TAM TẠNG PĀLI - VIỆT
VIMĀNAVATTHUPĀḶI & CHUYỆN THIÊN CUNG
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
858. “Người nào, trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh tiếng, trong khi đang làm cho khắp các phương sáng rực lên nhờ vào màu da nổi bật, mà đảnh lễ các bàn chân của Ta?”
859. “Trước đây, con đă là con ếch ở nước, là loài có sự kiếm ăn ở nước. Trong khi con đang lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, có người chăn ḅ đă hại chết con.
860. Xin Ngài hăy nh́n xem thần lực và danh tiếng của con, xin Ngài hăy nh́n xem năng lực của con, và xin Ngài hăy nh́n xem màu da và sự sáng chói của con, kẻ có niềm tịnh tín ở tâm trong chốc lát.
861. Bạch đức Gotama, c̣n những người nào đă lắng nghe Giáo Pháp trong thời gian lâu dài, những người ấy đă đạt đến vị thế không bị dao động, là nơi không sầu muộn sau khi đi đến.”
Thiên Cung của Thiên tử Ếch.
862. “Đối với người có cuộc sống xa nhà lâu dài đă trở về an toàn từ phương xa, thân quyến bạn bè và người quen mừng vui đón người đă trở về.
863. Tương tự y như thế, (đối với) người đă làm việc phước thiện từ thế gian này sanh đến thế giới khác, các phước báu tiếp đón (người ấy) tựa như các quyến thuộc tiếp đón người thân yêu đă trở về.”[1]
864. “Này Revatā, này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cô hăy đứng lên. Này cô nàng không có nết hạnh bố thí, cánh cửa (địa ngục) là không bị đóng lại. Chúng tôi sẽ đưa cô đến nơi mà những kẻ bị đọa vào khổ cảnh than khóc, (và) những kẻ địa ngục bị gánh chịu khổ đau.”
865. Sau khi chỉ nói như thế, các sứ giả cơi Dạ-ma, hai Dạ-xoa ấy, có cặp mắt đỏ ngầu, cao to, mỗi người một cánh tay, đă nắm lấy Revatā rồi đi đến nơi có sự hiện diện của hội chúng chư Thiên.
866. “Thiên cung xinh đẹp, được che đậy bằng mạng lưới vàng, có màu sắc của mặt trời, đáng yêu, rực rỡ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người nào?[2]
867. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được sáng chói cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nh́n thấy có màu sắc như là mặt trời. Người nào đă đạt đến cơi Trời và vui sướng ở Thiên cung?”
868. “Ở Bārāṇasī, đă có người cận sự nam tên là Nandiya, không bỏn xẻn, là người thí chủ, là người nhân từ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người ấy.
869. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được rực sáng cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nh́n thấy có màu sắc như là mặt trời. Người ấy đă đạt đến cơi Trời và vui sướng ở Thiên cung.”
870. “Tôi là người vợ của Nandiya, là nữ gia chủ, có uy quyền đối với tất cả gia đ́nh. Giờ đây, tôi sẽ thích thú ở Thiên cung của chồng, tôi không mong mỏi về việc nh́n thấy địa ngục.”
871. “Này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cái địa ngục ấy là dành cho cô. Việc phước thiện đă không được cô làm khi ở thế giới có cuộc sống. Bởi v́ người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đă đi đến cơi Trời.”
872. “Phân và nước tiểu nhơ bẩn được nh́n thấy là cái ǵ vậy? Cái mùi hôi thối này là cái ǵ? Cái phân bốc mùi này là cái ǵ?”
873. “Này Revatā, cái ấy gọi là địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, là nơi cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.”
874. “Vậy việc làm ác nào đă được làm do thân, do khẩu, do ư? V́ việc ǵ mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam?”
875. “Cô lừa gạt các Sa-môn, các Bà-la-môn, và luôn cả những người khốn khổ khác nữa bằng lời nói dối trá; việc xấu xa ấy đă do cô gây ra.
876. Này Revatā, do việc ấy mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, ở nơi ấy cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.
877. Chúng chặt các bàn tay, rồi luôn cả các bàn chân, chúng xẻo các lỗ tai, rồi luôn cả lỗ mũi, rồi c̣n có các bầy quạ bu lại, tụ tập lại, ngấu nghiến kẻ đang quằn quại.”
878. “Quả là tốt đẹp, xin các vị hăy đưa tôi trở về, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện, là việc mà sau khi thực hành, người ta được hạnh phúc và không bị ân hận về sau này.”
879. “Trước đây cô đă xao lăng rồi bây giờ than van. Cô sẽ gánh chịu quả thành tựu của các nghiệp đă làm của ḿnh.”
880. “Vị nào, sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến thế giới loài người, được tôi hỏi rồi nói như vầy: ‘Nàng nên dâng cúng vật thí, y phục, chỗ nằm, và cơm nước ở những vị đă buông các gậy gộc xuống, bởi v́ người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đă đi đến cơi Trời?’
881. Chắc chắn rằng tôi đây, khi đă đi khỏi nơi này, th́ sau khi đạt được việc sanh lại làm người, (tôi sẽ) là người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện.
882. Với tâm ư tịnh tín, tôi sẽ cho dựng lên các tu viện, các cây cầu ở chỗ khó đi, nước uống dọc đường, và giếng nước.
883. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ tŕ tốt đẹp về tám giới.
884. Tôi sẽ hành tŕ ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới, và sẽ không xao lăng trong việc bố thí; điều này đă được đích thân tôi nh́n thấy.”
885. Trong khi cô ấy đang rên rỉ như thế, đang quằn quại thế này thế khác, chúng đă ném cô ấy vào địa ngục ghê rợn, chân phía trên, đầu phía dưới.
886. “Trước đây, tôi đă là người bỏn xẻn, là người mắng nhiếc các vị Sa-môn và Bà-la-môn, và sau khi dối gạt người chồng bằng việc không thật, tôi bị nung nấu ở địa ngục có h́nh thức ghê rợn.”
Thiên Cung của Revatī.
887. “Vị nào là đấng quư cao trong số các bậc thuyết giảng của loài người, là bậc Hiền Trí ḍng Sakya, đức Thế Tôn, có phận sự đă làm xong, đă đi đến bờ kia, có được sức mạnh và sự tinh tấn; ngươi hăy đến gần đấng Thiện Thệ ấy với mục đích nương nhờ.[3]
888. Giáo Pháp này không nhiễm ái luyến, không dục vọng, không sầu muộn, không bị tạo tác, không đáng ghét, ngọt ngào, có sự hoàn thiện, khéo được phân tích; ngươi hăy đến gần Giáo Pháp này với mục đích nương nhờ.
889. Và nơi nào người ta đă nói vật được bố thí là có quả báo lớn, (tức là) ở bốn đôi của hạng người trong sạch; tám hạng ấy là các cá nhân đă nh́n thấy Giáo Pháp; ngươi hăy đến gần Hội Chúng này với mục đích nương nhờ.”
890. “Không giống như mặt trời chói sáng ở bầu không gian, mặt trăng và sao Phussa đều không chiếu sáng giống như người này, vị có ánh sáng vĩ đại, không thể đo lường; ngươi là ai mà đă từ cơi Ba Mươi (Ba) đi đến trái đất?[4]
891. Ánh sáng với sự vượt trội hai mươi do-tuần cắt đứt các ánh hào quang của mặt trời, và làm cho ban đêm cũng giống như ban ngày. Thiên cung là hoàn toàn trong sạch, không bụi bặm, xinh đẹp.
892. Với nhiều sen trắng, sen hồng nhiều màu sắc, được trộn lẫn với các bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được bao phủ bởi mạng lưới vàng không bụi, sạch bụi, (Thiên cung ấy) chói sáng ở không trung cũng giống như mặt trời.
893. Với các tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng, với các chất bôi thơm như là agaru, piyaṅgu, và trầm hương, với các làn da mềm mại tựa như vàng, (Thiên cung ấy) được hoàn măn tựa như bầu trời được hoàn măn nhờ vào các v́ sao.
894. Ở đây, có nhiều người nam người nữ với nhiều sắc thái, ở đây là những người có thiện tâm, có các đồ trang sức được điểm trang với các bông hoa, được tự do theo làn gió, tỏa ra hương thơm, được trải rộng với (dây buộc bằng) vàng (ở bím tóc), có y phục bằng vàng.
895. Quả thành tựu này là do sự an tịnh và rèn luyện nào? Do kết quả của việc làm nào mà ngươi đă được sanh ra ở nơi đây? Và như thế nào mà ngươi đă được ngự đến cung điện này? Nào, đă được hỏi, ngươi hăy nói về điều ấy theo từng phần một.”
896. “Bởi v́, tại nơi đây, ở con đường lộ, sau khi gặp gỡ với người thanh niên, bậc Đạo Sư trong khi thương xót đă giáo huấn. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp thuộc về báu vật cao quư của Ngài, Chatta đă nói rằng: ‘Tôi sẽ thực hiện.’
897. ‘Ngươi hăy đi đến nương nhờ đấng Jina cao quư tối thượng, luôn cả Giáo Pháp nữa, và tương tự y như thế (với) Hội Chúng tỳ khưu.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: - Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.’
898. ‘Và ngươi chớ thực hành việc giết hại sanh mạng theo nhiều cách, không trong sạch, bởi v́ các bậc thiện trí đă không ngợi khen việc không kiềm chế đối với các sanh mạng.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: - Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.’
899. ‘Và ngươi chớ nghĩ đến vật đă được ǵn giữ thuộc về người khác, vật không nên được lấy đi, vật không được cho.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.’
900. ‘Và ngươi chớ đi đến những người vợ của kẻ khác, những người nữ đă được ǵn giữ bởi người nam khác; việc này là không thánh thiện.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.’
901. ‘Và ngươi chớ nói việc không đúng sự thật, theo cách thức sai khác, bởi v́ các bậc thiện trí đă không ngợi khen lời nói dối trá.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.’
902. ‘Và do vật nào mà sự nhận biết của con người ĺa khỏi, ngươi hăy lánh xa tất cả chất say ấy.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đă nói: Không; sau đó tôi đă làm đúng theo lời nói của Ngài.
903. Tôi đây, ở nơi này, sau khi làm theo năm điều học, sau khi thực hành theo Giáo Pháp của đức Như lai, đă đi con đường nối liền hai ngôi làng, ở giữa những kẻ cướp. Chúng đă giết hại tôi ở tại nơi ấy v́ nguyên nhân của cải.
904. Tôi nhớ lại điều tốt đẹp này chỉ có chừng ấy, tôi không biết về điều ǵ khác hơn thế nữa. Do nghiệp đă khéo được thực hành ấy, tôi đă được sanh lên ở các cảnh giới chư Thiên, có các dục theo sự ao ước.
905. Xin Ngài hăy nh́n xem quả thành tựu của sự thu thúc trong giây lát trong phút chốc nhờ vào sự thực hành thuận theo Giáo Pháp. Trong lúc nh́n thấy tôi tựa như đang chói sáng nhờ vào danh tiếng; nhiều người, có nghiệp hạ liệt, ganh tỵ với tôi.
906. Xin Ngài hăy nh́n xem, nhờ vào sự thuyết giảng chút ít, tôi đă đi đến cơi Trời và đă đạt đến an lạc. C̣n những người nào thường xuyên lắng nghe Giáo Pháp, tôi nghĩ rằng những người ấy chạm đến Bất Tử, sự an toàn.
907. Việc đă được làm, dầu chỉ chút ít, ở Giáo Pháp của đức Như Lai là có quả thành tựu vĩ đại, bao la. Xin Ngài hăy nh́n xem, với phước thiện đă làm, Chatta làm cho trái đất chói sáng, thậm chí giống như mặt trời.
908. Việc tốt đẹp này là ǵ? Chúng ta nên thực hành điều ǵ? Nhiều người, sau khi gặp nhau bàn thảo như thế. Chúng ta đây đă đạt được bản thể nhân loại thêm lần nữa; đă được đạt đến, chúng ta hăy sống có giới hạnh.
909. Và bậc Đạo Sư, với nhiều sự tiếp độ, bậc có ḷng thương tưởng, đă đi đến với tôi vào lúc sáng sớm, khi tôi c̣n sống, tôi đây đă đi đến gặp bậc có tên là Sự Thật (nói rằng): ‘Xin Ngài hăy thương tưởng, hăy để chúng tôi nghe Giáo Pháp thêm lần nữa.’
910. Và ở đây, những vị nào dứt bỏ sự luyến ái ở các dục, sau khi dứt bỏ sự tiềm ẩn về hữu ái, và si mê, các vị ấy không đi đến thai bào lần nữa, bởi v́ các vị đă ngự đến cảnh giới Niết Bàn, có trạng thái mát mẻ.”
Thiên Cung của Thanh Niên Bà-la-môn Chatta.
911. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
912. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
913. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
914. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
915. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
916. “Vật gợi lại kư ức là con cua được gắn ở cánh cửa, có mười chân, đă được hoàn tất, bằng vàng, chói sáng.[5]
917. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
918. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Xúp Cua.
919. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
920. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
921. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
922. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
923. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
924. Tuổi thọ một ngàn năm thuộc cơi Trời của tôi là (do) việc đă thưa gởi bằng lời, việc đă vận hành bởi ư;[6] chỉ với chừng ấy (việc làm) người có hành động phước thiện sẽ tồn tại, được thọ hưởng các dục ở cơi Trời.
925. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
926. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Giữ Cửa.
927. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
928. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
929. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
930. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
931. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
932. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức ở nơi chư Phật là những vị đă thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đă được bố thí có quả báo lớn.
933. Quả thật v́ sự lợi ích của tôi, đức Phật đă từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đă đi đến cơi Trời Ba Mươi Ba.
934. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
935. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Việc Nên Làm.
936. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
937. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
938. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
939. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
940. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
941. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức, ở nơi các vị tỳ khưu là những vị đă thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đă được bố thí có quả báo lớn.
942. Quả thật v́ sự lợi ích của tôi, vị tỳ khưu đă từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đă đi đến cơi Trời Ba Mươi Ba.
943. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
944. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Việc Nên Làm thứ nh́.
945. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
946. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
947. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
948. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
949. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
950. “Vật (được thành tựu) ấy không phải là vật đem ra bố thí. Chính vật (được thành tựu) ấy là tốt hơn chính cái vật đem ra bố thí. Đối với tôi, cây kim đă được bố thí, (quả thành tựu) c̣n tốt hơn chính cây kim.
951. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
952. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Cây Kim.
953. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
954. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cơi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
955. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
956. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
957. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
958. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, ...
959. ... tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng cây kim đến vị ấy.
960. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
961. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Cây Kim thứ nh́.
962. “Sau khi cỡi lên con long tượng có thân trắng toát, không khuyết điểm, có ngà, có sức mạnh, có tốc độ vĩ đại, là con long tượng cao quư, dùng để cưỡi, đă khéo được sửa soạn, ngươi đă đi đến nơi đây theo đường không trung, ở trên bầu trời.
963. Có những hồ sen với nước trong sạch, khéo nở rộ hoa, đă được hóa hiện ra ở hai ngà của con voi, có những nhóm nhạc cụ đă được vang lên ở những đóa sen, và có những phụ nữ quyến rũ này nhảy múa.
964. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
965. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
966. “Được tịnh tín, tôi đă tự tay cúng dâng ở ngôi bảo tháp của bậc Đại Ẩn Sĩ Kassapa chỉ có tám bông hoa đă bị đánh rơi.
967. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
968. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Long Tượng.
969. “Sau khi cỡi lên con long tượng to lớn, toàn thân màu trắng, đứng đầu các con voi, dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo từ rừng này sang rừng khác, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
970. Do điều ǵ ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều ǵ mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều ǵ mà) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho ngươi?
971. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
972. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được chính ngài Vaṅgīsa hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
973. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, tôi đă là người nam cư sĩ của đấng Hữu Nhăn. Tôi đă kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đă xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
974. Không có việc uống chất say, và tôi đă không nói lời dối trá, tôi đă được vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh, có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
975. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
976. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Long Tượng thứ nh́.
977. “Vị nào, với phương tiện di chuyển của cơi Trời, với con voi toàn thân màu trắng, có âm thanh vang vang đă được vỗ lên từ các loại nhạc cụ, được tôn vinh ở trên không trung?
978. Phải chăng ngài là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đ́nh, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đă bố thí trước đây? Trong khi không biết, chúng tôi xin hỏi ngài, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngài?”
979. “Ta không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đ́nh, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, người đă bố thí trước đây; những Thiên nhân nào có tên là Sudhammā,[7] ta là một trong số các vị ấy.”
980. “Chúng tôi nghiêm trang chắp tay hỏi vị Thiên nhân Sudhammā, sau khi thực hiện nghiệp ǵ ở cơi người th́ được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā?”
981. “Người nào bố thí ngôi nhà mía, ngôi nhà cỏ, và ngôi nhà vải, sau khi bố thí một trong ba việc này th́ được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā.”
Thiên Cung Long Tượng thứ ba.
982. “Với cây cung vững chắc, ngươi đứng, tựa vào cây cung bằng gỗ lơi. Vậy ngươi là vị Sát-đế-lỵ con của đức vua, hay là thợ săn sống ở rừng?”
983. “Thưa ngài, tôi là con trai của vị chúa tể xứ Assaka, sống ở rừng. Thưa vị tỳ khưu, tôi nói với ngài tên của tôi; mọi người đă biết tôi là ‘Sujāta.’
984. Trong khi t́m kiếm các con thú rừng, trong khi đi sâu vào khu rừng bao la, và tôi đă không nh́n thấy con nai ấy; sau khi nh́n thấy ngài, tôi đă đứng lại.”
985. “Này người có phước báu lớn lao, việc đi đến của ngươi là tốt đẹp, hơn nữa đối với ngươi không phải là việc đi đến sai trái. Ngươi hăy lấy nước từ nơi này, rồi rửa sạch các bàn chân của ngươi.
986. C̣n đây là nước uống mát lạnh đă được mang lại từ hang núi. Này hoàng tử, từ nơi ấy, sau khi uống xong, ngươi hăy đến ngồi ở tấm trải này.”
987. “Thưa bậc đại hiền trí, lời nói của ngài quả là tốt lành, nên được lắng nghe, không sai sót, và có lợi ích, ngọt ngào; ngài nói điều lợi ích sau khi đă suy xét.
988. Ngài có niềm vui thú ǵ trong khi sống ở rừng? Thưa vị chúa của các bậc ẩn sĩ, đă được hỏi, xin ngài hăy nói. Sau khi lắng nghe đường lối tŕnh bày của ngài, chúng tôi tự thực hành mục đích và đạo lộ của Giáo Pháp.”
989. “Này hoàng tử, sự không hăm hại tất cả các sanh mạng khiến chúng tôi vui thích, và sự kiêng cữ về việc trộm cắp, tà hạnh, và uống chất say.
990. Sự kiêng cữ, sự hành thiện, sự nghe nhiều, sự biết ơn về việc đă làm, là được khen ngợi ngay trong hiện tại; các pháp này là đáng được khen ngợi.
991. Này hoàng tử, ngươi hăy nhận biết rằng trong ṿng năm tháng, cái chết sẽ cận kề ngươi, ngươi hăy giải thoát bản thân.”
992. “Tôi nên đi đến xứ sở nào, (nên làm) việc ǵ và (phận sự) ǵ của người nam, hoặc là nhờ vào kiến thức ǵ tôi có thể trở thành không già không chết?”
993. “Này hoàng tử, lănh địa ấy, việc làm, kiến thức, và (phận sự) của người nam, nơi mà sau khi đi đến con người có thể trở thành không già không chết th́ không có.
994. Những người có tài sản lớn, có của cải lớn, thậm chí những Sát-đế-lỵ cai quản vương quốc, có dồi dào tài sản và lúa gạo, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
995. Nếu ngươi đă được nghe về những người con trai của Andhakaveṇhu là dũng cảm, anh hùng, có sự chiến đấu mănh liệt, ngay cả các vị ấy, (trong khi) được xem là trường cửu, cũng đă đạt đến sự cạn kiệt của tuổi thọ, cũng bị tiêu hoại.
996. Các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, nô lệ, hạ tiện, hốt rác, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
997. Những người nào tŕ tụng chú thuật (Vệ Đà) gồm sáu phần đă được nghĩ ra bởi đấng Tạo Hóa, những người này và những người khác là do kiến thức, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
998. Hoặc ngay cả những vị ẩn sĩ là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự an tịnh, có bản thân đă được kiềm chế, ngay cả những vị đạo sĩ khổ hạnh ấy cũng ĺa bỏ cơ thể theo thời gian.
999. Ngay cả những vị A-la-hán có bản thân đă được tu tập, có phận sự đă được làm xong, không c̣n lậu hoặc, cũng quăng bỏ thân xác này do sự diệt tận của thiện và ác.”
1000. “Thưa vị đại hiền trí, các câu kệ ngôn của ngài là khéo được nói lên, có sự lợi ích. Tôi được thuyết phục v́ điều đă được khéo thuyết, và xin ngài hăy là nơi nương nhờ của tôi.”
1001. “Ngươi chớ đi đến nương nhờ ta, hăy tiến đến nương nhờ chính vị ấy, người con trai ḍng Sakya, bậc Đại Anh Hùng, người mà ta đă đi đến nương nhờ.”
1002. “Thưa ngài, bậc Đạo Sư ấy của ngài là ở xứ sở nào? Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ.”
1003. “Với sự xuất thân từ ḍng tộc Okkāka ở xứ sở thuộc về phía đông, Ngài đă là bậc siêu nhân ở nơi ấy, và Ngài quả thật đă viên tịch Niết Bàn.”
1004. “Thưa ngài, nếu đức Phật, bậc Đạo Sư của Ngài c̣n hiện tiền, tôi có thể đi hàng ngàn do-tuần để hầu cận.
1005. Thưa ngài, chính v́ bậc Đạo Sư của Ngài đă viên tịch Niết Bàn, tôi cũng đi đến nương nhờ bậc Đại Anh Hùng mặc dầu Ngài đă Niết Bàn.
1006. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
1007. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của ḿnh.”
1008. “Tựa như vật có ngàn ánh hào quang (mặt trời), giống như ánh sáng vĩ đại, trong khi di chuyển theo quỹ đạo ở bầu trời, chiếu sáng như thế nào, bằng cách thức như thế ấy, cỗ xe vĩ đại này của ngươi được trải dài bảy do tuần ở xung quanh.
1009. Được phủ lên toàn bộ với những mảnh vàng; ngực của cỗ xe này được tô điểm với những viên ngọc trai, với những ngọc ma-ni; những nét khắc chạm của vàng và bạc, được làm bằng ngọc bích, đă khéo được biến hóa, khiến cho (cỗ xe) trở nên rực rỡ.
1010. Phần đầu này (của cái gọng xe) được cấu tạo bằng ngọc bích, và cái ách này được tô điểm với hồng ngọc, và c̣n thêm những con ngựa này, có tốc độ của ư, được thắng cương bằng vàng và bạc, chói sáng.
1011. Ngươi đây đứng ở cỗ xe bằng vàng, đă được khẳng định, tựa như vị Chúa của chư Thiên với cỗ xe một ngàn ngựa. Này vị có danh tiếng, ta hỏi ngươi, con người thông thái, làm thế nào ngươi đă đạt được (danh vọng) cao sang này?”
1012. “Thưa ngài, tôi tên là Sujāta. Trước đây, tôi đă là vị hoàng tử. Và ngài, do ḷng thương tưởng, đă hướng dẫn tôi vào sự kiềm chế.
1013. Và sau khi biết tôi có tuổi thọ đă bị cạn kiệt, ngài trao cho (tôi) xá-lợi của bậc Đạo Sư (nói rằng): ‘Này Sujāta, hăy tôn vinh vật này; vật này sẽ đem lại lợi ích cho ngươi.’
1014. Sau khi tôn vinh vật ấy bằng những vật thơm, bằng những tràng hoa, tôi đây được hưng phấn. Sau khi ĺa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.
1015. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”
Thiên Cung Cỗ Xe Nhỏ.
1016. “Ngươi bước lên cỗ xe xinh đẹp được tô điểm nhiều màu sắc này, chiếc xe ngựa được kéo bởi một ngàn con, đang di chuyển lân cận khu vực vườn hoa, (ngươi) tựa như Vāsava,[8] vị Chúa của chư Thiên, đấng chủ tể của các sanh linh.
1017. Cả hai bên sườn cỗ xe của ngươi được làm bằng vàng, được kết hợp chặt chẽ với những thanh đứng và những thanh ngang, có cái khung được tạo ra khéo léo, đă được hoàn tất bởi nghệ nhân bậc thầy; (cỗ xe) chói sáng tựa như mặt trăng ngày rằm.
1018. Được phủ lên với mạng lưới bằng vàng, được tô điểm với nhiều loại châu ngọc khác nhau, có âm thanh vô cùng vui tai, và vô cùng rực rỡ, cỗ xe này chói sáng với những cánh tay và bàn tay (đang phe phẩy) những cây phất trần.
1019. Và các ổ trục này (của các bánh xe) đă được biến hóa ra bởi ư, được trang hoàng ở khoảng giữa bên trong các chân của cỗ xe; và các ổ trục này được tô điểm với hàng trăm nét vẽ, chúng chiếu sáng với hàng trăm tia sáng, tựa như tia chớp.
1020. Cỗ xe này được trải lên với vô số tranh vẽ, và vành bánh xe là to rộng có ngàn ánh hào quang; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đă được tấu lên.
1021. Đă được tô điểm ở phần đầu, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, luôn luôn được trong sạch, đáng yêu, rực rỡ, được kết hợp dày đặc với các tia sáng bằng vàng, (cỗ xe) chói sáng nổi bật, tựa như có các tia sáng màu ngọc bích.
1022. Và những con ngựa này, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, cao to, có tốc độ nhanh, tương xứng với số đông, khổng lồ, vĩ đại, có sức mạnh, có tốc lực lớn lao, sau khi biết được tâm ư của ngươi, chúng di chuyển theo y như thế.
1023. Và tất cả những con vật bốn chân này đă được phối hợp, sau khi biết được tâm ư của ngươi chúng di chuyển theo y như thế. Chúng kéo (cỗ xe) một cách đồng đều, chúng nhu thuận, không náo động, vui tính, là hạng nhất trong các loài ngựa.
1024. Chúng giũ (lông), phi nhanh, phóng vào khoảng không, trong lúc làm rung chuyển dữ dội các vật trang sức đă khéo được thực hiện; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đă được tấu lên.
1025. Âm vang của cỗ xe và của những vật trang sức, tiếng gầm của vó ngựa và của tiếng hí vang, âm thanh vô cùng dễ thương của (đám đông) đă hội tụ lại được nghe (tựa như) những nhạc cụ của các nhạc sĩ Thiên đ́nh ở khu rừng nhiều màu sắc.
1026. Các nàng (tiên nữ) ấy đứng ở cỗ xe, có những cặp mắt lim dim của loài nai, có hàng mi dày, cười đùa, có lời nói đáng yêu, được che phủ với mạng lưới bằng ngọc bích, có làn da mảnh mai, vẫn luôn luôn được tôn vinh bởi các nhạc sĩ Thiên đ́nh và các vị đứng đầu chư Thiên.
1027. Các nàng ấy, với tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng quyến rũ, có cặp mắt to, với con mắt đỏ rực, đă được sanh ra tốt đẹp ở ḍng dơi cao sang, có thân h́nh xinh xắn, có nụ cười vô tư, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đă được sẵn sàng.
1028. Các nàng ấy có mang ṿng xuyến bằng vàng, có y phục đẹp, có ṿng eo đẹp, đùi và ngực đầy đặn, có các ngón tay tṛn, khuôn mặt đẹp, có nét xinh xắn, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đă được sẵn sàng.
1029. Những nàng khác, trẻ trung, có những bím tóc đẹp, có các sợi tóc được tết vào nhau, và (những cuộn tóc) được phân chia đồng đều, rực rỡ. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ư định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đă được sẵn sàng.
1030. Các nàng có những ṿng hoa đội đầu được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đă được trang điểm, đă được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ư định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đă được sẵn sàng.
1031. Các nàng ấy có những tràng hoa được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đă được trang điểm, đă được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ư định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đă được sẵn sàng.
1032. Các vật trang sức ở cổ, ở các bàn tay, ở các bàn chân, tương tự y như thế ở đầu, khiến cho mười phương chiếu sáng toàn bộ, tựa như mặt trời mùa thu đang mọc lên.
1033. Và bị lay động bởi lực đẩy của làn gió, các tràng hoa và các vật trang sức ở các cánh tay phát ra âm thanh đáng yêu, trong trẻo, mỹ miều, có vẻ đáng được lắng nghe bởi tất cả những người có sự nhận thức.
1034. Này vị chúa của chư Thiên, các cỗ xe và những con long tượng đứng ở hai bên tại khu đất của vườn hoa, cùng các nhạc cụ và âm thanh làm cho chính ngươi được vui thích, giống như cây đàn vīṇā với mặt đàn, bầu đàn, và cần đàn (làm mọi người được vui thích).
1035. Này vị chúa tể, trong khi các cây đàn vīṇā này, gồm nhiều loại, dễ thương, có h́nh dáng làm hài ḷng, đang được tấu lên dồn dập, gây xáo động trái tim, các nàng tiên nữ, các cô gái đă được học tập, nhởn nhơ giữa các đóa sen.
1036. Và khi các bài ca, các khúc nhạc, và các vũ công này hợp chung lại thành một, khi ấy ở nơi này họ nhảy múa, khi ấy ở nơi này các tiên nữ, những phụ nữ cao quư đang làm cho cả hai nơi chiếu sáng.
1037. Ngươi đây vui thích, với sự đánh thức bởi các nhóm nhạc cụ, trong khi đang được nể v́ tựa như vị (thần Inda) có tia sét là vũ khí. Này vị chúa tể, có sự gây xáo động trái tim ở nơi các cây đàn vīṇā gồm nhiều loại, dễ thương, có h́nh dáng làm hài ḷng này.
1038. Trước đây, ngươi đă tự ḿnh tạo nghiệp ǵ, khi là con người ở kiếp sống trước đây? Hay là ngươi đă hành tŕ ngày trai giới nào, đă say mê sự thực hành pháp, sự hành tŕ nào?
1039. Năng lực thần thông lớn lao này của ngươi, điều này không phải là của nghiệp nhỏ nhoi đă được làm, hoặc của ngày trai giới đă được hoàn thành tốt đẹp trong quá khứ, bởi v́ ngươi tỏa sáng vượt trội hội chúng chư Thiên.
1040. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hăy giải thích điều ấy cho ta.”
1041. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă nói rơ quả báo này là của nghiệp nào:
1042. “Đức Phật Kassapa, vị có giác quan đă được chế ngự, có sự ra đi tuyệt vời, đấng Tối Thượng Nhân, nhân vật cao cả, bậc đang mở ra cánh cửa Bất Tử ấy, vị Trời vượt trội các vị Trời, có trăm dấu hiệu phước báu.
1043. Tôi đă nh́n thấy Ngài, đấng Khổng Tượng, người đă vượt qua ḍng nước lũ, tương tự h́nh tượng bóng láng bằng vàng. Sau khi nh́n thấy Ngài, sau khi nh́n thấy chính biểu hiện của (Giáo Pháp) đă khéo được thuyết giảng ấy, tôi đă tức thời trở nên có tâm ư trong sạch.
1044. Ở nơi trú ngụ của ḿnh đă được trải lót bông hoa, tôi đây, với tâm ư không có sự ràng buộc, đă cống hiến đến Ngài cơm ăn, nước uống, và luôn cả y phục sạch sẽ, hảo hạng, được thành tựu phẩm chất.
1045. Sau khi làm toại ư bậc Tối Thượng của các loài hai chân ấy với cơm ăn, với nước uống, và với y phục, với vật nhai, với thức ăn, và với cao lương mỹ vị, tôi đây vui sướng ở thành phố của chư Thiên theo tuần tự của các cơi Trời.
1046. Bằng cách thức này, sau khi dâng hiến việc hiến dâng này không có sự ngần ngại, được trong sạch theo ba cách, sau khi ĺa bỏ xác thân nhân loại, tôi vui sướng ở thành phố của chư Thiên tương tự như vị Thần Inda.
1047. Thưa bậc hiền trí, người đang mong mỏi tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, và sức mạnh có h́nh thức hảo hạng, nên cống hiến nhiều cơm ăn nước uống đă khéo được chuẩn bị ở bậc có tâm ư không có sự ràng buộc.
1048. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, người đă đi đến trạng thái nên được hiến cúng, xứng đáng với sự hiến cúng tối thượng, (đă đi đến) sự tồn tại ở quả báo to lớn đối với những người mong mỏi phước báu, người là bậc tốt hơn hay tương đương với đức Phật không được biết đến.”
Thiên Cung Cỗ Xe Lớn.
Phẩm Cỗ Xe Lớn là thứ năm.
*****
(Chuyện Thiên tử) Ếch, Revatī, Chatta, (xúp) cua, người giữ cửa, hai việc nên làm, hai (chuyện) cây kim, ba (chuyện) long tượng, và hai (chuyện) cỗ xe; được gọi là phẩm thứ nhất của những người nam.”
TỤNG PHẨM THỨ BA.
--ooOoo--
1049. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cơi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, th́ Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1050. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1051. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1052. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đă sống tại gia, là nguồn cung ứng (vật chất). Có tâm tịnh tín, chúng tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1053. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1054. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Tại Gia.
1055. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cơi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, th́ Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1056. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1057. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1058. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đă sống tại gia, là nguồn cung ứng (vật chất). Có tâm tịnh tín, chúng tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1059. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1060. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”[9]
Thiên Cung của Người Tại Gia thứ nh́.
1061. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười sáu do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1062. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. C̣n có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cơi Ba Mươi (Ba), cao sang, đă được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển.
1063. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1064. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1065. “Người bố thí trái cây đạt được quả báo dồi dào trong khi bố thí với tâm ư thanh tịnh đến những vị đă thực hành nghiêm chỉnh, chính người ấy, đă đi đến cơi Trời, vui sướng ở cơi Ba Mươi (Ba). Thưa bậc đại hiền trí, tương tự y như thế, tôi đă dâng cúng bốn trái cây, và tôi thọ hưởng quả phước dồi dào.
1066. Chính v́ thế, là quá đủ để người mong cầu hạnh phúc bố thí trái cây thường xuyên, là người đang ước nguyện các hạnh phúc thuộc cơi Trời, hay là đang mong muốn trạng thái giàu sang thuộc loài người.
1067. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1068. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Trái Cây.
1069. “Giống như mặt trăng di chuyển ở không trung, đang chói sáng ở bầu trời có đám mây đen đă được tản mác, tương tự như thế ấy Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng.
1070. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1071. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1072. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đă sống tại gia, đă bố thí chỗ ngụ đến vị A-la-hán. Có tâm tịnh tín, chúng tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1073. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1074. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Chỗ Ngụ thứ nhất.
1075. “Giống như mặt trời di chuyển ở không trung, đang chói sáng ở bầu trời có đám mây đen đă được tản mác, Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế.
1076. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1077. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1078. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đă sống tại gia, đă bố thí chỗ ngụ đến vị A-la-hán. Có tâm tịnh tín, chúng tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí, cơm ăn và nước uống dồi dào.
1079. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1080. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Chỗ Ngụ thứ nh́.
1081. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1082. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1083. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1084. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu bị run rẩy, mệt nhọc, tôi đă cung cấp trọn phần ăn một ngày, khi ấy tôi đă thực hiện bằng bữa ăn thuộc sở hữu (của ḿnh).
1085. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1086. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Vật Thực.
1087. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười sáu do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1088. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. C̣n có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cơi Ba Mươi (Ba), cao sang, đă được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển.
1089. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1090. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1091. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người canh giữ lúa mạch. Tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.
1092. Được tịnh tín, tôi đă tự tay dâng phần chia (đă nhận được) đến vị ấy. Sau khi dâng cúng miếng bánh kem, tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cơi Trời).
1093. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1094. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Canh Giữ Lúa Mạch.
1095. “Ngươi đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đă được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đă được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cơi Trời.
1096. C̣n có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cơi Ba Mươi (Ba), cao sang, đă được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển.
1097. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1098. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1099. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, sau khi nh́n thấy các vị Sa-môn có giới hạnh, có kiến thức và hạnh kiểm đă được thành tựu, có danh tiếng, nghe nhiều, đă đạt đến sự cạn kiệt tham ái, có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1100. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1101. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Có Bông Tai thứ nhất.
1102. “Ngươi đă được trang điểm, có mang ṿng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đă được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đă được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cơi Trời.
1103. C̣n có các cây đàn vīṇā thuộc cơi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cơi Ba Mươi (Ba), cao sang, đă được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm tṛ tiêu khiển.
1104. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1105. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1106. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, sau khi nh́n thấy các vị Sa-môn có dáng vóc nghiêm trang, có kiến thức và hạnh kiểm đă được thành tựu, có danh tiếng, nghe nhiều, đă đạt đến việc có giới hạnh, có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1107. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1108. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Có Bông Tai thứ nh́.
1109. Hội trường Sudhammā của đức Thiên Vương là nơi hội chúng chư Thiên có sự hợp nhất, tương tự như thế ấy Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng.
1110. Ngươi đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đă làm việc phước thiện ǵ? Do điều ǵ mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1111. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Được hỏi câu hỏi, vị ấy đă giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1112. “Tôi, khi là con người ở cơi nhân loại, đă là người thanh niên Bà-la-môn của đức vua Pāyāsi, sau khi tiếp nhận phần của cải tôi đă thực hiện việc phân phối. Và các bậc có giới hạnh đă được tôi quư mến; có tâm tịnh tín, tôi đă trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1113. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ư sanh lên cho tôi.
1114. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi tŕnh bày cho ngài về việc phước thiện tôi đă làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Uttara.
Phẩm Pāyāsi là thứ sáu.
*****
Hai (chuyện) người tại gia, người bố thí trái cây, hai (chuyện) người bố thí chỗ ngụ, người bố thí vật thực, và luôn cả người canh giữ lúa mạch, hai (chuyện) người có bông tai, (đức vua) Pāyāsi; được gọi là phẩm thứ nh́ của những người nam.”
--ooOoo--
[1] Hai câu kệ 862, 863 giống hai câu kệ 219, 220 của Dhammapadapāḷi - Pháp Cú.
[2] Hai câu kệ 866, 867 là lời của Revatā.
[3] Ba câu kệ 887-889 là lời khuyên của đức Phật đến người thanh niên Bà-la-môn Chatta (Sđd. 230).
[4] Ba câu kệ 890-895 là lời đức Phật hỏi vị Thiên tử Chatta, hậu thân của thanh niên Bà-la-môn Chatta, người đă bị bọn cướp giết chết và đă được sanh lên cơi Trời (Sđd. 235).
[5] Khi là con người, vị Thiên nhân này là người giữ ruộng. Người này đă dâng cúng phần cháo cua vừa mới nấu xong c̣n chưa kịp ăn đến vị trưởng lăo tỳ khưu đi đến khất thực ở cḥi canh ruộng của ḿnh (Sđd. 244).
[6] Ở cơi Trời (Ba Mươi Ba), một ngày đêm tương đương 100 năm ở cơi người, một tháng có 30 ngày, một năm có 12 tháng. Như vậy, “một ngàn năm thuộc cơi Trời” này bằng 3 koṭi và 60 trăm ngàn năm ở cơi người; tổng cộng là 36 triệu năm. Người giữ cửa này được hưởng phước như thế chỉ nhờ vào việc đă chào đón, hỏi thăm sức khỏe, mời ngồi, v.v... đối với những người khách đi đến, đồng thời đă có những suy nghĩ tốt đẹp về họ (Sđd. 247).
[7] Sudhammā: Thiên cung của Chúa Trời Sakka thuộc cơi Đạo Lợi. Sở dĩ vị ấy trả lời “namhi devo = ta không là Thiên nhân” để phù hợp với h́nh thức của câu hỏi (Sđd. 258).
[8] Vāsava: tên gọi của vị Trời Sakka.
[9] Câu chuyện này và câu chuyện trước hoàn toàn giống nhau.