Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

VIMĀNAVATTHUPĀḶI - CHUYỆN THIÊN CUNG

 

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

TẠNG KINH - TIỂU BỘ

 

CHUYỆN THIÊN CUNG

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri! 

 

A. THIÊN CUNG NỮ GIỚI

 

1. PHẨM CHIẾC GHẾ

 

1. 1

1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở đỉnh đám mây.  

2. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

5. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đă chào hỏi, đă chắp tay, và đă dâng vật thí tùy theo khả năng.  

6. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

7. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nhất.  

1. 2

8. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.  

9. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

10. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

11. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

12. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đă chào hỏi, đă chắp tay, và đă dâng vật thí tùy theo khả năng.  

13. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

14. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nh́

1. 3

15. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.  

16. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

17. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

18. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

19. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, ... 

20. ... tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.  

21. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

22. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ ba

1. 4

23. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây 

24. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

25. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

26. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

27. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, ... 

28. ... tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.  

29. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

30. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Ghế thứ tư.  

1. 5

31. “Con voi của nàng là vật cỡi cao quư, có sự trang hoàng với nhiều loại châu báu, khả ái, mạnh mẽ, có sự nhanh nhẹn, di chuyển an toàn ở không trung.  

32. Hỡi nàng có mắt h́nh lá sen, (con voi của nàng) có màu sắc tựa như hoa sen,[1] có sự rực rỡ với màu sen hồng và sen xanh, có thân h́nh được rải rắc với nhụy phấn của hoa sen, có đeo tràng hoa sen bằng vàng.  

33. Con voi đi một cách đều đều, ổn định, êm đềm, không gây xóc ở con đường được rải đầy hoa sen, được tô điểm với những lá sen.  

34. Trong lúc con voi đang tiến bước, những chiếc chuông vàng (phát lên) âm thanh êm dịu. Tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.  

35. Ở trên thân của con voi ấy, nàng với xiêm y tinh khiết, đă được trang điểm, sáng chói vượt trội đoàn tiên nữ đông đảo về phương diện sắc đẹp.  

36. Quả báo này của nàng là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin nàng hăy giải thích điều ấy cho ta.”  

37. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

38. “Sau khi nh́n thấy vị thành tựu các đức hạnh, chứng thiền, thích thú về thiền, tốt lành, tôi đă dâng chỗ ngồi được phủ lên lớp vải, được rải rắc các bông hoa.  

39. Được tịnh tín, tôi đă tự tay rắc lên ở xung quanh chỗ ngồi với những cánh hoa sen của một nửa bông hoa sen hồng.  

40. Quả báo này như vầy của tôi là do nghiệp thiện ấy. Tôi có được sự tôn vinh, có được sự kính trọng, và được sùng bái bởi chư Thiên.  

41. Nếu người nào tịnh tín dâng cúng chỗ ngồi đến các vị hành Phạm hạnh, thanh tịnh, đă được chân chánh giải thoát, sẽ được vui sướng như thế giống như tôi vậy.  

42. Chính v́ điều đó, những người mong mỏi lợi ích, ao ước quả báo lớn lao th́ nên dâng cúng chỗ ngồi đến những vị đang mang thân mạng cuối cùng.”

Thiên Cung Voi. 

1. 6

43. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  

44. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

45. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

46. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

47. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nh́n thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đă đứng lên và đă dâng nước để uống.  

48. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc, bị khát nước, người ấy có được những ḍng sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.  

49. Những ḍng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bă đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa.  

50. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đă làm đạt được như thế này.  

51. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

52. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nhất.  

1. 7

53. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  

54. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

55. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

56. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

57. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đă đứng lên và đă dâng nước để uống.  

58. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.  

59. Những ḍng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bă đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa. 

60. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đă làm đạt được như thế này.  

61. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

62. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nh́.  

1. 8

63. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.  

64. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của nàng, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.  

65. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

66. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, Ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

67. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được chính đấng Toàn Giác hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

68. “Con, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nh́n thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, con đă đứng lên và đă dâng nước để uống.  

69. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.  

70. Những ḍng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bă đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa. 

71. Thiên cung hạng nhất ấy, đang chiếu sáng rực rỡ, có được vẻ đẹp nhờ vào những khu vực của vùng đất. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đă tạo (trước đây) đạt được như thế này.  

72. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của con, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.  

73. Do điều ấy, con có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho con ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho con.  

74. Do điều ấy mà con có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của con chiếu sáng khắp các phương. Quả báo này của con là của nghiệp ấy. Đức Phật đă uống nước v́ sự lợi ích (của con).”

Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ ba.  

1. 9

75. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

76. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

77. Hỡi nàng tiên, do điều ǵ mà nàng có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội? Do điều ǵ mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của nàng?  

78. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

79. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

80. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, vào đêm tối đen mù mịt ấy, tôi đă bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn.  

81. Người nào, vào đêm tối đen mù mịt, bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn th́ được sanh lên cung Trời (nơi) có viên ngọc như ư, có lắm bông hoa, có nhiều sen trắng.  

82. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

83. Do điều ấy, tôi là vị Thiên nhân có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội. Do điều ấy mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của tôi.  

84. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Cây Đèn. 

1. 10

85. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

86. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

87. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

88. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

89. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  

90. Sau khi đi đến gần, được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng cúng vật thí, với hạt mè là vật cúng dường, không có dự tính trước, đến đức Phật, bậc xứng đáng cúng dường.  

91. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

92. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của sự Cúng Dường Hạt Mè.  

1. 11

93. “Những chim c̣, chim công, chim thiên nga, và những con chim cu có giọng hót dễ thương thuộc cơi Trời bay quanh quẩn ở cung điện đáng yêu này, nơi được rải rắc bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được lai văng bởi nhiều tiên nam tiên nữ.  

94. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông thành ra nhiều dáng vóc. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển ở xung quanh.  

95. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đă đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”  

96. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

97. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người vợ chung thủy, không tơ tưởng người khác. Giống như người mẹ đang bảo vệ đứa con trai, mặc dầu giận dữ tôi cũng đă không nói lời thô lỗ.  

98. Vững trú ở sự chân thật, từ bỏ lời dối trá, ưa thích việc bố thí, có bản tính nhân hậu, có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống. 

99. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

100. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy. 

1. 12

101. “Hỡi nàng tiên có đại oai lực, sau khi bước lên cung điện có cây cột bằng ngọc bích, đáng yêu, rực rỡ, được tô điểm nhiều màu sắc, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông cao thấp đa dạng. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển ở xung quanh.  

102. Hỡi nàng có đại oai lực, nàng đă đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”  

103. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

104. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, tôi đă là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn. Tôi đă kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đă xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.  

105. Không có việc uống chất say, và tôi đă không nói lời dối trá, tôi đă được vui thích chỉ với người chồng của ḿnh. Có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.  

106. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

107. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy thứ nh́

1. 13

108. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

109. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

110. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

111. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

112. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  

113. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng bánh bột đến vị ấy. Sau khi dâng cúng một nửa phần chia (đă nhận được), tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cơi Trời).  

114. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

115. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Con Dâu.  

1. 14

116. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

117. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

118. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

119. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

120. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.  

121. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng phần chia (đă nhận được) đến vị ấy. Sau khi dâng cúng miếng bánh kem, tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cơi Trời).  

122. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

123. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Con Dâu thứ nh́. 

1. 15

124. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

125. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

126. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

127. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

128. “Tôi không có ganh tỵ, bỏn xẻn, hằn học trong khi sống ở gia đ́nh, không có giận dữ, có sự tuân theo lệnh của chồng, tôi luôn luôn không xao lăng trong ngày trai giới.  

129. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám giới.  

130. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

131. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

132. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

133. Tôi đây có sự nổi tiếng nhờ vào giới hạnh và danh tiếng của ḿnh. Và tôi đă thành tựu phước báu của ḿnh, được an vui, không tật bệnh.  

134. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

135. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.  

Và thưa ngài, xin ngài đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn với lời nói của tôi rằng: ‘Bạch ngài, nữ cư sĩ tên Uttarā xin đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn.’ Thưa ngài điều này quả không kỳ lạ là việc đức Thế Tôn tuyên bố về tôi ở vào quả vị Sa-môn nào đó.” Đức Thế Tôn đă tuyên bố nàng ấy là ở quả vị Bất Lai.

Thiên Cung của Uttarā. 

1. 16

136. “Những con ngựa của nàng đă được thắng vào, đă được trang hoàng tuyệt vời, có khuôn mặt hướng xuống dưới, di chuyển ở không trung, có sức mạnh, có tốc lực, và năm trăm cỗ xe đă được nàng hóa hiện ra. Những con ngựa, được đốc thúc bởi những người đánh xe, theo sau nàng.[2]  

137. Nàng, đă được điểm trang, đứng ở chiếc xe cao quư, đang chói sáng như v́ sao, đang rực cháy như ngọn lửa. Hỡi cô nàng có thân h́nh cao quư, có dáng vóc tuyệt vời, ta hỏi nàng, từ tập thể nào nàng đă đi đến với đấng Cao Quư Nổi Bật?”  

138. “Người ta đă nói loại chư Thiên vui thích trong việc biến hóa thế này thế nọ là hạng cao nhất trong số chư Thiên đă đạt được tột đỉnh về dục lạc. Từ tập thể ấy, là tiên nữ có được dáng vóc theo như ư muốn, tôi đă đi đến nơi đây để lễ bái đấng Cao Quư Nổi Bật.”  

139. “Trước đây, nàng đă hành thiện hạnh ǵ ở nơi này? Do điều ǵ nàng có danh tiếng vô lượng, được nuôi dưỡng trong hạnh phúc, và thần thông của nàng là cao quư nổi bật, có sự di chuyển ở không trung, và màu da của nàng chói sáng mười phương?  

140. Nàng được chư Thiên vây quanh và tôn trọng. Hỡi nàng tiên, từ nơi đâu nàng đă chết đi, rồi đă đi đến chốn an vui? Hay là nàng đă thực hành theo lời chỉ dạy của vị nào? Nếu nàng đă là đệ tử của đức Phật, xin nàng hăy nói rơ cho ta.”  

141. “Ở thành phố cao quư khéo được xây dựng nơi thung lũng, tôi đă là người thị tỳ của vị vua cao quư có sự vinh quang. Tôi đă khéo được học tập đến tột đỉnh về múa, về hát. Ở Rājagaha người ta đă biết đến tôi là Sirimā. 

142. Và đức Phật, vị chúa của các ẩn sĩ, bậc Hướng Đạo đă thuyết giảng cho tôi về Tập Đế, về Khổ Đế, về tính chất vô thường, về sự không tạo tác, về sự Diệt Tận của Khổ, về tính chất trường cửu, và về Đạo Lộ không cong quẹo, thẳng tắp, tốt lành này.  

143. Sau khi lắng nghe về Đạo Lộ Bất Tử, về sự không tạo tác, về Giáo Pháp cao quư nổi bật của đức Như Lai, tôi đă tuyệt đối khéo léo thu thúc trong các giới, được vững vàng trong Giáo Pháp đă được thuyết giảng bởi đức Phật cao quư của loài người.  

144. Sau khi tôi biết được vị thế Vô Nhiễm, không tạo tác, đă được thuyết giảng bởi đức Như Lai, đấng Cao Quư tối thượng, ngay vào thời điểm ấy tôi đă chạm đến tầng định của thiền chỉ tịnh. Chính tôi đây đă có được bản thể vững bền tối thượng.  

145. Sau khi đạt được sự Bất Tử cao quư đặc biệt, sau khi đă xác định về sự lănh hội, tôi đă chắc chắn, không c̣n hoài nghi, được nhiều người tôn vinh. Tôi thọ hưởng sự vui thích khoái lạc không phải là ít.  

146. Như vậy, tôi là vị Thiên nhân thấy được Bất Tử, là nữ Thinh Văn của đức Như Lai, đấng Cao Quư Nổi Bật. Tôi đă thấy được Pháp, đă được thiết lập ở quả vị thứ nhất, là vị Nhập Lưu, và hơn nữa không c̣n khổ cảnh đối với tôi.  

147. Với sự tôn kính đối với đấng Pháp Vương vinh quang, tôi đây đă đi đến để đảnh lễ đấng Cao Quư Tối Thượng và để lễ bái các vị tỳ khưu, những vị vui thích thiện pháp, tạo nên niềm tin, tập hợp tốt lành của các Sa-môn.  

148. Sau khi nh́n thấy bậc Hiền Trí, đức Như Lai, đấng Điều Ngự Trượng Phu cao quư, vị cắt đứt tham ái, bậc vui thích thiện pháp, đấng Hướng Đạo, tôi được hài ḷng, có tâm ư hoan hỷ. Tôi đảnh lễ bậc có ḷng thương tưởng đến điều lợi ích tối thượng (cho tất cả chúng sanh).”

Thiên Cung của Sirimā.  

1. 17

149. “Thiên cung này đáng yêu, rực rỡ, có cây cột bằng ngọc bích, được trường tồn, khéo được hóa hiện ra, được che xung quanh với những cây cối bằng vàng, là trú xứ của ta, có nguồn gốc là quả thành tựu của nghiệp.  

150. Những tiên nữ đến trước này, những Thiên nhân tiền bối, đă được sanh lên ở đây có hàng trăm ngàn. Nhờ vào nghiệp của ḿnh, nàng đă đạt đến. Có được danh tiếng, nàng đứng, trong khi đang chói sáng.  

151. Giống như mặt trăng chói sáng, vượt trội quần thể các tinh tú, tựa như vị vua của các v́ sao, tương tự y như thế trong lúc tỏa sáng rực rỡ tập thể tiên nữ này, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.  

152. Hỡi cô nàng có dáng vóc tuyệt vời, từ nơi đâu nàng đă đi đến, rồi được sanh lên ở cung điện này của ta? Như thể ngắm nh́n đấng Tạo Hóa, tất cả Chư Thiên cơi Trời Ba Mươi (Ba) có cả Thần Inda không mệt nhọc với việc ngắm nh́n nàng.”  

153. “Thưa (Thiên Chủ) Sakka, ngài ân cần hỏi tôi điều này: ‘Từ nơi đâu nàng đă chết đi, rồi đă đi đến nơi đây?’ - Có thành phố của xứ Kāsī tên là Bārāṇasī, tại nơi ấy, trước đây tôi đă là Kesakārikā.  

154. Có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, tôi đă đi đến sự dứt khoát, không c̣n hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đă đạt đến Quả vị, đă được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật.”  

155. “Hỡi nàng tiên có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, đă đi đến sự dứt khoát, không c̣n hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đă đạt đến Quả vị, đă được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật, chúng tôi vui mừng về việc đi đến tốt đẹp ấy của nàng. Và thông qua Giáo Pháp, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.”  

Thiên Cung của Kesakārī.  

Phẩm Chiếc Ghế là thứ nhất

***** 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY  

Năm (chuyện) chiếc ghế, ba (chuyện) chiếc thuyền, hai (chuyện) cây đèn và vật cúng dường hạt mè, hai người vợ, hai con dâu, (chuyện) Uttarā, Sirimā, và Kesakārikā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.  

--ooOoo--

 

2. PHẨM CITTALATĀ

 

2. 1

156. “Cũng tựa như Sakka Chúa của chư Thiên, nàng dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo xung quanh ở khu vườn Cittalatā đáng yêu, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, giống như ngôi sao osadhī.  

157. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

158. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

159. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

160. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người nữ tỳ, kẻ hầu hạ những người khác trong gia đ́nh. Là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng, tôi đây đă có sự nỗ lực theo lời dạy của vị như thế ấy.  

161. Hăy để cho thân thể này bị ră tan theo ư định, chớ không bao giờ có sự lơi lỏng ở đây. Con đường của năm điều học là có sự tốt lành, an toàn.  

162. (Là con đường) không gai góc, không chằng chịt, thẳng tắp, đă được chỉ ra bởi các bậc đức hạnh. Hăy nh́n xem kết quả của sự nỗ lực qua sự việc mà cô gái đă đạt được:  

163. Tôi là ái hậu của Thiên Vương Sakka có sự nắm giữ quyền uy. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ làm công việc tiêu khiển cho tôi.  

164. (Các nhạc công nam) Ālamba, Gaggara, Bhīma, Sādhuvādī, Saṃsaya, Pokkhara, và Suphassa, c̣n các tiên nữ là Vīṇā, Mokkhā, ...  

165. ... Nandā, luôn cả Sunandā, Soṇadinnā, Sucimhitā, Alambusā, Missakesī, và cô tiên dữ tợn ‘Puṇḍarīkā,’ ...  

166. ... Eṇiphassā, và Suphassā, Subhaddā, và Muduvādinī, các cô này và các cô khác là những người làm công việc tiêu khiển giỏi hơn hết trong số các Thiên nhân.  

167. Vào thời điểm thích hợp, các Thiên nhân tự nguyện đi đến thưa rằng: ‘Nào, hăy để chúng tôi múa, hăy để chúng tôi ca. Nào, hăy để chúng tôi làm cho nàng thích thú.’  

168. (Khu vườn) Nandana không sầu muộn đáng yêu này, khu vườn lớn ở cơi Ba Mươi (Ba), là không dành cho những người không làm phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đă làm phước thiện.  

169. Không có sự an lạc cho những người không làm phước thiện ở nơi này và nơi khác; nhưng có sự an lạc cho những người đă làm phước thiện ở chính nơi này và nơi khác nữa.  

170. Đối với những người mong mỏi sự cộng trú ấy th́ nên làm nhiều việc tốt lành, bởi v́ những người đă làm phước thiện là những người thành tựu tài sản, được vui sướng ở cơi Trời.”

Thiên Cung của Người Nữ Tỳ.  

2. 2

171. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

172. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

173. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

174. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

175. “‘Ra khỏi cửa thành Kevaṭṭa, đă là chỗ trú ngụ của tôi. Trong khi các bậc Thinh Văn, các vị đại ẩn sĩ, du hành ở nơi ấy, ...  

176. ... tôi đă bố thí cơm, bánh kem, rau tươi, cháo chua mặn, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực. 

177. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám giới.  

178. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

179. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

180. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

181. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

182. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.’  

Và thưa ngài, xin ngài đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của đức Thế Tôn với lời nói của tôi rằng: ‘Bạch ngài, nữ cư sĩ tên Lakhumā xin đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn.’ Thưa ngài điều này quả không kỳ lạ là việc đức Thế Tôn tuyên bố về tôi ở vào quả vị Sa-môn nào đó.” Đức Thế Tôn đă tuyên bố nàng ấy là ở quả vị Nhất Lai.

Thiên Cung của Lakhumā.  

2. 3

183. “Khi ngài đang đi khất thực, trong khi đang đứng với trạng thái im lặng, có người đàn bà nghèo khổ, khốn cùng, sống nương tựa ở nhà của người khác.[3]  

184. Được tịnh tín, nàng đă tự tay dâng đến ngài bọt nước cơm. Nàng ấy, sau khi từ bỏ thân xác loài người, đă đi đến phương trời nào?”  

185. “Khi tôi đang đi khất thực, trong khi đang đứng với trạng thái im lặng, có người đàn bà nghèo khổ, khốn cùng, sống nương tựa ở nhà của người khác.  

186. Được tịnh tín, nàng đă tự tay dâng đến tôi bọt nước cơm. Nàng ấy, sau khi từ bỏ thân xác loài người, đă chết từ nơi đây, đă được giải thoát. 

187. Có hạng chư Thiên tên gọi Hóa Lạc có đại thần lực, người đàn bà ấy, người nữ bố thí bọt nước cơm, được an lạc, vui sướng ở nơi ấy.”  

188. “Ôi, sự bố thí của người nữ khốn cùng đă khéo được thiết lập ở ngài Kassapa. Sự cúng dường với vật thí nhận được từ người khác quả nhiên đă được thành tựu.  

189. Người phụ nữ nào xinh đẹp ở mọi phần thân thể, được xem là quư giá đối với chồng, có thể được lập làm chánh hậu của đức vua Chuyển Luân, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.

190. Một trăm tiền vàng, một trăm con ngựa, một trăm xe lừa kéo, một trăm ngàn thiếu nữ có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đă được trau chuốt, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.

191. Một trăm con long tượng thuộc vùng núi Hi-mă-lạp, có các ngà như càng xe, vạm vỡ, là loài voi mātaṅga có áo giáp bằng vàng, có yên cương bằng vàng, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.  

192. Ở đây, người nào có thể hành xử vương quyền đối với cả bốn châu lục cũng không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.”

Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Bọt Nước Cơm.  

2. 4

193. “Này bà lăo ḍng hạ tiện, bà hăy đảnh lễ các bàn chân của đức Gotama có danh tiếng. Bậc Ẩn Sĩ tối thượng đă đứng lại v́ ḷng thương tưởng dành cho chính bà.[4]  

194. Bà hăy khởi tâm tịnh tín ở bậc A-la-hán như thế ấy. Hăy mau chắp tay lại đảnh lễ, mạng sống của bà là ngắn ngủi.”  

195. Được khuyến khích bởi vị có bản thân đă được tu tập đang mang thân mạng cuối cùng, bà lăo ḍng hạ tiện đă đảnh lễ các bàn chân của đức Gotama có danh tiếng.  

196. Có con ḅ cái đă húc chết bà lăo ḍng hạ tiện ấy đấy, trong khi bà đứng chắp tay, đang lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tạo ra ánh sáng ở bóng tối.  

197. “Thưa bậc anh hùng có đại oai lực, tôi đă đạt được thần lực của chư Thiên, tôi đi đến và đảnh lễ ngài, bậc có lậu hoặc đă được cạn kiệt, có bụi bặm đă được xa ĺa, không c̣n dục vọng, đă ngồi cô độc một ḿnh ở khu rừng.”  

198. “Nàng có sắc của vàng, rực sáng, có danh tiếng lớn lao, được tô điểm nhiều màu sắc, được tháp tùng bởi đoàn tiên nữ, đă hạ xuống từ Thiên cung, hỡi nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?”  

199. “Thưa ngài đại đức, tôi là người nữ ḍng hạ tiện đă được khích lệ bởi ngài, bởi vị anh hùng. Tôi đă đảnh lễ các bàn chân của bậc A-la-hán Gotama có danh tiếng.  

200. Tôi đây, sau khi đảnh lễ các bàn chân, đă từ trần khỏi ḍng dơi hạ tiện, tôi được tái sanh ở Thiên cung tốt đẹp về mọi phương diện, ở (khu vườn) Nandana.  

201. Một trăm ngàn tiên nữ đứng tháp tùng. Trong số họ, tôi là người quư cao, hạng nhất về sắc đẹp, về danh tiếng, về tuổi thọ.  

202. Thưa ngài, với nhiều việc tốt đẹp đă làm, có sự nhận biết rơ, có niệm, tôi đi đến để đảnh lễ ngài, bậc hiền trí, có ḷng bi mẫn ở thế gian.”  

203. Sau khi nói xong điều ấy, người nữ ḍng hạ tiện, có sự biết ơn, có sự nhận biết việc đă làm, đă đảnh lễ các bàn chân của vị A-la-hán, rồi đă biến mất ngay tại chỗ ấy.

Thiên Cung của Người Nữ Ḍng Hạ Tiện.  

2. 5

204-205. “Này người nữ thông minh tuyệt vời, nàng đội ở trên đầu ṿng hoa gồm nhiều bông hoa của cây mandārava; những cây này không có ở các tập thể (chư Thiên) khác. Chúng được bao bọc bởi các tua nhụy gồm nhiều màu sắc đậm nhạt (khác nhau): màu xanh, màu vàng, màu đen, và màu đỏ tía, rồi màu đỏ tươi.  

206. Này cô nàng có danh tiếng, do việc (phước thiện) nào mà nàng đă được sanh lên cơi Trời Ba Mươi Ba? Này nàng tiên, đă được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”[5]  

207. “Người ta đă biết về con là ‘Bhadditthī,’ nữ cư sĩ ở thành Kimbilā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.  

208. Con đă bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực.  

209. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).  

210. Con đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Con cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

211. Con kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

212. Con được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

213. Và con đă dâng vật thực đến các tỳ khưu, những vị có ḷng thương tưởng đến điều lợi ích tối thượng, đến hai vị đại hiền trí khổ hạnh (Sāriputta và Moggallāna). Có sự an trú đă được tạo lập, có việc thiện đă được thực hiện, đă chết từ nơi ấy, con lang thang đến (khu vườn) Nandana, có hào quang của chính ḿnh.  

214. Con đă thường xuyên hành tŕ ngày trai giới gồm tám yếu tố đem lại sự an lạc vô lượng. Có sự an trú đă được tạo lập, có việc thiện đă được thực hiện, đă chết từ nơi ấy, con lang thang đến (khu vườn) Nandana, có hào quang của chính ḿnh.”

Thiên Cung của Bhadditthī.  

2. 6

215. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

216. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

217. Hỡi nàng tiên, do điều ǵ mà nàng có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội? Do điều ǵ mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của nàng?  

218. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

219. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

220. “Người ta đă biết về tôi là ‘Soṇadinnā,’ nữ cư sĩ ở thành Nālandā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.  

221. Tôi đă bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực.  

222. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám giới.  

223. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

224. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

225. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

226. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

227. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Soṇadinnā.  

2. 7

228. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

229. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

230. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

231. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

232. “Người ta đă biết về tôi là ‘Uposathā,’ nữ cư sĩ ở thành Sāketā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.  

233. Tôi đă bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực.  

234. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám giới.  

235. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

236. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

237. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

238. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

239. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”  

240. “Sau khi liên tục nghe về khu vườn Nandana, niềm ước muốn đă sanh khởi ở tôi. Sau khi lập nguyện ở tâm về chốn ấy, tôi đă được sanh lên ở Nandana.  

241. Tôi đă không thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời. Sau khi lập nguyện ở tâm về điều thấp thỏi, tôi đây sau này bị ân hận.”  

242. “Này Uposathā, nàng sẽ sống ở nơi đây trong bao lâu? Hỡi nàng tiên, đă được hỏi, xin nàng hăy nói nếu nàng biết về tuổi thọ.”  

243. “Thưa bậc đại hiền trí, sau khi tồn tại ở đây thời gian ba koṭi[6] và sáu chục ngàn năm, tôi sẽ chết từ nơi đây và đi đến cộng trú với loài người.”  

244. “Này Uposathā, nàng chớ sợ hăi. Nàng cũng đă được đấng Toàn Giác tuyên bố là vị Nhập Lưu, cảnh giới khổ đau của nàng đă được dứt bỏ.”

Thiên Cung của Uposathā.  

2. 8

245. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

246. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

247. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

248. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

249. “Người ta đă biết về tôi là ‘Saddhā,’ nữ cư sĩ ở thành Rājagaha, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.  

250. Tôi đă bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực.  

251. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).  

252. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.

253. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

254. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

255. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

256. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Saddhā

2. 9

257. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

258. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

259. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

260. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào: 

261. “Người ta đă biết về tôi là ‘Sunandā,’ nữ cư sĩ ở thành Rājagaha, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.  

262. Tôi đă bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ư thanh tịnh ở những con người chính trực.  

263. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).  

264. Tôi đă hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở ṭa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.  

265. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.  

266. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lư Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhăn Gotama có danh tiếng.  

267. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

268. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Sunandā

2. 10

269. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.  

270. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?  

271. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”  

272. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:  

273. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng vật thực đến Ngài.  

274. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

275. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Vật Thực.  

2. 11

276. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.

277. Do điều ǵ nàng có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho nàng?

278. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

279. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, nàng đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

280. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng vật thực đến vị ấy.  

281. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.  

282. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Vật Thực thứ nh́.  

Phẩm Cittalatā là thứ nh́.  

***** 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY  

(Chuyện) người nữ tỳ, và luôn cả Lakhumā, rồi người nữ bố thí bọt nước cơm, người nữ ḍng hạ tiện, Bhadditthī, và luôn cả Soṇadinnā, Uposathā, Nandā, luôn cả Sunandā, và hai người nữ bố thí vật thực; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.  

TỤNG PHẨM THỨ NHẤT.  

--ooOoo-- 


 

[1] Con voi ấy có màu như hoa sen nên được gọi là padumī (VvA, 35).

[2] Ở câu chuyện này, trưởng lăo Vaṅgīsa hỏi và vị tiên nữ Sirimā trả lời (Sđd. 78).

[3] Hai câu kệ 183, 184 là lời của Chúa Trời Sakka nói với trưởng lăo Mahākassapa (Sđd. 101).

[4] Hai câu kệ 193, 194 là lời của ngài Mahāmoggallāna nói với bà lăo ḍng hạ tiện (Sđd. 105).

[5] Ba câu kệ 204-206 là lời của đức Phật hỏi vị tiên nữ (Sđd. 110).

[6] 1 koṭi = 10.000.000 (10 triệu).

 

 

   

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 |

<Mục Lục><Đầu Trang>