóng góp công sức xã hội khi tuổi đã quá trung niên; giai đoạn 4 là giai đoạn về già, xuất gia làm sa-môn khổ hạnh, giai đoạn này gọi là Saṃyāsin. Chính giai đoạn này, một Bà-la-môn được gọi là "phạm chí."

Phạm thiên 梵 天 viết đủ là phạm-ma thiên 梵 摩 天. Thuật ngữ Brahmā (S=P) được phiên âm là phạm-ma 梵 摩 là vị Trời có uy lực lớn nhất trong Sắc giới. Phạm Thiên cũng được tôn xưng là Đại Phạm Thiên 大 梵 天, hay là phạm vương 梵 王. Theo quan điểm của đạo Bà-là-môn, Phạm thiên là vị chúa tể của trời đất, vị sáng tạo vũ trụ. Đức Phật chỉ xác nhận Phạm thiên là một vị có phuớc đức lớn trong cõi dục, hoàn toàn không phải là đấng Tạo Hoá hay đấng Sáng Tạo. Trong Kinh điển Phật giáo, Phạm Thiên là người thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân, ngay sau khi ngài thành đạo.

Phạm vương 梵 王 cách gọi khác của Đại Phạm Thiên Vương 大 梵 天 王, vua cõi trời Sắc giới. Vua Đại Phạm tu tập tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả nên bốn pháp môn tu tập này cũng gọi là “Tứ phạm trú." 四 梵 住. Vị thiên chủ này đã phát nguyện hộ trì những vị vâng giữ lời Phật dạy. pháp ấn 法 印 thường gọi là “Tam pháp ấn” 三 法 印, nghĩa là ba thuộc tính của mọi sự vật hiện tượng, đó là: vô thường, khổ và vô ngã. Trong văn học Phật giáo Việt Nam, thuật ngữ này được dùng để chỉ ba dấu ấn xác minh giáo pháp của Đức Phật khác với giáo lý của ngoại đạo, vì giáo pháp của Đức Phật luôn đề cập đến ba thực tính của mọi sự vật hiện tượng. pháp cao thượng theo quan điểm của Phật giáo, một vị hành giả đạt được các pháp cao thượng, tức vị ấy thành tựu các pháp dẫn đến đoạn trừ năm triền cái và chứng đạt các quả vị thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền, tiến đến Diệt thọ tưởng định, thành tựu từ Sơ quả đến Tứ quả.

Pháp Hoa 法 花 viết đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 妙 法 蓮 花 經, dịch nghĩa của cụm từ Saddharma-puṇḍarīka sūtra (S) có nghĩa là Kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Tên gọi một bộ Kinh căn bản của Đại thừa và cũng là Kinh nền tảng của tông Thiên Thai ở Trung Hoa và Nhật Bản. pháp hữu vi 有 為 法 tiếng Sanskrit là saṃskṛta-dharma nghĩa là các pháp do các nhân duyên phối hợp mà thành. Nói chung mọi sự vật hiện tượng đều gọi là pháp hữu vi, ngoại trừ 3 hoặc 6 pháp thuộc thể Niết-bàn thì gọi là pháp Vô vi. pháp thân 法 身 tiếng Sanskrit là Dharmakayāya, nghĩa là thân thường trú bất sanh bất diệt của Đức Phật. Thân này không bị già chết chi phối. pháp vô vi chữ Hán viết là Vô vi pháp 無 為 法 dịch nghĩa từ Asaṃskṛta-dharma (S), nghĩa là các pháp không bị tạo tác. Theo quan điểm của Duy Thức Học vô vi pháp gồm có 6 pháp, theo Câu-xá tông pháp vô vi gồm 3 pháp. Vô Vi có lúc được hiểu như cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh.

Phật Nhiên Đăng chữ Hán viết là Nhiên Đăng Phật 然 燈 佛 dịch nghĩa của Dīpaṃkara Buddha (S). Phật Nhiên Đăng là Đức Phật quá khứ đã thành đạo từ vô lượng kiếp về trước, đã thọ ký cho Đức Phật Thích-ca sẽ thành đạo lúc Đức Phật Thích-ca là một chàng thanh niên mua hoa cúng dường Ngài trong tiền kiếp. phát tâm lớn nghĩa là phát tâm giác ngộ để độ tất cả chúng sanh đồng vào quả vị giác ngộ tối thượng. Trong các Kinh Đại thừa khi nói đến "phát tâm lớn" cũng có nghĩa là phát tâm Bồ-đề, hay nói cách khác là phát tâm cầu quả vị giác ngộ tối thượng.

Phật Tỳ-xá-phù viết theo cấu trúc chữ Hán là 毘 舍 浮 佛, phiên âm của Viśvabhuk (S) hoặc Viśvabhū (P), tên của một vị Phật trong thời quá khứ.

Phật-đà 佛 陀 phiên âm của người Trung Quốc về chữ Buddha (S=P), nghĩa là Bậc Giác Ngộ, viết tắt là Phật, Việt Nam phiên âm là Bụt. phi tưởng phi phi tưởng xứ định 非 想 非 非 想 處 定 (S. Naiva saṃjñāsaṃjñāyatana dhyāna): một trong 4 cảnh giới thiền của sắc giới. phiền não 煩 惱 dịch nghĩa của kleśa (S) hoặc kilesa (P). Các trạng thái tâm buồn phiền, nóng giận, tham lam, v.v… những tâm lý bất an của con người gọi chung là phiền não. Một số nhà Phật học dùng từ “phiền não" để chỉ cho nhân tạo tác các bất thiện nghiệp, được xem đồng nghĩa với "lậu hoặc."

Phổ Hiền 普 賢 dịch nghĩa của Samantabhadra (S) hoặc Viśbhadra (S), tên của một vị Bồ-tát. Ngài tượng trưng cho các hạnh nguyện hoàn hảo của các vị Bồ-tát. Ngài cỡi bạch tượng, thường đi song đôi với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tượng trưng cho trí tuệ.

Phú-đơn-na phiên âm của Pūtana (S), một loài quỷ vô lương, thường gây bệnh tật cho loài người.

Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử 富 樓 那 彌 多 羅 尼 子 = Phú-lâu-na.

Phú-lâu-na gọi đủ là Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử 富 樓 那 彌 多 羅 尼 子, phiên âm của Pūrṇa Maitrāyaṇīputra (S) hoặc Puṇṇa Mantāniputta (P), tên của một vị trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật. Tôn giả được Đức Phật xác nhận là vị thuyết pháp số một.

Pi-ja-ka phiên âm của Piyaka (P), ông là quan đại thần chịu trách nhiệm coi ngó ngân khố thành Vương Xá dưới triều đại của vua Muṇḍa.

Quả Vào Dòng nghĩa là người đã vào dòng Thánh. Thuật ngữ Hán thường dịch là "Dự lưu quả" 預 流 果, hoặc là "Tu-đà-hoàn quả" 须 陀 桓 果. Quả vị nầy đoạn được 3 loại phiền não thô nhất, đó là Thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Hay nói cách khác, người chứng đạt vào quả vị nầy thấy rõ thân năm uẩn nầy là không thật; có niềm tin bất thối chuyển đối với giáo Pháp; và uyển chuyển linh động trong cách thọ trì giới pháp.

Sa-bà ® Ta-bà. sám-hối phiên âm và dịch nghĩa của Kṣama (S), ban đầu các nhà Phật học Trung Hoa phiên âm chữ kṣama là "sám-ma" 懺 摩, nghĩa là xin người khác tha lỗi cho mình lỡ phạm. Về sau học giả Trung Hoa dịch là "hối quá." Sau để cho Hán hoá các từ có gốc tiếng nước ngoài, người Hoa dịch thành "sám hối." Nghĩa là ăn năn lỗi trước đã lỡ phạm và nguyện chừa không tái phạm nữa. sa-môn 沙 門 phiên âm của śramaṇa (S), samaṇa (P). Thuật ngữ Sa-môn dùng chỉ chung cho giới tu sĩ không tin vào thẩm quyền kinh điển Vệ-đà của đạo Bà-la-môn trong thời Đức Phật. Các tu sĩ ngoại đạo thời đó thường gọi Đức Phật là Sa-môn Cồ-đàm hay bậc Đại Sa-môn. Trong khi đó, Đức Phật thường gọi các đệ tử nam của mình là Tỳ-kheo và các đệ tử nữ là Tỳ-kheo-ni. Về sau, từ này được sử dụng để chỉ chung cho các vị cao tăng.

Sa-nặc 車 匿 phiên âm của Chandaka (S) hoặc Channa (P), người hầu giữ ngựa trung thành của thái tử Tất-đạt-ta. Sau này ông cũng xuất gia theo Đức Phật, nhưng rất cứng đầu, ngạo mạn. Đức Phật trước khi tịch còn dặn đại chúng là phải dùng phép mặc tẫn (không nói chuyện) với Sa-nặc để hành phạt ông. Tuy nhiên, sau đó tôn giả nỗ lực tu tập và cuối cùng cũng chứng quả A-la-hán.

Sanh chủ 生 主 dịch nghĩa của PhạmThiên. Quan niệm của Bà-la-môn giáo cho rằng Phạm Thiên là đấng Tạo Hoá, đấng Sáng Tạo, đấng Tạo Dựng sinh ra muôn loài vạn vật nên có tên là Sanh Chủ. Đức Phật phủ nhận quan điểm này.

San-khê-da phiên âm của từ Saṅkheyya (P), viết đủ là Saṅkheyya-pariveṇa, phiên âm theo tiếng Hoa là San-khế-đa. Tên ngôi chùa của Tỳ-kheo Na-tiên trú ngụ thuộc vùng SāgA-la. sát-đế-lợi 剎 帝 利 phiên âm của kṣatriya (S) hoặc khattiya (P), nghĩa là giai cấp võ tướng, quý tộc, nắm hết mọi quyền chính trong quốc gia. Đây là giai cấp thứ hai trong bốn giai cấp thời Ấn Độ cổ. sát-na 剎 那 phiên âm của kṣaṇa (S) chỉ cho thời gian ngắn nhất mà con người có thể tưởng tưởng được. sáu ba-la-mật dịch nghĩa của "lục ba-la-mật" 六 波 羅 密, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. sáu cõi trời dục giới bao gồm trời Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại. sáu đường dịch nghĩa của "lục đạo" 六 道, gồm có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân và thiên. sáu giác quan dịch nghĩa của từ Lục căn 六 根: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. sáu nhập = sáu giác quan. sáu phàm dịch nghĩa của “lục phàm” 六 凡, gồm có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân và thiên. sáu yếu tố tạo nên thế giới và con người, gồm: đất, nước, gió, lửa, hư không và tâm thức.

Sa-va-thi phiên âm từ Savatthi (P) = Xá-vệ

Sĩ-đạt-ta phiên âm của Siddhātha (S) hoặc Siddhattha (P), còn được phiên âm là Tất-đạt-đa, tên của Đức Phật khi còn là thái tử, Hán dịch nghĩa là “Nhất thiết sự thành” 一 切 事 成, nghĩa là mọi sở nguyện đều được thành tựu. súc sanh 畜 生 = bàng sanh.

Su-cha-ta phiên âm của Sujātā (P). Tên em gái út của đại nữ tín chủ Visākhā, sau cô là con dâu của cư sĩ Cấp Cô Độc.

Ta-bà hay còn viết là sa-bà 娑 婆 phiên âm của Sahā (S=P), vốn nó xuất phát từ Sahā-lokadhātu (S), nghĩa là thế giới chịu nhiều kham nhẫn, đau khổ. Đây là cảnh giới loài người đang sống, tức là hành tinh của chúng ta.

Ta-la phiên âm của Sāla (P), hoặc Śāla (S). Tên của một loại cây có tên khoa học là Shorea Robusta. Đức Phật vô dư niết-bàn tại rừng cây này.

Tam Bảo 三 寶 dịch nghĩa của Tri-ratana (S), nghĩa là Ba Ngôi Báu, dịch cách khác là Ba Điều Quý Báu, đó là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. tâm bồ-đề cấu trúc chữ Hán là: Bồ-đề tâm 菩 提 心 dịch từ chữ Bodhicitta (S), nghĩa là tâm hướng đến mục tiêu giác ngộ. tám chánh đạo còn gọi là Bát Thánh đạo, gồm có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. tám đường chánh = tám chánh đạo. tám giải thoát dịch nghĩa của cụm từ “Bát giải thoát” 八 解 脫, gồm có 1) Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát; 2) Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát; 3) Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ; 4) Không vô biên xứ giải thoát; 5) Thức vô biên xứ giải thoát; 6) Vô sở hữu xứ giải thoát; 7) Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát; 8) Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ trụ.

Tam Thế Phật 三 世 佛 Nghĩa là chư Phật trong ba đời. Chư Phật trong quá khứ như Đức Phật Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá, Ca-la-tôn-đại, Câu-na-hàm, Ca-diếp. Đức Phật thời hiện tại là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật tương lai sẽ là Đức Phật Di-lặc.

Tam y 三 衣 gồm có 1. Y tăng-già-lê 僧 伽 梨 (S= P. Saṅghāti), 2. Uất-đa-la-tăng 鬱 多 羅 僧 (S=P. uttarāsaṅga), 3. An-đà-hội 安 陀 會 (S=P. antaravāsa). ® ba y một bát. tam-ma-bát-đề 三 摩 鉢 提 phiên âm của Samāpatti (S=P), hoặc Tam-ma-bát-để 三 摩 鉢 底, hoặc Tam-ma-bạt-đề 三 摩 拔 提, dịch ý là “đẳng chí” hoặc “chánh thọ." Tên một phương pháp thiền định. tam-ma-đề = tam-ma-để. tam-ma-đề phiên âm của Samādhi (S=P), nghĩa là định. Samādhi được người Hoa phiên âm nhiều cách khác nhau như tam-muội 三 昧, tam-ma-đề 三 摩 提, tam-ma-địa 三 摩 地. ® Định. tam-ma-địa = tam-ma-đề. tam-muội = tam-ma-để. tăng thượng mạn 增 上 慢 một trong 7 loại kiêu mạn: khi tự thân chưa chứng Thánh quả mà tự xưng đã chứng Thánh quả. Trong Kinh Pháp Hoa, thuật ngữ này chỉ chung cho các hàng Thanh Văn, Duyên Giác không chấp nhận học thuyết một Phật thừa và nghĩ rằng quả A-la-hán mà mình chứng đắc không gì khác với quả Phật cao siêu. tăng-già-lê 僧 伽 梨 phiên âm của saṅghāṭī (S=P), nghĩa là thượng y. Thời Phật còn tại thế, chư tăng khi đi ra ngoài khất thực hoá duyên thì mặc y này. Ngày nay chư tăng đắp thượng y khi lên chánh điện lễ Phật, tụng kinh, bố-tát hoặc khi đi ra đường. tăng-kỳ kiếp viết đủ là a-tăng-kỳ kiếp 阿 僧 祇 劫. A tăng-kỳ là phiên âm của asaṃkhya (S=P) nghĩa là vô số, nên a-tăng-kỳ-kiếp nghĩa là vô số kiếp. Theo số học Ấn Độ, một a-tăng-kỳ là 1 tỷ cộng thêm 26 số không phía sau, hoặc mười luỹ thừa 34.

Tất-lăng-già-bà-ta cũng đọc là Tất-lăng-già-bà-sa 畢 陵 伽 婆 蹉, phiên âm của Pilinda-vatsa (S) hoặc Pilinda-vaccha (P). Tên của một vị Tỳ-khưu đã chứng Thánh quả A-la-hán nhưng thường hay chửi mắng, vì tập khí 500 đời quá khứ thường sanh vào dòng dõi Bà-la-môn có uy quyền còn sót lại, nên đến khi tu hành đắc đạo nhưng vẫn sử dụng ngôn ngữ chỉ thị hoặc mắng rủa trong quá trình hành đạo.

Tệ-túc 弊 宿 phiên âm của Pīyāsi (P). Theo Kinh Tệ Túc thuộc Trường A-hàm, ông là một Bà-la-môn. Theo Kinh Tệ Túc thuộc Trường Bộ, ông là một chư hầu nhỏ dưới quyền cai trị của vua Ba-tư-nặc thuộc nước Câu-sa-la thời Đức Phật. Ông cật vấn tôn giả Kimāra Kassapa (Đồng-nữ Ca-diếp) về vấn đề tái sanh, luân hồi. Sau buổi pháp đàm đó, ông xin quy y Tam Bảo trọn đời.

Thắng Man 勝 鬘 dịch nghĩa của Mālyaśrī (S), nghĩa là “vòng hoa đẹp." Tên của công chúa con vua Ba-tư-nặc và Mạt-lợi phu nhân. Bà là hoàng hậu của nước A-du-đà (S. Ayodhiyā). Bài kinh mang cùng tên là bài kinh do phu nhân nói dưới sự chứng minh của Đức Phật. thánh đa văn đệ tử viết theo cấu trúc chữ Hán là “Đa văn Thánh đệ tử” 多 聞 聖 第 子 nghĩa là một vị đệ tử của Đức Phật đã đạt được một trong 4 quả Thánh, tinh thông giáo pháp và có khả năng diễn giảng giáo pháp của Đức Phật dưới nhiều khía cạnh khác nhau. thánh nhân 聖 人 dịch nghĩa của chữ ārya (S=P). Theo quan niệm của Phật giáo, hành giả nào đã chứng được quả Dự Lưu trở lên được gọi là Thánh nhân.

Thanh Văn 聲 聞 dịch nghĩa của Śrāvaka (S) hoặc Sāvaka (P), nghĩa là các vị sau khi nghe xong giáp pháp của Đức Phật, chứng quả A-la-hán, nhưng chưa chứng được quả vị giác ngộ tối thượng. Theo cách phân chia giáo pháp của các nhà Đại thừa, thì giáo pháp của Đức Phật chia thành 5 nhóm tương ứng với năm đối tượng: Nhân thừa,Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa.

Thế Gian Giải 世 間 解 (S. Lokavid, P. Lokavidū): Bậc tinh tường và giải thông hết thảy những sự việc ở thế gian. Một trong mười danh hiệu của Phật. thế giới ba nghìn tiếng Hán là “tam thiên đại thiên thế giới” 三 千 大 千 世 界. Theo thế giới quan Phật giáo, một quả địa cầu là một thế giới, gộp 1000 quả địa cầu lại thành một tiểu thiên thế giới. Gồm một ngàn Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới. Gồm một ngàn Trung thiên thế giới thành một Đại thiên thế giới. Như vậy Tam thiên đại thiên thế giới có nghĩa là thế giới gồm chung cả Tiểu thiên, Trung thiên và Đại thiên.

Thế Tôn 世 尊 dịch nghĩa của Lokanātha (S), hoặc Bhagavā (S=P), có nghĩa là bậc được thế gian tôn trọng. Thỉnh thoảng trong các bản chữ Hán và vài bản dịch tiếng Việt giữ nguyên cách phiên âm của Bhagavā là Bạt-già-phạm 薄 伽 梵. Đây là một trong mười danh hiệu của Đức Phật. Danh hiệu nầy còn là từ tôn xưng của hàng đệ tử đối với Đức Phật.

Thích-đề-hoàn-nhân hay Thích-đề-hoàn-nhơn 釋 提 桓 因 phiên âm của cụm từ Śakro-devānāmindra. Cũng gọi là Đế-thích 帝 釋, vị vua cai trị cõi trời có 33 tầng. ® Đao-lợi.

Thiện Giác hay còn gọi là Thiện Giác Vương 善 覺 王 dịch nghĩa của từ Suprabuddha (S), Suppabudha (P). Ông là cha của công chúa Da-du-đà-la. thiện nam tử 善 男 子 1. viết đủ của "thiện nam" nghĩa là một người cư sĩ nam quy y Tam Bảo; 2. Trong một số kinh điển Đại thừa, thuật ngữ này chỉ chung cho các hàng Bồ-tát. thiện nam 善 男 dịch nghĩa của Upāsaka (S=P) phiên âm Hán Việt là Ưu-bà-tắc 優 婆 塞, nghĩa là một người nam đã phát nguyện quy y Tam Bảo, vâng giữ học giới, làm các điều thiện theo lời Phật dạy, và hay giúp đỡ chư tăng nên Trung Hoa còn dịch là "cận sự nam" 近 事 男.

Thiên Nhân Sư 天 人 師 (S. Śastā devamanuṣyāṇām, P. Satthā-deva-manussaana), bậc Thầy của trời người. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Thiện Sanh 善 生 dịch nghĩa của Sīṅgālaka (S) hoặc Singālaka (P), âm Hán Việt là Thi-ca-la-việt 尸 迦 羅 越. Thiện Sanh là tên của một cư sĩ thời Đức Phật đã nghe theo lời cha dặn trước khi qua đời lễ bái sáu phương để báo hiếu, sau được Đức Phật hoá độ.

Thiện Thệ 善 逝 (S=P. Sugata) Nghĩa là bậc khéo vượt qua sông mê bể khổ, cảnh giới luân hồi. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật. thiền thứ ba hành giả đạt đến trạng thái buông bỏ hỷ (niềm vui thân cảm nhận được) hoàn toàn tỉnh giác, thân cảm nhận sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú." thiền thứ hai vị hành giả chứng và trú vào trạng thái hỷ lạc, không còn tầm không còn tứ, nội tĩnh nhất tâm. thiền thứ nhất đây là trạng thái của một hành giả sau khi đã loại trừ được năm triền cái, đó là tham, sân, trạo cử, hôn trầm, nghi ngờ. Vị hành giả ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc có tầm, có tứ. thiền thứ tư hành giả xả lạc, xả khổ, diệt hỷ diệt ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào trạng thái không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. thiện tri thức 善 知 識 người bạn đạo tốt có tín tâm đối với Tam Bảo và có trí tuệ, có thể tự độ mình và có khả năng độ người. thức vô biên xứ định 識 無 邊 處 定 (S.Vijñānānantyāyatana dhyāna): một trong 4 cảnh giới thiền của sắc giới. tiền trần 前 塵 khi năm căn tiếp xúc với đối tượng năm trần, phát sinh sự nhận thức phân biệt về các trần cảnh. Khi các căn không còn tiếp xúc với năm trần nữa mà các trần cảnh vẫn hiện lên trong ý thức, gọi cảnh đó là tiền trần. tín nữ 信 女 dịch từ chữ upāsikā (S=P), âm Hán Việt là Ưu-bà-di 優 婆 夷. Nghĩa là phụ nữ đã quy y Ba Ngôi Báu và thực hành năm nguyên tắc đạo đức của một người tại gia. Thuật ngữ này còn được dịch là "cận sự nữ" 近 事 女 vì các vị cư sĩ này thường thân cận ủng hộ việc tu trì của chư Tăng Ni. tinh xá 精 舍 dịch nghĩa của từ vihāra (S=P), có nghĩa là nơi ở thanh tịnh và trong sạch của hàng xuất gia, ví dụ như Tinh Xá Kỳ-hoàn hay Tinh Xá Trúc Lâm. Truyền thống Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa và Nhật Bản đều dùng “tự”, “viện”, "già-lam" hay “đại tùng lâm” có nghĩa là chùa chiền, chỗ chúng tăng tu học hay nghiên cứu để thay thế cho “Tinh Xá."

Tịnh-phạn 淨 飯 phiên âm cuả Suddhodana (S) hoặc Suddhodana (P), thân phụ của Thái tử Tất-đạt-đa. Trước khi băng hà, ông được Đức Phật về thăm viếng và thuyết pháp, nhờ đó ông chứng được quả vị A-la-hán. tôn giả 尊 者 bậc đáng được tôn trọng, tiếng Pāli gọi là Bhante, là tiếng tôn xưng của các vị tu sĩ nhỏ tuổi đạo đối với các vị lớn tuổi đạo, bậc có công phu sâu dày hoặc quả chứng cao hơn.

Tôn-đà-la-nan-đà 孫 陀 羅 難 陀 phiên âm của Sundarananda (S=P), thường gọi tắt là Nan-đà. Tôn giả là con ruột của lệnh bà Ma-ha-ba-xà ba-đề và vua Tịnh-phạn. Đức Phật đã vận dụng thần thông hoá độ tôn giả và chẳng bao lâu tôn giả chứng được Thánh quả A-la-hán. trạch pháp 擇 法 phân tích giáo pháp một cách rõ ràng rồi mới hành trì. Đây là một trong bảy yếu tố đưa đến giác ngộ. trí tuệ 智 慧 dịch nghĩa của prajñā (S) hoặc paññā (P). Trung Hoa còn phiên âm là Bát-nhã 般 若, dịch là "huệ" 慧, "trí huệ" 智 慧 hoặc "minh" 明, nghĩa là sự thấy biết các sự vật hiện tượng đúng như thật bản chất của nó, không còn bị bản ngã si mê đánh lừa. Trí tuệ có nhiều cấp độ. Nhờ đọc, học, nghe thuyết giảng mà được sáng suốt gọi là "văn tuệ". Do tự mình suy tư nhiều ngày mà hiểu biết thấu suốt được vấn đề, gọi là "tư huệ"; Do tu tập các pháp môn của Đức Phật chỉ dạy mà phát sinh trí tuệ gọi là "tu huệ."

Trời Biến Tịnh nơi cư trú của một số vị chứng được tam thiền.

Trời Đại Phạm nơi cư trú của một số vị chứng được sơ thiền.

Trời Ma-hê-thủ-la nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Phạm Chúng nơi cư trú của một số vị chứng được sơ thiền.

Trời Phạm Phụ nơi cư trú của một số vị chứng được sơ thiền.

Trời Phước Sanh nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Quang Âm nơi cư trú của một số vị chứng được nhị thiền.

Trời Quảng Quả nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Sắc Cứu Cánh nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Thiện Hiện nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Thiện Kiến nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Thiểu Quang nơi cư trú của một số vị chứng được nhị thiền.

Trời Thiểu Tịnh nơi cư trú của một số vị chứng được tam thiền.

Trời Vô Lượng Quang nơi cư trú của một số vị chứng được nhị thiền.

Trời Vô Lượng Tịnh nơi cư trú của một số vị chứng được tam thiền.

Trời Vô Nhiệt nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Vô Phiền nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trời Vô Sân nơi cư trú của một số vị chứng được tứ thiền.

Trúc Lâm 竹 林 dịch nghĩa của Veṇuvana (S) hoặc Veluvana (P), dịch sát tiếng Việt là rừng Trúc. Trúc Lâm cũng là tên của một khu rừng được vua Tần-bà-sa-la cúng dường Đức Phật để làm nơi cư trú của chư Tăng, nên trong Kinh thường ghi là "Tinh Xá Trúc Lâm". Đây là ngôi tinh xá đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. trung đạo 中 道 dịch nghĩa của madhyamā-pratipad (S) hoặc majjhima-paṭipadā (P). Trong bài Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp, Đức Phật giảng về Tám Con Đường Chánh. Tám con đường này gọi là Trung Đạo vì nó tránh xa hai cực đoan hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác. tù ngục ba miền dịch ý từ “tam giới” 三 界, tức cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. tứ trí vô ngại 四 無 礙 智 hay còn gọi là "Tứ vô ngại biện" hay "Tứ vô ngại giải", gồm có: 1) Pháp vô ngại: hiểu rõ giáo pháp một cách thông suốt. 2) Nghĩa vô ngại: hiểu rõ nghĩa lý ẩn chứa trong các cách diễn đạt khác nhau. 3) Từ vô ngại: sử dụng ngôn ngữ một cách tự tại, điêu luyện. 4) Nhạo thuyết vô ngại, còn gọi là “Biện thuyết vô ngại" nghĩa là thuyết giảng giáo pháp của Đức Phật một cách thông suốt, tự tại và phù hợp với các đối tượng. tự tứ dịch nghĩa của pravāraṇnā (S) hoặc pavāraṇā (P), nghĩa là tự mình bày tỏ lỗi lầm của mình và xin các vị đồng phạm hạnh tha thứ những sai lầm của mình. Lễ tự tứ được tổ chức sau ba tháng an cư kiết hạ theo truyền thống Bắc truyền, và sau 3 tháng an cư mùa mưa theo truyền thống Nam truyền.

Tư-ba-ê 斯 爸 嫛 phiên âm của Satvyā (P), một đô thị nhỏ của nước Câu-sa-la. Cuộc pháp đàm giữa tôn giả Kimāra Kassapa và Bà-la-môn Tệ Túc diễn ra ở đây.

Tu-bạt = Tu-bạt-đà-la.

Tu-bạt-đà-la 須 跋 陀 羅 phiên âm Subhadra (S) hoặc Subhadda (P), là người xin gặp Đức Phật ngay trước khi Ngài nhập diệt.Sau khi được Đức Phật giáo hoá, ông cố gắng hành thiền, chứng được Thánh quả và nhập Niết-bàn trước Đức Phật. Ông là vị đệ tử cuối cùng của Đức Phật.

Tư-đà-hàm 斯 陀 含 phiên âm sakṛāgāmi (S) hoặc sakadāgāmi (P), được dịch là Nhất Lai 一 來, Nhất Vãng Lai 一 往 來 hoặc Nhất Hoàn 一 還. Vị hành giả làm yếu dần hai kiết sử Tham và sân. Vị này nếu mạng chung thì phải tái sanh trong cõi người một lần nữa rồi chứng quả Vô sanh, không luân hồi nữa.

Tu-đà-hoàn 須 陀 桓 phiên âm srotāpanna (S) hoặc sotāpanna (P), được dịch là Dự lưu quả 預 流 果, nghĩa là Vào được dòng Thánh, là quả vị đầu tiên đạt được khi hành giả đoạn trừ ba kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Vị này tối đa là sanh tử 7 lần nữa rồi giải thoát, nên còn được dịch là "Thất lai" 七 來.

Tu-đạt 須 達 gọi đủ là Tu-đạt-đa 須 達 多, phiên âm của chữ Sudatta (P=S), là tên của một triệu phú thời Đức Phật. Sau khi quy y Phật giáo ông làm nhiều việc từ thiện, thường cung cấp vật thực áo cơm cho người bần cùng khốn khó, neo đơn, nên ông được ban danh hiệu là "Cấp Cô Độc". ® Cấp Cô Độc.

Tu-di 須 彌 phiên âm của Sumeru (S=P), tên một ngọn núi. Theo thế giới quan Phật giáo, núi Tu-di nằm ở trung tâm của Tam thiên đại thiên thế giới. tướng tốt băm hai tức là 32 tướng tốt của Đức Phật. Ba mươi hai tướng này được xem là tướng tốt của một bậc Đại Nhân 1. Lòng bàn chân bằng phẳng; 2. Dưới bàn chân có hiện ra hình bánh xe với ngàn tăm xe, trục xe vành xe; 3. Gót chân thon dài; 4. Ngón tay, ngón chân dài; 5. Có tay chân mềm mại; 6. Tay chân có màn da lưới; 7. Mu bàn chân nổi cao đầy đặn; 8. Có mắt cá tròn như con sò; 9. Ống chân như con dê rừng; 10. Đứng thẳng, không khom lưng xuống, hai bàn tay có thể sờ đến đầu gối; 11. Có tướng âm mã tàng; 12. Có màu da như đồng; 13. Có da trơn mướt, khiến bụi không thể bám dính vào; 14. Mỗi lỗ chân lông có một lông; 15. Có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều có màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ và xoáy về hướng mặt; 16. Có thân hình cao thẳng; 17. Có nửa thân trước như thân con sư tử; 18. Không có lõm khuyết xuống giữa hai vai; 19. Có thân thể cân đối như cây bàng. Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng; 20. Có bán thân trên vuông tròn; 21. Cảm vị hết sức nhạy bén khi vật gì chạm đầu lưỡi, những cảm giác được khởi lên tại cổ họng và truyền khắp nơi; 22. Có quai hàm như con sư tử; 23. Có bốn mươi cái răng; 24. Có răng đều đặn; 25. Không có răng khuyết hở; 26. Có răng cửa trơn láng; 27. Có tướng lưỡi rộng dài; 28. Có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim Ca-tăng-tần-già; 29. Có hai mắt xanh đậm; 30. Có lông mi con bò cái; 31. Giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ; 32. Có nhục kế trên đầu. tỳ-kheo 毘 丘 hay hoặc Tỷ-khưu / Tỷ-khưu 比 丘 phiên âm của bhikṣu (S) hoặc bhikkhu (P). Tỳ-kheo có 3 nghĩa căn bản: Khất sĩ, phá ma và bố ác. Đây là cách gọi chung của người nam xuất gia tu theo đường lối của Đức Phật. Cách gọi này hết sức đặc thù trong Phật giáo, không tìm thấy trong các tôn giáo đương thời với Đức Phật. tỳ-kheo-ni 毘 丘 尼 hoặc tỷ-kheo-ni / Tỷ-khưu-ni 比 丘 尼 phiên âm của bhikṣunī (S) hoặc bhikkhunī (P), nghĩa là một người phụ nữ tu theo đường lối của Phật. Cũng có nội dung tương tự với nghĩa Tỳ-kheo ở trên.

Tỳ-xá-xà 毘 舍 闍 phiên âm của Piśāca (S), một loại quỷ thường uống máu ăn tinh của người.

Ứng Cúng 應 供 dịch từ chữ A-la-hán (P. Arahant) nghĩa là bậc đáng thọ lãnh của cúng dường. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Út-đa-ca cách phiên âm vắn tắt của Uddhaka-rāmaputta (P), hoặc Udraka-rāma-putta (S), phiên âm là Uất-đầu-lam-phất 鬱 頭 藍 弗, tên vị Thầy thứ hai khi thái tử tầm sư học đạo. Vị này đã chứng được “Phi tưởng phi phi tưởng xứ định", nhưng cấp độ định này chưa đưa đến quả vị giác ngộ, nên cuối cùng thái tử Tất-đa-đa đã từ giã ông. Sau khi thành đạo, Đức Phật dự định trở lại độ hai vị Thầy đầu tiên này, nhưng cả hai đều đã mạng chung.

Ưu-ba-ly 優 波 離 phiên âm của Upāli (S=P). Tên của vị đại đệ tử của Đức Phật tinh chuyên gìn giữ giới luật và quan tâm đến các vấn đề của giới luật số một. Trước khi xuất gia, tôn giả vốn là thợ cạo của dòng họ Thích-ca. Nhân dịp các công tử trong dòng họ Thích-ca xuất gia theo đức Phât, tôn giả cũng xuất gia theo. Trong kỳ kiết tập Kinh và Luật tạng đầu tiên tại hang Thất-diệp, tôn giả chịu trách nhiệm trùng tuyên lại toàn bộ giới bổn của Đức Phật đã chế.

Ưu-đàm 優 曇 phiên âm của Uḍumbara, Udumbara (S) hoặc Udumbara (P). Viết đủ là Ưu-đàm–bát-la hoa 優 曇 跋 羅 花, được dịch là Linh Thụy 靈 瑞, cũng gọi là Đàm hoa (hoa Đàm), là một loại cây có hoa có tên khoa học là Ficus Glomerata. Đây là một loại cây cực quý, rất khó trồng và ít nở hoa. Tương truyền 3000 năm mới nở hoa một lần, chính vì vậy mà các nhà biên tập Kinh điển thường ví sự kiện Đức Phật ra đời thuyết pháp giống như loài hoa này.

Va-chi = va-di.

Va-di hay còn gọi Va-chi, phiên âm Vajji (P) hoặc Vṛji (S), âm Hán Việt viết là Bạt-kỳ 跋 祇. Tên của một trong 6 thành phố lớn của Ấn Độ thời cổ. Sau khi Phật diệt độ 100 năm, Phật giáo tại đây phát triển rất mạnh. Đây cũng là nơi xảy ra sự kiện “Thập Sự Phi Pháp” trong đại chúng Tỳ-kheo.

Va-ji-ra phiên âm của Vajirā (P). Tên của một Tỳ-kheo-ni thông tuệ thời Đức Phật tại thế.

Văn-thù 文 殊 Viết đủ là Văn-thù-sư-lợi 文 殊 師 利, phiên âm của Mañjuśrī (S), tên của một vị Bồ-tát tượng trưng cho Vô Sư Trí, thường xuất hiện trong Kinh điển Đại thừa.

Vào dòng = Dự Lưu.

Vat-sa-ka-ra phiên âm của Vassakāra (P), hoặc Varṣakāra (S). Các dịch giả Trung Hoa phiên âm nhiều cách khác nhau như Vũ-xá 禹 舍, Vũ-thế 禹 世, Hành-vũ 行 禹, tên của một đại thần của vua A-xà-thế đến thỉnh ý Đức Phật có nên đánh nước Va-di hay không.

Vê-ran-cha phiên âm của chữ Verañjā (P), hoặc Vairañjā (S), tên của một đô thị thuộc nước Kiều-tát-la. vô học 無 學 dịch nghĩa của aśaikṣa (S) hoặc asekha (P), nghĩa là bậc không còn gì để học. Danh hiệu này chỉ được dùng để gọi các vị A-la-hán không còn sanh tử luân hồi. vô lậu 無 漏 (S. Anāsrava) nghĩa là không còn các cáu bẩn phiền não trong tâm. Đây là trạng thái tâm thanh tịnh của một bậc A-la-hán. vô minh 無 明 (S. avidyā, P. avijjā) sự mê muội, tăm tối. Ở đây, sự vô minh không phải chỉ cho sự thiếu học hay kém văn hoá, mà là các tâm lý bất thiện tiềm ẩn từ vô thỉ kiếp che mờ trí tuệ của con người.

Vô Não 無 惱 nghĩa là “Bất Hại”, dịch nghĩa của Ahimsaka. Vì ông giết nhiều người cắt lấy ngón tay kết thành xâu đeo nơi cổ, nên mọi người gọi ông là Người Đeo Vòng Ngón Tay, Aṅgulimālya (S), Aṅgulimālīya (S) hoặc Aṅgulimāla (P). Trong Kinh điển thường đề cập đến tênƯơng-quật-ma-la 央 掘 摩 羅, vốn phiên âm của từ Về sau ông được Đức Phật tế độ trở thành một vị A-la-hán. vô ngã 無 我 (S. anātmannirātman) hoặc (P. anattan), chỉ cho tính không thực thể trong mọi sự vật hiện tượng. Chia cụ thể thì có Nhân vô ngã (con người không có thực thể) và Pháp vô ngã (mọi sự vật hiện tượng đều do các duyên tạo thành). vô sanh dịch nghĩa của thuật ngữ A-la-hán. Đây là quả vị chứng đắc cao nhất của các đệ tử Đức Phật. Người đạt quả vị này hoàn toàn không còn các phiền não nhiễm ô, không còn sanh tử luân hồi. ® A-la-hán. vô sở hữu xứ định 無 所 有 處 定 (S. Ākiñcanyāyatana dhyāna): một trong 4 cảnh giới thiền của sắc giới. vô tác 無 作 tiếng Sanskrit là akarmaka hoặc akṛtrima, nghĩa đen là “không còn tạo tác." Đây là một trong ba pháp tu quan yếu đưa đến giải thoát: Không, Vô tướng và Vô tác. Trong trường hợp này khái niệm vô tác đồng nghĩa với khái niệm “Vô nguyện”, một trong 3 pháp quán (thiền định).

Vô thượng chánh đẳng chánh giác 無 上 正 等 正 覺 dịch nghĩa của Anuttara-Samyak-Saṃbōdhi (S), tương đương với Anuttara sammāsambodh (P), nghĩa là quả vị giác ngộ chân chánh tối thượng vô song của Đức Phật. Trong các văn bản Hán việt và trong một số văn bản dịch Việt, quả vị tối thượng nầy thường được để nguyên, phiên âm là A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề阿 耨 多 羅 三 貓 三 菩 提.

Vô Thượng Sĩ 無 上 士 (S=P. Anuttara): con người siêu việt, phi phàm. Một trong mười danh hiệu của Đức Phật.

Vườn Nai dịch nghĩa của Mṛgadāva (S). Thuật ngữ Hán Việt là Lộc Uyển 鹿 宛, Lộc Dã Uyển 鹿 野 宛, hay Lộc Viên 鹿 圓, tên khu vườn nơi Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp đầu tiên độ cho năm vị Tỳ-kheo. ® Chuyển Pháp Luân.

Vương Xá thành 王 舍 城 dịch nghĩa của Rājagṛaha (S), Rājagaha (P), dịch nghĩa là thành Vương Xá. Đây là kinh đô của Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), một trung tâm văn hoá ở Ấn Độ thời Phật tại thế. Nay là một thị trấn nhỏ thuộc bang Bihar. xá-lợi 舍 利 phiên âm của śarīra (S) hoặc sarīra (P), chỉ cho phần còn lại sau khi hoả thiêu thân thể của một Đức Phật hay một vị Bồ-tát, Thánh tăng.

Xá-lợi-phất 舍 利 弗 phiên âm của Śāriputra (S) hoặc Sāriputta (P). Tên của vị đại đệ tử của Đức Phật có trí tuệ đệ nhất, được Đức Phật ban cho danh hiệu "Tướng quân chánh pháp." xa-ma-tha 奢 摩 他 phiên âm của śamatha (S) hoặc samatha (P), dịch nghĩa là "thiền chỉ" hay "chỉ", nghĩa là pháp môn thiền có công năng làm dừng lại các vọng động của tâm thức.

Xá-vệ 舍 衛 phiên âm của Śrāvastī (S), Savatthi (P). Xá-vệ là thủ đô của nước Kośalā (S), một trong sáu trung tâm học thuật, văn hoá mạnh nhất thời Đức Phật. xiển-đề viết đủ là Nhất-xiển-đề 一 闡 提 phiên âm của icchantika hoặc ecchantika (S), chỉ cho người không có niềm tin vào Tam Bảo và nhân quả báo ứng, làm quá nhiều tội ác, như phạm vào năm đại tội ngũ nghịch. xúc chỉ cho sự tiếp xúc của 6 căn với 6 trần. Khi con mắt vừa nhìn trần cảnh, liền nảy sinh sự phân biệt trần cảnh đó là gì, cái đó gọi là xúc. Tương tự, tai mũi lưỡi thân cũng vậy. Còn ý căn khi vừa suy tưởng đến vấn đề nào thì tự nhiên đối tượng đó hiện rõ trong tâm để bắt đầu suy nghĩ.

Phụ Lục 3: VỀ MỘT BỘ KINH THÁNH PHẬT GIÁO

I. Nhu cầu của một bộ kinh thánh Phật giáo: những dấu hiệu đáng mừng và những điều lo ngại

Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có kinh thánh riêng và được sử dụng thống nhất trên toàn thế giới. Riêng Phật giáo cho đến ngày hôm nay, do vì có nhiều tông phái và hệ phái, với số lượng kinh sách quá phong phú lên đến hàng trăm tập, vẫn chưa có một bộ kinh thánh thống nhất nào cả. Đó là điều mà khi nghĩ đến người Phật tử có tâm huyết phải cảm thấy buồn tủi và đau lòng.

Tại Việt Nam, kể từ khi quý Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Trí Quang, Thích Thanh Từ, Thích Thiện Siêu, Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, thầy Đoàn Trung Còn phiên dịch một số kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa và A-hàm từ chữ Hán ra chữ Việt; Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Giới Nghiêm phiên dịch kinh tạng Nguyên thủy từ chữ Pali, chúng ta tạm có đủ các kinh điển quan trọng của hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông.

Điều đáng mừng nhất là chỉ trong vòng gần 30 năm, toàn bộ 4 bộ Nikaya đầu và vài tập của Tiểu Bộ Kinh đã được Hòa thượng Thích Minh Châu phiên dịch ra tiếng Việt. Các tậpTiểu Bộ Kinh còn lại đang được các thành viên của viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tiếp tục phiên dịch. Các tập luận và Luật tạng Pali cũng đã được cố Hòa thượng Giới Nghiêm và quý sư Nam tông dịch và ấn hành trong những năm gần đây. Như vậy, trên căn bản, ba kho tàng kinh điển Pali đã được dịch ra tiếng Việt và ấn hành. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho việc truyền bá kinh điển Phật giáo bằng tiếng Việt tại nước Việt Nam.

Bên cạnh những điều đáng mừng đó vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Thứ nhất, giá phát hành của các kinh nêu trên quá cao, vượt ngoài khả năng mua của những gia đình Phật tử có mức sống trung bình. Khổ của các kinh chưa được nhất quán và thiếu tiêu chuẩn. Chất lượng giấy in quá kém, kỹ thuật thâu kết không đạt yêu cầu, khó có thể giữ lâu. Cách phân loại của Đại tạng kinh Việt Nam không được rõ ràng, không theo tiêu chuẩn quốc tế, gáy sách không có ghi tên các bộ kinh (chẳng hạn như Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, v.v…) và do đó có thể gây nhiều khó khăn cho người Phật tử trong việc học hỏi và nghiên cứu kinh điển. Văn phong bản dịch của Đại tạng kinh Việt Nam còn quá nặng về ngôn ngữ chữ Hán, khó hiểu đối với quần chúng Phật tử, kể cả những người biết chữ hán. Kế đến, về góc độ nghiên cứu, các kinh điển trong Đại tạng kinh Việt Nam thiếu hẳn phần chú thích (cước chú hay hậu chú), các chỉ mục tham khảo (index) về thuật ngữ, nhân danh, địa danh và tên kinh ở phần cuối của mỗi tập kinh. Đại tạng kinh Việt Nam thiếu hẳn tập tổng mục lục, tập hướng dẫn sử dụng và tự điển tra khảo, đối chiếu các thuật ngữ.

Điều đáng buồn nhất là với nỗ lực của các vị cao tăng và nhân sĩ Phật giáo trong việc phiên dịch, xuất bản các kinh điển Phật giáo bằng tiếng Việt, số lượng người mua và đọc các dịch phẩm ấy thật là ít ỏi và không đáng kể. Theo chúng tôi được biết mỗi kỳ ấn hành của các tập Đại tạng kinh không quá 5000 bản, ấy thế mà có nhiều tập kinh được ấn hành gần 10 năm mà vẫn chưa phát hành hết. Điều đáng nói hơn nữa, cho đến hiện nay hầu hết các chùa và tịnh xá trong các tỉnh thành lớn đều không có một bộ Đại tạng kinh Việt Nam trong thư viện hay tủ sách của chùa mình, nói chi đến các chùa và tự viện ở các tỉnh xa xôi và hẻo lánh, và nhất là các gia đình Phật tử khó khăn về kinh tế. Điều này đã dẫn đến một thực trạng là nhiều Tăng Ni và Phật tử không hề đọc qua đại tạng kinh Việt Nam. Có nhiều Phật tử còn không biết đến Ba tạng kinh điển Phật giáo là gì. Cũng có nhiều người còn không biết đến lịch sử của đức Phật Thích-ca, người đã khai sáng ra đạo Phật. Nhiều người tuy đi chùa lễ Phật tụng kinh nhưng lại không hiểu các giáo pháp căn bản của đức Phật. Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng đau lòng đó, mà một trong các nguyên nhân quan trọng là các kinh điển Phật giáo phần lớn không được dịch ra tiếng Việt. Các nghi thức tụng niệm ở các chùa tại Việt Nam cũng như hải ngoại phần lớn để nguyên âm vận chữ Hán, hoặc nếu được dịch ra tiếng Việt thì văn phong cầu kỳ, khó hiểu và quá nặng chữ Hán. Trong khi đó, đại tạng kinh Việt Nam lại không được phổ biến trong quần chúng, không được đưa vào tụng niệm trong các thời khóa hằng ngày. Dần dà kinh điển Phật giáo chỉ được cất giữ trong các thư viện cổ kính, mà ít ai quan tâm đọc đến, huống là đem ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Thật là uổng phí biết bao!

Để tạo điều kiện giúp cho quần chúng Phật tử hiểu rõ lời Phật dạy, chúng tôi nghĩ rằng việc thành lập một bộ Kinh Thánh Phật giáo giản lược là rất cần thiết. Một bộ kinh thánh giản lược chỉ cần chứa đựng trong vòng 2500 trang, tóm thâu tất cả những lời dạy cao qúy và căn bản của đức Phật trong hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Bộ kinh thánh này nên được ấn tống rộng rãi, để mỗi chùa và từng gia đình Phật tử đều có và đọc được. Được như vậy thì thông điệp từ bi, trí tuệ và giải thoát của đức Phật sẽ chiếu sáng trên mọi góc đường, trong đời sống, tư duy và hành động của người Việt Nam.

II. Các khó khăn về việc hình thành một bộ kinh thánh Phật giáo

Mặc dù đã và đang có nhiều nỗ lực của các giáo hội, tổ chức và cá nhân Phật giáo trong việc phiên dịch kinh điển Pali và Sanskrit ra tiếng Mẹ đẻ, việc hình thành một bộ kinh thánh Phật giáo cho từng gia đình không phải không gặp nhiều khó khăn. Có những trở ngại mang tính khách quan như sau.

Thứ nhất, Ba kho tàng văn học Phật giáo (Tam tạng kinh điển) được viết bằng hai hệ ngôn ngữ chính: hệ Pali và hệ Sanskrit. Hệ Pali chỉ được phát triển và truyền thừa ở các nước theo Phật giáo Nguyên thủy. Trong khi đó, hệ Sanskrit lại được phát triển ở các nước theo Phật giáo Bắc tông, nhưng lại không còn đủ trọn bộ. Kế đến, kinh điển Đại thừa lại được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó quan trọng nhất là tiếng Tây Tạng và Trung Quốc. Hai thứ tiếng này lại là một trở ngại rất lớn cho người muốn tìm hiểu vì sự khó học, khó nhớ của nó.

Thứ hai là, khác với các kinh thánh của các tôn giáo khác như kinh thánh của Ky-tô giáo hay Ko-ran của Hồi giáo, kinh thánh Phật giáo, dù là hệ Pali, là cả một kho tàng gồm nhiều tập, lên tới nhiều ngàn trang giấy khổ lớn. Riêng Ba kho tàng kinh điển Pali thôi cũng đã lên tới gần 60 đầu sách. Mỗi quyển chứa trung bình từ 250 đến 400 trang. Kinh điển Đại thừa lại còn nhiều hơn nữa. Chính vì thế, việc ấn hành một bộ kinh thánh Phật giáo khó được thực hiện.

Hơn thế nữa, do "ngôn ngữ tự điển" của các bản dịch, kinh điển Phật giáo chỉ trở nên quen thuộc trong giới học giả. Giới quần chúng thông thường lại không có cơ hội để tiếp xúc với kinh điển.

Đó là chưa nói đến các khó khăn về tài chánh in ấn và phổ biến. Các trở ngại này đã làm cho kinh điển Phật giáo trở thành các thư viện nghiên cứu của một số đối tượng, thay vì là của toàn thể quần chúng, từ bình dân đến trí thức. Tuy nhiên các khó khăn đó không phải là không thể khắc phục được, nếu chúng ta nhìn vấn đề từ góc độ duyên khởi: cái này có do cái kia có; cái này không có kéo theo cái kia không có. Do đó, nếu chúng ta tăng cường các trợ duyên, phương tiện và nỗ lực chất xám của nhiều người thì công việc trên sẽ có thể có một lối mở thích đáng.

III. Nội dung cần có của một bộ kinh thánh Phật giáo

Vì đạo Phật có 2 hai nhánh chính là Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa nên tuyển tập kinh thánh Phật giáo nên chứa đựng cả 2 nguồn kinh điển tiêu biểu của hai tông phái chính. Trên tinh thần đó, nên có 2 tuyển tập kinh thánh Phật giáo: một tuyển tập của kinh điển hệ Pali Nguyên thủy và một tuyển tập của hệ Sanskrit Đại thừa.

Đối với tuyển tập kinh thánh Nguyên thủy

1. Tạng giới luật nên được tỉnh lược tối đa. Chỉ nên giữ lại phần cốt lõi Đại Phẩm (Mahāvagga) và Tiểu Phẩm (Cullāvagga). Các phần còn lại của tạng Luật không nên giới thiệu trong tuyển tập kinh thánh. Bởi lẽ các phần đó liên hệ thuần túy đến các điều khoản, cách trị phạt, hệ thống tổ chức đời sống cộng đồng của người xuất gia; không có lợi ích nhiều cho người Phật tử tại gia. Kế giới giáo pháp của Phật không được chứa tải nhiều trong các phần giới luật này.

2. Không kèm tạng Luận trong tuyển tập kinh thánh. Bởi lẽ, ngôn ngữ của tạng Luận tuy sâu sắc nhưng khó hiểu với cách lý luận, mang phong cách phân tích nặng về triết học ngôn ngữ, nên không cần thiết cho giới Phật tử bình dân. Do đó không cần thiết giới thiệu vào trong bộ kinh thánh Phật giáo.

3. Chỉ tuyển chọn các kinh quan trọng trong 4 bộ Nikāya đầu bao gồm tuyển tập các bài kinh dài (Trường Bộ Kinh), tuyển tập các bài kinh trung bình (Trung Bộ Kinh), tuyển tập các bài kinh theo chủ đề (Tương Ưng Bộ Kinh) và tuyển tập các bài kinh theo pháp số (Tăng Chi Bộ Kinh).

4. Về 15 tuyển tập thuộc Tiểu Bộ Kinh, chỉ nên tuyển chọn các phần tinh hoa trong 5 bộ đầu. Riêng Kinh Pháp Cú thì nên giữ nguyên toàn bộ 423 bài kệ, vì tính cô đọng và bao quát giáo pháp Phật của nó. Mười bộ từ thứ sáu trở đi nên được tỉnh lược.

Như vậy với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Nguyên thủy sẽ chiếm khoảng 1000 trang giấy, rất tiện lợi cho việc mang đi đây đó, thọ trì, đọc tụng và phổ biến.

Đối với tuyển tập kinh thánh Đại thừa

1. Về giới Bồ-tát, chỉ giới thiệu phần nội dung của 10 giới nặng và 48 giới nhẹ. Tỉnh lược toàn bộ phần dẫn nhập về nhân địa Bồ-tát.

2. Toàn bộ phần Mật tạng và luận tạng nên được tỉnh lược, vì quá nhiều và không cần thiết cho đại đa số quần chúng.

3. Đối với các kinh điển Đại thừa, cũng nên chọn lọc các kinh tiêu biểu mà thôi. Các kinh Đại thừa nên được giới thiệu là: Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Kinh Lăng-già, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Bát-nhã, Kinh Báo Ân Cha Mẹ, Kinh Vu-lan. Riêng Kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật thì giữ trọn vẹn. Không nên giới thiệu các Kinh Dược Sư, Địa Tạng và các kinh thần chú, vì tính chất van xin và cầu nguyện trong các kinh này đã đi ngược lại với tinh thần lời dạy Nguyên thủy của đức Phật.

4. Đối với các kinh Đại thừa vừa nêu trên, cũng nên tuyển chọn các phẩm kinh tiêu biểu chứ không cần giới thiệu toàn bộ các phẩm trong kinh.

Với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Đại thừa sẽ chiếm khoảng 1000 đến 1500 trang giấy.

Như vậy cả hai bộ kinh thánh Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa gộp lại sẽ chiếm khoảng 2000-2500 trang giấy. Nếu in trên giấy mỏng và tốt thì bộ kinh thánh chỉ cần chứa trong 2 tập, tập 1 là kinh thánh Nguyên thủy và tập 2 là kinh thánh Đại thừa. Tuy nhiên cách phân bổ số tập cũng có thể linh động, bằng cách chia đều mỗi tập 500 trang. Như vậy có tất cả là 5 tập, tập 1 và 2 thuộc kinh thánh Nguyên thủy và 3 tập còn lại thuộc kinh thánh Đại thừa. Nếu tính luôn bản nguyên tác Pali và Sanskrit thì số lượng tập của bộ kinh thánh Phật giáo có thể tăng lên gấp đôi.

IV. Phương cách trình bày bộ kinh thánh Phật giáo

1. Cả hai tuyển tập kinh thánh nên được trình bày theo một trật tự từ thấp đến cao, từ Nhân thừa đến Phật thừa. Không nên trình bày theo cấu trúc truyền thống là Kinh Luật Luận, vì hai kho tàng luật luận đã được tỉnh lược khỏi tuyển tập kinh thánh này.

2. Nên đặt lại tựa đề của các bài kinh (trong trường hợp kinh điển Pali), các phẩm kinh (trong trường hợp kinh điển Đại thừa), theo nội dung và chủ đề của chúng. Tuy nhiên phải ghi chú tên nguyên gốc để giúp người đọc có thể đối chiếu khi cần thiết.

3. Đánh số thứ tự lại trật tự của các bài kinh, số đoạn một cách có hệ thống để tiện cho việc tham khảo dọc. Số thứ tự được đánh theo từng bài kinh. Sang bài kinh khác thì số thứ tự được đánh lại từ đầu. Ví dụ đoạn thứ nhất của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 1. Đoạn thứ ba của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 3. Nếu chi tiết hơn, chúng ta có thể đánh dấu số trang cho chúng. Ví dụ nếu đoạn một của kinh thứ nhất đó nằm ở trang 3 thì ta ghi như sau: 1: 1: 3. Tương tự nếu là đoạn thứ 3 của kinh thứ 2 thuộc trang 8 thì ta ghi như sau: 2: 3: 8.

4. Nên đặt chủ đề cho từng ý tưởng chính trong kinh. Các chủ đề chính được đánh dấu bằng một co chữ in lớn (ví dụ co 13) trong khi các ý tưởng nhỏ hay trực thuộc nên được đánh dấu bằng một co chữ in nhỏ hơn (ví dụ 11). Việc đặt chủ đề như trên sẽ giúp cho người đọc có được manh mối để ghi nhớ và suy tư lời Phật dạy trong khi tụng niệm.

5. Đối với các kinh Nguyên thủy, nên tỉnh lược các đoạn trùng lập (vốn chỉ có giá trị trong truyền thống truyền miệng) bằng các ký hiệu mặc ước (ví dụ […]) để ý tứ của mạch văn được cô đọng và rõ ràng hơn. Ngoài ra, việc tỉnh lược này còn giúp tiết kiệm giấy mực hay nói khác hơn giảm bớt kinh phí ấn loát và phát hành.

6. Viết lại một cách ngắn gọn, cô đọng, đầy đủ nghĩa các đoạn mở đầu các bài kinh thành 1 hoặc 2 dòng, thay vì nửa trang giấy như nguyên tác. Miễn sao việc tỉnh lược đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến nội dung chính của kinh là được. Tuy nhiên cũng nên có các ký hiệu cho biết đây là đoạn đã được biên tập ngắn lại.

V. Phương pháp tổ chức biên soạn bộ kinh thánh PG

1. Để bộ kinh thánh Phật giáo được sử dụng thống nhất trên khắp thế giới, ngôn ngữ của kinh thánh này phải được thể hiện qua ba thứ tiếng căn bản là Pali, Sanskrit và tiếng Anh. Nói cách khác công việc biên tập trước nhất phải được tiến hành theo ngôn ngữ gốc của kinh điển. Đối với tuyển tập kinh thánh Nguyên thủy, trước nhất phải được biên tập từ tiếng Pali. Đối với tuyển tập kinh thánh Đại thừa, việc biên tập được thực hiện từ tiếng Sanskrit. Khi ấn bản La-tinh hóa của hai tuyển tập kinh thánh này hoàn tất, chúng ta tiến hành đến việc phiên dịch ra bản tiêu chuẩn tiếng Anh. Các nước Phật giáo trên khắp thế giới có thể tham khảo bản tiếng Anh trong khi phiên dịch hai ấn bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ của mình. Nói dễ hiểu hơn, phần kinh thánh Nguyên thủy được trình bày qua tiếng Pali đã La-tinh hóa, trong khi phần kinh thánh Đại thừa được trình bày qua tiếng Sanskrit, như chính nguyên tác ngôn ngữ của chúng. Ấn bản tiếng Anh đính kèm là bản tham khảo đối chiếu cho các bản dịch ra tiếng mẹ đẻ của các dân tộc trên thế giới. Riêng chúng ta là người Việt Nam, thì bộ kinh thánh Phật giáo bao gồm 2 ấn bản, ấn bản nguyên gốc Pali và Sanskrit và ấn bản tiếng Việt. Ấn bản nguyên gốc để nhằm vào mục đích tra cứu, tham khảo nguyên tác. Ấn bản tiếng Việt là ấn bản chính mà các chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường và các gia đình Phật tử cần phải có ít nhất một bộ trong chùa hay trong nhà mình. Về lâu về dài, mỗi người con Phật dù tại gia hay xuất gia đều có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo đó.

2. Để thực hiện công việc biên tập trên, phải thành lập một Ban biên tập gồm các vị cao tăng, danh tăng, cư sĩ có tâm huyết với Phật pháp và các học giả Phật giáo trên khắp thế giới. Thành viên của Ban biên tập này phải là những người đại diện cho tiếng nói của Phật giáo trong một nước. Do đó các thành viên phải là người được đề cử của Giáo hội Phật giáo trong một nước hay của một tổ chức Phật giáo nào đó hay của các trường Đại học Phật giáo nổi tiếng trên thế giới.

3. Trước nhất, số lượng bài kinh cũng như các kinh của hai truyền thống được tuyển chọn vào bộ kinh thánh Phật giáo phải được thảo luận rộng rãi. Các ý kiến đóng góp của quần chúng Tăng Ni Phật tử trên khắp thế giới phải được tham khảo và nghiên cứu kỹ lưỡng, để hoàn thiện nội dung của bộ kinh thánh Phật giáo. Sau khi thống nhất về các bài kinh được tuyển chọn, Ban biên tập tiến hành công tác biên tập, theo các tiêu chí nêu ở mục IV.

4. Một khi văn bản nguyên tác Pali và Sanskrit đã được biên tập và hệ thống hóa, bản dịch tiếng Anh cần được tiến hành tiếp theo sau. Sau đó, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, để các Ban biên tập và phiên dịch địa phương trong một nước nào đó tiến hành dịch ra tiếng mẹ đẻ của mình, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật, Liên Xô, Miến Điện, Thái, Tích Lan v.v…

5. Văn phong của các bản dịch kinh thánh Phật giáo phải là một loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ của từng dân tộc và quốc gia. Phong cách ngôn ngữ dịch thuật tuy có nhiều loại tùy theo trình độ, sở thích và phong cách riêng của người dịch, có thể chia thành 2 dạng chính: dạng ngôn ngữ tự giải thích và dạng ngôn ngữ tự điển. Dạng thứ nhất là phong cách chuyển ngữ văn bản kinh điển gốc sang tiếng được chuyển ngữ theo một văn phong thuần chất của người bản địa. Nghĩa là tự bản thân các từ ngữ thuật ngữ được diễn tả đã mang tính giải thích rõ ràng. Người đọc kinh điển không cần phải tra cứu các bộ tự điển Phật học để tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Trái lại, dạng thứ hai là dạng sử dụng quá nhiều từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành Phật học, hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Đây là loại văn dịch theo phong cách kinh viện, phải cần đến tự điển mới hiểu được ý nghĩa chứa đựng trong nó. Văn phong của bản dịch của kinh thánh Phật giáo phải là loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ, để giúp cho người Phật tử đọc hiểu dễ dàng và ứng dụng không trở ngại. Rõ ràng để có một văn phong như vậy, Ban biên dịch của từng nước trên thế giới phải cần đến sự nhuận văn của các văn gia và thi sĩ lỗi lạc trong mỗi nước, trước khi bản dịch được đem đi in ấn.

6. Bản dịch từ bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ (hay tiếng địa phương) phải được các hội đồng đại diện của một nước phụ trách. Hội đồng đó có thể bao gồm các tu sĩ, cư sĩ và học giả Phật học lỗi lạc và tinh thông Phật pháp trong một nước.

7. Để bộ kinh thánh Phật giáo này có trong từng tu viện và gia đình Phật tử, Ban biên tập có thể vận động các tổ chức từ thiện Phật giáo trên khắp thế giới ủng hộ phần kinh phí ấn tống bộ kinh thánh Phật giáo. Ngoài ra, các đại diện của một nước cũng nên vận động ấn tống hay phát hành bộ kinh thánh Phật giáo trên tinh thần không lời không lỗ, để bạn đọc Phật giáo có thể mua dễ dàng. Giá ấn bản, nếu không phải ấn tống, nên bằng với giá chi phí ấn loát thực tế. Có như vậy thì mỗi Tăng Ni và gia đình Phật tử đều có thể có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo để đọc tụng và thực hành lời Phật dạy ở mỗi nơi và mọi lúc.

VI. Thay lời kết

Những điều được trình bày bên trên chỉ là nguyện vọng của cá nhân chúng tôi trong việc mong mỏi có một bộ kinh thánh Phật giáo thống nhất trên khắp thế giới. Nguyện vọng tuy chánh đáng nhưng việc thực hiện không phải là chuyện dễ dàng. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng công việc cần thiết này không phải không thực hiện được. Chúng tôi mong sao các nhà lãnh đạo Phật giáo, các nhân văn trí thức Phật giáo trên khắp thế giới lưu tâm nhiều hơn về vấn đề này, để sớm có ngày ngồi lại bên nhau phác thảo công trình biên tập một bộ kinh thánh Phật giáo trong vòng 2500 trang. Những điểm cần thảo luận chi tiết cho công trình này là:

-Những kinh điển nào cần được đưa vào trong bộ kinh thánh Phật giáo.

-Những phần nào nên được tỉnh lược và loại ra khỏi bộ kinh thánh Phật giáo.

-Phong cách trình bày lời Phật dạy một cách có hệ thống, từ thấp đến cao, để giúp cho người đọc dễ nhớ và ứng dụng vào trong cuộc sống.

-Văn phong của bản dịch phải đơn giản, phổ thông và quen thuộc với ngôn ngữ đời sống hằng ngày của từng quốc gia và dân tộc trên thế giới.

Được như vậy, người viết tin chắc rằng lời Phật dạy sẽ được nhiều người biết đến, sự ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống sẽ có nhiều lợi ích hơn, và do đó, cuộc sống con người hôm nay và mai sau sẽ an lạc và hạnh phúc hơn trong ánh sáng chánh pháp của đức Phật.

Phụ Lục 4: CÁC NGÀY LỄ TRONG HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO

(Tính theo ngày Âm lịch)

Tháng giêng

Ngày mùng 1: Ngày Đức Phật Di-lặc đản sanh; ngày tu tập và làm phước của toàn thể Phật tử, theo Bắc tông.

Ngày rằm:-Theo Nam tông, đây là ngày Pháp Bảo (Māghapūjā), kỷ niệm Đức Phật nói Kinh Giải Thoát Giáo (Ovādapāṭimokkha) và là ngày Đức Phật tuyên bố sẽ viên tịch.

-Theo Bắc tông, ngày rằm thượng ngươn này là ngày lễ hội lớn, tu tạo các công đức.

Ngày 22: Tổ Thập Tháp (tức tổ Phước Huệ), Chứng Minh Đạo Sư, Hội Phật giáo Trung Phần, viên tịch.

Ngày 30: Tổ Khánh Anh, Pháp Chủ Tăng-già Việt Nam, nhiệm kỳ 2, viên tịch.

Tháng hai

Ngày mùng 8:-Ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất gia, theo Bắc tông.

-Vía tôn giả A-nan-đa, theo Bắc tông.

Ngày rằm: Ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt, theo Bắc tông.

Ngày 19: Vía Đức Bồ-tát Quán Thế Âm, theo Bắc tông.

Ngày 21: Vía Đức Bồ-tát Phổ Hiền, theo Bắc tông.

Tháng ba

Ngày 16: Vía Đức Bồ-tát Chuẩn-đề, theo Bắc tông.

Tháng tư

Ngày mùng 4: Vía Đức Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.

Ngày mùng 8: Ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đản sanh và ngày lễ tắm Phật, theo Bắc tông.

Ngày rằm: Theo Nam tông, đây là ngày Ðại Lễ Tam Hợp hay còn gọi ngày Phật Bảo (Visākhapūjā), kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni: đản sinh, thành đạo và viên tịch. Từ năm 1956, Phật giáo thế giới chọn ngày này làm ngày tưởng niệm đức Phật giáng sanh.

Ngày 16: Ngày an cư kiết hạ của Tăng Ni, truyền thống Bắc tông.

Ngày 20: Ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 11-6-1963).

Tháng sáu

Ngày rằm:-Theo Nam tông, đây là ngày Đức Phật chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển, và là ngày an cư kiết hạ của chư Tăng, Nam tông.

-Ngày Đại đức Thích Nguyên Hương vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 4-8-1963)

Ngày 19:-Vía Đức Bồ-tát Quán Thế Âm, theo Bắc tông.

-Vía tổ Khánh Hoà, tổ thứ nhất của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam.

Ngày 24: Ngày Đại đức Thích Thanh Tuệ vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 13-8-1963)

Ngày 26: Ngày Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 15-8-1963)

Ngày 27: Ngày Đại đức Thích Tiêu Diêu vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 16-8-1963)

Tháng bảy

Ngày 13: Vía Đức Bồ-tát Đại Thế Chí.

Ngày rằm: Ngày Tự tứ và Mãn hạ của Tăng Ni, cũng là ngày dâng cúng y công đức, và ngày đại lễ Vu-lan-bồn hay còn gọi là ngày báo hiếu công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, theo Bắc tông.

Ngày 30: Vía Đức Bồ-tát Địa Tạng Vương.

Tháng chín

Ngày mùng 2: Ngày Đại đức Thích Quảng Hương vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 5-10-1963).

Ngày 11: Ngày Đại Đức Thích Thiện Mỹ vị pháp thiêu thân (nhằm ngày 27-10-1963).

Ngày rằm: Ngày Mãn hạ và dâng y công Đức (Kathi-na) hay còn gọi là ngày Tăng Bảo, theo Nam tông.

Ngày 19: Vía Đức Bồ-tát Quán Thế Âm, theo Bắc tông.

Ngày 30: Vía Đức Phật Dược Sư.

Tháng mười một

Ngày mùng 1: Tổ Huệ Quang, Pháp Chủ GHPGVN, nhiệm kỳ I, viên tịch.

Ngày 17: Vía Đức Phật A-di-đà, theo Bắc tông.

Tháng chạp

Ngày mùng 8:-Ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo, dưới cội Bồ-đề, theo Bắc tông.

-Tổ Vĩnh Nghiêm, Pháp Chủ Tăng già Bắc Việt, viên tịch.

Ngày rằm: Ngày Hiệp kỵ, tức ngày tưởng niệm các bậc tiền bối đã dày công xây dựng và phát huy đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam.

Ngày 20:-Hoà thượng Thích Thiện Hoa, viện trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, viên tịch.

Phụ Lục 5: CÁC NGÀY ĂN CHAY

(Tính theo ngày Âm lịch)

Hai ngày: 1 và 15.

Bốn ngày: 1, 14, 15 và 30.

Sáu ngày: 8, 14, 15, 23, 29 và 30.

Tám ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24 và 30.

Mười ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.

Một tháng: Tháng giêng / tháng 4 / tháng 7 hay tháng 10.

Ba tháng: Tháng giêng, tháng 7 và tháng 10.

Bốn tháng: Tháng giêng, tháng 4, tháng 7 và tháng 10.

Trường trai: Quanh năm suốt tháng.

Ăn chay là pháp tu nuôi dưỡng lòng từ bi đối với các loài động vật, là phương pháp giữ gìn sức khoẻ và sống thọ. Để việc ăn chay mang lại nhiều lợi ích, người ăn chay phải giữ tâm trong sạch, tránh điều tội ác, làm việc nhân từ, thương người mến vật và tu tập các công đức. Được như vậy thì ánh sáng từ bi và trí tuệ của đạo Phật sẽ tỏa sáng khắp nhân loại và chúng sanh.


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][