NGHI THỨC TỤNG NIỆM ĐẠI TOÀN

Hội Đồng Giáo Thọ Đạo Tràng Mai Thôn

Nghi thức

MỤC LỤC

Nghi thức

1. Nghi thức công phu tại gia

2. Nghi thức sám hối

3. Nghi thức chúc tán rằm và mồng một

4. Nghi thức chúc tán tổ sư

5. Nghi thức hộ niệm cầu an

6. Nghi thức cúng ngọ

7. Nghi thức cúng thí thực

8. Nghi thức thọ trai

9. Nghi thức tắm Bụt

10. Nghi thức lễ cài hoa vu lan

11. Nghi thức hôn lễ

12. Nghi thức truyền thọ Ba Quy và Năm Giới

13. Nghi thức truyền thọ 14 Giới Tiếp Hiện

14. Nghi thức tụng 14 Giới Tiếp Hiện

15. Nghi thức tụng giới thiếu nhi

16. Nghi thức tụng Năm giới

17. Nghi thức hộ niệm siêu độ

18. Nghi thức cúng thất

19. Nghi thức tẩy tịnh và nhập liệm

20. Nghi thức thành phục (thọ tang)

21. Nghi thức gia trì nước tịnh


1. Nghi thức công phu tại gia

Nghi thức này có thể được sử dụng hàng ngày tại gia đình, vào buổi khuya trước khi đi ngủ, hoặc buổi sáng khi thức dậy. Ít nhất nên sử dụng mỗi tuần một lần vào thứ bảy hay chủ nhật. Nghi thức này không bắt đầu bằng thiền hành, nhưng nếu ta có thể bắt đầu nghi thức bằng ba mươi phút thiền hành thì rất quý. Đã có nhiều gia đình biết thực tập thiền hành chung mỗi ngày, và rất được an lạc nhờ pháp môn này. Ít nhất mỗi tuần gia đình bạn nên thực tập thiền hành chung một lần, vào dịp cuối tuần. Nếu chưa biết cách thiền hành, xin đọc cuốn Thiền Hành Yếu Chỉ của thiền sư Nhất Hạnh do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành.

1. Thiền Tọa (12 phút)

2. Dâng Hương

Mọi người đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

3. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, mọi người chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

4. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và mọi người lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

5. Trì Tụng

Mọi người ngồi xuống trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi.(C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (ba lần) (CC)

6. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý.(C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

7. Niệm Bụt (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

8. Quán Nguyện

(một người đọc hoặc bốn người thay phiên nhau đọc, mỗi người một đoạn)

Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi. (C)

Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Ngài, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới. (C)

Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài. (C)

Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con. (CC)

9. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

10. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

Chú ý: Các Kinh sau đây có thể được lần lượt tụng đọc để thay thế Tâm Kinh thay vì ngày nào cũng tụng đọc Tâm Kinh: Kinh Thương Yêu (Thứ Hai), Kinh Người Áo Trắng (Thứ Ba), Kinh Phước Đức (Thứ Tư), Kinh Diệt Trừ phiền Giận (Thứ Năm), Kinh Tám Điều Giác Ngộ (Thứ Sáu), Kinh Soi Gương (Thứ Bảy), Kinh Người Biết Sống Một Mình (Chủ Nhật). Hành giả có thể thỉnh thoảng thay thế các kinh trên bằng các kinh khác như Kinh A Di Đà, Kinh Người Bắt Rắn, Kinh Tuổi Trẻ Và Hạnh Phúc, Kinh Hải Đảo Tự Thân, Kinh Người Biết Sống Một Mình, v.v..., tùy theo nhu yếu thực tập của mình và của gia đình mình.

2. Nghi thức sám hối

Nghi thức sám hối có thể trì tụng mỗi nửa tháng hoặc mỗi tháng một lần. Bài Sám Nguyện là một tấm gương để chúng ta tự soi, và kết quả của sự tự soi này là ta thấy được những vụng về do nếp sống thiếu chánh niệm hàng ngày của ta tạo ra, do đó ta có thể chuyển đổi cách nhìn và cách tiếp xử của ta trong đời sống hàng ngày để phẩm chất an lạc và hạnh phúc được nâng cao.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (ba lần) (CC)

7. Sám Nguyện

Trang nghiêm đài sen ngự tọa

Đại hùng từ phụ Thích Ca

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Bàn tay chắp thành liên hoa

Cung kính hướng về Điều ngự

Dâng lời sám nguyện thiết tha.(C)

Đệ tử phước duyên thiếu kém

Sống trong thất niệm lâu dài

Không được sớm gặp chánh pháp

Bao nhiêu phiền lụy đã gây

Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại

Vô minh che lấp tháng ngày

Vườn tâm gieo hạt giống xấu

Tham, sân, tự ái dẫy đầy

Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng

Gây nên từ trước đến nay

Những điều đã làm, đã nói

Thường gây đổ vỡ hàng ngày.

Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng

Nguyện xin sám hối từ đây. (C)

Đệ tử thấy mình nông nổi

Con đường chánh niệm lãng xao

Chất chứa vô minh phiền não

Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Có lúc tâm tư buồn chán

Mang đầy dằn vặt lo âu,

Vì không hiểu được kẻ khác

Cho nên hờn giận, oán cừu;

Lý luận xong rồi trách móc

Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau

Chia cách hố kia càng rộng

Có ngày không nói với nhau

Cũng không muốn nhìn thấy mặt

Gây nên nội kết dài lâu;

Nay con hướng về Tam Bảo

Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

Đệ tử biết trong tâm thức

Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:

Hạt giống thương yêu, hiểu biết

Và bao hạt giống an vui.

Nhưng vì chưa biết tưới tẩm

Hạt lành không mọc tốt tươi

Cứ để khổ đau tràn lấp

Làm cho đen tối cuộc đời

Quen lối bỏ hình bắt bóng

Đuổi theo hạnh phúc xa vời

Tâm cứ bận về quá khứ

Hoặc lo rong ruổi tương lai

Quanh quẩn trong vòng buồn giận

Xem thường bảo vật trong tay

Dày đạp lên trên hạnh phúc

Tháng năm sầu khổ miệt mài;

Giờ đây trầm xông bảo điện

Con nguyền sám hối đổi thay. (C)

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng

Hướng về chư Bụt mười phương

Cùng với các vị Bồ Tát

Thanh văn, Duyên giác, thánh hiền

Chí thành cầu xin sám hối

Bao nhiêu lầm lỡ triền miên

Xin lấy cam lồ tịnh thủy

Tưới lên dập tắt não phiền

Xin lấy con thuyền chánh pháp

Đưa con vượt nẻo oan khiên

Xin nguyện sống đời tỉnh thức

Học theo đạo lý chân truyền

Thực tập nụ cười hơi thở

Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (C)

Đệ tử xin nguyền trở lại

Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Vườn tâm ươm hạt giống tốt

Vun trồng hiểu biết, thương yêu.

Xin nguyện học phép quán chiếu

Tập nhìn tập hiểu thật sâu

Thấy được tự tánh các pháp

Thoát ngoài sinh tử trần lao

Nguyện học nói lời ái ngữ

Thương yêu, chăm sóc sớm chiều

Đem nguồn vui tới mọi nẻo

Giúp người vơi nỗi sầu đau

Đền đáp công ơn cha mẹ

Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.

Tín thành tâm hương một nén

Đài sen con nguyện hồi đầu

Nguyện đức từ bi che chở

Trên con đường đạo nhiệm mầu

Nguyện xin chuyên cần tu tập

Vuông tròn đạo quả về sau. (CC)

8. Lạy Sám Hối

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Tỳ Bà Thi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Thi Khí (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Tỳ Xá Phù (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Câu Lưu Tôn (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Câu Na Hàm Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bụt Thích Ca Văn (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di. (CC)

9. Trì Chú Diệt Tội (ba lần)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

10. Kệ Sám Hối

Con đã gây ra bao lầm lỡ

Khi nói, khi làm, khi tư duy

Đam mê, hờn giận và ngu si

Nay con cúi đầu xin sám hối

Một lòng con cầu Bụt chứng tri

Bắt đầu hôm nay nguyền làm mới

Nguyền sống đêm ngày trong chánh niệm

Nguyền không lặp lại lỗi lầm xưa.

Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối. (ba lần) (C)

Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong. (C)

11. Tùy Hỷ Hồi Hướng

Các đức Thế Tôn

Thường trú trên đời

Xin thương xót con:

Vì ngay trong kiếp này

Và những kiếp xa xưa

Từ đời vô thỉ

Con đã từng lầm lẫn

Đã gây khổ đau

Cho chính bản thân

Và cho kẻ khác.

Tự mình gây ra lầm lỗi

Hoặc xúi người khác

Làm nên lầm lỗi

Hoặc tán đồng theo

Giết hại, trộm cắp

Dối trá, tà dâm

Với những tà nghiệp khác

Trong mười nghiệp bất thiện

Hoặc có che dấu

Hoặc không che dấu

Những tội lỗi ấy

Đưa về địa ngục

Ngạ quỷ, súc sinh

Làm cho kiếp sau

Sinh nơi biên địa

Sáu căn khiếm khuyết

Không có điều kiện

Lớn lên thành người

Những tội chướng ấy

Hôm nay con nguyền nhất tâm

Cầu xin sám hối.

Xin chư Bụt Thế Tôn

Chứng biết cho con

Thương tưởng đến con

Con phủ phục trước mặt các ngài

Phát lời nguyện rằng:

Nếu trong vô lượng kiếp xa xưa,

Cũng như trong đời này

Nếu con đã từng bố thí

Dù chỉ một nắm cơm

Hoặc một manh áo,

Nếu con đã từng nói lời ái ngữ

Dù chỉ một vài câu,

Nếu con đã từng biết nhìn với con mắt từ bi

Dù chỉ trong chốc lát,

Nếu con đã từng có cử chỉ an ủi vỗ về

Dù chỉ một vài lần,

Nếu con đã từng lắng nghe diệu pháp

Dù chỉ một buổi,

Nếu con đã từng cúng dường trai tăng

Dù chỉ một lần,

Nếu con đã từng cứu mạng chúng sanh

Dù chỉ là vài con sâu con kiến,

Nếu con đã từng tụng đọc kinh văn

Dù chỉ một vài câu,

Nếu con đã từng xuất gia

Dù chỉ trong một kiếp,

Nếu con đã từng nâng đỡ kẻ khác trên đường tu học

Dù chỉ giúp được vài người,

Nếu con đã từng tu tập tịnh giới

Dù chưa được hoàn toàn thanh tịnh,

Tất cả những công đức ấy

Đều là những thiện căn con đã gieo trồng

Hôm nay xin gồm thâu tất cả lại

Kính dâng lên chư Bụt

Như một tràng hoa ngát hương

Và xin hồi hướng tất cả các công đức ấy

Về quả vị Bồ Đề. (C)

Con xin mở lòng rộng lớn

Hướng về Vô Thượng Chánh Giác,

Nguyện đạt tới hiểu biết lớn

Nguyện thành tựu thương yêu sâu

Nguyện tu tập chuyên cần

Chuyển hóa khổ đau

Cho con và cho tất cả mọi loài

Tất cả mọi động tác của thân miệng ý

Đều xin hướng về

Làm hạnh phúc cho mọi người mọi loài.

Đó là ước mong sâu sắc nhất của con

Ngoài tâm Bồ Đề

Ngoài khao khát hiểu biết lớn

Ngoài nguyện ước thương yêu sâu

Con không còn ước mong nào nữa cả. (C)

Chư Bụt trong mười phương và ba đời

Đều đã từng hồi hướng như thế

Hôm nay con cũng xin hồi hướng như thế.

Bao nhiêu lầm lỗi đều xin sám hối

Bao nhiêu công đức đều xin tùy hỉ

Biển công đức vô lượng

Cũng là núi trí tuệ cao vòi vọi

Chư Bụt và thầy tổ

Là ánh sáng soi chiếu cho con

Trong giờ phút trang nghiêm

Xin đem thân mạng này

Quay về và đảnh lễ. (CC)

12. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

13. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

3. Nghi thức chúc tán rằm và mồng một

Nghi thức chúc tán được thực tập mỗi tháng hai lần vào các ngày rằm và mồng một trong giờ công phu sáng và vào sáng mồng một Tết. Bắt đầu nghi thức vị chủ lễ xướng bài dâng hương hoặc cử bài ấy lên để đại chúng cùng hòa theo trong điệu tán truyền thống của thiền môn. Rồi vị chủ lễ quỳ xuống trước Tam Bảo thay đại chúng xướng bài chúc tán theo điệu xướng truyền thống. Tiếp theo là công phu hàng ngày của thiền môn. Nếu thực tập tại nhà thì bạn sử dụng nghi thức này.

Sau mục Quán Nguyện, tất cả mọi người đứng dậy lạy thù ân. Đây là một phần đặc biệt của nghi thức chúc tán. Chúng ta lạy để biểu lộ niềm biết ơn của chúng ta với Bụt, tổ, cha mẹ, thầy, bạn và mọi loài. Nghi thức này đem lại cho ta nhiều niềm vui và tưới tẩm được những hạt giống ân nghĩa và thương yêu trong ta.

1. Dâng Hương

Lò báu đốt danh hương

Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương

Tâm bồ đề dũng liệt phi thường

Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang

Khắp chốn an định tỏ tường

Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

2. Chúc Tán (Vị chủ lễ quỳ)

Bậc Đại Giác viên mãn

Xuất hiện nơi cõi Ta Bà

Tấm lòng ôm trọn cả thái hư

Trí giác soi cùng đại thiên thế giới

Xin rủ lòng từ, xót thương minh chứng: (C)

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt

Lại như mặt nhật phóng quang minh

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương

Hỷ xả từ bi đều thấm nhuận. (C)

Thế Tôn đức tướng vô tận không thể tán dương

Chúng con ở đạo tràng........

Nhân ngày.......

Tập họp bốn chúng

Đi lên bảo điện

Thiền tọa công phu

Phúng tụng kinh văn

Xưng dương hạnh đức của Bụt

Trì niệm hồng danh

Xin nguyện chúc lên: (C)

Nguyện chúc đạo Bụt sáng thêm

Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng

Gió hòa mưa thuận

Đất nước bình an

Khắp nơi thành thị nông thôn

Mọi giới biết noi theo đường tu tập

Thiên nhiên được bảo vệ an lành

Xã hội hưởng tự do bình đẳng

Lại nguyện:

Xin thổi ngọn gió từ bi thanh lương vào thế gian nóng bức

Đem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u

Khắp nơi đạo giải thoát được tuyên dương

Mưa pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc

Hiện tiền đại chúng

Tu tập tinh chuyên

Biết thương yêu nhau như ruột thịt

Chuyển hóa nội tâm

Trang nghiêm tịnh độ

Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại

Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. (CC)

3. Kệ Mở Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi Svaha (ba lần) (CC)

4. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

5. Niệm Bụt (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm. (CC)

6. Quán Nguyện

(một người đọc hoặc bốn người thay phiên nhau đọc, mỗi người một đoạn)

Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi. (C)

Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Ngài, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới. (C)

Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài. (C)

Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể được trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con. (C)

7. Lạy Báo Ân

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam (C)

Nhất tâm kính lễ người khai sáng thiền tông Việt Nam Sư Tổ Tăng Hội (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Đạt Ma Đề Bà (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Vô Ngôn Thông (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Thảo Đường (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Trúc Lâm Điều Ngự (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Thật Diệu Liễu Quán. (C)

Đệ tử nhớ ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)

8. Quay về nương tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.(C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

9. Hồi Hướng

Chúc tán pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

4. Nghi thức chúc tán tổ sư

Nghi Thức Chúc Tán này được sử dụng trong những ngày kỵ giỗ các vị tổ sư khai sáng môn phái hoặc các vị tổ sư khai sơn và thừa kế truyền đăng của đạo tràng mình đang cư trú và hành đạo.

Mỗi đạo tràng nên đưa vào nghi thức pháp hiệu của các vị tổ sư liên hệ trực tiếp đến công trình khai sơn và hoằng hóa tại chùa mình.

1. Dâng Hương

Lò báu đốt danh hương

Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương

Tâm bồ đề dũng liệt phi thường

Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang

Khắp chốn an định tỏ tường

Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

2. Chúc Tán

Một đóa hiện linh thoại

Năm cánh tỏa kỳ hương

Pháp tạng trao truyền từ Tây Vức

Tâm tông nối tiếp ở Đông Phương

Xin các thế hệ cao tăng

Trong niết bàn diệu tâm

Cao tọa pháp bảo đàn

Với tuệ giác siêu trần

Đưa mắt nhìn xuống đàn cháu con

Đem lòng thương chứng giám:

Các thế hệ tổ sư đã mở rộng con đường thảnh thơi và vững chãi

Làm khuôn thước và suối nguồn cho các thế hệ tương lai

Chúng con đây là tăng thân chùa ____

Quận ___ tỉnh ____, nước Việt Nam

Hôm nay ngày kỷ niệm Sư Tổ ___

Tập họp bốn chúng

Đi lên tổ đường và bảo điện

Thiền tọa công phu

Phúng tụng kinh văn

Xưng dương công hạnh của liệt vị tổ sư

Đem hết tâm thành kính ngưỡng

Mong tỏ lộ được niềm biết ơn thầm kín của chúng con.

Chúng con kính lạy các vị

Bồ Tát tổ sư

Tây Phương và Đông Độ

Hòa thượng khai sơn bổn tự

Tất cả các thế hệ cao tăng đi trước

Đã khai đường mở lối cho đàn hậu tiến chúng con

Xin nguyện nỗ lực tiến tu

Chuyển hóa phiền não

Nuôi dưỡng bồ đề

Làm cho tông phong mãi mãi được chấn chỉnh

Tổ ấn càng ngày càng rạng rỡ quang huy,

Hoa giác ngộ nở khắp trong thiền lâm

Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa

Đệ tử chúng con nhớ ơn huấn giáo của liệt vị tổ sư

Nguyền chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau

Thương yêu nhau như con một nhà

Cho tăng thân lớn mạnh

Cho hạnh phúc vững bền

Làm chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương

Nguyền noi gương các bậc tổ sư như Ca Diếp, A Nan, Long Thọ,

Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Nghĩa Huyền, Liễu Quán

Cùng các bậc long tượng trong sơn môn

Các bậc có tâm chí đại hành Các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. (CC)

3. Kệ Mở Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (ba lần) (CC)

4. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

5. Niệm Bụt (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (C)

6. Quán Nguyện (nên thay phiên nhau đọc, mỗi người một đoạn)

Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi. (C)

Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới.(C)

Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài. (C)

Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể được trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con. (C)

7. Lạy Báo Ân

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam (C)

Nhất tâm kính lễ người khai sáng thiền tông Việt Nam Sư Tổ Tăng Hội (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Đạt Ma Đề Bà (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Vô Ngôn Thông (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Thảo Đường (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Trúc Lâm Điều Ngự (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Tử Dung Minh Hoằng (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Hoán Bích Nguyên Thiều (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Thật Diệu Liễu Quán (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Tánh Thiên Nhất Định (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Hải Thiệu Cương Kỷ (C)

Nhất tâm kính lễ Sư Tổ Thanh Quý Chân Thật (C)

Nhất tâm kính lễ Hòa Thượng Đường Đầu Truyền Giới (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Sư Phó Pháp Truyền Đăng (C)

Nhất tâm kính lễ Bổn Sư Thế Độ (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Sư Yết Ma A Xà Lê (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Sư Giáo Thọ A Xà Lê (C)

Nhất tâm kính lễ Bảy Vị Tôn Sư Tôn Chứng (C)

Nhất tâm kính lễ các vị Tôn Sư Dẫn Thỉnh (C)

Nhất tâm kính lễ các vị Tôn Sư trong sơn môn thiền lâm. (C)

Đệ tử nhớ ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Đệ tử nhớ ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ

Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)

8. Lời Khấn Bạch

Chúng con, tăng thân xuất gia và tại gia, hôm nay vào ngày giỗ sư tổ _______đã tập họp tại chùa (_____ thôn ___ xã ___ quận ___ tỉnh ___ nước Việt Nam), kính cẩn trình diện trước tổ đường với tất cả lòng dạ chí thành của chúng con, cúi xin các thế hệ tổ sư của chúng con từ bi chứng giám:

Chúng con ý thức được cây có cội, nước có nguồn; chúng con biết Bụt và các thế hệ tổ sư là cội nguồn của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị. Chúng con nguyện tiếp nhận tuệ giác, từ bi và an lạc mà Bụt và chư tổ đã trao truyền; nguyện nắm giữ và bồi đắp không ngừng gia tài tâm linh quý giá ấy. Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của liệt vị, nguyện chuyển hóa những khổ đau trong chúng con, giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ và mở ra cho các thế hệ tương lai những pháp môn thích hợp có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng được vào trong mọi lãnh vực của sự sống. Chúng con nguyện thực tập để sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại, để nuôi dưỡng chất liệu vững chãi và thảnh thơi trong chúng con và để giúp được những người chung quanh.

Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh, bởi vì chúng con biết rằng tất cả chúng con đều là con cháu của liệt vị. Chúng con nguyện sẽ chăm sóc cho nhau, thấy được những khó khăn và khổ đau của nhau để hiểu, để thương và để giúp nhau trong công trình chuyển hóa. Chúng con xin hứa sẽ tập sử dụng các hạnh ái ngữ và lắng nghe để nuôi dưỡng tình huynh đệ trong tăng thân, nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân để nhận diện những khả năng cũng như những yếu kém của mình mà vun trồng hoặc chuyển hóa, nguyện xóa bỏ mọi hiềm hận để có thể nương vào nhau mà đi trên con đường thành tựu đạo nghiệp. Chúng con biết chỉ khi nào chúng con làm được như thế thì chúng con mới xứng đáng là con cháu của Bụt và của liệt vị tổ sư.

Chúng con cúi xin Sư Tổ cùng tất cả liệt vị tổ sư từ bi chứng minh cho tâm thành kính và hiếu thảo của chúng con như phẩm vật quý giá nhất của sự cúng dường trong ngày giỗ tổ. (lạy ba lạy)

9. Tán Dương

Nâng hoa ngộ chỉ

Nối gót tôn sư

Lâu dài pháp nhiệm diễn chân thừa

Thiền đạo nhiếp tâm tu

Hiện pháp lạc cư

Chánh pháp sáng hơn xưa

Nam mô liệt vị Bồ Tát tổ sư qua các triều đại (C)

10. Quay về nương tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

11. Hồi Hướng

Chúc tán pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

(Trong phần 7 Xin thêm vào đây danh hiệu của các vị tổ sư của đạo tràng trong ấy mình đang cư trú và hành đạo.)

5. Nghi thức hộ niệm cầu an

Nghi thức này được sử dụng để đem lại sự an lành và vô úy cho những người đang bệnh hoặc gặp điều bất an trong cuộc sống và cho thân nhân của những người ấy.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Nguyện khói hương thơm này

Cung thỉnh được Thế Tôn

Có mặt với chúng con

Nơi đạo tràng ở đây

Trong giây phút hiện tại.

Nguyện khói hương thơm này

Tỏa ngát cả mười phương

Thanh tịnh chốn đạo tràng

Giúp chúng con duy trì

Chánh kiến chánh tư duy.

Nguyện khói hương thơm này

Bảo hộ cho chúng con

Vững chãi và thảnh thơi

Hiểu nhau và thương nhau

Bây giờ và mãi mãi.

Hương Giới, Định và Tuệ

Là tâm hương nhiệm mầu

Chúng con kính dâng lên

Chư Bụt và Bồ Tát

Trong thế giới mười phương

Nguyện mọi loài chúng sanh

Thấy được ánh đạo vàng

Ly khai nẻo sanh tử

Hướng về nẻo bồ đề

Giải thoát mọi khổ đau

Thường trú trong an lạc.

Nam mô Đức Bồ Tát Cúng Dường Hương. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Khai Kinh

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

7. Trì Tụng (đồng tụng)

Nam mô Bụt, Bồ Tát và Thánh Tăng trên hội Pháp Hoa. (ba lần) (C)

Kinh Sức Mạnh Quan Âm (C)

"Thế Tôn muôn vẻ đẹp

Con xin hỏi lại Người

Bồ Tát kia vì sao

Tên là Quan Thế Âm?"

Bậc diệu tướng từ tôn

Trả lời Vô Tận Ý:

"Vì hạnh nguyện Quan Âm

Đáp ứng được muôn nơi.

"Lời thề rộng như biển

Vô lượng kiếp qua rồi

Đã theo ngàn muôn Bụt

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

"Ai nghe danh, thấy hình

Mà tâm sanh chánh niệm

Thì thoát khổ mọi cõi

Đây nói sơ lược thôi.

"Nếu có ai ác ý

Xô vào hầm lửa lớn

Niệm sức mạnh Quan Âm

Hầm lửa biến hồ sen.

"Đang trôi giạt đại dương

Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá

Niệm sức mạnh Quan Âm

Sóng gió không nhận chìm.

"Đứng chóp núi Tu Di

Bị người ta xô ngã

Niệm sức mạnh Quan Âm

Như mặt trời trên không.

"Bị người dữ đuổi chạy

Rơi xuống núi Kim Cương

Niệm sức mạnh Quan Âm

Không hao một mảy lông.

"Bị oán tặc vây hãm

Cầm đao thương sát hại

Niệm sức mạnh Quan Âm

Oán tặc thấy thương tình.

"Bị khổ nạn vua quan

Sắp sửa bị gia hình

Niệm sức mạnh Quan Âm

Đao kiếm gãy từng khúc.

"Nơi tù ngục xiềng xích

Chân tay bị gông cùm

Niệm sức mạnh Quan Âm

Được tháo gỡ tự do.

"Gặp thuốc độc, trù, ếm

Nguy hại đến thân mình

Niệm sức mạnh Quan Âm

Người gây lại gánh chịu.

"Gặp La Sát hung dữ

Rồng độc và quỷ ác

Niệm sức mạnh Quan Âm

Hết dám làm hại ta.

"Gặp ác thú vây quanh

Nanh vuốt thật hãi hùng

Niệm sức mạnh Quan Âm

Đều vội vàng bỏ chạy.

"Rắn độc và bò cạp

Lửa khói un hơi độc

Niệm sức mạnh Quan Âm

Theo tiếng tự lui về.

"Sấm sét, mây, điện, chớp

Mưa đá tuôn xối xả

Niệm sức mạnh Quan Âm

Đều kịp thời tiêu tán.

"Chúng sanh bị khốn ách

Vô lượng khổ bức thân

Trí lực mầu Quan Âm

Cứu đời muôn vạn cách.

"Trí phương tiện quảng đại

Đầy đủ sức thần thông

Mười phương trong các cõi

Không đâu không hiện thân.

"Những nẻo về xấu ác

Địa ngục, quỷ, súc sinh

Khổ sinh, lão, bệnh, tử

Cũng từ từ dứt sạch.

"Quán Chân, quán Thanh Tịnh

Quán Trí Tuệ rộng lớn

Quán Bi và quán Từ

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.

"Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh

Mặt trời Tuệ phá ám

Điều phục nạn, gió, lửa

Chiếu sáng khắp thế gian.

"Tâm Bi như sấm động

Lòng Từ như mây hiền

Pháp cam lộ mưa xuống

Dập trừ lửa phiền não.

"Nơi án tòa kiện tụng

Chốn quân sự hãi hùng

Niệm sức mạnh Quan Âm

Oán thù đều tiêu tán.

"Tiếng Nhiệm, tiếng Quan Âm

Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều

Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời

Hãy thường nên quán niệm.

"Từng niệm không nghi ngờ

Trong ách nạn khổ chết.

Quan Âm là tịnh thánh

Là nơi cần nương tựa.

"Đầy đủ mọi công đức

Mắt thương nhìn thế gian

Biển Phước chứa vô cùng

Nên ta cần đảnh lễ."

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm. (ba lần) (CC)

8. Khai Thị

Đại chúng tập họp hôm nay để đọc kinh niệm Bụt hộ niệm và cầu an cho (ông, bà) có thân nhân, con cháu và thân hữu của (ông, bà) tham dự trong việc hộ niệm. Xin đại chúng lắng nghe: một tâm niệm an lành được phát khởi có thể soi sáng cho cả thế giới ta bà. Chúng ta đã tập họp hôm nay để thắp sáng tâm niệm an lành trong mỗi chúng ta, bằng thiền tọa, thiền hành, tụng kinh và niệm Bụt để thiết lập cảm ứng và tiếp nhận chất liệu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vô uý làm động lực chuyển hóa tình trạng và đem lại an lành cho sự sống. Sự an lạc của thế giới tùy thuộc vào sự an lạc của chúng ta trong giờ phút này. Xin đại chúng nhất tâm niệm danh hiệu của Bụt và các vị Bồ Tát.

9. Niệm Bụt

(đồng tụng, mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô Bụt Dược Sư Lưu Ly (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

10. Trì Tụng

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh

Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm. (ba lần) (C)

Có câu chân ngôn mầu nhiệm xin đại chúng đồng tâm trì tụng:

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế

Thành tâm đảnh lễ Thất Câu Chi

Chúng con xưng tán Đại Chuẩn Đề

Xin nguyện xót thương và gia hộ

Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, câu chi nẩm, đát điệt tha.

Án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (ba lần) (C)

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở

Bốn loài sinh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Địa.

Nam mô Bồ Tát Siêu Thập Địa. (ba lần) (C)

11. Hướng Về Kính Lạy

Hướng về kính lạy đức Như Lai

Hải đăng chiếu soi biển trần khổ

Xin đức Từ Bi xót thương nhiếp thọ

Chúng con hôm nay khẩn thiết nguyện quay về. (C)

Đệ tử chúng con

Bốn ơn mang nặng

Chưa dịp báo đền

Nhìn ra ba cõi bốn bên

Thấy muôn loài còn chìm trong khổ nạn

Bỗng giật mình kinh hãi

Biết rằng dù đã quay đầu nhìn lại

Vẫn thấy rằng bến Giác còn xa

May thay trong cõi Ta Bà

Đâu cũng có cánh tay đức Từ Bi cứu độ. (C)

Nay chúng con một lòng quay về nương tựa

Nguyền xin làm đệ tử đức Như Lai

Hợp nhất thân tâm

Quỳ dưới Phật đài

Buông hết trần tâm

Một lòng quy kính

Xin tiếp nhận diệu pháp

Tinh chuyên tu tập mỗi ngày

Nuôi giới định lớn lên

Quả Bồ Đề một mai thành tựu

Chúng con cầu hồng ân đêm ngày che chở

Cúi xin Bụt, Pháp và Tăng xót thương. (C)

Chúng con biết rõ

Tự thân nghiệp chướng còn nặng

Phúc đức còn mong manh

Tri giác vẫn thường hay sai lầm

Tuệ căn vẫn còn chưa vững chãi

Tâm nhiễm ô còn dễ phát khởi

Văn tư tu chưa thật sự vững bền

Giờ phút này ngưỡng vọng đài sen

Năm vóc cùng gieo xuống

Mong lượng Từ mở rộng

Chúng con xin trải hết lòng ra.(C)

Đệ tử chúng con

Từ muôn kiếp xa xưa

Vì không nhận diện được bản tâm thanh tịnh

Nên đã chạy theo trần cảnh

Ba nghiệp nhiễm ô

Đắm trong tham ái mê mờ

Ghét ghen hờn giận

Nay nhờ chuông đại hồng khua vang tỉnh mộng

Quyết một lòng làm mới thân tâm

Bao nhiêu tội ác lỡ lầm

Nguyền xin hoàn toàn gột sạch.

Chúng con giờ phút này đây

Lập nguyện sâu dày

Xa lìa tập khí cũ

Suốt đời về nương tựa tăng thân

Xin Bụt đưa cánh tay ân cần Từ bi nâng đỡ.

Nguyện trong khi thiền tập

Nguyện những lúc pháp đàm

Lúc đứng, khi đi

Nấu cơm, rửa bát

Nằm, ngồi, làm việc

Giặt áo, kinh hành

Trì niệm hồng danh

Thắp hương, lạy Bụt

Mỗi bước chân sẽ đem về an lạc

Mỗi nụ cười sẽ tỏa chiếu thảnh thơi

Sống chánh niệm trong mỗi phút giây

Là chỉ dạy cho người

Thấy con đường thoát khổ.

Nguyện thấy được Tịnh Độ

Dưới mỗi bước chân mình

Nguyện tiếp xúc Bản môn

Trong mỗi khi hành xử

Bước trên thật địa

Thở giữa chân không

Thắp lên trí sáng diệu tâm

Màn vô minh quét sạch.

Thân tâm tịnh lạc

Tư thái thong dong

Đến phút lâm chung

Lòng không luyến tiếc

Thân không đau nhức

Ý không hôn mê

Chánh niệm rõ ràng

Tĩnh lặng sáu căn Buông bỏ báo thân

Như vào thiền định.

Nếu cần thọ sinh kiếp khác

Sẽ lại làm đệ tử đức Như Lai

Tiếp theo sự nghiệp cứu đời

Đưa mọi loài về bến Giác

Thành tựu ba thân, bốn trí

Sử dụng năm mắt, sáu thần thông

Hóa hiện ngàn vạn ứng thân

Có mặt một lần trong ba cõi

Ra vào tự tại

Hóa độ mọi loài

Không bỏ một ai

Tất cả đều đưa lên bờ không thối chuyển. (C)

Thế giới vô tận

Chúng sanh vô tận

Nghiệp và phiền não

Đều cũng vô tận

Nguyện con cũng thế

Sẽ là vô tận.

Con nay xin lạy

Bụt phát nguyện

Tu trì công đức

Chia sẻ với muôn loài hữu tình

Để báo được trọn vẹn bốn ơn

Và giáo hóa khắp nơi trong ba cõi

Xin nguyện cùng tất cả mọi loài chúng sanh

Hoàn thành tuệ giác lớn. (CC)

12. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

13. Hồi Hướng

Cầu an pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

6. Nghi thức cúng ngọ

Nghi thức này được sử dụng tại thiền viện để dâng cơm cúng Bụt vào giờ trưa trước khi khai bảng báo giờ ngọ trai của đại chúng. Tại tư gia, vào những ngày rằm hay mồng một hoặc vào những dịp đặc biệt như Nguyên Đán, Trung Nguyên, Cúng Nhà Mới, v.v... ta cũng có thể sử dụng nghi thức này để cúng dường.

1. Dâng Hương

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân thiên. (C)

Hương đốt, khói trầm xông ngát

Kết thành một đóa tường vân

Đệ tử đem lòng thành kính

Cúng dường chư Bụt mười phương

Giới luật chuyên trì nghiêm mật

Công phu thiền định tinh cần

Tuệ giác hiện dần quả báu

Dâng thành một nén tâm hương.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

2. Cúng Dường

Nam mô Bụt thường trú trong mười phương

Nam mô Pháp thường trú trong mười phương

Nam mô Tăng thường trú trong mười phương

Nam mô đức Bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

Nam mô đức Bụt A Di Đà thế giới Cực Lạc

Nam mô các đức Bụt trong mười phương và ba đời

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm

Nam mô đức Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương

Nam mô chư tôn Bồ Tát Thánh Chúng có mặt chốn già lam

Nam mô các đức Bồ Tát, tổ sư qua các thời đại

Nam mô đức Bồ Tát Sứ Giả Giám Trai

Nam mô đức Bồ Tát Minh Vương Thập Điện

Nam mô các đức Bụt và Bồ Tát có mặt trên đạo tràng. (C)

3. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ, đát tha nga đa, phạ rô chỉ đế

Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đát tha nga đá gia, đát điệt tha

Án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô, bạt ra tô rô, ta bà ha. (CC)

4. Kệ Cúng Dường

Sắc hương vị cơm này

Trên cúng dường chư Bụt

Đến các bậc hiền thánh

Rồi các giới lục đạo

Cúng dường không phân biệt

Tất cả đều no đủ

Xin nguyện cho thí giả

Vượt qua bờ bên kia

Ba đức và sáu vị

Cúng dường Bụt và Tăng

Mọi loài trong pháp giới

Cũng đều xin cúng dường. (C)

Án, nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (ba lần) (C)

5. Kệ

Thành tâm hiến cúng toàn cam lộ

Như núi Tu Di chẳng ít hơn

Sắc hương mỹ vị đầy hư không

Xin hãy xót thương mà chấp nhận.

Nam mô đức Bồ Tát Phổ Cúng Dường. (ba lần) (C)

6. Hồi Hướng

Cúng dường pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Vừa cúng Bụt xong

Nguyện cho chúng sanh

Thực hiện đầy đủ

Sự nghiệp giác ngộ. (CCC)

7. Nghi thức cúng thí thực

Nghi thức này là để thí thực cho các giới cô hồn, được sử dụng hàng ngày tại các chùa trong buổi công phu chiều. Trên bàn thờ cô hồn có cháo, gạo, muối và nước trong. Tại tư gia vào chiều ngày rằm tháng bảy, ta cũng có thể tổ chức cúng cô hồn và sử dụng nghi thức này. Trong nghi thức có bài kệ kinh Hoa Nghiêm rất nổi tiếng: "Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo" và rất nhiều bài chân ngôn. Nghi thức này có mầu sắc Mật Tông. Cần có nhiều định lực và tụng không vấp váp thì sự trì tụng và cúng dường mới thành công. Nên tụng thong thả để đừng vấp váp.

1. Niệm Bụt (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Hoa Nghiêm (C)

Nam mô Bồ Tát Diện Nhiên Vương. (C)

2. Kệ Khai Thị

Lửa dữ bừng bừng cháy bốn bên

Cô hồn nóng bức khổ triền miên

Cô hồn nếu muốn sinh Tịnh Độ

Hãy lắng nghe đây kệ Bụt truyền:

"Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu

Chư Bụt có mặt trong ba đời

Người ấy phải quán chiếu pháp giới

Tất cả đều do tâm mà thôi." (C)

3. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chân Ngôn Phá Địa Ngục)

Án, dà ra đế da ta bà ha. (C)

(Chân Ngôn Triệu Thỉnh)

Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa ri đát tha nga đa da. (C)

(Chân Ngôn Mở Oan Kết)

Án, tam đà ra dà đà ta bà ha.(C)

4. Niệm Danh Hiệu

Nam mô Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (C)

Nam mô Bụt thường trú mười phương (C)

Nam mô Pháp thường trú mười phương (C)

Nam mô Tăng thường trú mười phương (C)

Nam mô đức Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Cứu Khổ Minh Dương Địa Tạng Vương (C)

Nam mô đức Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà. (C)

5. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

6. Bốn Lời Nguyện

Phật tử đã tạo ra nghiệp xấu

Cũng vì tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ý phát sinh ra

Tất cả Phật tử đều sám hối. (C)

Mọi loài đã tạo ra nghiệp xấu

Cũng vì tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ý phát sinh ra

Tất cả mọi loài đều sám hối. (C)

Cô hồn đã tạo ra nghiệp xấu

Cũng vì tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ý phát sinh ra

Tất cả cô hồn đều sám hối. (C)

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ

Phiền não vô tận thề nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thề nguyện học

Phật đạo vô thượng thề nguyện thành. (C)

Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ

Tự tánh phiền não thề nguyện đoạn

Tự tánh pháp môn thề nguyện học

Tự tánh Phật đạo thề nguyện thành. (CC)

7. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chân Ngôn Diệt Định Nghiệp)

Án, bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha. (C)

(Chân Ngôn Diệt Nghiệp Chướng)

Án, a lỗ lặc kế ta bà ha. (C)

(Chân Ngôn Mở Rộng Yết Hầu)

Án, bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da. (C)

(Chân Ngôn Diệt Tam Muội Gia Giới)

Án, tam muội da tát đỏa phạn. (C)

(Chân Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế.

Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chân Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. (C)

(Chân Ngôn Nhất Tự Thủy Luân)

Án noan noan noan noan noan. (C)

(Chân Ngôn Biển Sữa)

Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án noan. (CC)

8. Cúng Dường

Nam mô Đa Bảo Như Lai

Nam mô Bảo Thắng Như Lai

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai Nam mô A Di Đà Như Lai. (C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh

Cúng khắp mười phương chúng Phật tử

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng

Công đức đi về cõi vị lai

Tất cả Phật tử cùng tiếp nhận. (C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh

Cúng khắp mười phương cả mọi loài

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng

Công đức đi về cõi vị lai

Tất cả mọi loài cùng tiếp nhận.(C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh

Cúng khắp mười phương chúng cô hồn

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng

Công đức đi về cõi vị lai

Tất cả cô hồn cùng tiếp nhận. (C)

Này các vị Phật tử

Tôi nay xin dâng cúng

Thức ăn biến mười phương

Phật tử đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Phật tử và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (C)

Này tất cả mọi loài

Tôi nay xin dâng cúng

Thức ăn biến mười phương

Mọi loài đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Mọi loài và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (C)

Này các chúng cô hồn

Tôi nay xin dâng cúng

Thức ăn biến mười phương

Cô hồn đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Cô hồn và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (CC)

(Chân Ngôn Thí Vô Già Thực) Án mục lực lăng ta bà ha. (C)

(Chân Ngôn Phổ Cúng Dường)

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc (CC)

9. Kệ Cúng Dường

Phụng hiến cam lồ vị

Phân lượng như thái hư

Xin mọi loài đạt nguyện

Về nương bóng Đại Từ. (C)

10. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành. (CCC)

8. Nghi thức thọ trai

Nghi thức này thường được sử dụng trong mùa an cư vào giờ ngọ trai tại các thiền viện và tại các chùa, nhưng các vị đã thọ Năm Giới và Giới Tiếp Hiện Tại Gia cũng được thực tập trong các khóa thiền tập hoặc trong các ngày hành trì Bát Quan Trai Giới.

1. Mở Bát

Bình bát của Như Lai

Nay được nâng trên tay

Xin nguyện sẽ thực hiện

Phép tam luân không tịch.

2. Nhìn Bát Không

Tay nâng chiếc bát không

Tôi biết rằng trưa nay

Tôi có đủ may mắn

Để có bát cơm đầy.

3. Nâng Bát Đầy

Tay nâng chiếc bát đầy

Tôi thấy cả vạn vật

Đang giang tay góp mặt

Để cùng nuôi dưỡng tôi.

4. Cúng Dường

Cúng dường: Bụt Tỳ Lô Giá Na pháp thân thanh tịnh

Bụt Lô Xá Na báo thân viên mãn

Bụt Thích Ca Mâu Ni hóa thân ngàn trăm ức

Bụt Di Lặc hạ sinh trong tương lai

Bụt A Di Đà cõi nước Cực Lạc

Tất cả chư Bụt trong mười phương và ba đời

Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi

Bồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền

Bồ tát Đại Bi Quan Thế Âm

Bồ tát Đại Lực Đại Thế Chí

Các bậc bồ tát Ma Ha Tát

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

Ba đức sáu vị

Cúng Bụt và Tăng

Tất cả các loài

Trong khắp pháp giới

Đều xin cúng dường

Khi dùng cơm này

Nguyện cho chúng sanh

Hoàn thành sự nghiệp

Trí tuệ giác ngộ. (C)

5. Chú Nguyện Xuất Sanh

(làm ấn cát tường trên chén xuất sanh)

Phép Bụt thật phi thường

Bảy hạt đầy mười phương

Cúng dường khắp pháp giới

Từ bi không biên cương.

Án độ lợi ích tóa ha. (ba lần)

(giữ ấn cát tường viết trên mặt chén chữ A tiếng Phạn, hoặc chữ Không tiếng Hán hay tiếng Việt)

6. Chơn Ngôn (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ, đát tha nga đa, phạ rô chỉ đế

Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha

Án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô, bạt ra tô rô, ta bà ha. (CC)

7. Xuất Sanh

Đại bàng Garuda

Quỷ thần nơi khoáng dã

Mẹ con quỷ la sát

Cam lồ đều no đủ.

Án mục đế tóa ha. (ba lần) (C)

8. Khai Ngũ Quán

Bụt dạy ta khi ăn nên duy trì chánh niệm, để ý tới thức ăn và tăng thân bao quanh mà đừng suy nghĩ vẩn vơ về quá khứ hoặc tương lai. Đại chúng nghe tiếng chuông |Xin nhiếp tâm thực tập năm quán. (C)

9. Kệ Ngũ Quán

Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác.

Xin nguyện sống xứng đáng để thọ dụng thức ăn này.

Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật ăn uống không điều độ. Chỉ xin ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.

Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.

(đồng tụng lớn tiếng:)

Tam bạt ra dà đa. (C)

10. Quán Tưởng

Vạn vật tranh sống

Trên quả đất này

Nguyện cho tất cả

Có bát cơm đầy.

11. Ăn Bốn Thìa Đầu

Thìa thứ nhất, nguyện tìm cách cho vui.

Thìa thứ hai, nguyện giúp người bớt khổ.

Thìa thứ ba, nguyện để lòng hoan hỷ.

Thìa thứ tư, nguyện học hạnh thả buông.

12. Rửa Bát

Thứ nước rửa bát này

Là cam lộ chư thiên

Xin cúng dường quỷ thần

Tất cả đều no đủ.

Án mục lực lăng tóa ha. (ba lần). (C)

13. Ăn Xong

Bát cơm đã vơi

Bụng đã no rồi

Bốn ơn xin nhớ

Nguyện sẽ đền bồi. (C)

14. Chú Chuẩn Đề

Tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (ba lần) (CC)

15. Kệ Hồi Hướng

Hành trì phép bố thí

Thu hoạch nhiều phước đức

Hiến tặng niềm an vui

Mình sẽ được an vui. (C)

Thọ thực vừa xong

Nguyện cho chúng sanh

Thực hiện viên mãn

Sự nghiệp giác ngộ. (CCC)

9. Nghi thức tắm Bụt

Lễ này nên để thiếu nhi tổ chức và trang trí với sự giúp sức của giới phụ huynh. Một cái mái hình cung được đan bằng tre hay đóng bằng những thanh gỗ nhẹ để làm nơi tắm Bụt. Đức Bụt sơ sinh đứng dưới mái vòm ấy, trên một hòn đảo nhỏ đặt giữa một cái hồ con. Bụt sơ sinh có thể là một búp bê trai bằng nhựa, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất. Mái vòm và các cây cột chống được trang trí bằng lá và bằng hoa. Thiếu nhi đi hái lá hoa và cùng nhau trang trí mọi thứ với sự góp ý của người lớn. Hồ đựng nước thơm. Trên bờ hồ có gáo con để múc nước thơm tắm Bụt. Dưới đài có đủ chỗ để đặt hoa và nến. Hoa và nến này do thiếu nhi và người lớn thay phiên nhau dâng lên trước khi được tắm Bụt.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Khai Thị

Hôm nay đại chúng tập họp để mừng ngày Khánh đản và làm lễ tắm Bụt sơ sinh. Đại chúng lắng lòng nghe đây: Cách đây trên 2600 năm, tại thành Ca Tỳ La Vệ, giữa loài người chúng ta và trên trái đất xinh đẹp này, một đức Bụt đã ra đời. Đó là đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một con người như chúng ta, nhưng Ngài đã đưa sự tỉnh thức của Ngài lên đến mức độ cao nhất. Ngài đã trở thành một bậc tỉnh thức toàn vẹn. Ngài là một con người như chúng ta, nhưng Ngài đã phát huy khả năng hiểu biết và thương yêu của Ngài tới mức tột cùng. Ngài là đóa hoa đẹp nhất và quý nhất trong vườn hoa nhân loại. Ngài là một đóa hoa Ưu Bát Đa La, mỗi ba ngàn năm mới nở một lần.

7. Bài Hát Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt

Người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Namo Buddhaya.

Con về nương tựa Pháp

Con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Namo Dharmaya.

Con về nương tựa Tăng

Đoàn thể của những ai nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.

Namo Sanghaya.

Buddham Saranam Gacchami.

Dharmam Saranam Gacchami.

Sangham Saranam Gacchami.

8. Pháp Ngữ

Xưng tán đức Thế Tôn

Bậc vô thượng năng nhân

Từng trải qua vô lượng kiếp tu nhân

Rồi từ cung Đâu Xuất giáng thần

Giã từ ngôi vị quốc vương

Ngồi gốc Bồ Đề đại phá Ma quân

Một sáng sao mai vừa mọc

Đạo lớn viên thành

Rồi đại chuyển Pháp luân. (C)

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm

Đạo vô sinh sẽ chứng

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm

Đạo vô sinh nguyện chứng. (CC)

9. Chúc Tán

Bậc Đại Giác viên mãn xuất hiện nơi cõi Ta Bà

Tấm lòng ôm trọn cả thái hư

Trí giác soi cùng đại thiên thế giới

Xin rủ lòng từ, xót thương minh chứng: (C)

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt

Lại như mặt nhật phóng quang minh

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương

Hỷ xả từ bi đều thấm nhuận. (C)

Thế Tôn đức tướng vô tận không thể tán dương

Chúng con ở đạo tràng ______

Nhân ngày đản Bụt

Tập họp bốn chúng

Đi lên bảo điện

Thiền tọa công phu

Phúng tụng kinh văn

Xưng dương hạnh đức của Bụt

Trì niệm hồng danh

Xin nguyện chúc lên: (C)

Nguyện chúc đạo Bụt sáng thêm

Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng

Gió hòa mưa thuận

Đất nước bình an

Khắp nơi thành thị nông thôn

Mọi giới biết noi theo đường tu tập

Thiên nhiên được bảo vệ an lành

Xã hội hưởng tự do bình đẳng.

Lại nguyện:

Xin thổi ngọn gió từ bi thanh lương vào thế gian nóng bức

Đem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u

Khắp nơi đạo giải thoát được tuyên dương

Mưa pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc

Hiện tiền đại chúng

Tu tập tinh chuyên

Biết thương yêu nhau như ruột thịt

Chuyển hóa nội tâm

Trang nghiêm tịnh độ

Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại

Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. (CC)

10. Kệ Khai Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (ba lần) (CC) (đọc là xóa ha)

11. Kệ Tắm Bụt

Hôm nay được tắm cho Như Lai

Trí tuệ quang minh công đức lớn

Chúng sinh ba cõi đang chìm đắm

Được thấy trần gian hiện pháp thân. (C)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni.

Mặt đẹp như vầng nguyệt

Ba cõi đều tôn xưng

Hàng phục tất cả

Ma, Thiên, Nhân đều nép phục.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

12. Niệm Bụt và Tắm Bụt

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni.

(Niệm thong thả và liên tục, trong khi từng người tiến lên dâng nến và dâng hoa trước Bụt sơ sinh. Vị Duy Na là người đầu tiên dâng nến và dâng hoa, rồi múc nước thơm trong hồ tưới lên tượng Bụt. Sau đó đến thiếu nhi. Thiếu nhi xong rồi mới tới người lớn. Bài hát Quay Về Nương Tựa (mục 7) và bài kệ Tắm Bụt (mục 11) có thể được thỉnh thoảng hát hay tụng lên thay cho tiếng niệm Bụt)

13. Bài Tụng Hạnh Phúc

Chúng con được ngồi đây

Trong phút giây hiện tại

Bao bọc bởi tăng thân

Thấy mình thật may mắn:

Sinh ra được làm người

Con sớm gặp chánh pháp

Hạt Bồ Đề tưới tẩm

Lại có duyên được sống

Hòa hợp trong tăng thân. (C)

Năng lượng của tăng đoàn

Giới luật và uy nghi

Đang bảo hộ cho con

Không để gây lầm lỗi

Không bị nghiệp xấu đẩy

Đi về nẻo tối tăm

Lại được cùng bạn hiền

Đi trên đường chân thiện

Có ánh sáng chiếu soi

Của Bụt và Bồ Tát. (C)

Tuy có mặt trong con

Những hạt giống khổ đau

Phiền não và tập khí

Nhưng chánh niệm hiện tiền

Vẫn thường luôn biểu hiện

Giúp cho con tiếp xúc

Với những gì mầu nhiệm

Có mặt trong tự thân

Và có mặt quanh con. (C)

Sáu căn còn đầy đủ

Mắt thấy được trời xanh

Tai nghe tiếng chim hót

Mũi ngửi thấy hương trầm

Lưỡi nếm được pháp vị

Thế ngồi con vững chãi

Ý hợp nhất với thân

Nếu không có Thế Tôn

Nếu không có Diệu Pháp

Nếu không có Tăng Đoàn

Làm sao con may mắn

Được pháp lạc hôm nay? (C)

Công phu tu tập này

Con cũng xin hành trì

Cho gia đình, dòng họ

Cho thế hệ tương lai

Và cả cho xã hội.

Niềm an lạc của con

Là vốn liếng tu tập

Con xin nguyền vun bón

Tưới tẩm và nuôi dưỡng

Bằng chánh niệm hàng ngày. (C)

Trong xã hội của con

Bao nhiêu người đau khổ

Chìm đắm trong năm dục

Ganh ghét và hận thù.

Thấy được những cảnh ấy

Con quyết tâm hành trì

Điều phục những tâm hành

Tham đắm và giận ghét

Tập khả năng lắng nghe

Và sử dụng ái ngữ

Để thiết lập truyền thông

Tạo nên sự hiểu biết,

Chấp nhận và thương yêu. (C)

Như đức Bồ Tát kia

Con nguyện xin tập nhìn

Mọi người chung quanh con

Bằng con mắt từ bi

Bằng tâm tình hiểu biết

Con xin tập lắng nghe

Bằng lỗ tai xót thương

Bằng tấm lòng lân mẫn

Nhìn và nghe như thế

Là hạnh của Bồ Tát

Có thể làm vơi nhẹ

Khổ đau trong lòng người

Đem lại niềm an lạc

Về cho cả hai phía. (C)

Chúng con ý thức rằng

Chính phiền não si mê

Làm cho thế giới này

Trở thành nơi hỏa ngục.

Nếu tu tập chuyển hóa

Chế tác được hiểu biết

Cảm thông và thương yêu

Chúng con sẽ tạo được

Tịnh Độ ngay nơi này. (C)

Dù cuộc đời vô thường

Dù sinh lão bệnh tử

Đã có đường đi rồi

Con không còn lo sợ. (C)

Hạnh phúc thay được sống

Trong tăng đoàn Thế Tôn

Được hành trì giới định

Sống vững chãi thảnh thơi

Trong từng giây từng phút

Của cuộc sống hàng ngày,

Và trực tiếp tham gia

Vào sự nghiệp độ sinh

Của Bụt và Bồ Tát. (C)

Giờ phút này quý báu

Niềm biết ơn tràn dâng

Xin lạy đức Thế Tôn

Chứng minh và nhiếp thọ. (CC)

14. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

15. Hồi Hướng

Tắm Bụt tâm thanh tịnh

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

10. Nghi thức lễ cài hoa vu lan

Lễ Cài Hoa Vu Lan, cũng như lễ đản Bụt, là một lễ lớn, cần được trần thiết thật đẹp. Hoa hồng, hoa trắng và kim cài được chuẩn bị đầy đủ. Điện Bụt hay hội trường được treo đèn kết hoa. Âm nhạc cúng dường nên dùng những bài cổ nhạc và tân nhạc có tầm vóc và có giá trị tâm linh. Nhạc khí nên dùng độc huyền cầm, đàn tranh, sáo, nhị và những nhạc khí cổ truyền khác.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha.(ba lần) (CC)

7. Âm Nhạc Hòa Tấu Cúng Dường

Cổ nhạc như Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ hay tân nhạc như bài Hải

Triều Âm của Bửu Bác, hay bài Ý Thức Em Mặt Trời Tỏ Rạng của

Nhất Hạnh

8. Khai Thị

Hôm nay đại chúng tập họp để làm lễ Cài Hoa Vu Lan. Xin đại chúng lắng lòng nghe:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Chúng ta quy tụ hôm nay để tưởng nhớ tới ân đức sinh thành, để cầu nguyện cho cha mẹ và để thắp sáng ý thức về tình nghĩa và hạnh phúc.

Trước hết, xin đại chúng nghe đọc đoản văn "Bông Hồng Cài Áo".

9. Đọc Bông Hồng Cài Áo

(Hai giọng, một nam một nữ, nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong đoản văn, từ đầu đến cuối.)

10. Hát Bài Bông Hồng Cài Áo

11. Khai Thị

Xin đại chúng nghe nói về tình cha.

12. Nói Về Tình Cha

(Một hoặc hai người, đã được chuẩn bị trước, nói về tình cha)

13. Âm Nhạc Cúng Dường

(Thiếu niên và thiếu nữ lên trước đài, đồng ca một bài về công cha nghĩa mẹ, như bài Ân Nghĩa Sinh Thành của Dương Thiệu Tước)

14. Cài Hoa

Sáu hoặc tám em thiếu niên và thiếu nữ mặc áo dài Việt Nam tiến ra quỳ trước điện Bụt. Vị chủ lễ tiến lên, quỳ trước các em, chắp tay làm lễ mỗi em và cài hoa cho từng em. Hoa được cài gồm có hai đóa, đóa này cao hơn đóa kia chừng nửa phân. Hoa đóa trên tượng trưng cho cha, hoa đóa dưới tượng trưng cho mẹ. Nếu cha mẹ còn sống cả thì em được cài hai đóa màu hồng. Được cài hoa xong, các em chắp tay và đứng dậy, tiến tới ba bước và lạy trước Tam Bảo để bày tỏ lòng tri ân và để cầu Bụt gia hộ cho cha mẹ, dầu đang còn hay đã khuất. Vị Duy Na nhịp chuông cho các em lạy. Lạy xong, các em đứng dậy để chuẩn bị cài hoa cho đại chúng. Mỗi lần, sáu người từ đại chúng xuất ban, tiến lên và quỳ trước Tam Bảo. Sáu em cài hoa đều phải đến quỳ xuống trước sáu người làm lễ trước khi cài hoa. Có hai em phụ tá nâng khay hoa đứng sau lưng; người mới được cài hoa chắp tay, đứng dậy, tiến lên ba bước và lạy xuống trước Tam Bảo để bày tỏ lòng tri ân và để cầu Bụt gia hộ cho cha mẹ, trước khi trở về chỗ ngồi; trong khi đó, sáu người khác trong đại chúng lại xuất ban ra quỳ trước Tam Bảo. Cứ như thế cho đến khi mọi người đều được cài hoa.

15. Âm Nhạc Cúng Dường

Hòa tấu một bản cổ nhạc như Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, hoặc một bài tân nhạc ca tụng tình cha hoặc tình mẹ.

16. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

17. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

18. Hồi Hướng

Cầu báo ơn sinh dưỡng

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

11. Nghi thức hôn lễ

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Hương đốt khói trầm xông ngát

Kết thành một đóa tường vân

Đệ tử đem lòng thành kính

Cúng dường chư Bụt mười phương

Giới luật chuyên trì nghiêm mật

Công phu thiền định tinh cần

Tuệ giác hiện dần quả báu

Dâng thành một nén tâm hương.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (ba lần) (CC)

7. Khai Thị

Hôm nay đại chúng tập họp để hộ niệm cho lễ thành hôn của các Phật tử ____ và ____ Xin mọi người giữ chánh niệm và theo dõi hơi thở khi nghe tiếng chuông gia trì. (Ba tiếng chuông)

8. Lạy Báo Ân

Các Phật tử _____ và _____ đứng dậy, ra đứng chắp tay trình diện trước Tam Bảo. Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy:

Phật tử mang ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Phật tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Phật tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Phật tử mang ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)

9. Khai Thị

Xin đại chúng lắng lòng nghe. Đây là lúc các Phật tử _____ và _____ phát nguyện sống cuộc sống lứa đôi theo giáo pháp của Bụt. Người Phật tử thấy mình không phải là những cá nhân biệt lập với tổ tiên và dòng họ, mà thấy mình là một sự tiếp nối, đại diện cho tất cả những thế hệ đi trước. Tất cả những hành động và phong độ sinh hoạt của mình trong hàng ngày không phải chỉ để nhằm đến mục đích thỏa mãn những nhu yếu tinh thần và thể chất cho cá nhân mình, mà cũng còn là để thực hiện ước vọng của dân tộc, của giống nòi và của dòng họ, và cũng là để chuẩn bị cho những thế hệ con cháu kế tiếp. Mục đích của cuộc sống lứa đôi là để làm cho tiếp nối dòng sinh mạng của tổ tiên nơi những thế hệ con cháu sau này. Đây là nhiệm vụ chính của mình và cũng là điều mà các đương sự phải tâm niệm mỗi ngày trong từng giây phút.

Quý vị Phật tử! Quý vị hãy theo thầy đọc lên năm lời phát nguyện sau đây, và sau mỗi lời nguyện thì theo tiếng chuông lạy trước Tam Bảo một lạy:

Điều phát nguyện thứ nhất: Chúng con nguyện sống đời sống hàng ngày sao cho xứng đáng với đạo đức của tổ tiên và nòi giống chúng con. (C)

Điều phát nguyện thứ hai: Chúng con nguyện sống đời sống hàng ngày sao cho xứng đáng với kỳ vọng mà tổ tiên và giống nòi đặt nơi mỗi chúng con. (C)

Điều phát nguyện thứ ba: Chúng con nguyện nương vào nhau, xây dựng cho nhau bằng tình thương, sự tin cậy, sự hiểu biết và lòng kiên nhẫn. (C)

Điều phát nguyện thứ tư: Chúng con nguyện thường tự nhắc nhở rằng sự trách móc, sự hờn giận và lý luận chỉ làm hao tổn hòa khí và không giải quyết được gì. Chúng con biết chỉ có sự hiểu biết và lòng tin cậy mới bồi đắp được hạnh phúc và sự an lạc. (C)

Điều phát nguyện thứ năm: Chúng con nguyện trong đời sống hàng ngày dồn hết tâm lực và phương tiện để xây dựng cho thế hệ con cháu của chúng con trong tương lai. (C)

10. Huấn Giáo

Các Phật tử! Trước sự chứng minh của Tam Bảo và đại chúng, quý vị đã được phối hợp thành vợ thành chồng trong năm điều phát nguyện.

Những lời phát nguyện này quý vị phải đem ra cùng nhau đọc tụng vào ngày trăng tròn mỗi tháng trước bàn thờ Tam Bảo. Tam Bảo sẽ gia hộ cho các Phật tử có đủ sáng suốt, có đủ hiểu biết và thương yêu để xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình, làm nền tảng cho sự tiếp nối công trình của tiền nhân và sự xây dựng cho những thế hệ hậu lai. Xin đại chúng chắp tay niệm Bụt theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn để hộ niệm cho cuộc phối hợp này được thành tựu đẹp đẽ và bền vững.

11. Trì Tụng (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

12. Lạy Nhau

Bây giờ đây là lúc hai người mới cưới quay mặt lại với nhau và lạy nhau hai lạy để biểu lộ niềm cung kính đối với nhau. Trong truyền thống nước ta, vợ chồng phải biết kính trọng nhau như những người khách quý (tương kính như tân). Tình yêu và sự cam kết của quý vị được xây dựng trên nền tảng của sự tương kính đó.

13. Trao Nhẫn Và Nói Lời Ước Nguyện

Bây giờ đến lúc hai người mới cưới quỳ lên, trao nhẫn cho nhau và nói với nhau lời nguyện ước, trước sự chứng giám của Tam Bảo.

14. Huấn Giáo Và Chúc Tụng Của Bậc Phụ Huynh

(một vị phụ huynh đại diện ban lời huấn giáo và chúc tụng)

15. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

16. Hồi Hướng

Phát nguyện pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

12. Nghi thức truyền thọ Ba Quy và Năm Giới

(Người chủ lễ nghi thức này là một người có đạo đức được đại chúng kính nể, đang hành trì Giới Khất Sĩ, Giới Nữ Khất Sĩ, Giới Bồ Tát Xuất Gia hay Giới Tiếp Hiện Xuất Gia đã được truyền đăng làm Giáo Thọ hoặc đã được đặc biệt cho phép trao truyền Năm Giới.)

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Lò báu đốt danh hương

Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương

Tâm bồ đề dũng liệt phi thường

Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang

Khắp chốn an định tỏ tường

Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha.

7. Tác Pháp Yết Ma

Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?

Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.

Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?

Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp.

Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?

Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma truyền Năm Giới.

Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe!

Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để truyền thọ Tam Quy và Ngũ Giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng hộ niệm việc truyền thọ quy giới trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc truyền giới là hợp pháp.

Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không?

Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ.

8. Khai Thị

Hôm nay đại chúng tập họp để chứng minh và hộ niệm cho lễ quay về và nương tựa Tam Bảo của các vị...

Xin đại chúng theo dõi hơi thở và an trú trong chánh niệm khi nghe ba tiếng chuông gia trì.

Tiếng chuông là tiếng gọi của Bụt để mọi người trở về trong trạng thái tỉnh thức. (CCC)

9. Lạy Báo Ân

Các vị giới tử có tên sau đây đứng dậy, chắp tay thành búp sen trình diện trước Tam Bảo (đọc tên).

Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy:

Giới tử mang ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Giới tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Giới tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Giới tử mang ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)

10. Truyền Thọ Tam Quy

Hôm nay đại chúng tập họp để chứng minh và hộ niệm cho các vị......... trong lễ phát nguyện thọ trì pháp Quy Y Tam Bảo.

Là người có duyên với đạo, quý vị đã thấy rõ được con đường của tình thương và sự hiểu biết mà tổ tiên chúng ta đã đi theo trong bao nhiêu thế hệ, và hôm nay quý vị đã có chủ ý phát tâm quy y Tam Bảo.

Quy y Tam Bảo là quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp và nơi Tăng. Bụt, Pháp và Tăng là ba viên ngọc quý. Quay về nương tựa nơi Bụt là quay về nương tựa nơi bậc tỉnh thức, có khả năng đưa đường chỉ lối cho ta trong cuộc đời. Quay về nương tựa Pháp là quay về với con đường của trí tuệ và từ bi, nghĩa là con đường của hiểu biết và thương yêu. Quay về nương tựa Tăng là quay về nương tựa nơi đoàn thể của những người đang thực tập theo con đường trí tuệ và từ bi và sống trong tỉnh thức.

Bụt, Pháp và Tăng có mặt trong mười phương thế giới mà cũng có mặt trong mọi người và mọi loài. Quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp và nơi Tăng cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ nơi tự tánh mình, ở khả năng khai mở và phát triển hiểu biết và thương yêu nơi bản thân mình và khả năng thực tập hành đạo của cá nhân và đoàn thể mình.

Xin các vị giới tử cung kính đọc theo đây ba lời phát nguyện lớn:

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. (lặp lại, chuông)

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. (lặp lại, chuông)

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.(lặp lại, chuông)

11. Khai Thị

Quý vị Phật tử! Quý vị đã chính thức tiếp nhận pháp Tam Quy, đưa Ba Viên Ngọc Quý vào lòng và vào đời sống hàng ngày của quý vị.

Hôm nay quý vị đã trở nên những người học trò của bậc Giác Ngộ, và đã nguyện sống theo nếp sống tỉnh thức của Người.

Bắt đầu từ hôm nay, quý vị phải để tâm hàng ngày học hỏi và hành trì theo con đường của trí tuệ và từ bi, nghĩa là để phát triển khả năng hiểu biết và thương yêu nơi quý vị.

Và cũng bắt đầu từ hôm nay, quý vị phải biết nương tựa vào đoàn thể của quý vị để học hỏi và hành trì, tham dự những khóa tĩnh tu, tham dự những buổi đọc tụng quy giới và những sinh hoạt tu học khác của đoàn thể.

Thầy giáo thọ của quý vị là _______ và pháp danh của quý vị là do chính ___________ ban cho. Quý vị phải nương vào thầy của quý vị mà học đạo và tu đạo.

12. Truyền Thọ Năm Giới

Các giới tử! Đây là giây phút long trọng của sự truyền thọ Năm Giới.

Năm Giới là nền tảng cho một cuộc sống có hạnh phúc và có chí hướng vị tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc đời.

Năm Giới là những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ.

Năm Giới là nền tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình và xã hội.

Học hỏi và thực hành theo Năm Giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hòa bình của xã hội.

Đây là giới tướng của Năm Giới.

Xin quý vị lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh. Xin trả lời "dạ có" mỗi khi thấy mình có khả năng tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới luật được tuyên đọc.

Các vị đã sẵn sàng chưa? (trả lời: sẵn sàng)

Đây là Giới Thứ Nhất:

Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.

Đó là Giới Thứ Nhất của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (đáp: "dạ có", chuông).

Đây là Giới Thứ Hai:

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Đó là Giới Thứ Hai của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (đáp: "dạ có", chuông).

Đây là Giới Thứ Ba:

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.

Đó là Giới Thứ Ba của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (đáp: "dạ có", chuông).

Đây là Giới Thứ Tư:

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.

Đó là Giới Thứ Tư của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (đáp: "dạ có", chuông).

Đây là Giới Thứ Năm:

Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.

Đó là Giới Thứ Năm của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (đáp: "dạ có", chuông).

Quý vị Phật tử! Quý vị đã tiếp nhận xong Năm Giới quý báu, nền tảng của hạnh phúc gia đình và chất liệu của chí nguyện lợi tha.

Quý vị phải ôn tụng thường xuyên giới tướng mỗi tháng ít nhất là một lần, để sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng sâu sắc và lớn rộng.

Lễ tụng giới được tổ chức tại chùa, tại thiền đường, niệm phật đường hay tại tư gia, có sự tham dự của những người bạn tu của mình.

Quý vị cũng có thể tổ chức lễ tụng giới trong phạm vi gia đình mình, hoặc nếu sống độc thân xa chùa, xa bạn, thì cũng có thể tụng giới một mình.

Nếu trong vòng ba tháng mà không tụng giới ít nhất là một lần thì quý vị tự động mất giới thể và lễ quy y truyền giới này sẽ mất hiệu lực.

Quý vị Phật tử! Là đệ tử Bụt, quý vị nên tinh tiến tu học theo con đường mà Bụt đã dày công chỉ dạy để tạo an lạc và hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người.

Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn Tam Bảo.

13. Tuyên Đọc Phái Quy Y

Các Phật tử! Xin quý vị lắng tai nghe thầy tuyên đọc phái quy y.

(đọc phái quy y, trong đó có pháp danh của người mới được quy y và của vị bổn sư mình. Đọc xong, phái quy y được trao lại cho đương sự. Giới tử đã quy y ra quỳ trước điện Bụt để nghe đọc phái và nhận phái.)

14. Hộ Niệm

Để hộ niệm cho các Phật tử mới thọ phép quy y được đạo tâm kiên cố và đạo nghiệp tăng trưởng, xin đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn. (mỗi danh hiệu ba lần).

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

15. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

16. Hồi Hướng

Truyền trì giới thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

13. Nghi thức truyền thọ 14 Giới Tiếp Hiện

(Thầy truyền giới Tiếp Hiện hướng dẫn nghi thức này ít nhất phải là một vị Giáo Thọ trong giáo đoàn Tiếp Hiện, được phụ tá ít nhất là bởi ba thành viên Tiếp Hiện thuộc chúng Chủ Trì dòng Tiếp Hiện. Các thành viên của chúng Đồng Sự dòng Tiếp Hiện và các bạn hữu đều được mời dự để hộ niệm.)

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ.

Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau.

Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ.

Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Nên đắc vô thượng giác.

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (CC)

7. Tác Pháp Yết Ma

Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?

Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.

Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?

Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp.

Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?

Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma truyền Mười Bốn Giới Tiếp Hiện.

Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để truyền thọ giới luật Tiếp Hiện, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng hộ niệm việc truyền thọ giới luật trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc truyền giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?

(Đại chúng đáp: Thành.)

8. Lạy Báo Ân

Các vị giới tử có tên sau đây đứng dậy, chắp tay thành búp sen trình diện trước Tam Bảo (đọc tên). Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy:

Giới tử mang ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Giới tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C)

Giới tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.(C)

Giới tử mang ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)

9. Khai Thị

Hôm nay đại chúng tập họp để chứng minh và hộ niệm cho các giới tử ______ trong giờ phút trọng đại của sự phát nguyện thọ trì giới luật Tiếp Hiện để gia nhập vào chúng chủ trì của dòng tu Tiếp Hiện.

Các giới tử, xin nghe đây: Theo gót các bậc Bồ Tát, nhận các bậc Bồ Tát làm thầy và làm bạn đồng hành, khi phát tâm thọ trì giới luật Tiếp Hiện, quý vị long trọng phát tâm bồ đề, lập nguyện bồ đề, lấy sự giác ngộ và giải thoát cho mình và cho người làm sự nghiệp cao cả nhất của đời mình. Xin đại chúng thức tỉnh và đặt hết tâm tư mình trong chánh niệm, theo dõi hơi thở, hộ niệm cho giới thể và tâm bồ đề của các giới tử được kiên cố, dũng liệt và bất hoại.

Các vị giới tử, đây là giây phút trọng đại của sự tiếp nhận Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Quý vị hãy lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, và hãy trả lời "dạ có" một cách rõ ràng, dũng mãnh, mỗi khi thấy mình có chủ tâm và khả năng tiếp nhận học hỏi và hành trì giới điều được tuyên đọc.

Các vị giới tử, quý vị đã sẵn sàng chưa?

Đây tôi xin tuyên đọc nội dung giới luật:

Đây là Giới Thứ Nhất:

Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.

Đó là Giới Thứ Nhất của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Hai:

Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể cởi mở và đón nhận tuệ giác và kinh nghiệm của người khác. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch, và tuệ giác chân thực chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút.

Đó là Giới Thứ Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Ba:

Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức kẻ khác vâng theo ý kiến của mình, con nguyện không ép buộc người khác, kể cả trẻ em, theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải dùng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.

Đó là Giới Thứ Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Tư:

Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ tư là đạo đế chỉ hiển lộ khi nào con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là khổ đế, và con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc.

Đó là Giới Thứ Tư của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Năm:

Ý thức rằng hạnh phúc chân thực không thể đạt tới được bằng tiền tài và danh vọng mà chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình. Con nguyện tập sống giản dị và học chia sẻ thì giờ, khả năng và tài vật của mình với những kẻ thiếu thốn.

Đó là Giới Thứ Năm của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Sáu:

Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều đau khổ cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc và đối xử với năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con và phương pháp quán chiếu để nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành ngoài trời để chăm sóc tâm niệm sân hận và oán thù của con bằng năng lượng chánh niệm và để nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con cũng nguyện sẽ học hỏi nhìn sâu vào tự tánh của người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù của con và để có thể nhìn được người ấy bằng con mắt từ bi.

Đó là Giới Thứ Sáu của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Bảy:

Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, và ta chỉ có thể sống an lạc ngay trong giây phút ấy, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con, để liên tục gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con, làm động lực chuyển hóa chiều sâu tâm thức và đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.

Đó là Giới Thứ Bảy của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Tám:

Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét và chỉ trích và không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Con nguyện tu tập để tái lập lại sự truyền thông giữa con và mọi người khác, và để giúp giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.

Đó là Giới Thứ Tám của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Chín:

Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện luyện tập để chỉ nói những lời nói chân thật có tác dụng hòa giải, gây niềm tin tưởng và hy vọng. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù, không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình.

Đó là Giới Thứ Chín của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Mười:

Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng các đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về những tình trạng áp bức và bất công xã hội và có thể sử dụng ảnh

Nghi thức hưởng mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.

Đó là Giới Thứ Mười của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Một:

Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bạo động và bất công, con nguyện thực tập chánh mạng, quyết tâm không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên, không đầu tư vào những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Con nguyện chọn một nghề có thể giúp con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt.

Đó là Giới Thứ Mười Một của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Hai:

Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, hiểu biết và thương yêu. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cọng đồng, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết, và thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chận chiến tranh và xây dựng hòa bình.

Đó là Giới Thứ Mười Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Ba:

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Đó là Giới Thứ Mười Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Bốn:

(Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia)

Ý thức được rằng sự tìm tới và phối hợp giữa hai cơ thể do sự thúc đẩy của dục tình không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn của con người mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay là chồng của con. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con ý thức được trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này.

(Tiếp Hiện Xuất Gia)

Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập hiểu biết và thương yêu đích thực. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, xem thân thể mình là đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển, và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để có đủ năng lực hành đạo.

Đó là Giới Thứ Mười Bốn của dòng tu Tiếp Hiện.

Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông)

Giới tử! Quý vị vừa tiếp nhận Mười Bốn Giới Tiếp Hiện.

Quý vị vừa đặt chân bước được bước đầu tiên trên con đường chí hướng của các bậc Bồ Tát, con đường đại trí của Bồ Tát Văn Thù, phá tan mọi lầm lạc, cố chấp, mọi giới hạn của nhận thức; con đường đại bi của Bồ Tát Quan Thế Âm, thương yêu và tôn trọng sự sống của mọi loài, lắng nghe tiếng kêu thương gần xa của mọi loài để ân cần tìm tới; con đường đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, không từ nan bất cứ một cơ hội nào để bồi đắp sự thương yêu, đoàn kết và xây dựng sự hiểu biết của nhân loại.

Đại chúng đem hết lòng thành hộ niệm cho quý vị trong giờ phút hiện tại cũng như trong tương lai. Chư Bụt và chư vị Bồ Tát cũng sẽ có mặt trong bước đường hành đạo của quý vị. Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính Tam Bảo.

Xin đại chúng nhất tâm niệm Bụt gia hộ cho giới thể của các giới tử được dũng liệt và bất hoại.

10. Niệm Bụt

(mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

11. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

12. Hồi Hướng

Truyền trì giới thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

14. Nghi thức tụng 14 Giới Tiếp Hiện

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ.

Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Hương đốt khói trầm xông ngát

Kết thành một đóa tường vân

Đệ tử đem lòng thành kính

Cúng dường chư Bụt mười phương

Giới luật chuyên trì nghiêm mật

Công phu thiền định tinh cần

Tuệ giác hiện dần quả báu

Dâng thành một nén tâm hương.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Nên đắc vô thượng giác.

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (CC)

7. Tác Pháp Yết Ma

Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?

Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.

Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?

Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp.

Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không?

Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có _____ vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu______ đại diện và gởi theo sự thanh tịnh)

Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?

Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Mười Bốn Giới Tiếp Hiện.

Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc giới luật trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không? Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ.

Xin đại chúng lắng lòng nghe. Giới luật Tiếp Hiện là bó đuốc soi đường, là con thuyền chuyên chở, là bậc thầy chỉ lối của chúng ta. Xin đại chúng lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình, và xin im lặng trả lời "có" mỗi khi thấy mình trong hai tuần qua, có cố gắng học tập và giữ gìn những giới luật được nhắc đến. (Chuông)

Quý vị đã sẵn sàng chưa?

Đây tôi xin tuyên đọc nội dung giới luật:

Đây là Giới Thứ Nhất:

Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.

Đó là Giới Thứ Nhất của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Hai:

Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể cởi mở và đón nhận tuệ giác và kinh nghiệm của người khác. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch, và tuệ giác chân thực chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút.

Đó là Giới Thứ Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Ba:

Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức kẻ khác vâng theo ý kiến của mình, con nguyện không ép buộc người khác, kể cả trẻ em, theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải dùng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.

Đó là Giới Thứ Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Tư:

Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ tư là đạo đế chỉ hiển lộ khi nào con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là khổ đế, và con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc.

Đó là Giới Thứ Tư của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Năm:

Ý thức rằng hạnh phúc chân thực không thể đạt tới được bằng tiền tài và danh vọng mà chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình. Con nguyện tập sống giản dị và học chia sẻ thì giờ, khả năng và tài vật của mình với những kẻ thiếu thốn.

Đó là Giới Thứ Năm của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Sáu:

Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều đau khổ cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc và đối xử với năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con và phương pháp quán chiếu để nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành ngoài trời để chăm sóc tâm niệm sân hận và oán thù của con bằng năng lượng chánh niệm và để nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con cũng nguyện sẽ học hỏi nhìn sâu vào tự tánh của người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù của con và để có thể nhìn được người ấy bằng con mắt từ bi.

Đó là Giới Thứ Sáu của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Bảy:

Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, và ta chỉ có thể sống an lạc ngay trong giây phút ấy, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con, để liên tục gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con, làm động lực chuyển hóa chiều sâu tâm thức và đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.

Đó là Giới Thứ Bảy của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Tám:

Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét và chỉ trích và không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Con nguyện tu tập để tái lập lại sự truyền thông giữa con và mọi người khác, và để giúp giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.

Đó là Giới Thứ Tám của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Chín:

Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện luyện tập để chỉ nói những lời nói chân thật có tác dụng hòa giải, gây niềm tin tưởng và hy vọng. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù, không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình.

Đó là Giới Thứ Chín của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Mười:

Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng các đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về những tình trạng áp bức và bất công xã hội và có thể sử dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.

Đó là Giới Thứ Mười của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Một:

Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bạo động và bất công, con nguyện thực tập chánh mạng, quyết tâm không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên, không đầu tư vào những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Con nguyện chọn một nghề có thể giúp con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt.

Đó là Giới Thứ Mười Một của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Hai:

Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, hiểu biết và thương yêu. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cọng đồng, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết, và thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chận chiến tranh và xây dựng hòa bình.

Đó là Giới Thứ Mười Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Ba:

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Đó là Giới Thứ Mười Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Đây là Giới Thứ Mười Bốn:

(Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia)

Ý thức được rằng sự tìm tới và phối hợp giữa hai cơ thể do sự thúc đẩy của dục tình không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn của con người mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay là chồng của con. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con ý thức được trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này.

(Tiếp Hiện Xuất Gia)

Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập hiểu biết và thương yêu đích thực. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, xem thân thể mình là đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển, và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để có đủ năng lực hành đạo.

Đó là Giới Thứ Mười Bốn của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông)

Thưa quý vị, Tôi đã làm xong nhiệm vụ thuyết giới do đại chúng giao phó. Tôi xin cám ơn tất cả quý vị đã giúp tôi hoàn tất việc thuyết giới một cách thanh tịnh.

8. Niệm Bụt

Xin đại chúng đồng thanh chí tâm niệm Bụt và Bồ Tát (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

9. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

10. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

11. Hồi Hướng

Trì thuyết giới thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

15. Nghi thức tụng giới thiếu nhi

Nghi thức tụng giới cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có thể được cử hành trước Nghi Thức Tụng Năm Giới. Thiếu nhi từ mười tuổi trở lên, nếu muốn, có thể ở lại để tham dự lễ tụng Năm Giới.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Hương đốt khói trầm xông ngát

Kết thành một đóa tường vân

Đệ tử đem lòng thành kính

Cúng dường chư Bụt mười phương

Giới luật chuyên trì nghiêm mật

Công phu thiền định tinh cần

Tuệ giác hiện dần quả báu

Dâng thành một nén tâm hương.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam(CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Độ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn. (C)

"Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật".

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha.(đọc là xóa-ha) (ba lần) (CC)

7. Tác Pháp Yết Ma

Vị Yết Ma: Chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ chưa?

Vị Thủ Chúng: Thưa, chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ.

Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?

Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp.

Vị Yết Ma: Có thiếu nhi nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không?

Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có thiếu nhi Trần Diễm Trúc pháp danh Tâm Lưu Ly, vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu thiếu nhi Nguyễn Văn Nam pháp danh Tâm Hy

Mã đại diện và gửi theo sự thanh tịnh.")

Vị Yết Ma: Đại chúng các thiếu nhi hôm nay tập họp có chủ đích gì?

Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Ba Sự Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa.

Vị Yết Ma: Xin toàn thể chúng thiếu nhi lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng giới luật, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, chúng thiếu nhi đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?

Đại chúng đáp: Thành.

Vị chủ lễ nói: "Hôm nay chúng thiếu nhi tập họp để ôn lại Quy Giới, tức là Ba Sự Quay Về Nương Tựa, Hai Lời Hứa và sau hết là tụng Năm Giới. Trước hết là ôn lại Quy Giới. Xin các thiếu nhi đứng dậy, chắp tay búp sen, trình diện trước Tam Bảo."

(Thiếu nhi ra trình diện, chắp tay)

Thiếu nhi nghe tiếng chuông kính cẩn lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính Bụt, Pháp và Tăng.

(Chuông, thiếu nhi lạy) (ba lần)

Thiếu nhi quỳ xuống, chắp tay.

(Thiếu nhi quỳ, chắp tay búp sen)

8. Ôn Tụng Ba Phép Quay Về Nương Tựa

Quý vị Phật tử trẻ tuổi! Là học trò của Bụt, quý vị đã phát nguyện quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp và nơi Tăng. Bây giờ đây, chúng ta ôn lại Ba Sự Quay Về và Nương Tựa ấy. Xin đại chúng đọc theo đây:

- Con về nương tựa Bụt (đại chúng lặp lại), người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. (đại chúng lặp lại). (C)

- Con về nương tựa Pháp (đại chúng lặp lại), con đường của tình thương và sự hiểu biết. (đại chúng lặp lại). (C)

- Con về nương tựa Tăng (đại chúng lặp lại), đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (đại chúng lặp lại). (CC)

9. Bài Hát Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt

Người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Namo Buddhaya.

Con về nương tựa Pháp

Con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Namo Dharmaya.

Con về nương tựa Tăng

Đoàn thể của những ai nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Namo Sanghaya.

Buddham Saranam Gacchami.

Dharmam Saranam Gacchami.

Sangham Saranam Gacchami.

10. Ôn Tụng Hai Lời Hứa

Quý vị Phật tử trẻ tuổi! Quý vị vừa ôn lại Ba Phép Quay Về và Nương Tựa. Bây giờ chúng ta ôn lại Hai Lời Hứa tức là hai điều mà quý vị đã hứa là sẽ học tập và giữ gìn.

Đây là Lời Hứa Thứ Nhất, xin quý vị đọc theo:

Con xin mở rộng lòng thương (thiếu nhi lặp lại) và tìm cách bảo vệ sự sống (lặp lại) của mọi người và mọi loài (lặp lại).

Đó là Lời Hứa Thứ Nhất mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không?

(Thiếu nhi đáp trong tâm: "Dạ có." Chuông. Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.)

Đây là Lời Hứa Thứ Hai:

Con xin mở rộng tầm hiểu biết (thiếu nhi lặp lại) để có thể thương yêu và chung sống (lặp lại) với mọi người và mọi loài (lặp lại).

Đó là Lời Hứa Thứ Hai mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không?

(Thiếu nhi đáp trong tâm: "Dạ có." Chuông. Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.)

11. Bài Hát Hai Lời Hứa

Con xin mở rộng lòng thương, để bảo vệ sự sống khắp mười phương. Nguyện che chở sinh mạng của mọi người và mọi loài.

Con xin tập nhìn tập hiểu thật sâu, để thấy được gốc rễ mọi niềm đau. Nguyện chung sống an lạc với mọi người và mọi loài.

12. Khai Thị

Quý vị Phật tử! Lòng thương và sự hiểu biết là hai điều quý báu nhất của đạo Bụt và của con người. Nếu không học cởi mở để hiểu biết những tâm trạng và những hoàn cảnh khổ đau của người khác thì không thể thương yêu và chung sống với họ. Đối với các loài động vật và thực vật, ta cũng phải học thái độ cởi mở và hiểu biết để thương yêu và để bảo vệ như ta thương yêu và bảo vệ con người. Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu. Bụt dạy phải biết nhìn mọi người và mọi loài bằng con mắt hiểu biết và từ bi. Quý vị phải siêng năng học và làm theo lời Bụt dạy. Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng cung kính Bụt, Pháp và Tăng trước khi rút lui.

(Chuông. Thiếu nhi đứng dậy. Chuông. Thiếu nhi lạy xuống ba lần. Thiếu nhi đi ra. Đợi cho thiếu nhi ra hết, vị chủ lễ xướng lại bài kệ khai kinh để đại chúng trì tụng.)

16. Nghi thức tụng Năm giới

1. Kệ Khai Kinh

Giới luật cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

2. Tác pháp Yết Ma tụng Năm Giới

Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?

Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.

Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?

Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp.

Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không?

Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có cận sự nam, Nguyễn Văn Ý pháp danh Tâm Khai, vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu cận sự nữ, Trần Thị Xuyến pháp danh Tâm Quy đại diện và gửi theo sự thanh tịnh.")

Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?

Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Năm Giới.

Vị Yết Ma: Xin đại chúng các vị cận sự nữ và cận sự nam lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng quy giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?

Đại chúng đáp: Thành.

Đại chúng! Đây là lúc chúng ta tuyên thuyết Năm Giới. Năm Giới là nền tảng cho một cuộc sống có hạnh phúc và có chí hướng vị tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc đời. Xin các vị đã thọ trì Năm Giới quỳ lên, chắp tay búp sen, hướng về đức Bổn Sư.

Đại chúng! Năm Giới là những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ. Năm Giới là nền tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc của gia đình và của xã hội. Học hỏi và thực hành theo Năm Giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hòa bình của xã hội.

Đây là giới tướng của Năm Giới. Chúng ta hãy lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình. Xin im lặng thở và im lặng trả lời "có" mỗi khi thấy mình trong hai tuần qua có cố gắng học hỏi và hành trì những giới luật được tuyên đọc.

Đây là Giới Thứ Nhất:

Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.

Đó là Giới Thứ Nhất của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).

Đây là Giới Thứ Hai:

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Đó là Giới Thứ Hai của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).

Đây là Giới Thứ Ba:

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.

Đó là Giới Thứ Ba của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).

Đây là Giới Thứ Tư:

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.

Đó là Giới Thứ Tư của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).

Đây là Giới Thứ Năm:

Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.

Đó là Giới Thứ Năm của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).

Đại chúng! Chúng ta đã tuyên đọc xong Năm Giới quý báu, nền tảng của hạnh phúc gia đình và chất liệu của chí nguyện lợi tha. Bụt dạy chúng ta phải ôn tụng thường xuyên giới tướng mỗi tháng ít nhất là một lần, để sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng sâu sắc và lớn rộng. Nghe chuông, xin lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn Tam Bảo trước khi ngồi xuống.

3. Niệm Bụt

Xin đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn. (mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

4. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

5. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

6. Hồi Hướng

Trì giới pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)

17. Nghi thức hộ niệm siêu độ

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:

Lò báu đốt danh hương

Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương

Tâm bồ đề dũng liệt phi thường

Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang

Khắp chốn an định tỏ tường

Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.

Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Tán Dương

Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

5. Lạy Bụt

Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)

Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

6. Trì Tụng

Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh:

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

Kinh A Di Đà (C)

Đây là những điều tôi đã được nghe Bụt nói vào một thời người còn cư trú ở tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây của thái tử Kỳ Đà. Hồi đó cùng ở bên Bụt có một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, trong đó có những vị A La Hán đệ tử lớn của Bụt mà ai cũng biết đến như các thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiện Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Ly Bà Đà, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lư Đà Di, Kiếp Tân Na, Bạt Câu La và A Nậu Lâu Đà. Lại cũng có mặt các vị Bồ Tát đại nhân như Văn Thù, A Dật Đà, Càn Đà Ha Đề, Thường Tinh Tấn, và rất nhiều các vị Bồ Tát lớn như thế, cùng với chư thiên như Thích Đề Hoàn Nhân, nhiều đến vô lượng, đều cùng có mặt.

Lúc bấy giờ Bụt gọi thầy Xá Lợi Phất và bảo: "Từ đây đi qua phương Tây, cách khoảng mười vạn ức cõi Bụt, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi ấy có một vị Bụt tên là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp.

"Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì sao tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc.

"Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy được gọi là Cực Lạc.

"Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.

"Xá Lợi Phất! Nước Cực Lạc được tô điểm bằng những cái đẹp như thế.

"Này nữa, Xá Lợi Phất! Ở nước Bụt ấy, người ta thường được nghe nhạc từ hư không vọng xuống. Đất được làm bằng vàng ròng. Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn đà la rơi xuống. Dân chúng nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẳng hứng đầy các bông hoa mầu nhiệm ấy để đem đi cúng dường các vị Bụt đang cư trú ở vô số các cõi Bụt khác. Đến giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi đi kinh hành. Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.

"Này nữa, Xá Lợi Phất! Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già và Cọng mạng... Những con chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: trong giọng hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe được những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng.

"Xá Lợi Phất, thầy đừng tưởng rằng các loài chim ấy đã được sinh ra trên căn bản nghiệp báo. Tại sao? Tại vì ở nước Bụt kia không có ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Xá Lợi Phất! Ở nước ấy danh từ ác đạo mà còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo. Những con chim kia đã được Bụt A Di Đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm được tuyên lưu rộng rãi trong xứ của ngài.

"Xá Lợi Phất, ở nước Bụt ấy, mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu thì người ta được nghe những âm thanh vi diệu, giống như là có trăm ngàn nhạc khí cùng được tấu lên một lần. Người dân nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia thì đều nhiếp tâm niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.

"Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ sao? Đức Bụt kia tại sao có tên là A Di Đà? Xá Lợi Phất! Tại vì đức Bụt ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cõi nước trong mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị ngăn cách. Vì vậy nên ngài được gọi là A Di Đà.

"Hơn nữa, Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Bụt ấy cũng như của dân chúng trong nước ngài là thọ mạng vô lượng kéo dài tới vô lượng vô biên kiếp A Tăng Kỳ, vì vậy cho nên danh hiệu của ngài là A Di Đà.

"Xá Lợi Phất! Từ khi Bụt A Di Đà thành đạo đến nay tính ra là đã mười kiếp. Này nữa, Xá Lợi Phất! Số đệ tử thanh văn đã đắc quả A La Hán của đức Bụt ấy nhiều vô lượng, không thể đếm được bằng toán học, số đệ tử Bồ Tát của ngài cũng đông đảo như thế.

"Này Xá Lợi Phất! Nước Bụt kia đã được xây dựng bằng những công đức đẹp đẽ như thế.

"Này nữa Xá Lợi Phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất thối chuyển, trong số ấy có nhiều vị đã là Bồ Tát nhất sinh bổ xứ. Số lượng của các vị này đông đảo vô cùng, không thể dùng toán học mà kiểm đếm được, ta chỉ có thể dùng danh từ vô số A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi.

"Xá Lợi Phất! Chúng sinh mọi nơi khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước ấy. Tại sao? Tại vì sanh về nước ấy thì sẽ được sống chung và gần gũi với rất nhiều các bậc thiện nhân cao đức.

"Xá Lợi Phất! Những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sinh về cõi ấy. Vì vậy, Xá Lợi Phất, người con trai lành hay người con gái lành nào muốn sinh về cõi ấy thì khi nghe đến danh hiệu Bụt A Di Đà phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết lòng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày. Người ấy, đến khi lâm chung, sẽ được thấy Bụt A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt. Trong giờ phút ấy, tâm ý người kia sẽ an trú trong định, không hề điên đảo và tán loạn, do đó người ấy được vãng sinh ngay về nước Cực Lạc.

"Xá Lợi Phất! Vì thấy được cái lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quý vị rằng những ai đang nghe tôi nói đây hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.

"Xá Lợi Phất, nếu trong giờ phút hiện tại tôi đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn của Bụt A Di Đà thì tại phương Đông có các vị Bụt A Súc Bệ, Bụt Tu Di Tướng, Bụt Đại Tu Di, Bụt Tu Di Quang, Bụt Diệu Âm và các vị Bụt đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất, tại phương Nam có các vị Bụt Nhật Nguyệt Đăng, Bụt Danh Văn Quang, Bụt Đại Diệm Kiên, Bụt Tu Di Đăng, Bụt Vô Lượng Tinh Tấn và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất, tại phương Tây có các vị Bụt Vô Lượng Thọ, Bụt Vô Lượng Tướng, Bụt Vô Lượng Tràng, Bụt Đại Quang, Bụt Đại Minh, Bụt Bảo Tướng, Bụt Tịnh Quang và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất, tại phương Bắc có các vị Bụt Diệm Kiên, Bụt Tối Thắng Âm, Bụt Nan Trở, Bụt Nhật Sanh, Bụt Võng Minh và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất, tại phương Hạ có các vị Bụt Sư Tử, Bụt Danh Văn, Bụt Danh Quang, Bụt Đạt Ma, Bụt Pháp Tràng, Bụt Trì Pháp và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất, tại phương Thượng có các vị Bụt Phạm Âm, Bụt Tú Vương, Bụt Hương Thượng, Bụt Hương Quang, Bụt Đại Diệm Kiên, Bụt Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Bụt Ta La Thọ Vương, Bụt Bảo Hoa Đức, Bụt Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Bụt Như Tu Di Sơn và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'

"Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các Bụt đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm?

"Sở dĩ như thế, là vì những người con trai hoặc con gái nhà lành nào nghe được kinh này và nghe được danh hiệu Bụt A Di Đà, hết lòng hành trì và thực tập theo phép niệm Bụt thì những vị ấy sẽ được tất cả các vị Bụt hộ niệm, và tất cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột, không còn bị thối chuyển. Vì vậy cho nên quý vị hãy tin vào lời tôi đang nói, và cũng là lời chư Bụt đang nói.

"Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang, hay sẽ phát nguyện sinh về nước Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phát nguyện đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt tại cõi nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sinh, đang sinh, hay sẽ sinh về đó.

"Xá Lợi Phất, trong khi tôi đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Bụt, thì chư Bụt cũng đang xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của tôi, và nói: 'Bụt Thích Ca Mâu Ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi ta bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược mà Ngài có thể chứng đắc được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng sinh những pháp môn mà bất kỳ ở đâu, mới nghe qua người ta cũng rất khó mà phát sinh niềm tin.'

"Xá Lợi Phất! Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới được quả vị giác ngộ vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó là một việc làm quả là cực kỳ khó khăn."

Nghe Bụt nói kinh này, thầy Xá Lợi Phất, tất cả các vị khất sĩ, và mọi giới Thiên, Nhân, A Tu La, v.v... ai cũng phát lòng tin tưởng, tiếp nhận, làm lễ Bụt và lui về trú sở của mình. (CC)

7. Khai Thị

Đại chúng tập họp hôm nay để đọc kinh, niệm Bụt, cúng dường và hồi hướng cho (ông, bà)... nhân ngày kỵ giỗ của..., có thân nhân (và con cháu) của... tham dự trong việc hộ niệm. Xin đại chúng lắng nghe: ông bà cha mẹ, dù đang còn tại thế hay đã khuất núi, đều cũng đang có mặt nơi con cháu. Sự sống của con cháu là sự sống của ông bà cha mẹ. Sự sống của tổ tiên và của ông bà cha mẹ được tiếp nối nơi sự sống của con cháu. Theo lời Bụt dạy, sự an lạc của con cháu tức là sự an lạc của tổ tiên và của ông bà cha mẹ. Đại chúng giữ tâm thanh tịnh và an lạc là để tạo cơ duyên và căn bản thanh tịnh và an lạc cho những người đã khuất.

Xin các vị con cháu, bà con và thân nhân của... đứng dậy, ra trước bàn thờ Tam Bảo, chắp tay tịnh tâm để sẵn sàng đảnh lễ chư Bụt và chư Bồ Tát thánh tăng.

8. Xướng Lễ

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

(Xin mời quý vị trở về chỗ ngồi.)

9. Khai Thị (hoặc Trì Tụng)

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Nhìn kia biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự muôn đời tôi vẫn tự do

Tử sinh là cửa ngõ ra vào

Tử sinh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẻo sống.

(C)

Xin đại chúng nghe đây: Sự an lạc của thế giới và sự an lạc của cả hai cõi âm dương đều tùy thuộc vào sự an lạc của chúng ta trong giờ phút này.

Xin quý vị nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn.

10. Niệm Bụt

(Vị chủ lễ xướng)

Sông Ái dài muôn dặm

Biển mê sóng vạn tầm

Cõi luân hồi muốn thoát

Niệm Bụt hãy nhất tâm. (C)

Tịnh Độ vốn sẵn nơi Chân Tâm

Di Đà hiện ra từ Tự Tánh

Chiếu sáng ba đời khắp mười phương

Mà vẫn không rời nơi hiện cảnh

Con xin hướng về Bụt A Di Đà,

Giáo chủ cõi Tịnh Độ,

Nguồn ánh sáng vô lượng

Gốc thọ mạng vô cùng

Một lòng xin quán tưởng

Và trì niệm hồng danh. (C)

(đồng tụng, mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bụt Dược Sư Lưu Ly (C)

Nam mô đức Bụt A Di Đà (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

11. Sám Nguyện

Đại hùng từ phụ Thích Ca

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Bàn tay chắp thành liên hoa

Cung kính hướng về Điều ngự

Dâng lời sám nguyện thiết tha.(C)

Đệ tử phước duyên thiếu kém

Sống trong thất niệm lâu dài

Không được sớm gặp chánh pháp

Bao nhiêu phiền lụy đã gây

Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại

Vô minh che lấp tháng ngày

Vườn tâm gieo hạt giống xấu

Tham, sân, tự ái dẫy đầy

Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng

Gây nên từ trước đến nay

Những điều đã làm, đã nói

Thường gây đổ vỡ hàng ngày.

Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng

Nguyện xin sám hối từ đây. (C)

Đệ tử thấy mình nông nổi

Con đường chánh niệm lãng xao

Chất chứa vô minh phiền não

Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Có lúc tâm tư buồn chán

Mang đầy dằn vặt lo âu,

Vì không hiểu được kẻ khác

Cho nên hờn giận, oán cừu;

Lý luận xong rồi trách móc

Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau

Chia cách hố kia càng rộng

Có ngày không nói với nhau

Cũng không muốn nhìn thấy mặt

Gây nên nội kết dài lâu;

Nay con hướng về Tam Bảo

Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

Đệ tử biết trong tâm thức

Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:

Hạt giống thương yêu, hiểu biết

Và bao hạt giống an vui.

Nhưng vì chưa biết tưới tẩm

Hạt lành không mọc tốt tươi

Cứ để khổ đau tràn lấp

Làm cho đen tối cuộc đời

Quen lối bỏ hình bắt bóng

Đuổi theo hạnh phúc xa vời

Tâm cứ bận về quá khứ

Hoặc lo rong ruổi tương lai

Quanh quẩn trong vòng buồn giận

Xem thường bảo vật trong tay

Dày đạp lên trên hạnh phúc

Tháng năm sầu khổ miệt mài;

Giờ đây trầm xông bảo điện

Con nguyền sám hối đổi thay. (C)

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng

Hướng về chư Bụt mười phương

Cùng với các vị Bồ Tát

Thanh văn, Duyên giác, thánh hiền

Chí thành cầu xin sám hối

Bao nhiêu lầm lỡ triền miên

Xin lấy cam lồ tịnh thủy

Tưới lên dập tắt não phiền

Xin lấy con thuyền chánh pháp

Đưa con vượt nẻo oan khiên

Xin nguyện sống đời tỉnh thức

Học theo đạo lý chân truyền

Thực tập nụ cười hơi thở

Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (C)

Đệ tử xin nguyền trở lại

Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Vườn tâm ươm hạt giống tốt

Vun trồng hiểu biết, thương yêu.

Xin nguyện học phép quán chiếu

Tập nhìn tập hiểu thật sâu

Thấy được tự tánh các pháp

Thoát ngoài sinh tử trần lao

Nguyện học nói lời ái ngữ

Thương yêu, chăm sóc sớm chiều

Đem nguồn vui tới mọi nẻo

Giúp người vơi nỗi sầu đau

Đền đáp công ơn cha mẹ

Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.

Tín thành tâm hương một nén

Đài sen con nguyện hồi đầu

Nguyện đức từ bi che chở

Trên con đường đạo nhiệm mầu

Nguyện xin chuyên cần tu tập

Vuông tròn đạo quả về sau. (CC)

12. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Quyết Định Vãng Sanh)

Nam mô a di đa bà giạ, đá tha già đá giạ, đa địa dạ tha, a di lỵ đô bà tỳ, a di lỵ đa tất đam bà tỳ, a di lỵ ca tỳ ca lan đế, a di lỵ đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (CC)

13. Cúng Dường (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế, án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Cúng Dường Phổ Biến)

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (CC)

14. Kệ Cúng Dường

Phụng hiến Cam lồ vị

Phân lượng như thái hư

Xin mọi loài đạt nguyện

Về nương bóng đại từ. (C)

15. Kệ Siêu Độ

Nam Kha mộng vừa tỉnh

Tịnh độ sen nở rồi

Quê nhà đã về tới

An lạc và thảnh thơi.

Nam mô Bồ Tát An Lạc Địa (ba lần) (C)

Trà trên đỉnh núi Tản

Nước giữa lòng sông Đà

Thiền vị chỉ một ngụm

Tịnh độ đã sinh qua.

Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Độ (ba lần) (C)

16. Phát Nguyện Nương tựa A Di Đà Nơi bản môn mầu nhiệm

Con dốc lòng quay về

Duy trì nguồn chánh niệm

Con đã nguyền trở lại

Nương tựa A Di Đà

Cúi xin Bụt nhiếp thọ

Cõi Tịnh Độ bày ra

Xin lấy đuốc ánh sáng

Soi vào tâm tư con

Xin lấy thuyền thọ mạng

Chuyên chở hình hài con

Cho sự sống an lạc

Cho lý tưởng vẹn toàn

Xin Bụt luôn bảo hộ

Để tâm không buông lơi

Cho con phá tà kiến

Làm phiền não rụng rơi

Trong giây phút hiện tại

Có Bụt trong cuộc đời

Tịnh Độ đi từng bước

Vững chãi và thảnh thơi

Hiện tại sống chánh niệm

Tịnh Độ đã thật rồi

Sau này đổi thân khác

Thế nào cũng an vui.

Niệm Bụt A Di Đà

Được nhất tâm bất loạn

Chín phẩm sen hiện tiền

Tự tha đều thọ dụng

Biết trước giờ mạng chung

Tâm con không nao núng

Thân con không bệnh khổ

Ý con không ngại ngùng

Di Đà cùng thánh chúng

Tay nâng đóa sen vàng

Có mặt trong giây lát

Cùng lên đường thong dong

Sen nở là thấy Bụt

Tịnh Độ là quê hương

Cúi xin Bụt chứng giám

Hành trì không buông lung. (CC)

17. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

18. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành. (CCC)

19. Thực Tập Kết Thúc

Xin đại chúng lắng nghe. Trong suốt buổi lễ tụng kinh và cúng dường cầu siêu độ này chúng ta đã được khai thị rằng sự an lạc của con cháu chính là sự an lạc của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Để tỏ lòng tri ơn và hiếu thảo với người quá cố, các vị con cháu khi nghe tiếng chuông, xin đứng dậy chắp tay hướng về bàn thờ hương linh và lạy xuống bốn lạy theo nhịp chuông. Sau bốn lạy, xin quay lại nhìn nhau cho rõ. Trước bàn thờ người quá cố, quý vị hãy chứng tỏ là quý vị đang thương yêu nhau, chấp nhận nhau và tha thứ tất cả những lỗi lầm của nhau.

Quý vị hãy nắm tay nhau hoặc ôm nhau vào lòng để chứng tỏ điều ấy, nhất là khi quý vị đang có khó khăn trong việc truyền thông với nhau. Hãy thở ba hơi thở thật sâu và có ý thức trong khi thực tập điều này. Sự an lạc của quý vị sẽ là nền tảng cho sự an lạc của người quá cố. Xin đại chúng lặng yên duy trì chánh niệm để hộ niệm cho thân nhân người quá cố trong những giây phút thực tập này.

(Vị chủ lễ thỉnh chuông)

18. Nghi thức cúng thất

Theo tín ngưỡng Thân Trung Ấm, người quá cố có thể vãng sinh hoặc đi đầu thai ngay sau khi qua đời, hoặc có thể trải qua thời gian từ một tuần lễ đến tối đa là bảy tuần lễ trước khi đi tái sinh hoặc vãng sinh. Trong thời gian này Thân Trung Ấm trải qua bảy lần chuyển hóa. Sự thực tập chánh niệm, trì tụng kinh điển, trai tăng, bố thí, tạo tác công đức của thân nhân và bạn bè người quá cố có thể làm phát sinh ra rất nhiều năng lượng hộ niệm và yểm trợ cho sự chuyển hóa ấy một cách tích cực. Vì vậy mỗi bảy ngày lại có một lần trì tụng, cầu nguyện, phóng sanh và cúng dường gọi là cúng thất. Lần cúng thất cuối cùng gọi là Chung Thất, được tổ chức long trọng hơn cả. Nghi thức Cúng Thất có thể được bổ túc bằng một trong những kinh điển chọn ở phần kinh văn, như Kinh Thương Yêu, Kinh Phước Đức, Kinh A Nậu La Độ, Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân, Kinh Kim Cương, Kinh Người Áo Trắng, v.v... Trì tụng các kinh này rất bổ ích cho người quá cố và cho những người trì tụng.

1. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn)

2. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn)

3. Dâng Hương

Tâm hương vừa mới đốt

Pháp giới đã thơm lừng

Mây lành dâng bốn hướng

Chư Bụt hiện toàn thân. (C)

Chúng con xin kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)

4. Xướng Lễ

(Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:)

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)

Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC)

5. Sám Nguyện

Trang nghiêm đài sen ngự tọa

Đại hùng từ phụ Thích Ca

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Bàn tay chắp thành liên hoa

Cung kính hướng về Điều ngự

Dâng lời sám nguyện thiết tha.(C)

Đệ tử phước duyên thiếu kém

Sống trong thất niệm lâu dài

Không được sớm gặp chánh pháp

Bao nhiêu phiền lụy đã gây

Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại

Vô minh che lấp tháng ngày

Vườn tâm gieo hạt giống xấu

Tham, sân, tự ái dẫy đầy

Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng

Gây nên từ trước đến nay

Những điều đã làm, đã nói

Thường gây đổ vỡ hàng ngày.

Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng

Nguyện xin sám hối từ đây. (C)

Đệ tử thấy mình nông nổi

Con đường chánh niệm lãng xao

Chất chứa vô minh phiền não

Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Có lúc tâm tư buồn chán

Mang đầy dằn vặt lo âu,

Vì không hiểu được kẻ khác

Cho nên hờn giận, oán cừu;

Lý luận xong rồi trách móc

Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau

Chia cách hố kia càng rộng

Có ngày không nói với nhau

Cũng không muốn nhìn thấy mặt

Gây nên nội kết dài lâu;

Nay con hướng về Tam Bảo

Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

Đệ tử biết trong tâm thức

Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:

Hạt giống thương yêu, hiểu biết

Và bao hạt giống an vui.

Nhưng vì chưa biết tưới tẩm

Hạt lành không mọc tốt tươi

Cứ để khổ đau tràn lấp

Làm cho đen tối cuộc đời

Quen lối bỏ hình bắt bóng

Đuổi theo hạnh phúc xa vời

Tâm cứ bận về quá khứ

Hoặc lo rong ruổi tương lai

Quanh quẩn trong vòng buồn giận

Xem thường bảo vật trong tay

Dày đạp lên trên hạnh phúc

Tháng năm sầu khổ miệt mài;

Giờ đây trầm xông bảo điện

Con nguyền sám hối đổi thay. (C)

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng

Hướng về chư Bụt mười phương

Cùng với các vị Bồ Tát

Thanh văn, Duyên giác, thánh hiền

Chí thành cầu xin sám hối

Bao nhiêu lầm lỡ triền miên

Xin lấy cam lồ tịnh thủy

Tưới lên dập tắt não phiền

Xin lấy con thuyền chánh pháp

Đưa con vượt nẻo oan khiên

Xin nguyện sống đời tỉnh thức

Học theo đạo lý chân truyền

Thực tập nụ cười hơi thở

Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (C)

Đệ tử xin nguyền trở lại

Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Vườn tâm ươm hạt giống tốt

Vun trồng hiểu biết, thương yêu.

Xin nguyện học phép quán chiếu

Tập nhìn tập hiểu thật sâu

Thấy được tự tánh các pháp

Thoát ngoài sinh tử trần lao

Nguyện học nói lời ái ngữ

Thương yêu, chăm sóc sớm chiều

Đem nguồn vui tới mọi nẻo

Giúp người vơi nỗi sầu đau

Đền đáp công ơn cha mẹ

Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.

Tín thành tâm hương một nén

Đài sen con nguyện hồi đầu

Nguyện đức từ bi che chở

Trên con đường đạo nhiệm mầu

Nguyện xin chuyên cần tu tập

Vuông tròn đạo quả về sau. (CC)

6. Khai Thị (hoặc Trì Tụng)

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Nhìn kia biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự muôn đời tôi vẫn tự do

Tử sinh là cửa ngõ ra vào

Tử sinh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẻo sống. (C)

7. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Quyết Định Vãng Sanh)

Nam mô a di đa bà giạ, đá tha già đá giạ, đa địa dạ tha, a di lỵ đô bà tỳ, a di lỵ đa tất đam bà tỳ, a di lỵ ca tỳ ca lan đế, a di lỵ đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế, án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Cúng Dường Phổ Biến)

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (C)

(Kệ Cúng Dường)

Phụng hiến Cam lồ vị

Phân lượng như thái hư

Xin mọi loài đạt nguyện

Về nương bóng đại từ. (C)

(Kệ Siêu Độ)

Nam Kha mộng vừa tỉnh

Tịnh độ sen nở rồi

Quê nhà đã về tới

An lạc và thảnh thơi.

Nam mô Bồ Tát An Lạc Địa. (ba lần) (C)

Trà trên đỉnh núi Tản

Nước giữa lòng sông Đà

Thiền vị chỉ một ngụm

Tịnh độ đã sinh qua.

Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Độ. (ba lần) (CC)

8. Quy Nguyện

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Bụt hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn. (C)

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nhìn cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin tìm hiểu

Nỗi khổ của mọi loài

Tập từ bi

Hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an hòa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhõm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ ơn thầy

Ơn bè bạn chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày kia

Có khả năng cứu độ mọi loài

Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (CC)

9. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

10. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành. (CCC)

19. Nghi thức tẩy tịnh và nhập liệm

Nghi thức này được sử dụng để rưới nước cam lộ lên nhục thân người quá cố và trên quan tài để đem lại sự tươi mát và thanh tịnh. Xin xem những lời chỉ dẫn trong Nghi Thức Gia Trì Nước Tịnh. Một bát nước trong và một nhành dương liễu cần được chuẩn bị trước khi hành lễ. Nước trong tượng trưng cho định lực, nhành liễu linh động tượng trưng cho trí tuệ.

1. Kệ Mở Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

2. Khai Thị

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Nhìn kia biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự muôn đời tôi vẫn tự do

Tử sinh là cửa ngõ ra vào

Tử sinh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẻo sống. (C)

3. Pháp Ngữ

(Vị chủ lễ nâng bát tịnh thủy trên tay trái và cầm nhành liễu bằng tay phải)

Nước này vốn sẵn tám công đức

Rửa đi trần cấu của muôn loài

Đưa vào cõi nhiệm mầu Hoa Tạng

Chúng sinh siêu thoát không riêng ai

Nước không rửa nước, pháp thân nhiệm

Bụi không vương bụi, tự tâm khai

Đàn tràng rưới lên đã thanh tịnh

Cây héo biến thành cây tốt tươi

Cõi uế hóa ra làm cõi tịnh

Mọi loài mát mẻ sống an vui.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa. (ba lần) (C)

Tào Khê một dòng biếc

Chảy mãi về phương đông

Quan Âm bình nước tịnh

Tẩy sạch dấu phong trần

Cành dương rưới cam lộ

Làm sống dậy mùa xuân

Đề hồ trong cổ họng

Làm lắng dịu muôn lòng

Nam mô Bồ Tát Cam Lộ Vị.

(ba lần) (CC)

4. Trì Tụng

Đầu cành dương liễu vương cam lộ

Một giọt mười phương rưới cũng đầy

Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết

Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây. (C)

Có câu chân ngôn mầu nhiệm xin đại chúng đồng tâm trì tụng:

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế

Thành tâm đảnh lễ Thất Câu Chi

Chúng con xưng tán Đại Chuẩn Đề Xin nguyện xót thương và gia hộ.

Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (ba lần) (C)

(trong khi trì tụng bài sau đây, vị chủ lễ rưới nước tịnh lên đàn tràng và nhục thân người quá cố)

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở.

Bốn loài sinh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Địa.

Nam mô Bồ Tát Siêu Thập Địa.

(tụng nhiều lần, cho đến khi tẩy tịnh và nhập liệm xong)

5. Niệm Bụt (Vị chủ lễ xướng)

Sông Ái dài muôn dặm

Biển Mê sóng vạn tầm

Cõi luân hồi muốn thoát

Niệm Bụt hãy nhất tâm.

(đồng tụng, mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô đức Bụt Dược Sư Lưu Ly (C)

Nam mô đức Bụt A Di Đà (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

6. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Quyết Định Vãng Sanh)

Nam mô a di đà bà giạ, đá tha già đá giạ, đa địa dạ tha, a di lỵ đô bà tỳ, a di lỵ đa tất đam bà tỳ, a di lỵ ca tỳ ca lan đế, a di lỵ đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (CC)

7. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

8. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành. (CCC)

20. Nghi thức thành phục (thọ tang)

Nghi thức này được sử dụng để những phần tử trong tang gia tiếp nhận tang phục.

1. Kệ Mở Kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thọ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)

2. Khai Thị

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Nhìn kia biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự muôn đời tôi vẫn tự do

Tử sinh là cửa ngõ ra vào

Tử sinh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẻo sống.(C)

3. Pháp Ngữ

Công Cha như núi Thái Sơn

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Cầu ơn Tam Bảo độ cho

Cháu con đảnh lễ, hiếu hòa một tâm. (C)

4. Trì Tụng

Tây phương không xa cách

Tây phương trước mặt người

Ngàn sông về biển lớn

Trăng lặn không lìa trời

Âm dương không cách trở

Sinh tử vẫn tương dung

Niệm Bụt cầu siêu độ

Lắng nghe xin một lòng. (C)

(Vị chủ lễ xướng, hoặc đọc theo văn Điệp siêu độ)

Nay chúng con ở thị xã _____ tỉnh _____ theo lời Bụt dạy, thiết lập bàn thờ, đốt hương tụng kinh, làm lễ thành phục. Ngày hôm nay, chúng con cùng với tang quyến, nương vào sức mạnh tâm linh của tăng thân mười phương, ngưỡng lạy Tam Bảo, cầu xin chứng giám. Xin cứu độ cho (cha, mẹ, v.v..) chúng con tên là ___ pháp danh ____ nguyên mạng sinh ngày ___ tháng ___ năm ___, hưởng dương ___ tuổi, qua đời lúc ___ giờ, ngày ___ tháng ___ năm ___. Chúng con đem lòng thành kính và tâm hiếu thảo làm lễ thành phục, tuyên cáo trước linh sàng, xin hương linh có mặt chú tâm nghe Kinh, hành Pháp. Chúng con cầu đạo lực của Bụt và các vị Bồ Tát thánh tăng giáo hóa và tiếp dẫn hương linh về cõi Tịnh. (C)

5. Niệm Bụt

(Vị chủ lễ xướng thật lớn và rõ ràng)

Sông Ái dài muôn dặm

Biển Mê sóng vạn tầm

Cõi luân hồi muốn thoát

Niệm Bụt hãy nhất tâm.

(đồng tụng, mỗi danh hiệu ba lần)

Nam mô Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Nam mô Bụt Dược Sư Lưu Ly (C)

Nam mô Bụt A Di Đà (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Trí

Văn Thù Sư Lợi (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)

Nam mô Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)

6. Thọ Nhận Tang Phục

(Vị chủ lễ xướng)

Núi Tản đức khó báo

Sông Hồng công khôn đền

Trước linh nhận tang phục

Hiếu hạnh nguyền không quên. (C)

(từng người đi lên quỳ xuống nhận tang phục. Nhận và mặc tang phục xong, mỗi người lạy hai lạy.)

7. Trì Chú (mỗi chú ba lần)

(Chơn Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Quyết Định Vãng Sanh)

Nam mô a di đa bà giạ, đá tha già đá giạ, đa địa dạ tha, a di lỵ đô bà tỳ, a di lỵ đa tất đam bà tỳ, a di lỵ ca tỳ ca lan đế, a di lỵ đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thực)

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế, án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

(Chơn Ngôn Biến Thủy)

Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. (C)

(Chơn Ngôn Cúng Dường Phổ Biến)

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (CC)

8. Quay Về Nương Tựa

Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.

Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.

Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

9. Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành. (CCC)

21. Nghi thức gia trì nước tịnh

Nghi thức này được sử dụng trong các dịp xuống tóc, thiết lập bàn thờ, đàn tràng, cúng nhà mới, cúng đất đai, khai trương cửa hàng, văn phòng, v.v... Ý nghĩa của nghi thức là nương vào tâm đại bi của Bồ Tát Quan Thế Âm để làm lưu xuất nước tịnh cam lộ mà rảy lên và làm cho thanh tịnh, tươi mát, sống dậy và trị liệu tất cả những gì được nước cam lộ rưới xuống. Một bát nước trong và một nhành liễu cần được chuẩn bị trước khi hành lễ. Nước trong tượng trưng cho định lực, nhành liễu linh động tượng trưng cho trí tuệ.

1. Khai Thị

Đầu cành dương liễu vương cam lộ

Một giọt mười phương rưới cũng đầy

Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết

Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa. (C)

2. Xưng Tán

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh

Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm.(C)

Cành dương nước tịnh

Rưới khắp tam thiên

Tánh không tám đức độ nhân thiên

Pháp giới sáng rộng thêm

Diệt mọi oan khiên

Biển lửa nở hoa sen.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa. (C)

3. Gia Trì

Cầm nhành dương liễu, rưới lên nước cam lộ

Trừ nóng bức làm mát mẻ nhân gian

Lắng tai nghe mà tìm tới với chúng sanh

Đem pháp nhiệm trừ khổ đau cho muôn loại

Tâm từ bi kiên cố

Tướng tự tại đoan nghiêm

Có cầu là có ứng

Không nguyện nào không thành

Giờ đây đệ tử chúng con thành tín tĩnh tâm

Trì tụng chân ngôn, gia trì nước tịnh:

(tất cả đều quán tưởng theo)

Thứ nước này: vuông hay tròn tùy theo đồ chứa đựng

Thấp hay cao là theo tiết theo thời

Mùa Xuân loãng mà mùa Đông đặc cứng

Gặp thuận đi mà gặp chướng lại ngừng

Mênh mông thay, tìm nguồn thiêng khó thấy

Mầu nhiệm thay, dòng chảy tới vô chung

Trong khe biếc dấu chân loài rồng chúa

Nơi đầm sâu ôm vầng sáng trăng thu

Dưới ngọn bút quân vương, biến thành ơn mưa móc

Trên cành liễu đại sĩ, trở nên nước cam lộ thanh lương

Chỉ cần một giọt nước từ bi này thôi là mười phương đều trở nên thanh tịnh. (C)

4. Trì Tụng

Có linh chú chân ngôn, xin đại chúng cùng nhất tâm trì tụng:

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế

Thành tâm đảnh lễ Thất Câu Chi

Con nay xưng tán Đại Chuẩn Đề

Xin nguyện xót thương mà gia hộ.

Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, câu chi nẫm, đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (ba lần) (C)

5. Trì Niệm

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm.(21 lần)


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][