Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

VIMĀNAVATTHUPĀḶI & CHUYỆN THIÊN CUNG

 

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

7. PHẨM KHÉO ĐẶT XUỐNG

 

7. 1

 

1115. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cơi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, th́ Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.

 

1116. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1117. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1118. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đă phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đă được tôi quư mến; có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.

 

1119. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.

 

1120. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

 

Thiên Cung Cittalatā.

 

7. 2

 

1121. “Khu vườn Nandana và Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cơi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, th́ Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.

 

1122. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1123. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1124. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đă phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đă được tôi quư mến; có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.

 

1125. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.

 

1126. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

 

Thiên Cung Nandana.

 

7. 3

 

1127. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.

 

1128. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.

 

1129. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?

 

1130. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1131. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1132. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, tôi đă làm lối kinh hành ở đường đi nơi b́a rừng, và tôi đă trồng các cây ở tu viện. Và các bậc có giới hạnh đă được tôi quư mến; có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.

 

1133. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.

 

1134. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

 

Thiên Cung có Cây Trụ Bằng Ngọc Ma-ni.

 

7. 4

 

1135. Thiên cung, ở ngọn núi bằng vàng, được che phủ với màng lưới bằng vàng, được sắp đặt màng lưới chuông leng keng, đang chiếu sáng khắp mọi nơi.

 

1136. Các cây cột có tám mặt đă khéo được thực hiện, tất cả được làm bằng ngọc bích, ở mỗi một mặt, bảy loại châu báu đă được hóa hiện ra.

 

1137. Ngọc bích, vàng, ngọc pha-lê, và ngọc ru-bi, với các viên ngọc mắt mèo, ngọc trai, và các viên ngọc ma-ni màu đỏ.

 

1138. Mặt nền đa dạng, làm thích ư, ở nơi đó bụi bặm không bốc lên, những cụm đà cong màu vàng, được hóa hiện ra, nâng đỡ mái nhọn.

 

1139. Và bốn bực cấp được hóa hiện ra ở bốn phía, với các gian pḥng có nhiều loại châu ngọc khác nhau, chói sáng tựa như mặt trời.

 

1140. Ở nơi ấy, bốn rào chắn được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.

 

1141. Ở Thiên cung quư cao ấy, vị Thiên tử có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.

 

1142. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hăy giải thích điều ấy cho ta.”

 

1143. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1144. “Được tịnh tín, tôi đă tự tay cho xây dựng ở Andhakavinda ngôi trú xá dành cho đức Phật, vị thân quyến của mặt trời, bậc Đạo Sư.

 

1145. Ở nơi ấy, với tâm ư thanh tịnh tôi đă dâng cúng vật thơm, tràng hoa, dầu thoa giá trị, và ngôi trú xá đến bậc Đạo Sư.

 

1146. Do việc ấy, điều này đă đạt được cho tôi; tôi vận hành quyền lực ở Nandana. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”

 

Thiên Cung Bằng Vàng.

 

7. 5

 

1147. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.

 

1148. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.

 

1149. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?

 

1150. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1151. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1152. “Vào tháng cuối cùng của mùa nóng, khi mặt trời đang đốt nóng, người đàn ông, kẻ làm thuê cho những người khác, đă tưới nước vườn xoài.

 

1153. Khi ấy, vị tỳ khưu nổi tiếng ‘Sāriputta’ đă đi đến nơi ấy, với dáng vẻ mệt nhọc ở cơ thể nhưng không chút mệt nhọc ở tâm ư.

 

1154. Và sau khi nh́n thấy vị ấy đang tiến đến, người tưới xoài đă nói rằng: ‘Thưa ngài, tốt lành thay (nếu) tôi có thể tắm cho ngài, việc ấy là sự đem lại hạnh phúc cho tôi.’

 

1155. V́ ḷng thương tưởng đến tôi đây, vị ấy đă đặt y và b́nh bát xuống, rồi đă ngồi xuống ở gốc cây, nơi bóng râm, (mặc) một y.

 

1156. Và với tâm tịnh tín, người đàn ông, với nước sạch, đă tắm cho vị ấy, (mặc) một y, ở gốc cây, nơi bóng râm.

 

1157. ‘Cây xoài đă được tưới nước và vị Sa-môn đă được tắm; c̣n phước báu đă được tôi tạo ra không phải là ít.’ (Suy nghĩ) như thế, người ấy làm lan tỏa toàn bộ cơ thể của bản thân với niềm hỷ lạc.

 

1158. Trong kiếp sống ấy, tôi đă tạo chính nghiệp ấy chỉ có bấy nhiêu. Sau khi ĺa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.

 

1159. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”

 

Thiên Cung Cây Xoài.

 

7. 6

 

1160. Sau khi nh́n thấy vị Thiên nhân có đồ trang sức ở bàn tay đă được trau chuốt, có danh tiếng, ở ṭa lâu đài cao ráo, có sự tồn tại lâu dài, cũng giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cơi Trời, vị tỳ khưu đă hỏi rằng:

 

1161. “Ngươi đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đă được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đă được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cơi Trời.

 

1162. C̣n có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cơi Ba Mươi (Ba), cao sang, đă được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển.

 

1163. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1164. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1165. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă gom lại các con ḅ cái của những người khác rồi canh giữ. Và sau đó, có vị Sa-môn đă đi đến gần tôi. Và các con ḅ đă đi đến để ăn những cây đậu.

 

1166. ‘Hôm nay, có hai phận sự, và cả hai đều cần phải làm.’ Thưa ngài, khi ấy tôi đă suy nghĩ y như thế. Kế đó, sau khi đă đạt được ư nghĩ đúng đắn, tôi đă đặt mảnh giẻ (gói miếng bánh, nói rằng): ‘Thưa ngài, tôi xin dâng.’

 

1167. Tôi đây đă vội vă đi xuống ruộng đậu trước khi con ḅ này làm hư hại tài sản này của ai đó. Và kế đó, có con rắn màu đen có nọc độc dữ tợn đă cắn ở bàn chân của tôi trong khi tôi đang vội vă.

 

1168. Tôi đây bị đau đớn, bị hành hạ bởi khổ đau. Và vị tỳ khưu sau khi tự thân mở ra mảnh giẻ (gói miếng bánh) ấy, đă nuốt vào miếng bánh kem, v́ ḷng thương tưởng đối với tôi. Từ nơi ấy, tôi đă chết, đă từ trần, và trở thành Thiên nhân.

 

1169. Chính hành động thiện ấy đă được tôi tạo ra, và tôi thọ hưởng nghiệp an lạc tự chính ḿnh. Thưa ngài, bởi v́ tôi đă được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với ḷng tri ân.

 

1170. Ở thế gian luôn cả chư Thiên và luôn cả Ma Vương, không có vị hiền trí nào khác là người có ḷng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi v́ tôi đă được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với ḷng tri ân.

 

1171. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, không có vị hiền trí nào khác là người có ḷng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi v́ tôi đă được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với ḷng tri ân.”

 

Thiên Cung của Người Chăn Ḅ.

 

7. 7

 

1172. “Giống như mặt trăng, chúa tể các v́ sao, có h́nh con thỏ, vào ngày rằm, được vây quanh bởi các v́ tinh tú, di chuyển ṿng quanh.

 

1173. Tương tự như thế, Thiên cung này thuộc cơi Trời và ở thành phố của chư Thiên sáng chói vượt trội nhờ vào vẻ đẹp, tựa như mặt trời đang mọc lên.

 

1174. Ngọc bích, vàng, ngọc pha-lê, và ngọc ru-bi, với các viên ngọc mắt mèo, ngọc trai, và các viên ngọc ma-ni màu đỏ.

 

1175. Mặt nền đa dạng, làm thích ư, được trải lót bằng ngọc bích, có các ngôi nhà mái nhọn xinh đẹp, đáng yêu; ṭa lâu đài của ngươi đă khéo được hóa hiện.

 

1176. Và các hồ sen của ngươi là đáng yêu, được loài cá puthuloma lai văng, có nước trong sạch, được yên tĩnh, được trải cát bằng vàng.

 

1177. Được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng, (các hồ sen) làm hài ḷng, được lay động bởi làn gió, tỏa ra hương thơm.

 

1178. Ở cả hai bên cái hồ ấy của ngươi, có những cụm rừng đă khéo được hóa hiện ra, có đủ cả hai loại với các loại cây bông hoa và các loại cây sinh trái.

 

1179. Ở chiếc ghế dài có chân bằng vàng, mềm mại, được trải lót lớp vải, các tiên nữ đứng hầu (ngươi) đă ngồi xuống, tựa như vị Thiên Vương.

 

1180. (Các tiên nữ) được che phủ với tất cả đồ trang sức, được điểm trang với các tràng hoa khác loại, tiêu khiển cho ngươi, người có đại thần lực; ngươi vui thú tựa như vị (Thiên Vương) Vasavatti.

 

1181. Với các cái trống, các tù và vỏ ṣ và các trống nhỏ, với các cây đàn vīṇā, và với các xập xơa, được đầy đủ thú vui, ngươi vui thú ở vũ điệu lời ca, ở khúc nhạc hay.

 

1182. Các sắc thuộc cơi Trời với nhiều h́nh thức là thuộc về ngươi, các thinh thuộc cơi Trời, rồi các vị, các hương, và các xúc thích ư được dành riêng cho ngươi.

 

1183. Này vị Thiên tử, ở Thiên cung quư cao ấy, ngươi có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.

 

1184. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hăy giải thích điều ấy cho ta.”

 

1185. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1186. “Ở kinh thành Kapilavatthu của những người Sakya, tôi đă là (con ngựa) Kanthaka, được sanh đồng thời với người con trai của (đức vua) Suddhodana.

 

1187-1188. Vào lúc nửa đêm, vị ấy đă ra đi v́ sự Giác Ngộ. Vị ấy, với hai bàn tay mềm mại, có màng lưới, và các móng tay màu đồng, đă vỗ vào đùi của tôi và đă nói rằng: ‘Này bạn, hăy đưa (ta) đi. Đạt được quả vị Giác Ngộ tối thượng, ta sẽ giúp cho thế gian vượt qua.’

 

1189. Niềm vui bao la đă có cho tôi trong khi tôi đang lắng nghe câu nói ấy. Với tâm phấn khởi, với thiện ư, khi ấy tôi đă mong cầu.

 

1190. Và sau khi biết được người con trai ḍng Sakya, có danh tiếng lớn lao, đă cỡi lên tôi, với tâm phấn khởi, được hoan hỷ, tôi đă đưa bậc tối thượng nhân đi.

 

1191. Sau khi đi đến lănh thổ của những người khác, khi mặt trời đă mọc lên, sau khi bỏ lại tôi và Channa, vị ấy đă bỏ đi, không đoái hoài.

 

1192. Bằng lưỡi, tôi đă liếm quanh hai bàn chân có móng chân màu đồng của vị ấy, và đă khóc lóc nh́n theo vị đại anh hùng đang ra đi.

 

1193. Do việc không c̣n nh́n thấy người con trai ḍng Sakya vinh quang ấy, tôi đă nhận lấy cơn bệnh trầm trọng; cái chết đă nhanh chóng xảy đến cho tôi.

 

1194. Do nhờ năng lực của chính việc ấy, tôi trú ngụ tại Thiên cung này, có đủ tất cả các loại dục, và ở thành phố chư Thiên thuộc cơi Trời.

 

1195. Và việc tôi đă có niềm vui sau khi nghe được âm thanh của từ giác ngộ; do chính thiện căn ấy, tôi sẽ chạm đến sự cạn kiệt các lậu hoặc.

 

1196. Thưa ngài, bởi v́ nếu ngài đi đến gặp đức Phật, bậc Đạo Sư, xin ngài hăy nói với Vị ấy luôn cả lời nói của tôi về việc đê đầu đảnh lễ (của tôi).

 

1197. Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ; việc gặp gỡ các đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy là điều khó đạt được.”

 

1198. Vị (Thiên tử) ấy có sự tri ân, có sự hiểu biết về việc đă được làm, đă đi đến gặp bậc Đạo Sư. Sau khi lắng nghe lời nói của đấng Hữu Nhăn, vị ấy đă làm trong sạch Pháp nhăn.

 

1199. Sau khi đă làm trong sạch việc sa vào (tà) kiến, hoài nghi, và (sự cố chấp vào) các nghi thức, vị ấy đă đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đă biến mất ngay tại chỗ ấy.[1]

 

Thiên Cung của Kanthaka.

 

7. 8

 

1200. “Sau khi đă đạt đến Thiên cung được tô điểm theo nhiều cách, có nhiều màu sắc, có sự tiêu diệt nỗi buồn bực và sầu muộn, ngươi được tùy tùng bởi đoàn tiên nữ, vui sướng tựa như Sunimmita, vị chúa tể của chúng sinh.

 

1201. Không có vị sánh bằng như vậy; hơn nữa người vượt trội về danh tiếng, phước báu, và thần thông th́ từ đâu mà có?

 

1202. Và tất cả chư Thiên, các nhóm ở cơi Ba Mươi (Ba), sau khi tụ hội lại sẽ lễ bái ngươi đây, tựa như chư Thiên lễ bái mặt trăng. Và ngươi có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển ở xung quanh.

 

1203. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”

 

1204. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1205. “Thưa ngài đại đức, vào thời quá khứ tôi đă là đệ tử của đấng Chiến Thắng tên Sumedha. Tôi c̣n là phàm nhân, chưa được giác ngộ; tôi đây đă xuất gia bảy năm.

 

1206. Lúc đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Sumedha, vị đă vượt qua các ḍng lũ như thế ấy, viên tịch Niết Bàn, tôi đây, sau khi đảnh lễ khối châu báu được che phủ bởi mạng lưới bằng vàng, đă làm cho tâm ư được tịnh tín ở ngôi bảo tháp.

 

1207. Sự bố thí của tôi là không có, tôi không có ǵ để bố thí. Tuy nhiên, tại nơi ấy tôi đă khuyến khích những người khác rằng: ‘Quư vị hăy cúng dường xá-lợi ấy của bậc xứng đáng cúng dường, như vậy nghe nói quư vị sẽ từ nơi đây đi đến cơi Trời.’

 

1208. Chính nghiệp thiện ấy đă được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng sự an lạc thuộc cơi Trời bởi chính bản thân. Tôi vui sướng giữa nhóm (chư Thiên) ở cơi Ba Mươi (Ba). Tôi c̣n chưa đi đến sự cạn kiệt của phước báu ấy.”

 

Thiên Cung Nhiều Màu Sắc.

 

7. 9

 

1209. “Ngươi đă được trang điểm, có bông tai đă được đánh bóng, có mang tràng hoa, có bôi xức trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều ǵ?”[2]

 

1210. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không t́m ra cặp bánh xe cho nó. V́ nỗi khổ đau ấy, tôi sẽ từ bỏ mạng sống.”

 

1211. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, hay làm bằng bạc? Này người thanh niên hiền thiện, ngươi hăy nói với ta. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”

 

1212. Người thanh niên ấy đă nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời được nh́n thấy; cỗ xe của tôi, làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”

 

1213. “Này người thanh niên, ngươi quả thật cũng khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi v́ ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”

 

1214. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) c̣n được nh́n thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất của cả hai là theo tŕnh tự. Trái lại, người chết, đă qua đời, không được nh́n thấy. Vậy ở đây, trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”

 

1215. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đă qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đ̣i mặt trăng.

 

1216. Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

 

1217. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đă xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đă rút ra mũi tên sầu muộn đă cắm vào trái tim của tôi.

 

1218. Chính tôi đây, có mũi tên đă được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đă được an tịnh. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi tôi không sầu muộn, không khóc lóc.

 

1219. Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đ́nh, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đă bố thí trước đây? Ngươi là ai, hay là con trai của ai, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”

 

1220. “Đứa con trai nào mà ông đă tự ḿnh thiêu đốt ở nơi hỏa táng, rồi than văn và khóc lóc, người ấy chính là tôi; sau khi làm việc thiện, tôi đă đạt đến sự cộng trú ở cơi Ba Mươi (Ba).”

 

1221. “Chúng tôi đă không nh́n thấy vật thí ít hay nhiều của ngươi trong khi ngươi bố thí ở nhà ḿnh, hay việc làm vào ngày trai giới tương tự như thế ấy; do nghiệp nào mà ngươi đă đi đến thế giới của chư Thiên?”

 

1222. “Tôi là người có bệnh, bị khổ sở, là người bệnh, có dáng vóc bệnh hoạn ở trong căn nhà của ḿnh. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc đă xa ĺa ô nhiễm, vị đă vượt qua hoài nghi, đấng Thiện Thệ, có trí tuệ tuyệt vời.

 

1223. Chính tôi đây, với ư vui mừng, với tâm tịnh tín, đă thực hiện việc chắp tay đến đức Như Lai. Sau khi làm việc thiện ấy, tôi đă đạt đến sự cộng trú ở cơi Ba Mươi (Ba).”

 

1224. “Thật là kỳ diệu, phi thường! Quả thành tựu này của việc chắp tay là như thế. Tôi cũng vậy, với ư vui mừng, với tâm tịnh tín, tôi đi đến nương nhờ đức Phật ngay ngày hôm nay.”

 

1225. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín ông hăy đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, ông hăy thọ tŕ năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.

 

1226. Ông hăy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hăy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hăy vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh.”

 

1227. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đẹp cho tôi. Thưa vị Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho tôi. Tôi thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của tôi.

 

1228. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.

 

1229. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh.”

 

Thiên Cung của Maṭṭakuṇḍalī.

 

7. 10

 

1230. Chúng ta hăy lắng nghe về sự gặp gỡ của vị Dạ-xoa và các người thương buôn đă xảy ra vào lúc ấy. Câu chuyện đă khéo được trao đổi bởi người này với người kia như thế nào, xin tất cả hăy lắng nghe câu chuyện ấy.

 

1231. Vị vua ấy tên là Pāyāsi, có danh tiếng, đă đi đến cộng trú với chư Thiên địa cầu. Ngay trong lúc đang vui thích ở Thiên cung của ḿnh, vị phi nhân ấy đă nói với loài người rằng:[3]

 

1232. “Ở khu rừng hiểm trở, nơi không có loài người, ở sa mạc, thiếu nước, thiếu thức ăn, nơi vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, nhiều người bị mất trí v́ nỗi sợ hăi sự hiểm trở.

 

1233. Ở nơi đây, không có các trái cây, và các loại cây có rễ, không có củi lửa, lấy đâu ở đây có thức ăn, ngoại trừ nhiều bụi bặm, lắm cát, các sự thiêu đốt, các sự nóng bức, và các sự khắc nghiệt?

 

1234. Vùng sa mạc tựa như cái chảo đă được đốt nóng, không có lợi ích, tương đương với thế giới khác (địa ngục); chỗ trú ngụ này là của những kẻ hung dữ trước đây, là vùng đất bị nguyền rủa.

 

1235. C̣n các người, v́ nguyên nhân ǵ, trong khi đang mong mỏi điều ǵ, lại vội vă tập hợp rồi đi vào chính khu vực này, do ḷng tham, do sự sợ hăi, hay là đă bị lầm lẫn?”

 

1236. “Các chủ đoàn xe ở xứ sở Magadha và Aṅga sau khi cho chất lên hàng hoá với số lượng dồi dào, những người ấy đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận.

 

1237. Vào ban ngày, do không chịu đựng được cơn khát và măi quan tâm đến sự thương xót đối với các con vật kéo xe, tất cả chúng tôi di chuyển với tốc độ này và đến được con đường vào ban đêm, không đúng thời điểm.

 

1238. Đă khởi hành chậm trễ, đă bị lạc đường, bị rối loạn như người mù, đă bị lạc lối trong khu rừng, ở chỗ vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, chúng tôi đây không nhận ra phương hướng, có tâm bị hoang mang.

 

1239. Và thưa vị Dạ-xoa, sau khi nh́n thấy việc này, việc chưa được thấy trước đây, là Thiên cung hạng nhất và ngài, trong khi đang mong mỏi về mạng sống sau này, đến lúc nh́n thấy (ngài), chúng tôi trở nên mừng rỡ, có tâm ư vui vẻ, phấn khởi.”

 

1240. “V́ nguyên nhân của cải, quư vị đi đến những phương trời khác biệt, đến bờ bên kia của biển cả và đầm cát này, đến con đường có sự di chuyển với gậy chống và lối đi có cắm cọc, đến những con sông, thêm nữa là những con đường hiểm trở ở các ngọn núi.

 

1241. Này quư vị, sau khi tiến vào lănh thổ của những người khác, trong khi ngắm nh́n những con người thuộc nhiều quốc độ, điều nào đă được quư vị nghe, hoặc nh́n thấy, hăy cho chúng tôi nghe điều kỳ diệu ấy từ quư vị.”

 

1242. “Thưa Thiên tử, điều kỳ diệu hơn thế này chúng tôi không được nghe hoặc nh́n thấy, tất cả đều vượt trội (thế giới) loài người, sau khi nh́n thấy chúng tôi chưa được thỏa măn về vẻ đẹp tuyệt vời.

 

1243. Ở không trung có những hồ sen với vô số bông hoa, với nhiều sen trắng, và những cây cối này được trổ quả thường xuyên, có những hương thơm tỏa ra cực kỳ thơm ngát.

 

1244. Có những cây cột bằng ngọc bích vươn cao một trăm (ratana),[4] có bề mặt trải dài làm bằng đá và san hô, có các viên ngọc mắt mèo và các viên hồng ngọc, và những trụ cột này làm bằng ngọc như ư.

 

1245. Có ngàn cây cột có năng lực không sánh bằng, phía trên chúng là Thiên cung tốt đẹp này, ở bên trong có châu báu, được kết hợp với hành lang bằng vàng, và được che phủ một cách khéo léo với những tấm lợp bằng vàng.

 

1246. (Thiên cung) này chói sáng với vàng từ sông Jambu đă được tinh luyện. (Khu vực ấy) khéo được đánh bóng, được hiện hữu với các ṭa lâu đài, các cầu thang, các sân thượng, vững chăi, dễ thương, có dáng xinh xắn, khéo được phối hợp, vô cùng cuốn hút sự nh́n ngắm, làm hài ḷng.

 

1247. Ở bên trong (Thiên cung) châu ngọc, có nhiều thức ăn thức uống, được tháp tùng bởi đoàn tiên nữ, được vang vang tiếng trống con, trống lớn, và các nhạc cụ, ngài được tôn vinh với sự ngợi ca và lễ bái.

 

1248. Ở ṭa lâu đài nơi Thiên cung cao quư, làm thích ư, với sự đánh thức bởi các nhóm phụ nữ, ngài đây, không thể nghĩ bàn, có đủ mọi đức tính, vui sướng giống như đức vua Vessavaṇa ở Nalinī.

 

1249. Ngài là Thiên nhân, hay ngài là Dạ-xoa, là Chúa của chư Thiên, hay là bản thể nhân loại? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài. Xin ngài hăy nói tên (của ngài) là ǵ, có phải ngài là Dạ-xoa?”

 

1250. “Tôi chính là Dạ-xoa tên Serissaka, sống ở sa mạc, là người canh giữ đầm cát. Tôi hộ tŕ khu vực này, là người thực thi mệnh lệnh của đức Vua Vessavaṇa.”

 

1251. “(Công việc này) được nhận lănh bởi ngài một cách ngẫu nhiên, được nảy sanh do sự phát triển, tự ḿnh tạo ra, hay được chư Thiên giao cho? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đă đạt được công việc hài ḷng này?”

 

1252. “(Công việc này) không được nhận lănh bởi tôi một cách ngẫu nhiên, không được nảy sanh do sự phát triển, không tự ḿnh tạo ra, cũng không được chư Thiên giao cho. Công việc hài ḷng này tôi đă đạt được nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện của chính ḿnh.”

 

1253. “(Trước đây) phận sự của ngài là ǵ? C̣n có hạnh kiểm cao đẹp ǵ? Quả thành tựu này là của việc ǵ đă khéo được thực hành? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đă đạt được Thiên cung này?”

 

1254. “Vào lúc tôi cai quản vương quốc Kosala, Pāyāsi đă là danh hiệu của tôi. Lúc ấy tôi đă là người có quan điểm hư vô, bỏn xẻn, có bản tính xấu xa, và là người tuyên bố về đoạn kiến.

 

1255. Và rồi đă có vị Sa-môn Kumārakassapa, đa văn, có sự thuyết giảng sinh động, cao thượng. Khi ấy, vị ấy đă thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, đă xua đuổi những sự méo mó về quan điểm cho tôi.

 

1256. Tôi đây, sau khi lắng nghe sự thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đă tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Tôi đă kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đă xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi đă không nói lời dối trá, tôi đă được vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh.

 

1257. Việc ấy là phận sự của tôi, việc ấy c̣n là hạnh kiểm cao đẹp. Quả thành tựu này là của việc đă khéo được thực hành ấy. Nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện ấy đấy, mà tôi đă đạt được Thiên cung này.”

 

1258. “Nghe rằng những người có trí tuệ đă nói sự thật; lời nói của các bậc hiền trí là không sai khác. Người có nghiệp phước thiện đi đến bất cứ nơi nào đều vui sướng ở tại nơi ấy, là người có dục lạc theo như ước muốn.

 

1259. Bất cứ nơi nào có sự sầu muộn và than văn, có sự giết chóc và sự giam cầm, có sự chướng ngại, kẻ có ác pháp đi đến nơi ấy, không khi nào được thoát khỏi cảnh giới khổ đau.”

 

1260. “Tập thể (chư Thiên) tựa như có vẻ bị bối rối, tựa như đă bị làm vẩn đục vào giây phút này. Thưa Thiên tử, vậy th́ do điều ǵ mà tập thể này và ngài đă có sự thất vọng?”

 

1261. “Thưa quư vị, từ khu rừng sirīsa kế cận những hương thơm này thuộc cơi Trời tỏa ra thơm ngát; sau khi đă tiêu diệt bóng tối vào ban ngày và ban đêm chúng tự tỏa đến Thiên cung này.

 

1262. Và khi đă trải qua một trăm năm, chỉ một quả của những cây này được kết trái. Kể từ khi tôi được sanh ra ở tập thể (chư Thiên) tại nơi này th́ một trăm năm nhân loại đă trôi qua.

 

1263. tôi đă nh́n thấy tôi sẽ tồn tại ở Thiên cung này năm trăm năm, do sự cạn kiệt của tuổi thọ, do sự cạn kiệt của phước báu, tôi sẽ chết; chính v́ nỗi sầu muộn ấy tôi bị hoảng loạn.”

 

1264. “Bằng cách nào mà vị ấy, thuộc thành phần như thế, sau khi đạt được Thiên cung không thể sánh bằng một cách lâu dài, lại có thể sầu muộn? Chỉ có những người nào đă được sanh lên một cách ngắn ngủi, phải chăng những người ấy, với phước báu ít ỏi, mới có thể sầu muộn?”

 

1265. “Việc quư vị nói lời nói yêu mến với tôi (nghĩa là) điều khuyên bảo của tôi thích hợp đối với quư vị. Thưa quư vị, quư vị đă được tôi hộ tŕ theo như ước muốn, v́ thế quư vị hăy lên đường một cách an toàn.”

 

1266. “Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, chúng tôi với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự hào phóng đầy đủ theo như kế hoạch, sẽ làm lễ hội cao sang cho Serissa.”

 

1267. “Quư vị chớ có làm lễ hội cho Serissa, và tất cả sẽ trở thành hiện thực cho quư vị theo điều quư vị nói. Quư vị hăy tránh xa hẳn các nghiệp ác xấu, và hăy phát nguyện gắn bó với Giáo Pháp.

 

1268. Ở tập thể này, có người cận sự nam đa văn, được đầy đủ giới hạnh và phận sự, có đức tin, có sự hào phóng, và vô cùng tốt lành, có sự suy xét, tự hài ḷng, có sự thận trọng.

 

1269. Là người không cố t́nh nói lời dối trá, không suy nghĩ đến việc hăm hại người khác, không gây ra sự chia rẽ, đâm thọc, và nói lời mềm mỏng, tử tế.

 

1270. Có sự tôn kính, có sự phục tùng, đă được huấn luyện, không độc ác, thanh tịnh về giới bậc thượng, có hạnh kiểm thánh thiện, con người ấy nuôi dưỡng mẹ và luôn cả cha đúng theo Pháp.

 

1271. Tôi nghĩ rằng vị ấy tầm cầu của cải v́ lư do (phụng dưỡng) mẹ cha, không v́ nguyên nhân của bản thân. Với sự qua đời của mẹ và cha, người ấy, với khuynh hướng xuất ly, sẽ thực hành Phạm hạnh.

 

1272. Là người ngay thẳng, không khúc mắc, không gian trá, không xảo quyệt, và không phát biểu theo lối viện cớ. Vị ấy, như thế ấy, là người tạo nên hành động đă được thực hiện một cách tốt đẹp, đứng vững trong Giáo Pháp, sao lại nhận lănh sự khổ đau?

 

1273. Bởi lư do người ấy, tôi tự thân hiện ra. V́ thế, quư vị thương buôn hăy nhận thức Giáo Pháp. Ở đây, không có người ấy, quư vị có thể trở thành tro bụi, bị rối loạn như người mù, bị lạc lối trong khu rừng; (bởi v́) đối với kẻ đang xử tệ người ấy, như thế ấy hay việc khác nữa là điều dễ dàng. Quả vậy, việc kết giao với người tốt lành là hạnh phúc.”

 

1274. “Người ấy tên là ǵ, làm nghề nghiệp ǵ, tên gọi là ǵ, hơn nữa họ của người ấy là ǵ? Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng có mong muốn được gặp người ấy, v́ ḷng thương tưởng người ấy mà ngài đă đi đến nơi đây, bởi v́ người nào mà ngài yêu quư th́ lợi ích là thuộc về người ấy.”

 

1275. “Người nào là thợ cạo, có tên gọi là Sambhava, là người cận sự nam, có sự nuôi mạng bằng lược và dao cạo, quư vị biết người ấy, người ấy là người sai vặt của quư vị. Đúng vậy, chớ khinh chê người ấy, người ấy vô cùng tốt lành.”

 

1276. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi biết người mà ngài nói, nhưng chúng tôi quả không biết người ấy là người như thế ấy. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng sẽ tôn vinh người ấy sau khi lắng nghe lời nói cao cả của ngài.”

 

1277. “Bất cứ người nào ở đoàn xe này, thanh niên, lăo niên, luôn cả trung niên, hết thảy tất cả những người ấy hăy bước lên Thiên cung, những kẻ keo kiệt hăy nh́n xem quả báo của các việc phước thiện.”

 

1278. “Tại đó, sau khi đă đưa người thợ cạo ấy lên phía trước tại nơi ấy, hết thảy tất cả những người ấy (đă nói rằng): ‘Tôi trước,’ hết thảy tất cả những người ấy đă bước lên Thiên cung tựa như (Thiên cung) Masakkasāra của vị Vāsava (Chúa Trời Sakka).[5]

 

1279. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đă nói rằng): ‘Tôi trước’ và đă tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Họ đă kiêng chừa việc giết hại mạng sống, họ đă xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.

 

1280. Không có việc uống chất say, và họ đă không nói lời dối trá, họ đă được vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đă nói rằng): ‘Tôi trước’ và đă tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Trong khi đang tùy hỷ với thần thông của vị Dạ-xoa đợt này đến đợt khác, đoàn xe, được cho phép, đă khởi hành.

 

1281. Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, những người ấy với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự đạt được đầy đủ theo như kế hoạch, đă trở về lại Pāṭaliputta không bị tổn hại.

 

1282. Những người ấy, sau khi đi về đến căn nhà của ḿnh, có sự an toàn, được gần gũi với những người con và những người vợ, có sự vui thích, hớn hở, có tâm ư vui vẻ, trở nên mừng rỡ, đă làm lễ hội cao sang cho Serissa.

 

1283. Những người ấy đă cho xây dựng ṭa nhà Serissakā. Sự thân cận với những người tốt lành là như thế ấy, sự thân cận với những đức tính của Giáo Pháp là có lợi ích lớn, nhờ vào sự lợi ích của một cận sự nam, hết thảy tất cả chúng sanh đă có trạng thái hạnh phúc.”

 

Thiên Cung của Serissaka.

 

7. 11

1284. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.

 

1285. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.

 

1286. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?

 

1287. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”

 

1288. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:

 

1289. “Sau khi khéo đặt xuống tràng hoa đă được đặt xuống cẩu thả, sau khi sắp đặt nó ở ngôi bảo tháp của đấng Thiện Thệ, tôi trở nên có đại thần lực và có đại oai lực, được thọ hưởng các dục ở cơi Trời.

 

1290. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.

 

1291. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

 

Thiên Cung Khéo Đặt Xuống.

 

Phẩm Khéo Đặt Xuống là thứ bảy.

 

*****

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

(Chuyện) hai người nghèo khó, hai trú xá, kẻ làm thuê, người chăn ḅ, con ngựa Kanthaka, (Thiên cung) nhiều màu sắc, Maṭṭakuṇḍalī, Serissaka, (Thiên cung) khéo đặt xuống; là phẩm thứ ba của những người nam.”

 

TỤNG PHẨM THỨ TƯ.

 

CHUYỆN THIÊN CUNG ĐƯỢC CHẤM DỨT.

 

--ooOoo--

 


 

[1] Hai câu kệ cuối, 1198 và 1199, là của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 317).

[2] Thanh niên Maṭṭakuṇḍalī, sau khi chết sanh về cơi Trời, nh́n thấy người cha đang than khóc v́ sự ĺa đời của đứa con trai nên đă về lại nhân gian nhằm giúp cho cha vượt qua nỗi sầu muộn. Câu chuyện này cũng được ghi lại ở Jātaka-Aṭṭhakathā (Chú Giải Bổn Sanh) câu chuyện 449, và Dhammapada-Aṭṭhakathā (Chú Giải Pháp Cú) câu kệ số 2.

[3] Hai câu kệ đầu là lời giới thiệu của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 332).

[4] 1 ratana = 0.25 mét; như vậy 100 ratana = 25 mét.

[5] Sáu câu kệ cuối cùng, 1278-1283, là của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 350).

 

   

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 |

<Mục Lục><Đầu Trang>