NGHI THỨC TỤNG NIỆM ĐẠI TOÀN

Hội Đồng Giáo Thọ Đạo Tràng Mai Thôn

Phụ lục

MỤC LỤC

Phụ lục

1. Bài Tụng Hạnh Phúc

2. Hướng Về Tam Bảo

3. Phòng Hộ Chuyển Hóa

4. Sám Quy Mạng

5. Sám Nguyện

6. Tùy Hỷ Hồi Hướng

7. Ngày Đêm An Lành

8. Chuyển Niệm

9. Thiên Long Hộ Pháp

10. Bốn Phép Tùy Niệm

11. Kệ Tán

12. Lời Khấn Nguyện Đầu Năm

13. Nghi Thức Ăn Cơm Im Lặng

14. Thi Kệ Nhật Dụng

15. Những Chỉ Dẫn Về Sự Thực Tập Ba Lạy

16. Ba Cái Lạy

17. Năm Cái Lạy

18. Bông Hồng Cài Áo

19. Văn Thỉnh Linh

20. Nguồn Gốc Các Kinh


1. Bài Tụng Hạnh Phúc

Chúng con được ngồi đây

Trong phút giây hiện tại

Bao bọc bởi tăng thân

Thấy mình thật may mắn:

Sinh ra được làm người

Con sớm gặp chánh pháp

Hạt Bồ Đề tưới tẩm

Lại có duyên được sống

Hòa hợp trong tăng thân. (C)

Năng lượng của tăng đoàn

Giới luật và uy nghi

Đang bảo hộ cho con

Không để gây lầm lỗi

Không bị nghiệp xấu đẩy

Đi về nẻo tối tăm

Lại được cùng bạn hiền

Đi trên đường chân thiện

Có ánh sáng chiếu soi

Của Bụt và Bồ Tát. (C)

Tuy có mặt trong con

Những hạt giống khổ đau

Phiền não và tập khí

Nhưng chánh niệm hiện tiền

Vẫn thường luôn biểu hiện

Giúp cho con tiếp xúc

Với những gì mầu nhiệm

Có mặt trong tự thân

Và có mặt quanh con. (C)

Sáu căn còn đầy đủ

Mắt thấy được trời xanh

Tai nghe tiếng chim hót

Mũi ngửi thấy hương trầm

Lưỡi nếm được pháp vị

Thế ngồi con vững chãi

Ý hợp nhất với thân

Nếu không có Thế Tôn

Nếu không có Diệu Pháp

Nếu không có Tăng Đoàn

Làm sao con may mắn

Được pháp lạc hôm nay? (C)

Công phu tu tập này

Con cũng xin hành trì

Cho gia đình, dòng họ

Cho thế hệ tương lai

Và cả cho xã hội.

Niềm an lạc của con

Là vốn liếng tu tập

Con xin nguyền vun bón

Tưới tẩm và nuôi dưỡng

Bằng chánh niệm hàng ngày. (C)

Trong xã hội của con

Bao nhiêu người đau khổ

Chìm đắm trong năm dục

Ganh ghét và hận thù.

Thấy được những cảnh ấy

Con quyết tâm hành trì

Điều phục những tâm hành

Tham đắm và giận ghét

Tập khả năng lắng nghe

Và sử dụng ái ngữ

Để thiết lập truyền thông

Tạo nên sự hiểu biết,

Chấp nhận và thương yêu. (C)

Như đức Bồ Tát kia

Con nguyện xin tập nhìn

Mọi người chung quanh con

Bằng con mắt từ bi

Bằng tâm tình hiểu biết

Con xin tập lắng nghe

Bằng lỗ tai xót thương

Bằng tấm lòng lân mẫn

Nhìn và nghe như thế

Là hạnh của Bồ Tát

Có thể làm vơi nhẹ

Khổ đau trong lòng người

Đem lại niềm an lạc

Về cho cả hai phía.

Chúng con ý thức rằng

Chính phiền não si mê

Làm cho thế giới này

Trở thành nơi hỏa ngục.

Nếu tu tập chuyển hóa

Chế tác được hiểu biết

Cảm thông và thương yêu

Chúng con sẽ tạo được

Tịnh Độ ngay nơi này. (C)

Dù cuộc đời vô thường

Dù sinh lão bệnh tử

Đã có đường đi rồi

Con không còn lo sợ. (C)

Hạnh phúc thay được sống

Trong tăng đoàn Thế Tôn

Được hành trì giới định

Sống vững chãi thảnh thơi

Trong từng giây từng phút

Của cuộc sống hàng ngày,

Và trực tiếp tham gia

Vào sự nghiệp độ sinh

Của Bụt và Bồ Tát. (C)

Giờ phút này quý báu

Niềm biết ơn tràn dâng

Xin lạy đức Thế Tôn

Chứng minh và nhiếp thọ. (CCC)

2. Hướng Về Tam Bảo

Chắp tay búp sen

Con nhìn lên Bụt

Bụt đang ngồi yên

Dáng Bụt rất hiền

Bụt ngồi rất thẳng

Hào quang tỏa chiếu

Trên vầng trán cao

Hai mắt Bụt sáng

Nhìn thấu lòng con

Thấy được niềm vui

Cũng như nỗi khổ

Miệng Bụt mỉm cười

Nụ cười từ bi

Chứa đầy hiểu biết,

Tha thứ, bao dung. (C)

Bụt là bậc thầy

Dạy thương, dạy hiểu

Bụt đã cho con

Nếp sống tâm linh

Suốt đời con nguyện

Noi theo ánh sáng

Của Bụt mà đi. (C)

Con xin lạy Bụt

Ðã ban cho con

Giáo Pháp nhiệm mầu.

Giúp con nuôi dưỡng

Tình nghĩa, hạnh phúc,

Nụ cười, niềm tin,

Dạy con biết thở

Ôm lấy niềm đau

Những lúc tâm con

Tham đắm, giận hờn,

Si mê, ganh tị,

Ðể con có thể

Làm chủ thân tâm

Vượt thắng cơn buồn

Làm vơi nỗi khổ. (C)

Con xin trở về

Nương tựa Tăng thân

Ðoàn thể những người

Thực tập theo Bụt

Ðể được nâng đỡ

Ðể được soi sáng

Trên đường học hỏi

Ðạo lý nhiệm mầu.

Trầm đã đốt lên

Ðèn đã thắp sáng

Con xin một lòng

Hướng về Tam Bảo

Cung kính biết ơn

Quay về nương tựa. (CC)

3. Phòng Hộ Chuyển Hóa

Đệ tử chúng con từ vô thỉ

Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê

Vào ra sinh tử biết bao lần

Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.

Biển trần khổ lâu đời trôi giạt

Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng

Con hướng về theo ánh từ quang

Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước. (C)

Bao tội khổ trong đời ác trược

Vì tham, sân, si, mạn gây nên

Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền

Xin sám hối để lòng thanh thoát

Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt

Từ bi vô lượng cứu quần sanh

Con nhất tâm nguyện sống đời lành

Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo

Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ

Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê

Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì

Thân, Miệng, Ý noi về chánh kiến

Đi đứng nằm ngồi trong chánh niệm

Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm

Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền

Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở

Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ

Mỗi cái nhìn thấy được Pháp thân

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần

Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ

Tập khí năm xưa rồi chuyển hóa

Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa

Niềm an vui đem khắp mọi nhà

Hạt giống tốt gieo về muôn lối

Cùng tăng thân xin nguyền ở lại

Nơi cõi đời làm việc độ sanh

Giờ phút này sông núi chứng minh

Cúi xin đức Từ Bi nhiếp thọ. (CCC)

4. Sám Quy Mạng

Quy mạng mười phương Vô Thượng Giác

Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương

Thánh tăng bốn quả ba thừa độ

Duỗi cánh tay vàng nguyện xót thương. (C)

Ngược dòng chân tính từ lâu,

Chúng con trôi nổi biển sầu sông mê.

Thấy đâu lối thoát đường về,

Bập bềnh sóng nước chưa hề đoái lui.

Nguyên nhân hữu lậu gây rồi,

Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra.

Biết đâu nẻo chính đường tà,

Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu.

Nay con khẩn thiết cúi đầu,

Phơi bày sám hối cần cầu Hồng ân. (C)

Chí thành cầu đấng Năng Nhân,

Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài.

Nguyện cùng thiện hữu ra khơi,

Tìm lên bờ giác lìa nơi não phiền.

Kiếp này xin nguyện xây thêm

Cao tòa phúc đức vững nền đạo tâm.

Chờ mong đạo nghiệp vun trồng,

Từ bi, trí tuệ nẩy mầm tốt tươi.

Kiếp sau xin được làm người,

Sinh ra gặp pháp sống đời chân tu. (C)

Dắt dìu nhờ bậc minh sư,

Nương vào chính tín hạnh từ xuất gia.

Sáu căn ba nghiệp thuần hòa,

Không vương tục lụy theo đà thế nhân.

Một lòng tấn đạo nghiêm thân,

Giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa.

Oai nghi phong độ chói lòa,

Lòng từ hộ mạng trước là vi sinh.

Lại thêm đầy đủ duyên lành,

Bao nhiêu tai nạn biến thành hư không.

Bồ Ðề nguyện kết một lòng,

Ðài sen Bát Nhã Chân Không hiện tiền.

Nhờ công tu tập tinh chuyên,

Ðại Thừa liễu ngộ chứng truyền chân tâm.

Thoát ngoài kiếp hải trầm luân,

Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người.

Ðạo tràng dựng khắp nơi nơi,

Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không.

Tà ma hàng phục đến cùng,

Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung.

Vâng làm Phật sự mười phương,

Không vì lao nhọc, nản lòng tinh chuyên.

Bao nhiêu diệu pháp thâm huyền,

Thảy đều thực hiện siêu nhiên độ mình.

Rồi đem phúc tuệ độ sinh,

Chứng nên Phật quả, hoàn thành Pháp thân. (C)

Tùy cơ ứng biến cõi trần,

Phân thân vô số độ dần chúng sinh.

Nước Từ rưới khắp nhân thiên,

Mênh mông biển Hạnh lời nguyền độ tha.

Khắp hòa thế giới gần xa,

Diễn dương diệu pháp, trước là độ sinh.

Những nơi khổ thú trầm luân,

Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành.

Chỉ cần thấy dạng nghe danh,

Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.

Phát lời nguyện ước cao sâu

Muôn nghìn khổ địa thảy đều tiêu tan.

Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan,

Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh,

Ðều nhờ thần lực oai linh,

Sương tan núi biếc bình minh rạng ngời.

Thuốc thang cứu cấp cho đời,

Áo cơm cứu giúp cho người bần dân.

Bao nhiêu lợi ích hưng sùng,

An vui thực hiện trong vòng trầm luân.

Bao nhiêu quyến thuộc thân oan

Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm.

Xa lìa ái nhiễm liên miên,

Ðoạn trừ những mối phược triền thân tâm.

Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân,

Cùng bao loài khác pháp thân hướng về. (C)

Hư không dù có chuyển di,

Nguyện con muôn kiếp không hề lung lay.

Nguyện cầu vạn pháp xưa nay,

Hoàn thành trí nghiệp vững cây Bồ Ðề. (CCC)

5. Sám Nguyện

Trang nghiêm đài sen ngự tọa

Đại hùng từ phụ Thích Ca

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Bàn tay chắp thành liên hoa

Cung kính hướng về Điều ngự

Dâng lời sám nguyện thiết tha. (C)

Đệ tử phước duyên thiếu kém

Sống trong thất niệm lâu dài

Không được sớm gặp chánh pháp

Bao nhiêu phiền lụy đã gây

Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại

Vô minh che lấp tháng ngày

Vườn tâm gieo hạt giống xấu

Tham, sân, tự ái dẫy đầy

Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng

Gây nên từ trước đến nay

Những điều đã làm, đã nói

Thường gây đổ vỡ hàng ngày.

Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng

Nguyện xin sám hối từ đây. (C)

Đệ tử thấy mình nông nổi

Con đường chánh niệm lãng xao

Chất chứa vô minh phiền não

Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Có lúc tâm tư buồn chán

Mang đầy dằn vặt lo âu,

Vì không hiểu được kẻ khác

Cho nên hờn giận, oán cừu;

Lý luận xong rồi trách móc

Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau

Chia cách hố kia càng rộng

Có ngày không nói với nhau

Cũng không muốn nhìn thấy mặt

Gây nên nội kết dài lâu;

Nay con hướng về Tam Bảo

Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

Đệ tử biết trong tâm thức

Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:

Hạt giống thương yêu, hiểu biết

Và bao hạt giống an vui.

Nhưng vì chưa biết tưới tẩm

Hạt lành không mọc tốt tươi

Cứ để khổ đau tràn lấp

Làm cho đen tối cuộc đời

Quen lối bỏ hình bắt bóng

Đuổi theo hạnh phúc xa vời

Tâm cứ bận về quá khứ

Hoặc lo rong ruổi tương lai

Quanh quẩn trong vòng buồn giận

Xem thường bảo vật trong tay

Dày đạp lên trên hạnh phúc

Tháng năm sầu khổ miệt mài;

Giờ đây trầm xông bảo điện

Con nguyền sám hối đổi thay. (C)

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng

Hướng về chư Bụt mười phương

Cùng với các vị Bồ Tát

Thanh văn, duyên giác, thánh hiền

Chí thành cầu xin sám hối

Bao nhiêu lầm lỡ triền miên

Xin lấy cam lồ tịnh thủy

Tưới lên dập tắt não phiền

Xin lấy con thuyền chánh pháp

Đưa con vượt nẻo oan khiên

Xin nguyện sống đời tỉnh thức

Học theo đạo lý chân truyền

Thực tập nụ cười hơi thở

Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (C)

Đệ tử xin nguyền trở lại

Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Vườn tâm ươm hạt giống tốt

Vun trồng hiểu biết, thương yêu.

Xin nguyện học phép quán chiếu

Tập nhìn tập hiểu thật sâu

Thấy được tự tánh các pháp

Thoát ngoài sinh tử trần lao

Nguyện học nói lời ái ngữ

Thương yêu, chăm sóc sớm chiều

Đem nguồn vui tới mọi nẻo

Giúp người vơi nỗi sầu đau

Đền đáp công ơn cha mẹ

Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.

Tín thành tâm hương một nén

Đài sen con nguyện hồi đầu

Nguyện đức từ bi che chở

Trên con đường đạo nhiệm mầu

Nguyện xin chuyên cần tu tập

Vuông tròn đạo quả về sau. (CCC)

6. Tùy Hỷ Hồi Hướng

Các đức Thế Tôn

Thường trú trên đời

Xin thương xót con:

Vì ngay trong kiếp này

Và những kiếp xa xưa

Từ đời vô thỉ

Con đã từng lầm lẫn

Ðã gây khổ đau

Cho chính bản thân

Và cho kẻ khác.

Tự mình gây ra lầm lỗi

Hoặc xúi người khác

Làm nên lầm lỗi

Hoặc tán đồng theo

Giết hại, trộm cắp

Dối trá, tà dâm

Với những tà nghiệp khác

Trong mười nghiệp bất thiện

Hoặc có che dấu

Hoặc không che dấu

Những tội lỗi ấy Ðưa về địa ngục

Ngạ quỷ, súc sinh

Làm cho kiếp sau

Sinh nơi biên địa

Sáu căn khiếm khuyết

Không có điều kiện

Lớn lên thành người

Những tội chướng ấy

Hôm nay con nguyền nhất tâm

Cầu xin sám hối. (C)

Xin chư Bụt Thế Tôn

Chứng biết cho con

Thương tưởng đến con

Con phủ phục trước mặt các ngài

Phát lời nguyện rằng:

Nếu trong vô lượng kiếp xa xưa,

Cũng như trong đời này

Nếu con đã từng bố thí

Dù chỉ một nắm cơm

Hoặc một manh áo,

Nếu con đã từng nói lời ái ngữ

Dù chỉ một vài câu,

Nếu con đã từng biết nhìn với con mắt từ bi

Dù chỉ trong chốc lát,

Nếu con đã từng có cử chỉ an ủi vỗ về

Dù chỉ một vài lần,

Nếu con đã từng lắng nghe diệu pháp

Dù chỉ một buổi,

Nếu con đã từng cúng dường trai tăng

Dù chỉ một lần

Nếu con đã từng cứu mạng chúng sinh

Dù chỉ là vài con sâu con kiến,

Nếu con đã từng tụng đọc kinh văn

Dù chỉ một vài câu,

Nếu con đã từng xuất gia

Dù chỉ trong một kiếp,

Nếu con đã từng nâng đỡ kẻ khác trên đường tu học

Dù chỉ giúp được vài người,

Nếu con đã từng tu tập tịnh giới

Dù chưa được hoàn toàn thanh tịnh,

Tất cả những công đức ấy

Ðều là những thiện căn con đã gieo trồng

Hôm nay xin gồm thâu tất cả lại

Kính dâng lên chư Bụt

Như một tràng hoa ngát hương

Và xin hồi hướng tất cả các công đức ấy

Về quả vị Bồ Ðề. (C)

Con xin mở lòng rộng lớn

Hướng về Vô Thượng Chính Giác,

Nguyện đạt tới hiểu biết lớn

Nguyện thành tựu thương yêu sâu

Nguyện tu tập chuyên cần

Chuyển hóa khổ đau

Cho con và cho tất cả mọi loài

Tất cả mọi động tác của thân miệng ý

Ðều xin hướng về

Làm hạnh phúc cho mọi người mọi loài.

Ðó là ước mong sâu sắc nhất của con

Ngoài tâm Bồ Ðề

Ngoài khao khát hiểu biết lớn

Ngoài nguyện ước thương yêu sâu

Con không còn ước mong nào nữa cả. (C)

Chư Bụt trong mười phương và ba đời

Ðều đã từng hồi hướng như thế

Hôm nay con cũng xin hồi hướng như thế.

Bao nhiêu lầm lỗi đều xin sám hối

Bao nhiêu công đức đều xin tùy hỉ

Biển công đức vô lượng

Cũng là núi trí tuệ cao vòi vọi Chư Bụt và thầy tổ

Là ánh sáng soi chiếu cho con

Trong giờ phút trang nghiêm

Xin đem thân mạng này

Quay về và đảnh lễ. (CCC)

7. Ngày Đêm An Lành

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Ngày đêm sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở

Bốn loài sinh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Ðịa. (C)

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt

Lại như mặt nhật phóng quang minh

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương

Hỷ Xả Từ Bi đều thấm nhuận.

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần) (C)

8. Chuyển Niệm

Chúng con hiện tiền tâm thanh tịnh
Thiền tọa kinh hành và tụng kinh
Xin nguyện Tam Bảo và Long Thiên
Yểm trợ đạo tràng cùng bốn chúng
Tám nạn ba đường đều thoát khỏi
Bốn ân ba cõi thấm hồng ân
Thế giới khắp nơi không chiến tranh
Gió hòa mưa thuận dân an lạc.
Đại chúng chuyên tu càng tinh tiến
Mười địa đi lên không khó khăn
Tăng thân an lạc sống tươi vui
Mọi giới quy y thêm phước tuệ.
Trí Bụt sáng ngời như trăng tỏ
Thân Bụt thanh tịnh như lưu ly
Bụt ở thế gian thường cứu khổ
Tâm Bụt không đâu không từ bi.
Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni. (CC)

9. Thiên Long Hộ Pháp

Thiên, Long, Tu La và Dược Xoa
Đến đây nghe Pháp phải hết lòng
Ủng hộ đạo Bụt cho bền lâu
Tất cả làm theo lời Bụt dạy.
Những ai đã đến đây nghe Pháp
Hoặc ở dưới đất hoặc trên không
Hãy nhìn mọi loài bằng mắt thương
Ngày đêm an trú trong chánh pháp.
Nguyện cho thế giới thường an ổn
Thấm nhuần phước trí và từ bi
Tất cả tội chướng đều tiêu trừ
Lìa xa khổ não thường an lạc.
Đại chúng nhất tâm trì giới luật
Công phu thiền định phải tinh chuyên
Đóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm
Khắp nơi mọi loài đều hạnh phúc. (CCC)

10. Bốn Phép Tùy Niệm

Kính lạy đức Thế Tôn, bậc thầy lãnh đạo của chúng con

Người là bậc xứng đáng nhất để được tôn kính và cúng dường

Người là bậc có trí giác chân thực và toàn vẹn. (C)

(Niệm Bụt)

Tự thân của đức Như Lai, người từ chân như tới, thầy của chúng con

Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường

Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện

Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác

Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu

Là bậc hiểu thấu thế gian

Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người

Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân

Là bậc tỉnh thức toàn vẹn

Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời. (C)

(Niệm Pháp)

Diệu pháp của đức Thế Tôn

Con đường mà chúng con đang nguyện đi theo

Là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết

Là giáo pháp có thể chứng nghiệm ngay trong giờ phút hiện tại

Là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian

Là giáo pháp mọi người có thể đến mà tự thấy

Là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên

Là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não

Là giáo pháp người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt. (C)

(Niệm Tăng)

Tăng thân của đức Thế Tôn

Là đoàn thể mà chúng con đang quay về nương tựa

Là đoàn thể đang đi trên đường sáng ngời

Là đoàn thể đang đi trên đường chính trực

Là đoàn thể đang đi trên đường ứng hợp chân lý

Là đoàn thể đang đi trên đường thánh thiện

Là đoàn thể gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả

Là đoàn thể xứng đáng được cúng dường

Là đoàn thể xứng đáng được quy kính

Là đoàn thể xứng đáng được tôn sùng

Là đoàn thể xứng đáng được ngưỡng mộ

Là ruộng phước quý hóa nhất trên đời. (C)

(Niệm Giới)

Giới pháp của đức Thế Tôn

Luật nghi chánh niệm mà chúng con đang hành trì

Là giới thân nguyên vẹn

Là giới thân không bao giờ bị sứt mẻ

Là giới thân không bao giờ bị nhiễm ô

Là giới thân không bao giờ bị tỳ vết

Là giới thân không bao giờ bị hỗn tạp

Là giới thân được người thức giả ngợi khen và hâm mộ

Là giới thân có công năng bảo vệ tự do

Là giới thân đưa tới sự không sợ hãi

Là giới thân đưa tới chánh định

Là giới thân đưa tới tuệ giác

Là giới thân đưa tới giải thoát và hạnh phúc đời đời. (CCC)

11. Kệ Tán

1) Xưng Tán Bụt

Phật bảo sáng vô cùng

Đã từng vô lượng kiếp thành công

Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông

Sáng rực đỉnh Linh Phong

Trên trán phóng hào quang rực rỡ

Chiếu soi sáu nẻo hôn mông

Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng

Tiếp nối Pháp chánh tông.

Xin quy y thường trú Phật đà gia!

2) Xưng Tán Pháp

Pháp bảo đẹp vô cùng

Lời vàng do chánh Bụt tuyên dương

Chư thiên trỗi nhạc tán hoa hương

Pháp mầu nhiệm tỏ tường

Ghi chép rõ ràng thành ba Tạng

Lưu truyền hậu thế mười phương

Chúng con nay thấy được con đường

Nguyện hết sức tuyên dương.

Xin quy y thường trú Đạt ma gia!

3) Xưng Tán Tăng

Tăng bảo quý vô cùng

Phước điền hạt tốt đã đơm bông

Ba y một bát bước thong dong

Giới định tuệ dung thông

An trú đêm ngày trong chánh niệm

Thiền cơ chứng đạt nên công

Chúng con tất cả nguyện một lòng

Về nương tựa tăng thân.

Xin quy y thường trú Tăng già gia

4) Dâng Hương (1)

Hương đốt khói trầm xông ngát

Kết thành một đóa tường vân

Đệ tử đem lòng thành kính

Cúng dường chư Bụt mười phương

Giới luật chuyên trì nghiêm mật

Công phu thiền định tinh cần

Tuệ giác hiện dần quả báu

Dâng thành một nén tâm hương.

Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương.

5) Dâng Hương (2)

Lò báu đốt danh hương

Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương

Tâm bồ đề dũng liệt phi thường

Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang

Khắp chốn an định tỏ tường

Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.

Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương

6) Dâng Hương (3)

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Bụt

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cõi lãng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương

7) Dâng Hương (4)

Nguyện khói hương thơm này

Cung thỉnh được Thế Tôn

Có mặt với chúng con

Nơi đạo tràng ở đây

Trong giây phút hiện tại

Nguyện khói hương thơm này

Tỏa ngát cả mười phương

Thanh tịnh chốn đạo tràng

Giúp chúng con duy trì

Chánh kiến chánh tư duy

Nguyện khói hương thơm này

Bảo hộ cho chúng con

Vững chãi và thảnh thơi

Hiểu nhau và thương nhau

Bây giờ và mãi mãi

Hương Giới, Định và Tuệ

Là tâm hương nhiệm mầu

Chúng con kính dâng lên

Chư Bụt và Bồ Tát

Trong thế giới mười phương

Nguyện mọi loài chúng sanh

Thấy được ánh đạo vàng

Ly khai nẻo sanh tử

Hướng về nẻo bồ đề

Thường trú trong an lạc.

Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương

8) Dâng Hương (5)

Tâm hương vừa mới đốt

Pháp giới đã thơm lừng

Mây lành dâng bốn hướng Chư Bụt hiện toàn thân.

Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương

9) Tán Dương Thế Tôn (1)

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

10) Tán Dương Thế Tôn (2)

Xưng tán đức Thế Tôn

Bậc vô thượng năng nhân

Từng trải qua vô lượng kiếp tu nhân

Rồi từ cung Đâu Xuất giáng thần

Giã từ ngôi vị quốc vương

Ngồi gốc Bồ Đề đại phá Ma quân

Một sáng sao mai vừa mọc

Đạo lớn viên thành

Rồi đại chuyển Pháp luân.

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm Đạo vô sanh sẽ chứng

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm

Đạo vô sanh nguyện chứng

11) Tán Dương Thế Tôn (3)

Mặt đẹp như vầng nguyệt

Ba cõi đều xưng Tôn

Hàng phục mọi chướng ma

Thiên Nhân đều nép phục.

12) Tán Dương Quán Âm (1)

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh

Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm

13) Tán Dương Quán Âm (2)

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen

Cam lồ một giọt rưới lên

Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm

14) Tán Dương Pháp Hoa

Đêm tụng Kinh Pháp Hoa

Tiếng xao động tinh hà

Địa cầu vừa tỉnh thức

Lòng đất bỗng đơm hoa!

Đêm tụng Kinh Pháp Hoa

Bảo tháp hiện chói lòa

Khắp trời Bồ Tát hiện

Tay Bụt trong tay ta.

15) Tán Dương Kim Cương

Làm sao vượt sanh tử

Đạt được thân Kim Cương?

Tu tập theo lối nào

Quét được muôn huyễn tướng?

Xin Bụt đem lòng thương

Mở bày kho bí tạng

Vì tất cả chúng con

Đem pháp mầu diễn xướng!

Tán Dương Chuẩn Đề

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế

Thành tâm đảnh lễ Thất Câu Chi

Con nay xưng tán Đại Chuẩn Đề

Xin nguyện xót thương mà gia hộ.

16) Niệm Bụt

Sông Ái dài muôn dặm

Biển Mê sóng vạn tầm

Cõi luân hồi muốn thoát

Niệm Bụt hãy nhất tâm.

17) Cúng Dường

Phụng hiến cam lồ vị

Phân lượng như thái hư

Xin mọi loài đạt nguyện

Về nương bóng Đại Từ.

18) Sám Hối

Con đã gây ra bao lầm lỡ

Khi nói, khi làm, khi tư duy

Đam mê, hờn giận và ngu si

Nay con cúi đầu xin sám hối

Một lòng con cầu Bụt chứng tri

Bắt đầu hôm nay nguyền làm mới

Nguyền sống đêm ngày trong chánh niệm

Nguyền không lặp lại lỗi lầm xưa.

Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối

19) Thỉnh Chuông (1)

Ba nghiệp lắng thanh tịnh

Gửi lòng theo tiếng chuông

Nguyện người nghe tỉnh thức

Vượt thoát nẻo đau buồn.

20) Thỉnh Chuông (2)

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Khắp nơi u tối mọi loài nghe

Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử

Giác ngộ tâm tư một hướng về.

21) Thỉnh Chuông (3)

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Xa xôi tăm tối cũng đều nghe

Những ai lạc bước mau dừng lại

Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.

22) Thỉnh Chuông (4)

Chuông đại hồng mới vọng

Tiếng kệ xướng đã vang

Trên vọng tới thiên đường

Dưới thông về địa phủ

Nam mô đức Bồ Tát Địa Tạng giáo chủ cõi u minh

23) Nghe Chuông (1)

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe

Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.

24) Nghe Chuông (2)

Nghe chuông phiền não tan mây khói

Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười

Hơi thở nương chuông về chánh niệm

Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.

25) Nghe Chuông (3)

Nghe tiếng chuông

Lòng nhẹ buông

Tâm tĩnh lặng

Hết sầu thương

Tập buông thả

Thôi vấn vương

Lắng nghe thấu

Tận nguồn cơn

Học nhìn lại

Hiểu và thương.

Nam mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm

26) Kệ Chuông (thời tĩnh tọa sáng)

Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai

Tĩnh tọa lòng an, miệng mỉm cười

Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức

Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

27) Kệ Chuông (thời tĩnh tọa tối)

Vững thân ngồi dưới cội bồ đề

Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi

Thu nhiếp thân tâm vào chánh niệm

Rõ soi diện mục thoát bờ mê

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập.

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

28) Kệ Trống

Trống sấm vừa xao nghiệp chướng tiêu

Ba hồi chín chuyển hướng tiêu diêu

Trên kia thiên giới quần tiên lạc

Dưới ấy u quan chúng quỷ siêu.

Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Địa (3 lần)

29) Mở Kinh (1)

Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thụ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi.

30) Mở Kinh (2)

Pháp Bụt cao siêu huyền diệu

Ngàn đời chưa dễ gặp đâu

Giờ đây có duyên trì tụng

Nguyện xin đạt ý nhiệm mầu.

31) Hồi Hướng

Trì tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sanh mọi miền.

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền não xin nguyện đoạn

Quả Bụt xin chứng nên.

32) Hồi Hướng Tịnh Độ (1)

Nguyện sanh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sanh

Chư Bụt và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành.

Nguyện dứt hết phiền não

Cho trí tuệ phát sanh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành.

33) Hồi Hướng Tịnh Độ (2)

Các Bụt trong mười phương

A Di Đà bậc nhất

Chín phẩm sen độ người

Uy đức không lường được

Con xin nguyện quy y

Sám hối tội ba nghiệp

Gồm hết phước thiện xưa

Một lòng xin hồi hướng:

Nguyện công phu niệm Bụt

Cảm ứng được hiện tiền

Rồi đến giờ lâm chung

Cảnh Tây Phương hiển hiện

Những gì thấy và nghe

Đều làm con tinh tiến

Niệm Bụt quyết một lòng

Sanh về nước Cực Lạc

Thấy Bụt thoát sanh tử

Rồi được cùng với Bụt

Giáo hóa và độ sanh

Đoạn vô biên phiền não

Tu vô lượng pháp môn

Nguyền độ hết chúng sanh

Đều trọn thành chánh giác

Hư không hữu hạn

Nguyện con vô cùng

Hữu tình vô tình

Đều lên bờ giác.

34) Tắm Bụt

Hôm nay được tắm cho Như Lai

Trí tuệ quang minh công đức lớn

Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm

Được thấy trần gian hiện pháp thân.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

35) Cát Tường

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở

Bốn loài sinh lên đất Tịnh

Ba cõi thác hóa tòa Sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam hiền

Vạn loại hữu tình lên Thập Địa

Nam mô Bồ Tát Siêu Thập Địa

36) Cam Lộ

Tào Khê một dòng biếc

Chảy mãi về phương đông

Quan Âm bình nước tịnh

Tẩy sạch dấu phong trần

Cành dương rưới cam lộ

Làm sống dậy mùa xuân

Đề hồ trong cổ họng

Làm lắng dịu muôn lòng

Nam mô Bồ Tát Cam Lộ Vị

37) Nước Tịnh (1)

Đầu cành dương liễu vương cam lộ

Một giọt mười phương rưới cũng đầy

Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết

Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây.

Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa

38) Nước Tịnh (2)

Nước này vốn sẵn tám công đức

Rửa đi trần cấu của muôn loài

Đưa vào cõi nhiệm mầu Hoa Tạng

Chúng sanh siêu thoát không riêng ai

Nước không rửa nước, pháp thân nhiệm

Bụi không vương bụi, tự tâm khai

Đàn tràng rưới lên đã thanh tịnh

Cây héo biến thành cây tốt tươi

Cõi uế hóa ra làm cõi tịnh

Mọi loài mát mẻ sống an vui.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa

39) Nước Tịnh (3)

Cành dương nước tịnh

Rưới khắp tam thiên

Tánh không tám đức độ nhân thiên

Pháp giới sáng rộng thêm

Diệt mọi oan khiên

Biển lửa nở hoa sen.

Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa

40) Siêu Độ

Tây phương không xa cách

Tây phương trước mặt người

Ngàn sông về biển lớn

Trăng lặn không lìa trời

Âm dương không cách trở

Sanh tử vẫn tương dung

Niệm Bụt cầu siêu độ

Lắng nghe xin một lòng.

41) Vãng Sanh

Nam Kha mộng vừa tỉnh

Tịnh Độ sen nở rồi

Quê nhà đã về tới

An lạc và thảnh thơi

Nam mô Bồ Tát An Lạc Địa

Xuất Sanh

Đại bàng Garuda

Quỷ thần nơi khoáng dã

Mẹ con quỷ la sát

Cam lồ đều no đủ.

Án mục đế tóa ha

42) Năm Quán

1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất, trời, của muôn loài và công phu lao tác.

2. Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thụ nhận thức ăn này.

3. Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.

4. Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu khổ đau của mọi loài, bảo hộ được trái đất và chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.

5. Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và để độ đời nên chúng con xin thụ nhận thức ăn này.

43) Ăn Cơm

Thìa thứ nhất, nguyện hiến tặng niềm vui

Thìa thứ hai, nguyện làm vơi nỗi khổ

Thìa thứ ba, nguyện giữ lòng hoan hỷ

Thìa thứ tư, nguyện học hạnh đối xử bình đẳng, không kỳ thị và loại trừ.

44) Nhìn Bát Khi Ăn Xong

Bát cơm đã vơi

Bụng đã no rồi

Bốn ơn xin nhớ

Nguyện sẽ đền bồi.

45) Tiến Trà

Trà trên đỉnh núi Tản

Nước giữa lòng sông Đà

Thiền vị chỉ một ngụm

Tịnh độ đã sanh qua.

Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Độ

46) Quán Tưởng

Trong thể tánh chân như

Không chủ thể đối tượng

Đệ tử kính lạy Bụt

Trong tương cảm nhiệm mầu

Biểu hiện khắp mười phương

Như Đế châu ảnh chiếu

Nơi nào cũng có Bụt

Và có con kính lạy.

47) Khai Thị Cho Người Quá Cố

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sanh mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Nhìn kia biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự muôn đời tôi vẫn tự do

Tử sanh là cửa ngõ ra vào

Tử sanh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào

Để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn vàn nẻo sống.

48) Xưng Tán Tam Bảo

Kính lạy đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri (C)

Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Bụt, Thế Tôn. (C)

Diệu Pháp của đức Thế Tôn là thiện thuyết, là hiện thân thụ chứng, là xa lìa nhiệt não, là vượt thoát thời gian, là đến để mà thấy, là dẫn đạo đi lên, là tự mình thông hiểu. (C)

Tăng thân của đức Thế Tôn

Đang đi trên đường diệu hạnh,

Trên đường trực hạnh,

Trên đường ứng lý

Trên đường chánh chân

Là đoàn thể tứ song bát bối

Là đáng được cung dưỡng, đáng được tôn sùng, đáng được quy kính, đáng được chắp tay

Là phước điền vô thượng trên đời. (C)

(Pali)

Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa. (C)

Iti pi so bhagavā; araham sammā-sambuddho,

Svākkhāto bhagavatā dhammo, sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko, opanayiko paccattam veditabbo vinnūhi’ti (C)

Supaṭipanno bhagavato sāvaka sangho, ujupaṭipanno bhagavato sāvaka sangho, ñāyapaṭipanno bhagavato sāvaka sangho, sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvaka sangho, yadidam cattāri purisayugāni aṭṭhapurisa-puggalā, esa bhagavato sāvaka sangho, ahuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaram puññakkhettam lokassā’ti. (C) vijjā-caraṇa-sampanno sugato lokavidū, anuttaro purisadamma-sārathi satthā-deva manussānam buddho bhagāva’ti. (C)

12. Lời Khấn Nguyện Đầu Năm

(Mỗi năm vào giờ đón Giao Thừa mừng năm mới, đại chúng ba xóm bốn chùa Làng Mai lại vân tập về thiền đường (năm nay kính mời quý vị thân hữu về thiền đường Xóm Mới). Khi thời khắc giao thừa vừa điểm, ba hồi chuông trống bát nhã sẽ vang lên. Tiếng chuông trống kết thúc, các thầy, các sư cô đại diện của bốn chùa cung kính lên trước bàn thờ Bụt, bàn thờ Tổ và đọc Lời Khấn Nguyện Đầu Năm bằng ba thứ tiếng: Tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt.)

Kính lạy chư vị Tổ tiên tâm linh và huyết thống của chúng con.

Thở vào, chúng con ý thức là chư vị đang có mặt trong chúng con. Chư vị chưa bao giờ bỏ chúng con, và chúng con luôn luôn mang chư vị mà đi về tương lai. Chúng con biết rằng trong quá khứ, chúng con đã dại dột gây ra bao nhiêu lầm lỗi. Chúng con đã tạo ra chia rẽ, hận thù, khổ đau, cô đơn và tuyệt vọng. Chúng con đã để cho tập khí chủ nghĩa cá nhân lộng hành và tàn phá. Chúng con đã thấy được rằng danh vọng, tiền tài, quyền lực và tư dục đã không đem lại hạnh phúc chân thực cho chúng con. Chúng con đã thấy được rằng chỉ có lòng thương yêu và sự hiểu biết mới đem lại một ý nghĩa cho sự sống và chúng con phải tập sống với nhau như một dòng sông trong tăng thân thì con cháu chúng con mới có được một tương lai sáng đẹp trên trái đất này.

Giờ phút mà chúng con tập họp lại đây trước bàn thờ chư vị, chúng con kính cẩn phát nguyện là bắt đầu từ năm Tân Mão, 2011, chúng con sẽ tập sống thật hài hòa và an vui trong phạm vi gia đình và tăng thân của chúng con, như những con ong cùng sống chung trong một tổ ong hay những tế bào của cùng một cơ thể. Chúng con hứa là chúng con sẽ học hỏi thái độ cởi mở để có thể truyền thông được dễ dàng với những thành phần khác trong gia đình và trong tăng thân chúng con, luôn luôn tập hạnh lắng nghe và ái ngữ. Chúng con nguyện tập lắng nghe chư vị, cũng như chúng con sẽ tập lắng nghe anh chị em, bằng hữu và con cháu của chúng con, để chúng con có thể sống hài hòa và hạnh phúc với nhau. Chúng con nguyện sẽ tập thấy hạnh phúc của tăng thân là hạnh phúc của chính mình. Chúng con biết đây là cách thức duy nhất để bảo đảm cho con cháu của chúng con một tương lai trên trái đất. Trong giờ phút linh thiêng khởi sự cho năm mới, chúng con trân trọng và thành kính hứa với chư vị là chúng con sẽ tập thở có chánh niệm, tập đi có chánh niệm, tập nói năng có chánh niệm, tập nhìn bằng con mắt của tăng thân và nghe bằng tai của tăng thân, tập sống đơn giản trở lại, tiêu thụ ít trở lại và tập thương theo tinh thần từ bi và không kỳ thị. Chúng con đã tha thứ được cho nhau, đã hòa giải được với nhau trước khi đến đây trình diện với chư vị trên bàn thờ Tổ tiên của chúng con. Xin chư vị chứng giám lòng thành của chúng con và luôn luôn phù hộ cho chúng con và cho các cháu. Chúng con nguyện thực tập cho chư vị và cho cả con cháu của chúng con để hòa bình, an lạc và thương yêu có mặt trở lại trên thế gian này. Chúng con kính dâng hương hoa, quả phẩm, lòng hiếu thảo của chúng con, và xin lạy xuống trước chư vị bốn lạy.

13. Nghi Thức Ăn Cơm Im Lặng

Mục đích của sự ăn cơm im lặng là để thấy được giá trị của những thức ăn mà ta đang ăn và thấy được sự có mặt của những người đang ngồi ăn với ta bữa cơm hôm nay. Cái thấy này chỉ trở nên sâu sắc khi ta biết vừa ăn vừa quán niệm. Sự quán niệm này không mệt nhọc, không làm hao tổn trí óc và mệt bộ tiêu hóa; trái lại nó còn làm cho ta thanh tịnh khỏe khoắn và an lạc thêm. Im lặng giúp cho ta quán niệm thành công. Thức ăn ta đang ăn có thể cho ta thấy liên hệ mật thiết giữa ta và vũ trụ, giữa ta và trái đất, giữa ta và mọi người cùng mọi loài. Từng cọng rau, từng giọt tương, từng miếng đậu chứa trong chúng sự sống của trái đất toàn vẹn và của cả mặt trời. Ta thấy được ý nghĩa và giá trị sự sống ta qua những miếng ăn nhỏ bé và quý giá đó. Ta ý thức được rằng ta đang ngồi chung với những con người khác, và ta có cơ hội để nhìn thấy được họ một cách rõ ràng và hiện thực hơn. Ta có cơ hội cười với họ một nụ cười thật sự thân hữu và có chất liệu cảm thông sâu sắc. Các hình ảnh chứa đựng trong các bài thi kệ đều là những hình ảnh thiết thực; ta phải thấy được những hình ảnh đó và sử dụng được chúng để nhìn sâu vào trong sự vật. Bữa cơm im lặng đầu tiên có thể là sẽ hơi ngỡ ngàng và chưa được tự nhiên, nhưng nếu ta học được thói quen, ta sẽ thấy những bữa cơm im lặng đem lại cho ta thật nhiều hạnh phúc, an lạc và đằm thắm.

Thi kệ dùng trong các bữa cơm (im lặng)

1) Nâng chiếc bát không lên

Tay cầm chiếc bát không

Tôi biết rằng trưa nay

Tôi có đủ may mắn

Để có bát cơm đầy.

(Chữ bát có thể được thay bằng chữ đĩa, hoặc chén, hoặc tô tùy theo trường hợp. Chữ trưa có thể được thay bằng chữ chiều. Bài thi kệ này giúp ta quán chiếu về thực trạng thiếu ăn trên thế giới và trên quê hương.)

2) Nhìn chiếc bát đầy thức ăn

Tay nâng bát cơm đầy

Tôi thấy rõ vạn vật Đang giang tay góp mặt

Để cùng nuôi dưỡng tôi.

(Bài thi kệ này giúp ta quán chiếu về nguyên lý duyên sinh qua hình ảnh thực phẩm và giúp ta thấy được sự sống của ta tùy thuộc vào sự sống của mọi loài.)

3) Ngồi xuống

Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề

Vững thân chánh niệm không hề lãng xao.

(Bài thi kệ này cũng như một lời tự hứa là sẽ giữ được chánh niệm trong suốt bữa ăn.)

4) Nhìn bát cơm trước khi cầm bát

Vạn vật tranh sống

Trên trái đất này

Nguyện cho tất cả

Có bát cơm đầy.

(Bài thi kệ này giúp ta nuôi dưỡng lòng từ bi đối với những kẻ thiếu may mắn.)

5) Nâng bát cơm lên

Ai ơi nâng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

(Bài thi kệ này giúp ta thấy được công trình của người nông dân và hàng chục ngàn trẻ em vì thiếu ăn mà chết mỗi ngày.)

6) Trong khi ăn bốn đũa đầu

Đũa thứ nhất, nhớ tìm cách cho vui.

Đũa thứ hai, nhớ làm vơi nỗi khổ.

Đũa thứ ba, nhớ giữ lòng hoan hỷ.

Đũa thứ tư, nhớ học hạnh thả buông.

(Bài thi kệ này, được kéo dài trong thời gian bốn miếng ăn đầu của bữa ăn, giúp ta ôn lại tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) tức là bốn hạnh lớn của Bụt và Bồ Tát, hoặc bốn cảnh an trú đẹp đẽ nhất. Chữ đũa có thể thay thế bằng chữ muỗng hoặc thìa hoặc miếng.)

7) Nhìn bát cơm đã sạch thức ăn

Bát cơm đã vơi

Bụng đã no rồi

Bốn ơn xin nhớ

Nguyện sẽ đền bồi.

(Chữ bát có thể đổi thành chữ đĩa. Bài thi kệ này nhắc ta bốn ơn lớn: ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn bằng hữu và ơn mọi loài động vật, thực vật và khoáng chất.)

8) Nâng chén trà lên

Chén trà trong hai tay

Chánh niệm nâng tròn đầy

Thân và tâm an trú

Bây giờ và ở đây.

(Bài thi kệ này giúp ta trở về sống trong hiện tại và thấy được sự có mặt của mọi người quanh ta, của thế giới quanh ta, của những chi tiết nhỏ bé nhưng quan thiết của sự sống trong giờ phút hiện tại.)

14. Thi Kệ Nhật Dụng

Những bài thi kệ này cần được học thuộc lòng để thực tập hàng ngày. Mỗi câu của bài thi kệ đi theo một hơi thở, câu đầu đi với hơi thở vào, câu hai đi với hơi thở ra, v.v... Mục đích của sự thực tập là duy trì chánh niệm để an trú trong giờ phút hiện tại. Ví dụ khi đánh răng, ta nên thực tập bài thi kệ ‘‘Đánh răng và súc miệng, cho sạch nghiệp nói năng, miệng thơm lời chánh ngữ, hoa nở tự vườn tâm’’ trong suốt thời gian đánh răng. Ta đứng yên một chỗ để thực tập mà không đi qua đi lại, không nói chuyện, hoặc suy nghĩ tới việc gì khác. Đó là thực tập uy nghi và chánh niệm.

1) Thức Dậy

Thức dậy mỉm miệng cười

Hăm bốn giờ tinh khôi

Xin nguyện sống trọn vẹn

Mắt thương nhìn cuộc đời

2) Quơ Dép

Đặt chân trên mặt đất

Là thể hiện thần thông

Từng bước chân tỉnh thức

Làm hiển lộ pháp thân

3) Xuống Giường

Sáng, trưa, chiều và tối

Mọi loài hãy giữ gìn

Nếu dưới chân lỡ đạp

Xin nguyện chóng siêu sinh

Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Địa

4) Bật Đèn

Thất niệm là bóng đêm

Chánh niệm là ánh sáng

Đưa tỉnh thức trở về

Cho thế gian tỏ rạng

5) Xếp Mền

Xếp mền cho niềm vui

Sống ngăn nắp cuộc đời

Thân và tâm thúc liễm

Phiền não phải rụng rơi

6) Mở Cửa Sổ

Mở cửa nhìn pháp thân

Đời mầu nhiệm không cùng

Lòng dặn lòng tỉnh thức

Dòng nước tâm trong ngần

7) Vặn Nước

Nước từ nguồn suối cao

Nước từ lòng đất sâu

Nước mầu nhiệm tuôn chảy

Ơn nước luôn tràn đầy

8) Đánh Răng

Đánh răng và súc miệng

Cho sạch nghiệp nói năng

Miệng thơm lời chánh ngữ

Hoa nở tự vườn tâm

9) Súc Miệng

Súc miệng lòng cũng sạch

Vũ trụ ngát hoa hương

Ba nghiệp thường thanh tịnh

Cùng Bụt chơi Tây phương

10) Rửa Mặt

Rửa mặt là rửa tâm

Sạch hết mọi cấu trần

Để cho nguồn an lạc

Đi vào cả châu thân

11) Vào Nhà Cầu

Không nhơ cũng không sạch

Không bớt cũng không thêm

Trí tuệ Ba La Mật

Không có pháp nào trên

12) Đi Tiểu

Đi tiểu trong bản môn

Đổi trao nào kỳ diệu

Ta và ngươi không hai

Không dư mà không thiếu

13) Rửa Tay

Múc nước để rửa tay

Xin nguyện cho mọi người

Có đôi bàn tay khéo

Gìn giữ trái đất này

14) Tắm

Không sinh cũng không diệt

Không trước cũng không sau

Trao truyền và tiếp thọ

Pháp giới tính nhiệm mầu

15) Cạo Tóc

Cạo sạch mái tóc

Nguyện cho mọi người

Dứt hết phiền não

Độ thoát cho đời

16) Rửa Chân

Sự an lạc của ngón chân

Niềm an lạc của thân tâm

17) Soi Gương

Chánh niệm là đài gương

Gương soi hình tứ đại

Đẹp nhất là tình thương

Và cái nhìn rộng rãi

18) Mặc Áo

Mặc áo trong tích môn

Trang nghiêm y chánh báo

Tịnh độ trong tầm tay

Nước non cùng sáng tạo

19) Mặc Áo Nhật Bình

Mang áo của người tu

Tâm tư thường khỏe nhẹ

Nguyện sống đời thảnh thơi

Đem vui cho trần thế

20) Khoác Áo Ca Sa

(nâng ngang trán)

Đẹp thay áo giải thoát

Áo ruộng phước nhiệm mầu

Con cúi đầu tiếp nhận

Đời đời nguyện mang theo

Lên Xuống Cầu Thang

Lên hay xuống cầu thang

Bước chân thường nhẹ nhàng

Nếu nghe tiếng lộp cộp

Là biết lòng chưa an

21) Kệ Chuông (1)

Ba nghiệp lắng thanh tịnh

Gửi lòng theo tiếng chuông

Nguyện người nghe tỉnh thức

Vượt thoát nẻo đau buồn

22) Kệ Chuông (2)

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Xa xôi tăm tối cũng đều nghe

Những ai lạc bước mau dừng lại

Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

23) Kệ Chuông (3)

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Khắp nơi u tối mọi loài nghe

Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử

Giác ngộ tâm tư một hướng về

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

24) Nghe Chuông (1)

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe

Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm

25) Nghe Chuông (2)

Nghe chuông phiền não tan mây khói

Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười

Hơi thở nương chuông về chánh niệm

Vườn tâm hoa tuệ nở muôn nơi

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

26) Nghe Chuông (3)

Nghe tiếng chuông

Lòng nhẹ buông

Tâm tĩnh lặng

Hết sầu thương

Tập buông thả

Thôi vấn vương

Lắng nghe thấu

Tận nguồn cơn

Học nhìn lại

Hiểu và thương

27) Xếp Giày Dép

Đặt dép giày ngay ngắn

Xin nguyện cho mọi người

Đôi chân thường chánh niệm

Vào ra luôn thảnh thơi

28) Vào Thiền Đường

Vào thiền đường

Thấy chân tâm

Một ngồi xuống

Dứt trầm luân

29) Đốt Lò

Đốt lò trong bản môn

Gửi mây về mùa Hạ

Cất mặt trời để dành

Cho những ngày Đông giá

30) Đốt Nến

Thắp lên một ngọn đèn

Cúng dường vô lượng Bụt

Một tâm niệm an lành

Làm rạng ngời mặt đất

31) Quán Tưởng Trước Khi Lễ Bụt

Trong thể tính chân như

Không chủ thể đối tượng

Đệ tử kính lạy Bụt

Trong tương cảm nhiệm mầu

Biểu hiện khắp mười phương

Như Đế châu ảnh chiếu

Nơi nào cũng có Bụt

Và có con kính lạy

32) Xưng Tán Bụt

Phật bảo sáng vô cùng

Đã từng vô lượng kiếp thành công

Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông

Sáng rực đỉnh Linh Phong

Trên trán phóng hào quang rực rỡ

Chiếu soi sáu nẻo hôn mông

Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng

Tiếp nối Pháp chánh tông

Xin quy y thường trú Phật đà gia!

33) Xưng Tán Pháp

Pháp bảo đẹp vô cùng

Lời vàng do chính Bụt tuyên dương

Chư thiên trỗi nhạc tán hoa hương

Pháp mầu nhiệm tỏ tường

Ghi chép rõ ràng thành ba Tạng

Lưu truyền hậu thế mười phương

Chúng con nay thấy được con đường

Nguyện hết sức tuyên dương

Xin quy y thường trú Đạt ma gia!

34) Xưng Tán Tăng

Tăng bảo quý vô cùng

Phước điền hạt tốt đã đơm bông

Ba y một bát bước thong dong

Giới định tuệ dung thông

An trú đêm ngày trong chánh niệm

Thiền cơ chứng đạt nên công

Chúng con tất cả nguyện một lòng

Trở lại với tăng thân

Xin quy y thường trú Tăng già gia!

35) Ngồi Thiền Sáng

Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai

Tĩnh tọa lòng an miệng mỉm cười

Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức

Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

36) Ngồi Thiền Tối

Vững thân ngồi dưới cội bồ đề

Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi

Thu nhiếp thân tâm vào chánh niệm

Rõ soi diện mục thoát bờ mê

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập

Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

37) Ngồi Xuống

Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề

Vững thân chánh niệm không hề lãng xao

38) Điều Thân

Trong tư thế kiết già

Đóa hoa nhân phẩm nở

Ưu Đàm Hoa muôn thuở

Vẫn tỏa ngát hương thơm

39) Điều Chỉnh Hơi Thở

Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giờ phút đẹp tuyệt vời

40) Thở (1)

Quay về nương tựa

Hải đảo tự thân

Chánh niệm là Bụt

Soi sáng xa gần

Hơi thở là Pháp

Bảo hộ thân tâm

Năm uẩn là Tăng

Phối hợp tinh cần

Thở vào thở ra

Là hoa tươi mát

Là núi vững vàng

Nước tĩnh lặng chiếu

Không gian thênh thang

41) Thở (2)

Thở vào biết thở vào

Thở ra biết thở ra

Hơi thở vào đã sâu

Hơi thở ra đã chậm

Thở vào tôi thấy khỏe

Thở ra tôi thấy nhẹ

Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giây phút đẹp tuyệt vời

42) Thở (3)

Đã về

Đã tới

Bây giờ

Ở đây

Vững chãi

Thảnh thơi Quay về

Nương tựa

Nay tôi đã về

Nay tôi đã tới

An trú bây giờ

An trú ở đây

Vững chãi như núi xanh

Thảnh thơi dường mây trắng

Cửa vô sinh mở rồi

Trạm nhiên và bất động

43) Ngồi Thiền (1)

Ngồi thiền trong tích môn

Nơi nào không thành đạo?

Sinh tử trải bao lần

Phút giây nào độc đáo

44) Ngồi Thiền (2)

Ngồi thiền trong bản môn

Giây nào cũng thành đạo

Cội nào cũng bồ đề

Tòa nào cũng Đa bảo

45) Tê Chân Đổi Cách Ngồi

Khổ thọ và lạc thọ

Như mây trời theo gió

Hơi thở là giây neo

Thuyền về nơi bến cũ

46) Thiền Hành

Ý về muôn vạn nẻo

Thiền lộ tâm an nhiên

Từng bước gió mát dậy

Từng bước nở hoa sen

47) Chắp Tay Chào

Sen búp xin tặng người

Một vị Bụt tương lai

48) Nâng Bình Bát (1)

Bình bát của Như Lai

Nay được nâng trên tay

Nguyện hết lòng thực tập Pháp tam luân không tịch

49) Nâng Bình Bát (2)

Bình bát của Như Lai

Dùng làm ứng lượng khí

Xin giữ để nuôi thân

Và nuôi lớn chánh trí

50) Nâng Bát Không

Tay nâng chiếc bát không

Tôi biết rằng trưa nay

Tôi có đủ may mắn

Để có bát cơm đầy

51) Nâng Bát Đầy

Tay nâng bát cơm đầy

Tôi thấy rõ vạn vật

Đang dang tay góp mặt

Để cùng nuôi dưỡng tôi

52) Chú Nguyện

Pháp Bụt thật phi thường

Bảy hạt đầy mười phương

Cúng dường khắp pháp giới

Từ bi không biên cương

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)

53) Xuất Sanh

Đại bàng Garuda

Quỷ thần nơi khoáng dã

Mẹ con quỷ La Sát

Cam lồ đều no đủ

Án mục đế tóa ha (3 lần)

54) Quán Niệm Trước Khi Ăn

Bụt dạy ta khi ăn

Nên duy trì chánh niệm

Đại chúng khi nghe chuông Xin thực hành năm quán:

1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác.

2. Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.

3. Xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tật xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.

4. Chỉ xin ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.

5. Vì muốn nuôi dưỡng tình huynh đệ, xây dựng tăng thân, và chí nguyện độ đời nên thọ nhận thức ăn này.

55) Trước Khi Ăn

Vạn vật tranh sống

Trên quả đất này

Nguyện cho tất cả

Có bát cơm đầy

56) Bốn Đũa Đầu

Đũa thứ nhất, học hiến tặng niềm vui

Đũa thứ hai, học làm vơi nỗi khổ

Đũa thứ ba, học giữ lòng hoan hỷ

Đũa thứ tư, học thực tập thả buông

57) Ăn Cơm (1)

Ăn cơm nơi tích môn

Nuôi sống cả tổ tiên

Mở đường cho con cháu

Cùng tìm hướng đi lên

58) Ăn Cơm (2)

Ăn cơm nơi tích môn

Nhai đều như nhịp thở

Nhiệm mầu ta nuôi nhau

Từ bi nguyền cứu độ

59) Nhìn Bát Cơm Đã Sạch Thức Ăn

Bát cơm đã vơi

Bụng đã no rồi

Bốn ơn xin nhớ

Nguyện sẽ đền bồi

60) Nâng Chén Trà Lên

Chén trà trong hai tay

Chánh niệm nâng tròn đầy

Thân và tâm an trú

Nơi này và ở đây

61) Rửa Bát (1)

Rửa bát trong tích môn

Ta rửa bát ngàn đời

Bát dơ rồi bát sạch

Đều trên đường rong chơi

62) Rửa Bát (2)

Rửa bát trong tích môn

Ta nhìn ta mỉm cười

Ta làm chi đó vậy

Kìa nụ hồng đang tươi

63) Rửa Bát (3)

Rửa bát nơi tích môn

Chồng lên ba vạn cái

Nhìn qua cửa bản môn

Bát rửa hoài không ngại

64) Quét Tước

Siêng năng quét đất Bụt Cây tuệ nẩy mầm xanh

65) Quét Lá (1)

Quét lá nơi bản môn Lá nào cũng thị hiện

Chơi đi trốn đi tìm

Chẳng đi mà chẳng đến

66) Quét Lá (2)

Quét lá nơi bản môn

Ta cùng Người thị hiện

Đi về phía mặt trời

Hẹn nhau cùng lên tiếng

67) Tưới Cây Trong Chậu

Đừng thấy mình riêng lẻ cây ơi

Nước này tuôn chảy từ mạch đất trời

Nước này là đại địa

Ta có nhau tự muôn đời

68) Dọn Thiền Đường

Nơi thiền đường im mát

Quét dọn không thấy mệt

69) Cắt Hoa

Xin cắt một cành hoa

Tặng phẩm của đất trời

Hoa là vị Bồ Tát

Làm đẹp cho cuộc đời

70) Cắm Hoa

Trang nghiêm Tịnh Độ

Nơi cõi ta bà

Đất tâm thanh tịnh

Hiển lộ ngàn hoa

71) Thay Nước Bình Hoa

Nước giữ hoa tươi

Hoa nở cho người

Hoa thở tôi thở

Hoa cười tôi cười

72) Tắm Bụt

Hôm nay được tắm cho Như Lai

Trí tuệ quang minh công đức lớn

Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm

Được thấy trần gian hiện pháp thân

73) Chùi Cầu Tiêu

Đẹp thay sự quét dọn

Tịnh nghiệp ngày thêm lớn

74) Đổ Rác (1)

Một thùng rác bẩn

Một bông hồng thơm

Muôn vật chuyển hóa

Thường trong vô thường

75) Đổ Rác (2)

Đổ rác chốn bản môn

Nhìn cái nhìn bất nhị

Gửi gắm về tương lai

Bông hoa đầu thế kỷ

76) Làm Vườn

Đất đưa ta ra đời

Rồi đất ôm ấp ta

Sinh diệt trong hơi thở

Sinh diệt như hằng sa

77) Trồng Cây

Tôi gửi tôi cho đất

Đất gửi đất cho tôi

Tôi gửi tôi nơi Bụt

Bụt gửi Bụt nơi tôi

78) Nhổ Cỏ (1)

Nhổ cỏ nơi tích môn

Nhớ đến Lý Huệ Tông

Ta nhổ cỏ dùm vua

Hiến tặng đời sự sống

79) Nhổ Cỏ (2)

Nhổ cỏ nơi tích môn

Nhớ đến Trần Thái Tông

Nhổ cỏ dùm Chiêu Hoàng Cho sông dài biển rộng

80) Nhổ Cỏ (3)

Nhổ cỏ nơi tích môn

Nhớ nhìn bản môn cười

Bản môn không che mặt

Tích môn liền thảnh thơi

81) Nhổ Cỏ (4)

Nhổ cỏ nơi bản môn

Ta nhớ chú điệu xưa

Bụt che chở ngàn đời

Cho muôn ngàn cậu bé

82) Tưới Cây (1)

Nước mát và mặt trời

Cùng làm nên màu xanh

Cam lộ của Bồ Tát

Rưới xuống nơi sa mạc

Thành biển xanh Mông mênh

83) Tưới Cây (2)

Tưới cây trong bản môn

Tham dự vào sự sống

Mây tuyết cùng một dòng Núi cao về biển rộng

84) Tưới Cây (3)

Tưới cây trong tích môn

Tham dự vào sự sống

Mây tuyết cùng một dòng Núi cao về biển rộng

85) Lặt Rau

Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi

Vạn pháp nương nhau làm nên cuộc đời

86) Mở Máy Vi Tính

Thắp lên máy vi tính

Ý tiếp xúc với Tàng

Tập khí nguyện chuyển hóa

Nuôi lớn Hiểu và Thương

87) Nhấc Điện Thoại

Tiếng đi ngoài ngàn dặm

Xây dựng niềm tin yêu

Mỗi lời là châu ngọc

Mỗi lời là gấm thêu

88) Gắn Dây An Toàn

Hai phần ba tai nạn

Xảy ra tại gần nhà

Biết vậy tôi cẩn trọng Dù không đi đâu xa

89) Chít Khăn

Mái tóc đẹp ngày nào

Nay thành chiếc khăn nâu

Giúp tôi luôn ý thức

Tự do là người tu

90) Đi Xe Đạp

Ngồi thẳng trên xe đạp

Vững chãi giữ thăng bằng

Phúc xin tu cùng Tuệ

Hành và Giải song song

91) Trước Khi Rồ Máy Xe

Trước khi cho máy nổ

Tôi biết tôi đi đâu

Xe với tôi là một

Xe mau tôi cũng mau

92) Giận (1)

Cái giận làm tôi xấu

Biết vậy tôi mỉm cười

Quay về thủ hộ ý

Từ quán không buông lơi

93) Giận (2)

Giận nhau trong tích môn

Thở nhìn bản môn cười

Trò ghét thương đắp đổi

Sông nước cứ đầy vơi

94) Giận (3)

Giận nhau trong tích môn

Nhắm mắt nhìn mai sau

Trong ba trăm năm nữa

Người đâu và ta đâu?

95) Nhìn Bàn Tay

Bàn tay là của ai

Chưa từng một lần chết

Ai ngày qua đã sinh

Ai ngày mai sẽ diệt

96) Khâu Áo

Khâu áo chốn tích môn

Cho đời lành lặn lại

Mũi kim sợi chỉ này

Là công phu gặt hái

97) Kệ Vô Thường

Ngày nay đã qua

Đời sống ngắn lại

Hãy nhìn cho kỹ

Ta đã làm gì?

Đại chúng hãy cùng tinh tấn

Thiền tập hết lòng

Sống cho sâu sắc và thảnh thơi

Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng

15. Những Chỉ Dẫn Về Sự Thực Tập Ba Lạy

Thực tập ba lạy góp phần xây dựng tăng thân và hoàn cảnh của ta, làm cho ta có hạnh phúc. Thực tập ba lạy này trong ba tháng ta sẽ thấy hoàn cảnh của ta – y báo của ta – thay đổi và hạnh phúc của chúng ta tăng tiến.

Ba lạy được biểu tượng bằng một chữ thập và vòng tròn.

Ta bắt đầu bằng con đường dọc rồi tiếp đến bằng con đường ngang và sau hết là vòng tròn. Khi lạy xuống cái lạy đầu tiên, ta quán chiếu về tổ tiên và con cháu. Khi lạy ta nên lạy mọp xuống, càng sát đất càng tốt. Hai chân và hai tay sát xuống đất, trán cũng dính vào đất. Trong tư thế ấy, ta bắt đầu buông thư tất cả các bắp thịt trong cơ thể. Ta phải buông bỏ hết những gì ta nghĩ là ta, là của ta, để có thể hòa nhập được vào dòng sanh mạng của tổ tiên, trong đó có ta. “Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát, các vị thánh tăng. Có nhiều vị đã đạt tới mức toàn hảo về trí tuệ cũng như về thương yêu, nhưng cũng có các vị chưa đạt tới mức ấy, cũng còn những yếu kém, những khó khăn, những lên xuống.” Bên phía gia đình huyết thống cũng vậy. “Con có những vị tổ tiên rất cao, rất đẹp, nhưng cũng có những vị tổ tiên còn đau khổ, còn lên xuống. Nhìn vào con, con thấy con có những cái rất hay, rất tốt, nhưng con cũng còn có những yếu kém, nhu nhược, những lỗi lầm, những khuyết điểm. Con là ai mà không dám chấp nhận tổ tiên của con, vì vậy con chấp nhận tất cả quí vị là tổ tiên của con, và con hòa đồng với quí vị.” Lạy được như vậy, tự nhiên ta hòa giải được với tất cả tổ tiên của ta. Nếu ta giận thầy hay giận cha, giận mẹ, giận anh, giận chị thì cái lạy này là cái lạy để hòa giải với tất cả. Tất cả đều là tổ tiên của mình, trong đó có cha, có mẹ, chú, bác, cô, dì và có cả anh, cả chị nữa. Tất cả những người sanh ra trước mình đều là tổ tiên của mình. Đối với người xuất gia cũng vậy. Người thụ giới trước mình là anh mình hoặc là chị mình, dù người đó ít tuổi hơn. Dù người đó còn dở hơn mình về phương diện học hỏi cũng như về phương diện tu tập, thì người đó vẫn là anh của mình, vẫn là chị của mình, và mình chấp nhận người đó là anh, là chị của mình, chứ mình không nói: người đó giỏi gì hơn tôi mà lại làm anh tôi hay là làm chị tôi? Tổ tiên của ta cũng vậy. Tổ tiên của ta có những vị rất xuất sắc và cũng có những người còn yếu kém, nông nổi, nhưng tất cả đều là tổ tiên của ta và ta phải chấp nhận họ. Cha mẹ và anh chị của ta cũng vậy. Trong họ có những điều rất hay rất tốt nhưng trong họ cũng có những yếu kém. Ta biết rằng ta cũng vậy. Trong ta có những cái hay cái đẹp nhưng cũng có những yếu kém, vì vậy cho nên ta chấp nhận anh ta, ta chấp nhận chị ta. Ta không nói: “Người đó không xứng đáng làm anh tôi, người đó không xứng đáng làm chị tôi, tại vì người đó có hơn tôi gì đâu?” Tổ tiên là tổ tiên thôi. Giỏi hay dở đều là tổ tiên. Cha mẹ là cha mẹ thôi, dù giỏi hay dở cũng là cha mẹ. Trong truyền thống đạo Bụt, người xuất gia được coi là trưởng tử và trưởng nữ của Bụt, tại vì khi phát tâm xuất gia, họ bỏ gia đình, ra nhập vào tăng đoàn và đóng vai trò của người anh và người chị của giáo đoàn. Vì vậy, dù còn nhỏ tuổi, còn học dở, còn yếu kém về giới luật và uy nghi, họ vẫn là anh là chị của ta như thường. “Những người xuất gia đó, tuổi nhỏ hơn tôi, học Phật pháp chưa bằng tôi, tu cũng chưa đến đâu, tại sao họ lại ngồi trước, họ lại ngồi trên, họ làm anh làm chị tôi sao được. Nói như vậy là chưa hiểu được cái ý nghĩa thế nào là tổ tiên, thế nào là người xuất gia, là trưởng tử của Như Lai. Trưởng tử là con lớn. Dù có hư hèn, dù có khuyết giới, người đó cũng vẫn là anh của ta, là chị của ta, tại vì truyền thống là như thế. Họ là trưởng tử của Như Lai, ta có thể giỏi hơn họ, nhưng ta không thể nói rằng họ không phải là sư phụ của ta, sư thúc của ta, sư bá của ta, sư anh của ta, sư chị của ta. Họ là họ. Tại vì họ chưa có điều kiện, chưa có nhân duyên nên họ chưa giỏi đó thôi. Từ đó mà ta đi xuống các em ta, tới các con ta. Những người giận em, ganh với em, những người thấy em mình dở, em mình cứng đầu, em mình khó chịu, em mình hỗn; những người giận con, ghét con, muốn từ con, từ cháu, những người đó phải thực tập cho tinh chuyên cái lạy thứ nhất. “Lạy đức Thế Tôn, ở trong con có những điểm rất gần với sự toàn bích, nhưng bạch đức Thế Tôn, trong con cũng có những yếu kém, những lên xuống, những nội kết và khổ đau, vì vậy con có quyền gì mà không chấp nhận các em của con và các con của con khi các em, các con của con còn có những yếu kém, những lên xuống, cứng đầu và khổ đau. Con chấp nhận tất cả những người ấy là em của con, là con của con, là cháu của con.” Trong cái lạy thứ nhất ta phải làm cho được việc này, nghĩa là ta phải thực tập hòa giải được với những người trên ta và với những người dưới ta. Nếu cha mẹ mình đã sanh ra mình và chấp nhận mình là con, thì mình phải chấp nhận cha mẹ là cha mẹ, mình phải chấp nhận anh của mình là anh của mình, chị của mình là chị của mình, và em của mình là em của mình. Ta phải ôm lấy họ hết dù họ có hư hèn, dù họ có ương ngạnh, dù họ có khó khăn, dù họ có khổ đau, tại vì chánh trong ta cũng có những điểm tiêu cực đó. Mình là ai mà không chấp nhận cha mẹ mình, không chấp nhận anh chị của mình. Nếu thầy mình đã sanh ra mình, nếu thầy mình đã chấp nhận mình là học trò thì tại sao mình không chấp nhận người sư chị của mình là chị của mình, người sư anh của mình là anh của mình, người sư em của mình là em của mình. Dù người sư anh, sư chị hay sư em ấy còn có những yếu kém, còn có những lên xuống, còn có những trồi sụt, thì họ vẫn là sư anh của mình, sư chị của mình hay sư em của mình. Mình phải chấp nhận, mình phải hòa giải với người đó và chỉ có con đường ấy mới có thể giúp được những người kia. Cái lạy đầu tiên này ta phải lạy hàng ngày. Nhất là khi ta có vấn đề với cha mẹ, với thầy, với sư huynh, với sư đệ thì ta phải lạy cho thật hết lòng, phải phủ phục năm vóc sát đất.

Lạy thứ hai là cái lạy trong đó ta tiếp xúc với những con người và những chúng sanh có mặt cùng thời với ta, trong thời gian này, trong giờ phút hiện tại. Cũng như trong cái lạy đầu, ta phải mọp xuống sát đất, ta phải làm cho cái ngã của ta hòa nhập với dòng sanh mạng của thế giới trong giây phút hiện tại. Ta có thể hướng tới những vị Bồ Tát, những vị đại nhân đang có mặt trên thế giới, đang có mặt xung quanh ta trong giây phút hiện tại. Ta gọi họ là Bồ Tát hay không là Bồ Tát thì họ vẫn là các vị Bồ Tát. Họ mang danh hiệu Bồ Tát hay không mang danh hiệu Bồ Tát thì họ vẫn là Bồ Tát, tại vì trong họ có yếu tố của sự vững chãi, thảnh thơi và thương yêu. Họ ở khắp nơi. Có thể trong các tổ chức thiện nguyện như Médecins Sans Frontières hay Ecole Sans Frontières có những vị Bồ Tát như vậy. Có những tổ chức thiện nguyện đi làm việc khắp nơi trên thế giới; tình thương, sự vững chãi và sự thảnh thơi của họ đang được sử dụng để làm vơi bớt những khổ đau đang tràn ngập thế giới. Trong số những người đi làm việc cứu trợ, có người có chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi và an lạc, và vì vậy trong khi làm việc, họ không bị chìm đắm trong biển khổ. Nếu không có chất liệu của an lạc, thảnh thơi và vững chãi thì khi đi làm công việc xã hội, giúp đỡ người ta, mình sẽ bị chìm đắm luôn với người ta, mình sẽ giận hờn, mình sẽ thù hận. Nếu có những người không bị chìm đắm trong biển khổ là tại vì trong họ có những chất liệu vững chãi và thảnh thơi. Ngay ở quanh ta, chúng ta cũng đang có những vị Bồ Tát như vậy. Mở mắt ra là chúng ta có thể tiếp xúc với họ, chúng ta hòa nhập với họ: “Tôi với các vị là một, tôi đang nương vào các vị, và tôi đang được thừa hưởng chất liệu thảnh thơi, vững chãi và an lạc của quý vị.” Ta phải hòa nhập với họ nếu không thì ta sẽ yếu lắm. Ta phải dựa vào họ mà đừng cần đi tìm đâu xa tại vì họ có mặt ngay tại đây. Các vị đại nhân đó, các vị Bồ Tát đó không cần phải lớn tuổi, đôi khi họ còn rất nhỏ và ta có thể nhận thấy trong họ chất liệu của sự vững chãi, của sự thảnh thơi, của sự an bình và hạnh phúc mà ta rất cần đến. Trong cái lạy thứ hai này, ta hòa nhập với họ để tiếp nhận năng lượng đó của họ, ta biết rằng họ có mặt đó là may mắn cho ta lắm. Sau khi đã tiếp xúc với họ, ta lại tập tiếp xúc với những loài chúng sanh đang lặn ngụp chìm đắm trong biển khổ. Những người đang đau khổ vì chiến tranh ở Bosnia, những em bé đói ở Uganda, những người đang bị tù đày, những người đang khổ đau, những người đang bị áp bức bóc lột, những em bé lớn lên không được đi học phải đi lượm thức ăn từ những thùng rác… Tất cả những người đó đều là ta cả. Ta phải thấy ta là con ếch đang bơi thảnh thơi trong hồ thu, ta cũng thấy ta là con rắn nước trườn đi để tìm thức ăn và nuốt con ếch đó vào bụng. Con rắn nước cũng cần ăn, cần sống. Trong cuộc đời có những khổ đau như vậy, và tiếp xúc với những khổ đau đó, ta đau niềm đau của tất cả chúng sanh, ta thấy ta là một với họ, nhưng ta không đắm chìm trong biển khổ, tại vì ta đã có chỗ nương tựa, chỗ nương tựa của ta là các vị Bồ Tát, các bậc đại nhân. Những người có hạnh phúc, an lạc và thảnh thơi, ta không cần phải đi tìm ở đâu xa, họ có mặt ngay trong tăng thân. Những người đau khổ cũng vậy, ta không cần phải đi tìm đâu xa, họ nằm ngay ở trong tăng thân. Ta là họ, và khi ta nhận diện được họ rồi, con mắt ta đang nhìn họ đã chứng tỏ rằng ta đã thấy được cái đau khổ của họ. Ta thương xót họ, ta có lòng từ bi với họ và họ sẽ cảm nhận được ngay điều đó. Cái lạy thứ hai đem lại hạnh phúc cho ta ngay trong thời gian ta thực tập. Cái lạy thứ hai cho ta nhận diện được những người có chất liệu vững chãi, thảnh thơi và thương yêu, để chúng ta có thể nương vào họ và đồng nhất với họ. Cái lạy này cũng giúp ta nhận diện những kẻ đang đau khổ vì nhận thức sai lầm của họ, vì những nội kết trong quá khứ, vì những điều không may mắn đã xảy ra trong quá khứ của họ, để ta có thể ôm lấy được họ trong hai vòng tay, để có thể thông cảm và đồng nhất với họ. Ta hành xử với cái nhìn sâu sắc và thái độ từ bi. Chất liệu từ bi từ đâu mà có? Từ bi có được là do ta nhìn sâu và thấy rõ. Cái hiểu và cái thấy đưa tới cái thương. Trong cái lạy thứ hai này, ta nương tựa và hòa nhập với những người mạnh khỏe, an lạc, vững chãi và thảnh thơi nhưng ta cũng hòa đồng với những người có những khó khăn và đau khổ; và chánh cái thấy đó giúp ta phát khởi được tâm từ bi. Tâm từ bi một khi phát sanh sẽ được biểu hiện trên ánh mắt, trên bàn tay và bước chân của chúng ta. Và những cái đó bắt đầu giúp được người kia. Giúp được người kia nhưng đồng thời ta cũng giúp được chánh ta. Khi có chất liệu từ bi trong lòng, ta bắt đầu có hạnh phúc. Đối tượng của từ bi là người kia. Không biết người kia đã nhận được hạnh phúc nào từ từ bi ấy chưa, nhưng một khi giọt nước cam lộ của từ bi đã được ứa ra từ trái tim ta thì ta được hưởng trước. Người nào không có từ bi thì không có hạnh phúc, đó là điều mà ta đã học được trong đạo Bụt. Chất liệu từ bi càng lớn, hạnh phúc của ta càng lớn.

Lạy thứ ba bao trùm thời gian và không gian. “Lạy xuống, con buông bỏ ý niệm con chỉ là cái hình hài này.” Đây là sự thực tập mà thiền sư Tăng Hội gọi là “phóng khí xu mạng”. Thường thường ta nghĩ rằng chỉ có cái hình hài này là ta. Một số các phụ nữ ở Pháp vừa mới tổ chức biểu tình để đòi quyền phá thai, trong khi đó một số phụ nữ Pháp khác lại tổ chức một cuộc biểu tình chống lại cuộc biểu tình này. Các phụ nữ đòi quyền phá thai đưa ra lý luận như thế này: thân này là của tôi, tôi phải có chủ quyền trên thân tôi, tôi muốn làm gì thân tôi thì làm. Nhiều người nghe câu đó nghĩ là đúng. Nhưng trong tuệ giác nhà Phật thì cái đó không đúng: thân này không phải chỉ là của ta, thân này là của tổ tiên, của cha mẹ, của con cháu ta, của nhân loại, của vũ trụ. Ta cần phải quán chiếu. Sự an vui của thân này có liên hệ tới sự an vui của thân khác. Trong cái lạy thứ ba, ta thấy rằng ta không phải chỉ là hình hài này, đã được sanh ra ngày ấy, tháng ấy, năm ấy và sẽ không còn nữa từ ngày ấy, tháng ấy, năm ấy. Trong kinh, sự thật này được Bụt nhắc lại nhiều lần: thân này không phải là tôi. Trong cái lạy đầu, nếu thực tập đàng hoàng, ta đã thấy sự thật đó rồi: tổ tiên của con là con, cha mẹ của con là con, anh của con là con, chị của con là con, em của con là con, con của con là con. Tôi lớn hơn cái mà tôi tưởng là tôi. Trong cái lạy này, ta hòa nhập vào trong dòng sanh mạng, ta thấy cái mà ta gọi là ta vượt thoát giới hạn của hình hài này. Cái lạy thứ nhất đã chứa đựng cái lạy thứ ba rồi. “Con lạy xuống và buông bỏ ý niệm hình hài này là tất cả những gì mà con có”. “Hình hài này là con, con chỉ là hình hài này”, ta phải buông bỏ ý niệm đó. “Con lạy xuống và con thấy rằng sanh mạng của con không phải được giới hạn trong bảy hay tám chục năm. Con đã có mặt từ trước khi con sanh ra và con sẽ tiếp tục có mặt sau khi con chết đi. Thọ mạng của con là vô lượng. Thọ mạng của con không bị vướng vào thời gian.” Đó là cái lạy thứ ba, mà tuệ giác của cái lạy thứ ba chẳng qua là do cái lạy thứ nhất và thứ hai đưa tới thôi. Nghe như cái lạy thứ ba khó thực tập hơn hai cái lạy đầu, nhưng kỳ thực nếu ta đã thành công trong cái lạy thứ nhất và cái lạy thứ hai, thì cái lạy thứ ba đã bắt đầu thành công rồi.

Nếu có thể, ta nên thực tập ba cái lạy này mỗi ngày. Thực tập ba cái lạy cho sâu sắc, ta có thể thoát ly được sanh tử.

16. Ba Cái Lạy

(Lạy thứ nhất)

(Xướng)

Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với tổ tiên và con cháu của con trong hai dòng tâm linh và huyết thống. (Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị bồ tát, các vị thánh tăng và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn, nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết. Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh của con, vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết trong con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật, khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo. Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ, tài năng và khiếm khuyết của từng người. Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt; tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.

(Lạy thứ hai)

(Xướng)

Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với mọi người và mọi loài đang có mặt với con giờ này trong sự sống. (Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con là một với những người sinh ra đã có khuyết tật, hoặc vì chiến tranh, tai nạn hay ốm đau mà trở thành khuyết tật. Con là một với những người đang bị kẹt vào những tình trạng chiến tranh, áp bức và bóc lột. Con là một với những người chưa từng có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ, không có bình an trong tâm, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu, đang đi tìm một cái gì đẹp, thật và lành để bám víu vào mà tin tưởng. Con là một với người đang hấp hối, sợ hãi không biết sẽ đi về đâu. Con là em bé sống trong nghèo khổ, tật bệnh, chân tay gầy ốm như những ống sậy, không có tương lai. Con là kẻ đang chế tạo bom đạn để bán cho các nước nghèo khổ.

Con là con ếch bơi trong hồ mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái. Con là con sâu con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm kiếm con kiến con sâu. Con là cây rừng đang bị đốn ngã, là nước sông và không khí đang bị ô nhiễm, mà cũng là người đốn rừng và làm ô nhiễm không khí và nước sông. Con thấy con trong tất cả mọi loài và tất cả mọi loài trong con.

Con là một với những bậc đại nhân đã chứng được vô sinh, có thể nhìn những hiện tượng diệt sinh, hạnh phúc và khổ đau bằng con mắt trầm tĩnh. Con là một với những thiện tri thức hiện đang có mặt rải rác khắp nơi trên thế giới, có đủ bình an, hiểu biết và thương yêu, có khả năng tiếp xúc với những gì nhiệm mầu, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong sự sống, và cũng có thể ôm trọn thế gian này bằng trái tim thương yêu và hai cánh tay hành động của quý vị. Con là người có đủ an lạc và thảnh thơi, có thể hiến tặng sự không sợ hãi và niềm vui sống cho những sinh vật quanh mình. Con thấy con không hề đơn độc. Những bậc đại nhân hiện đang có mặt trên đời; tình thương và niềm vui sống của họ đang nâng đỡ con, không để con đắm chìm trong tuyệt vọng và giúp con sống đời sống của con một cách an vui, trọn vẹn và có ý nghĩa. Con thấy con trong tất cả các vị và tất cả các vị trong con.

(Lạy thứ ba)

(Xướng)

Năm vóc sát đất, con buông bỏ ý niệm về hình hài và thọ mạng.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con thấy được thân tứ đại này không đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng sinh mạng tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới ngàn sau. Con là một với tổ tiên của con, con là một với con cháu của con. Con là sự sống biểu hiện dưới vô lượng hình thức. Con là một với mọi người và mọi loài, dù an lạc hay khổ đau, vô úy hay lo lắng. Con đang có mặt khắp nơi trong giờ phút này, và từ quá khứ cho tới tương lai. Sự tan rã của hình hài này không động được tới con, như một cánh hoa đào rơi không làm cho sự có mặt của cây hoa đào suy giảm. Con thấy con là một con sóng trên mặt đại dương, bản thể con là nước trong đại dương. Con thấy con trong tất cả các con sóng khác và tất cả các con sóng khác trong con. Sự biểu hiện hay ẩn tàng của hình tướng con sóng không làm suy giảm sự có mặt của đại dương. Pháp thân và tuệ mạng của con không sinh mà cũng không diệt. Con thấy được sự có mặt của con trước khi hình hài này biểu hiện và sau khi hình hài này biến diệt. Con thấy được sự có mặt của con ngoài hình hài này, ngay trong giờ phút hiện tại. Khoảng thời gian tám chín mươi năm không phải là thọ mạng của con. Thọ mạng của con, cũng như của một chiếc lá hay của các vị Bụt Thế Tôn, là vô lượng. Con thấy con vượt thoát ý niệm con là một hình hài biệt lập với mọi biểu hiện khác của sự sống, trong thời gian cũng như trong không gian.

17. Năm Cái Lạy

(Lạy Thứ Nhất)

(Xướng)

Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con thấy cha mẹ mà xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ. Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con. Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó; con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng thương yêu, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu, dù khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao nhiêu thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thỉ, có chung, có nhân, có hậu. Con là sự tiếp nối của liệt vị. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên của gia đình huyết thống con. Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.

(Lạy Thứ Hai)

(Xướng)

Trở về kính lạy, Bụt và tổ sư, truyền đăng tục diệm, gia đình tâm linh, qua nhiều thế hệ.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ thánh tăng qua các thời đại: các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Đại Đăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán; con tiếp xúc được với các vị bồ tát và với Bụt Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ hai ngàn sáu trăm năm nay. Con biết Bụt là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Bụt, của tổ, của các thế hệ cao tăng, và năng lượng của liệt vị đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Bụt đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Bụt đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Bụt, có tổ, có thầy thì con không biết tu tỉnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Bụt và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Bụt và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con. Xin Bụt và chư tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền cho thế hệ tương lai năng lượng của Bụt, của tổ và của thầy.

(Lạy Thứ Ba)

(Xướng)

Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất nước, sông núi khí thiêng, hàng ngày che chở.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và với biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da; đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa; đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên. Con sống ở đây, học hòa hợp với thiên nhiên, với con người, và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con. Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin liệt vị phù hộ độ trì cho chúng con.

(Lạy Thứ Tư)

(Xướng)

Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, cho người con thương.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.) Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền đạt cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ vì con, vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ, và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì hoàn cảnh khó khăn và không may của các vị. Con xin truyền đạt nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con, cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu những người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc những người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không còn là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương.

(Lạy Thứ Năm)

(Xướng)

Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, người làm khổ con.

(Chuông, lạy xuống)

(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)

Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn, có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời và về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho (những) người ấy, để cho trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lồ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm hận thù mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Bụt, ơn tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi giòng họ huyết thống và giòng họ tâm linh; trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi hiềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy. Lạy Bụt, lạy tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.

18. Bông Hồng Cài Áo

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ hay, cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến:

Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc
im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi...

Hoàng hôn phủ trên mộ
chuông chùa nhẹ rơi rơi
tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (bàn tay? Hay là tơ trời đâu la miên?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; những chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ "như nước trong nguồn chảy ra". Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo, vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây Phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong xắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây Phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương, không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống vào ra lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ: thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?". Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?". Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù ngươi lớn ba bốn mươi tuổi ngươi cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì ngươi là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt, và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó chỉ là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì làm thế nào?". Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi." Bây giờ thì tôi biết rằng: con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi "làm thế nào" nữa!

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng.

Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẽ chị tôi không nên đi lấy chồng và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác. Chị tôi gục đầu xuống mâm, khóc. Chị nói: thôi con không lấy chồng nữa. Nhưng rốt cuộc chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cát ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự lựa chọn nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết-tôi không giảng luân lý đạo đức-rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh: mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn: cũng không phải lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc khi đi làm việc về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?". Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?". Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh chị cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt. Và ngày mai mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ. Đó là điệp khúc tôi muốn ca cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

19. Văn Thỉnh Linh

1. Hào quang chiếu rạng nơi tăm tối

Bụt đã phân thân xuống đạo tràng

Xin độ hương linh về cõi Tịnh

Ngồi sen chín phẩm đến Tây Phương...

Nam mô Bồ Tát Tiến Vãng Sanh.

2. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Chúng sanh độ hết mới chứng bồ đề

Ðịa ngục chưa không nguyền chưa dừng nghỉ

Nam mô đức Bồ Tát Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương giáo chủ cõi U Minh

Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa

Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...

3. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Ðại sĩ Quan Âm thật tuyệt vời

Cánh tay cứu độ hiện ngàn nơi

Không đâu cầu thỉnh mà không ứng

Biển khổ thuyền giong cứu độ người

Nam mô đức Bồ Tát Ðại Bi Quán Thế Âm bậc đại từ cứu khổ cứu nạn thường xuyên hạnh lắng nghe

Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa

Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...

4. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Biển khổ mênh mông nghiệp đã mang

Hôn mê chưa tỉnh giấc kê vàng

Hãy mau trì niệm hồng danh Bụt

Rời bỏ bờ mê, bến giác sang.

Một nén danh hương

Một phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

5. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Ác vàng vừa lặn

Thỏ ngọc đã lên

Dù cốt nhục cũng phân ly

Mặt mũi xưa đâu còn thấy?

Hai nén danh hương

Hai phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

6. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh Nhất tâm triệu thỉnh:

Hình hài chỉ như mộng

Kiếp sống mãi vô thường

Nương sức Từ Tam Bảo

Mở được lối thanh lương.

Ba nén danh hương

Ba phen triệu thỉnh...

Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố trong bảy đời qua cùng với thân nhân quyến thuộc và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng nương tựa chơn Ngôn giờ phút này đây trở về phó hội tham dự đàn chay nghe kinh chuyển hóa hưởng nguồn Cam lộ.

7. Tuyên đọc chơn Ngôn xin triệu thỉnh Hương linh đã tỉnh và đã nghe

Sức thiêng Tam Bảo nguyện gia trì

Tất cả giờ đây về pháp hội

Hương linh nghe triệu, nghe triệu thỉnh đến ngay đây.

8. Triệu thỉnh, hương linh đã đến đây

Tiếp nhận hương hoa phẩm cúng dường

Hãy xin ngồi lại lắng nghe kinh

Lắng nghe kinh, Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (3 lần)

9. Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm

Cơ duyên may được thụ trì

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi.

Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Ða

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

Tức diệu pháp Trí Ðộ

Bỗng soi thấy năm uẩn

Ðều không có tự tánh.

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn.

“Nghe đây, Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử, nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành, thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý-sáu căn

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp-sáu trần

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc.

Vì không có sở đắc

Nên khi vị Bồ Tát

Nương diệu pháp Trí Ðộ

Bát Nhã Ba La Mật

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi mộng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Ðạt Niết Bàn tuyệt đối.

Chư Bụt trong ba đời

Y diệu pháp Trí Ðộ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhã Ba La Mật”.

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate

Gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi

Svaha. (3 lần)

10. Tổ chức đàn trai

Thầy A Nan khởi xướng

Ðại sĩ Quan Âm

Tiêu Diện mang hình tướng

Niệm Bụt nhất tâm

Ðọc chơn Ngôn cứu khổ

Vạn loại cô hồn

Ðều được cùng siêu độ.

11. Chẩn tế đàn khai

Mọi loài xin mời tới

Uổng tử vong thân

Hồn về đây đủ loại

Tám nạn ba đường

Hiểm nguy đều thoát khỏi

Nương bóng Từ Bi

Ngồi yên nghe pháp thoại.

12. Bụt A Di Ðà

Không quên lời thề cũ

Sanh chúng mê lầm

Ðắm chìm trong biển khổ

Duỗi cánh tay vàng

Giong thuyền Từ cứu độ

Vớt hết muôn loài

Ðưa về nơi tịnh thổ.

Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Liên Trì. (3 lần)

20. Nguồn Gốc Các Kinh

1) Kinh Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não

Kinh này được dịch từ tạng Hán, nguyên tên là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào đầu thế kỷ thứ năm. Kinh này là kinh số 335 trong tạng kinh Đại Chánh. Tiếng Phạn Vajracchedika có nghĩa là Kim Cương có khả năng chặt đứt (phiền não), dịch là Kim Cương Năng Đoạn hoặc Năng Đoạn Kim Cương. Các thầy Cấp Đa (đời Tùy) và Nghĩa Tịnh (đời Đường) đều dịch là Kim Cương Năng Đoạn.

Kinh này từ xưa đến nay đã được nhận thức như một trong những kinh đại thừa căn bản của Thiền, nghĩa lý vô cùng thâm sâu. Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sinh tử và khổ đau, nhất là bốn ý niệm ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả mà kinh gọi là tướng. Muốn nắm bắt được tinh yếu của kinh, xin hành giả tham cứu sách Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não (nhà xuất bản Lá Bối) do thiền sư Nhất Hạnh trước thuật.

2) Kinh Thương Yêu

Kinh này vốn tên là Metta Sutta, dịch từ tạng Pali, trong bộ Sutta Nipata, phần I. Kinh này dạy phương pháp nuôi dưỡng lòng từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất, câu kinh sáng ngời ấy đã được trích ở kinh này.

3) Kinh Phổ Hiền

Kinh này được trích trong phẩm Nhập Bất Tư Nghị Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, do thầy Bát Nhã dịch vào thế kỷ thứ bảy. Kinh này là kinh số 293 trong tạng kinh Đại Chánh. Tinh túy của kinh này là mười hạnh nguyện lớn của bồ tát Phổ Hiền: lễ kính Chư Bụt, xưng tán Như Lai, cúng dường cùng khắp, sám hối nghiệp chướng, tùy hỉ công đức, thỉnh Bụt chuyển Pháp luân, thỉnh Bụt ở lại cõi đời, theo Bụt học hỏi, hằng thuận chúng sinh và hồi hướng cùng khắp. Những hạnh nguyện này đều được thực tập trong tuệ giác tương tức và tương nhập: một là tất cả, tất cả là một.

4) Kinh Diệt Trừ Phiền Giận

Kinh này được dịch từ kinh Thủy Dụ, kinh thứ 25 của bộ Trung A Hàm (26, tạng kinh Đại Chánh). Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Aghatavinaya của Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikāya III 186). Tuệ giác và hạnh nguyện của thầy Xá Lợi Phất trong kinh này chứng tỏ thầy xứng đáng là bậc cao đệ của Bụt. Sống trong chúng xuất gia, nếu thực tập được theo những giáo huấn của kinh này ta sẽ có nhiều an lạc và sẽ tạo được an lạc cho cả tăng thân ta.

5) Kinh Quán Niệm Hơi Thở

Kinh này được dịch từ tạng Pali, tên kinh là Anapanasatisutta, dịch theo Hán là Nhập Tức Xuất Tức Niệm Kinh. Kinh này là kinh 118 của Trung Bộ (Majjhi-na Nikāya). Trong tạng Hán, nếu ta góp chung các kinh số 815, 803 và 810 của bộ Tạp A Hàm (kinh 99 của tạng kinh Đại Chánh) lại thì sẽ có nội dung tương đương với kinh này. Quán Niệm Hơi Thở là một trong những thiền kinh căn bản nhất của đạo Bụt nguyên thỉ. Muốn học hỏi cách thức thực tập kinh này trong đời sống hàng ngày để tự nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa, xin tham khảo sách Kinh Quán Niệm Hơi Thở (nhà xuất bản Lá Bối) của thiền sư Nhất Hạnh.

6) Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Các Bậc Đại Nhân

Kinh này được dịch từ kinh Bát Đại Nhân Giác của tạng Hán, do thầy An Thế Cao dịch từ tiếng Phạn. Đây là kinh 779 của tạng kinh Đại Chánh. Hành giả có thể tham khảo thêm kinh A Na Luật Bát Niệm của tạng Pali (Anuruddhamahāvitakkasutta) trong Tăng Nhất Bộ

(Anguttara Nikāya) và kinh Bát Niệm, kinh số 74 của bộ Trung A Hàm. (Kinh 26 của tạng kinh Đại Chánh). Kinh này tuy ngắn nhưng có đầy đủ những đề tài quán chiếu căn bản đưa tới tuệ giác và giải thoát. Xin tham khảo sách Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân của thiền sư Nhất Hạnh chú giải và do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành.

7) Kinh Sức Mạnh Quan Âm

Đây là phần trùng tụng của phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25 của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dịch từ tạng Hán. Kinh Pháp Hoa này do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn vào đầu thế kỷ thứ năm. Đây là kinh số 262 của tạng Đại Chánh. Thần lực của bồ tát Quan Thế Âm là do các pháp quán chiếu Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Bi quán và Từ quán mà có. Tất cả đều do khả năng lắng nghe mà thành tựu. Trì tụng kinh này không phải chỉ để cầu nguyện sức gia hộ của bồ tát mà còn để học hỏi về pháp lắng nghe và năm pháp quán chiếu ấy.

8) Bốn Lãnh Vực Quán Niệm

Kinh này được dịch từ tạng Pali, tên kinh là Satipatthāna Sutta, kinh số 10 của Trung Bộ (Majjhima Nikāya). Đây là kinh thiền tập căn bản nhất của đạo Bụt nguyên thỉ. Tất cả các thầy và các sư cô thời Bụt đều thuộc lòng kinh này. Trong truyền thống Nam Tông, hiện thời cũng có nhiều thầy thuộc lòng. Đây là kinh gối đầu giường của thiền giả. Người hấp hối cũng được nghe kinh này, hy vọng vào những giờ phút chót của cuộc đời, nhờ nghe kinh mà thực tập được những gì chưa thực tập được. Trong tạng Hán, ta có kinh Niệm Xứ (kinh 98 của bộ Trung A Hàm, 26, tạng kinh Đại Chánh) của bộ phái Thuyết Nhất Thiết Hữu và kinh Nhất Nhập Đạo, quyển thứ 12 trong bộ Tăng Nhất A Hàm của bộ phái Ma Ha Tăng Kỳ; hai kinh này là hai kinh có nội dung tương đương. Hành giả có thể tham khảo sách Con Đường Chuyển Hóa của thiền sư Nhất Hạnh, trong đó có đầy đủ những chỉ dẫn về phương pháp thực tập.

9) Kinh Trung Đạo Nhân Duyên

Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chánh. Kinh này nói về tri kiến chân chính vượt thoát các ý niệm có và không và xác nhận tính duyên sinh của vạn pháp. Ta có thể tham khảo thêm kinh

Kaccayanagotta của tạng Pali, trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikāya II, 16-17).

10) Kinh Soi Gương

Kinh này vốn tên là kinh Anumānasutta, kinh số 15 trong Trung Bộ (Majjhima Nikāya). Kinh này rất cần thiết cho hạnh phúc của những người xuất gia cùng sống dưới một mái tu viện. Trong tạng Hán, ta cũng có kinh Tỳ Khưu Thỉnh, nội dung tương đương. Kinh Tỳ Khưu Thỉnh là kinh 89 của bộ Trung A Hàm, kinh số 26 tạng kinh Đại Chánh.

11) Kinh Người Biết Sống Một Mình

Kinh này được dịch từ tạng Pali, kinh Bhaddekaratta Sutta của Trung Bộ (Majjhima Nikāya 131). Kinh này dạy ta cách an trú chánh niệm trong giây phút hiện tại để sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày, quán chiếu những gì đang xảy ra trong giây phút ấy để đạt tới tuệ giác và tự do, không bị quá khứ, tương lai và các tâm hành bất thiện lôi kéo. Trong Trung Bộ còn có nhiều kinh khác cũng cùng một đề tài, đó là các kinh 132, 133, 134. Trong tạng Hán, có các kinh A Nan Thuyết, Ôn Tuyền Lâm Thiên, Thích Trung Thiền Thất cũng cùng một đề tài và nội dung. Ba kinh này là các kinh số 167, 165 và số 166 của Trung Bộ. Ngoài ra còn có kinh Tôn Thượng (77, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Pháp Hộ dịch, cũng có cùng một đề tài.

Kinh này là văn kiện xưa nhất của lịch sử văn học loài người dạy về nghệ thuật sống trong hiện tại, vững chãi và thảnh thơi. Xin tham khảo sách Kinh Người Biết Sống Một Mình của thiền sư Nhất Hạnh, trong ấy tác giả đã đưa ra nhiều phương pháp hành trì kinh rất cụ thể.

12) Kinh Bát Nhã Hành

Kinh này được dịch từ phần trùng tụng của kinh Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật trong tạng Hán do thầy Pháp Hiền dịch vào đầu thế kỷ thứ 11 (229, tạng kinh Đại Chánh). Đây là kinh Bát Nhã xuất hiện sớm nhất trong nền văn học Bát Nhã. Những tư tưởng căn bản của Bát Nhã đều đã được hàm chứa trong kinh này.

13) Kinh Ba Cửa Giải Thoát

Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chánh) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười. Ta có thể tham khảo thêm kinh Thánh Pháp Ấn (103, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Pháp Hộ dịch vào cuối thế kỷ thứ ba, và kinh số 80 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh).

14) Kinh A Nậu La Độ

Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikāya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này tuy ngắn nhưng lại là một đề tài quán chiếu quan trọng vào bậc nhất giúp ta vượt được các ý niệm sinh/diệt, có/không, tới/đi và một/khác. Các tư tưởng của hệ thống Trung Quán đều được phát xuất từ các kinh căn bản như kinh này.

15) Kinh Người Bắt Rắn

Kinh này dịch từ kinh A Lê Sá, kinh thứ 220 của bộ Trung A Hàm trong tạng Hán (26, tạng kinh Đại Chánh), do thầy Tăng Già Đề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư. Kinh này hàm chứa nhiều tư tưởng uyên áo và là gốc rễ của những kinh đại thừa lớn sau này như kinh Kim Cương và kinh Duy Ma Cật. Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Xà Dụ (A-lagaddūpama sutta), kinh thứ 22 của Trung Bộ (Majjhima Nikāya).

16) Kinh A Di Đà

Kinh này được dịch từ tạng Hán, đây là kinh số 366 của tạng kinh Đại Chánh do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ kinh Sukhāvātivyūhasūtra vào đầu thế kỷ thứ năm. Ở đây ta có một bản dịch quốc văn rất đẹp, gọn và sáng sủa. Người trì tụng kinh này có thực tập thiền quán sẽ thấy những gì nói tới trong kinh đều có thể nhận diện được ngay trong tâm thức và thế giới hiện tại.

17) Kinh Độ Người Hấp Hối

Kinh này dịch từ bộ Tăng Nhất A Hàm của tạng Hán, kinh số 8, phẩm 51. Tăng Nhất A Hàm là kinh số 125 của tạng kinh Đại Chánh, do thầy Tăng Già Đề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư. Thực tập quán chiếu để thấy được tính cách không sinh, không diệt, không tới, không đi, không có, không không, v.v... của thực tại, ta có thể vượt được sự sợ hãi, và ngồi bên giường người hấp hối ta có thể hướng dẫn cho người bệnh thiết lập sự an bình trong cơ thể và tâm hồn, giúp người ấy buông bỏ sầu khổ, sợ hãi và thoát hóa một cách an nhiên. Hành giả có thể tham khảo kinh Anathapindikovada, kinh số 143 của Trung Bộ (Majjhima Nikāya) và kinh số 28 của bộ Trung A Hàm (26, tạng kinh Đại Chánh).

18) Kinh Phước Đức

Kinh này được dịch từ Ma-hamangA-la sutta (Sutta Nipata II) trong tạng Pali. Kinh tương đương trong tạng Hán là phẩm Cát Tường (phẩm thứ 42) của kinh Pháp Cú Thí Dụ (211, tạng kinh Đại Chánh).

19) Kinh Tuổi Trẻ và Hạnh Phúc

Kinh này được dịch từ kinh Tam Di Đề, kinh số 1078 của bộ Tạp A Hàm trong tạng Hán (99, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này dạy về hạnh phúc của sự hành trì chánh pháp theo nguyên tắc hiện pháp lạc trú, sống sâu sắc, an lạc, vững chãi và thảnh thơi trong giờ phút hiện tại, thoát ra ngoài mọi mặc cảm và thèm khát về ngũ dục. Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Samiddhi của Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikāya I, 2.10)

20) Kinh Hải Đảo Tự Thân

Kinh này dịch từ kinh 639 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh). Có thể tham khảo Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikāya V, 152) và kinh Du Hành (kinh số 2 của bộ Trường A Hàm) do các thầy Phật Đà Gia Xá và Trúc Phật Niệm dịch vào đầu thế kỷ thứ năm (1, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này được Bụt nói vào độ một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.

21) Kinh Người Áo Trắng

Kinh này được dịch từ Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128 của bộ Trung A Hàm, trong tạng Hán (26, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Gotama Sanghadeva dịch vào đời Đông Tấn trong khoảng từ năm 397 đến năm 398. Trong tạng Pali, kinh tương đương là kinh Gia Chủ thuộc Tăng Chi Bộ (Ạ. III, 211).


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][