BuddhaSasana Home Page CHẾT TRONG AN BÌNH Tỳ Kheo Visuddhacara PHẬT LỊCH 2548 – DƯƠNG LỊCH 2004 [02] ---*--- Phần tốt nhất đó trong đời
sống của một người lương thiện là những hành
động nhỏ nhoi không sao kể xiết bị lãng
quên về lòng tốt và thương yêu. Woodsworth ---*--- CHÚNG TA PHẢI LÀM TRÒN Trước đây tôi đã nói khi tôi nhìn
thấy một người bệnh, người sắp chết và người chết, hai quyết tâm phát sinh
trong tâm tôi. Một là có thể chịu đựng sự đau
đớn và cái chết với một nụ cười, có thể giữ
được chánh niệm và tự tại cho
đến lúc cuối cùng. Bây giờ tôi muốn
nói đến quyết tâm thứ hai. Vâng, khi nhìn
thấy con người và thực ra tất cả chúng sinh
đang sống, đều phải chịu đau khổ nhiều như vậy, tôi cảm thấy ít nhất chúng
ta có thể làm được, trong khi chúng ta
còn sống, là đóng góp làm nhẹ
bớt khổ đau chung quanh chúng ta.
Nhiều người đang phục vụ nhân loại theo
nhiều cách thức phi thường. Mẹ Theresa, chẳng hạn, đã dành cả cuộc
đời để săn sóc những người thiếu thốn và
cơ cực. Nhiều người và tổ chức đã dấn
thân vào làm những công tác xã hội cho người bệnh, người tàn tật, người
chết đói, người già, những người sắp
chết và nhiều người khác. Tất cả những đạo sư
tôn giáo vĩ đại đều kêu gọi các đệ tử
hãy nhân từ. Jesus Christ nói: "Hãy thương yêu người láng giềng như
chính thân mình" Và Ngài tán dương những người cho người
đói ăn, cho người khát uống, cho quần áo
người trần trụi, cho chỗ ở kẻ bần hàn, thăm
viếng người bệnh và người bị giam cầm. Ngài nói rằng: "Vì các ngươi
đã làm thế cho một trong những người
anh em của ta, tức là các ngươi đã làm
cho chính ta". Có một câu tương tự trong Kinh Koran chỗ nhà Tiên Tri
Mohamed nói Thượng Ðế có thể nói trong Ngày Phán Xét:" Ta
đói mà các ngươi không cho ta
ăn. Ta bị bệnh mà các ngươi không
đến thăm. Và khi
được hỏi bởi một người hoang mang không hiểu
như thế là thế nào, Thượng Ðế trả lời "Như một người xin bánh mà
ngươi không cho. Như một người bệnh mà ngươi không
đến thăm". Trong Ðạo Phật, mặc dầu chúng ta không tin vào Ðấng Thượng Ðế Sáng Tạo,
chúng ta tin vào điều thiện và hô hào
không giết hại cả đến một con vật hay côn trùng.
Chúng ta tin vào Nghiệp luật- đó là
thiện đem lại thiện, ác đem lại ác. Cho nên
chúng ta bao giờ cũng phải bám chặt vào điều
thiện: tránh không giết hại, trộm cắp, lừa đảo, tà dâm, dối trá,
uống rượu và các chất say. Chúng ta tự rèn luyện
để tiến đến chỗ chúng ta làm
điều thiện vì lợi ích làm
điều thiện và không phải vì sợ hãi
địa ngục hay mong muốn được phần thưởng.
Chúng ta làm điều thiện vì
chúng ta thích làm điều thiện và tự
nhiên ngả về điều thiện. Nói một cách khác
chúng ta không thể tránh được làm việc thiện. Ðiều thiện với chúng
ta là một. Ðức Phật chỉ thị các đệ tử của Ngài
phải nhân từ và quan tâm đến người khác. Ngài
nói một chút cố gắng cũng có giá trị khi cho. Cả
đến ném một vài mẩu bánh xuống nước
cho cá ăn cũng được tán dương bởi Ðức
Phật. Một lần, mấy nhà sư không săn sóc một
nhà tu bệnh, Ðức Phật đích thân tắm
rửa cho vị sư bệnh này và khuyên bảo các vị kia: "Ai săn
sóc người bệnh chính là săn sóc ta".
Ðức Phật kêu gọi các vì vua hãy trị vì với lòng từ bi. Ngài khuyên các nhà
vua nên loại trừ nghèo đói vì
đó là một trong những yếu tố góp phần
vào sự cướp bóc và các tội khác. Là một người yêu hòa bình, Ngài
đã từng ngăn
cản được khi hai quốc gia đang sắp sửa lâm vào vòng chiến vì tranh
chấp một dòng sông. Ðức Phật hỏi họ: "Cái nào quan trọng hơn – nước hay
máu của con người sẽ chảy vì chiến tranh?" Hai bên lâm chiến thấy sự tranh
chấp điên rồ của họ
đã rút lui không
đánh nhau.
Một trong những vị vua nhân từ nhất chịu ảnh hưởng trước những lời Phật
dạy là Asoka, trị vì Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ Ba trước Công Nguyên, khoảng 200
năm sau khi Ðức Phật nhập diệt. Nổi
tiếng về lòng nhân đạo, sự rộng lượng và
lòng tốt cửa Ngài trải đến cả con vật. Ngài
được nổi tiếng vì
đã lo liệu bác sĩ cho cả người lẫn súc
vật. Ngài đã xây công viên, trạm nghỉ
ngơi cho khách bộ hành và nhà tế bần cho những người nghèo và người bệnh.
Mặc dầu là một Phật tử thuần thành, Ngài cho dân ngài hoàn toàn tự do
trong việc thờ phượng và ủng hộ các giáo phái khác. Trong một sắc lệnh nổi
tiếng khắc trên đá, Ngài nói Ngài
"Chúc mừng những người của tất cả những tôn giáo sống ở mọi nơi trong
vương quốc của Ngài ... vinh danh người của tất cả các tôn giáo, thành
viên của những dòng tu và cư sĩ, bằng tặng vật và những biểu hiện quý
trọng khác". Ngài muốn tất cả các tôn giáo
đều được kính trọng vì "bằng cách kính trọng tôn giáo là nâng cao
niềm tin của chính tôn giáo mình và đồng thời
phục vụ niềm tin của những người khác... Cho nên chỉ có hòa thuận
không thôi là đáng khát khao ... (Và
Ngài, Asoka) mong muốn người của tất cả các tôn giáo khác hiểu biết học
thuyết của nhau và tìm được học thuyết lành
mạnh..." Asoka coi vai trò của Ngài như một người cha nhân từ và coi dân như con
khi nói rằng Ngài muốn họ được mọi loại thịnh
vượng và hạnh phúc. Ðức Phật nếu có thể chứng kiến triều
đại của Hoàng Ðế Asoka, thì Ngài sẽ
hết sức vui mừng khi thấy giáo lý của Ngài đã
được tôn trọng triệt để một cách chuyên
cần bởi vị hoàng đế vĩ đại này. H.G.
Wells trong cuốn "Outline of History" (Lịch Sử Ðại Cương) có nói, trong số
các vị hoàng đế đã
đến và ra
đi trên thế giới, "tên của Hoàng đế
Asoka sáng chói, sáng chói hầu như một tinh tú không có ai ngang hàng".
Chắc chắn tất cả những chính phủ sẽ thành công khi nghiên cứu và áp dụng
cách giải quyết nhân đạo của Hoàng Ðế
Asoka trong việc trị vì. Cũng vậy, nếu chúng ta đi theo những lời
Ðức Phật dạy, thì chúng ta cũng giống như Asoka, làm việc theo
đường lối của chúng ta để giảm bớt khổ đau và
trải rộng hòa bình và hạnh phúc. Chính Ðức Phật
đã là tấm gương tốt
đẹp nhất cho chúng ta soi, Ngài
đã dành cả cuộc
đời để chỉ cho con người lối thoát khỏi khổ
đau. Vâng, Ðức Phật không những quan tâm
đến việc làm nhẹ bớt khổ
đau, mà Ngài còn quan tâm
đến việc loại bỏ nó hoàn toàn. Cho nên
sau khi giác ngộ, Ngài đã bỏ cả 45 năm
cuộc đời còn lại dạy cho con người con
đường loại bỏ khổ đau. Ngài dạy con
đường chánh niệm.
Ðức Phật thấy chỉ bằng cách giải quyết triệt
để mới có thể loại bỏ được khổ đau. Mặc dù
săn sóc người bệnh, chữa lành bệnh
tật, cung cấp thực phẩm và các trợ giúp vật chất cho người túng thiếu là
một phần thiết yếu trong việc đối phó với khổ
đau, Ðức Phật muốn tham gia nhiều hơn là chỉ có những triệu chứng:
Ngài muốn tìm cách chữa lành hoàn toàn chứng bệnh khổ
đau. Cho nên Ngài
đã thiền
định toàn bộ câu hỏi đời sống và
cái chết. Và Ngài thấy muốn giải quyết vấn đề
từ gốc rễ, chúng ta cần phải xem xét lại toàn bộ tâm. Khổ
đau thực chất là tinh thần. Khi có
đau đớn thể chất, người ta thường phản ứng
bằng buồn rầu, sợ hãi và ngã lòng. Nhưng người tu thiền, Ðức Phật
dạy, có thể chịu đựng cái đau thể chất mà
không có khổ đau tinh thần. Nói một cách
khác, người ta không phản ứng bằng buồn rầu, lo lắng, thất vọng, ác cảm,
giận hờn vân vân... Thay vì, người ta có thể phản ứng bằng bình
tĩnh và thanh thản. Người ta có thể vui và thậm chí an ủi và khuyến khích
người khác! Cho nên Ðức Phật thấy vấn đề thực chất là
tinh thần. Nếu chúng ta có thể giải thoát tâm chúng ta khỏi tham, sân và
si (thuộc bản chất đời sống) Ðức Phật
dạy chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua được và
loại bỏ khổ đau tinh thần, như lo lắng và
bồn chồn, phiền muộn và than khóc. Về khổ đau
thể chất, chúng ta phải thừa nhận không thể tránh khỏi chừng nào mà
chúng ta có cái thân này. Tất cả chúng ta đều
biết không ai có thể tránh khỏi tuổi già, bệnh và chết. Nhưng Ðức
Phật dạy một khi thanh lọc được tâm ra khỏi
tất cả những ô nhiễm của tham, sân vân vân thì cái
đau thể chất không làm chúng ta sợ hãi
nữa. Ta trở nên không lay chuyển. Không có gì có thể làm ta lo ngại nữa,
cả đến cái đau cực độ mà những bệnh
như ung thư có thể mang lại. Tâm ta vẫn có thể giữ luôn luôn trầm tĩnh.
Bởi vậy khi đệ tử của Ðức Phật,
Anurudhha, một lần được hỏi làm sao
ông có thể giữ bình tĩnh khi ông bệnh nặng, Ngài trả lời
đó là vì ông
đã có thể làm chủ
được tâm ông do tu tập chánh niệm như đã
được dạy bởi Ðức Phật. Cũng để kết luận, Ðức Phật dạy
đối với một người hoàn hảo
đã bỏ
được tham sân si, không còn tái sanh nữa. Khi người ấy chết,
đó là kiếp cuối cùng. Người ấy
đã đạt
được trạng thái Niết Bàn – sự an lạc hoàn hảo. Không phải tái sanh
người ấy không bao giờ còn bị tuổi già, bệnh và chết. Ðức Phật nói, chỉ
điều đó là chấm dứt khổ
đau.
LÀM NHẸ BỚT KHỔ ÐAU Trong khi phấn đấu để chấm dứt hoàn
toàn khổ đau, chúng ta nên, trên con
đường tu tập, giúp làm nhẹ bớt khổ
đau bằng bất cứ cách nào chúng ta có
thể. Vâng, rõ ràng không thiếu gì khổ đau trên
thế giới. Nhiều người khổ đau theo nhiều cách
khác nhau. Nếu chúng ta đọc báo, chúng ta thấy khổ đau khắp nơi. Người ta
tranh chấp, đánh nhau, giết chóc, cướp bóc, nói dối, lừa đảo và gây
khổ đau lẫn nhau bằng nhiều cách. Do vô minh
chúng làm hại lẫn nhau. Xa hơn nữa, thiên tai, tai nạn, rủi ro,
chết đói, bệnh tật khắp nơi. Và bệnh
tật tuổi già, và cái chết luôn bám sát chúng ta ở từng bước. Vâng, thế giới này đầy khổ đau. Tại sao
chúng ta lại còn thêm vào nữa? Thay vì phải chăng
chúng ta nên cố gắng làm nhẹ khổ đau?
Dù chúng ta không làm được nhiều,
chúng ta vẫn có thể làm được ít. Mỗi
một cố gắng nhỏ nhoi cũng đáng kể. Có người nói: Không ai mắc
sai lầm lớn hơn là không làm gì dù chỉ làm một chút. Mỗi người chúng
ta đều có thể làm
được việc gì
đó, theo khuynh hướng và khả năng
của mình. Ðể khởi sự chúng ta có thể bắt
đầu tử tế hơn. Chẳng hạn chúng ta có thể ngăn
chặn nóng giận của chúng ta. Mỗi khi chúng ta nóng giận chúng ta gây nên
đau đớn cho chính chúng ta và người
khác. Nhưng nếu chúng ta có thể nén được giận
của chúng ta và trau dồi khoan dung và kiên nhẫn, thương yêu và từ
bi, chúng ta có thể trở nên người tử tế hơn, và
đó có thể là một thành công
để giúp gieo rắc sự vui vẻ và hạnh
phúc . Nói một cách khác chúng ta phải bắt đầu
bằng cách tẩy sạch tâm ta khỏi những chất chứa bất thiện và tiêu
cực của tham sân và si. Tương ứng với khả năng
kiềm chế các trạng thái bất thiện của ta, tình thương yêu và từ bi
sẽ phát triển nơi chúng ta. Chúng ta có thể tử tế hơn trong quan hệ với
những người kề cận và chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể cố gắng nói năng
một cách đáng yêu và nhẹ nhàng hơn, và tránh lời nói thô tục và cục
cằn. Chúng ta có thể trở nên ân cần và quan tâm
đến người khác nhiều hơn. Nếu chúng ta chỉ
quan tâm đến phúc lợi riêng của chúng ta thì chúng ta không thể
thương yêu hữu hiệu. Muốn thương yêu tốt đẹp,
chúng ta không nên coi trọng phúc lợi của mình mà phải chú ý
đến phúc lợi của người khác. Cho nên
chúng ta phải hỏi chính mình. Chúng ta có thương yêu
đủ không? Chúng ta có quan tâm đủ không? Nếu
không chúng ta không thể hành động để
làm nhẹ bớt khổ đau. Chính vì
không có thương yêu và từ bi thực sự mà chúng ta có thể hành
động.
Một thiền sư từng nói rằng nếu bạn muốn biết bạn
đã thực sự yêu thương, bạn nên gần
người thân yêu của bạn một ngày, và nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng trong tay
bạn. Hãy nhìn thẳng vào mắt nàng và hỏi nàng: "Em thân yêu, anh có yêu em
đúng mức không? Anh có yêu em
đủ không? Anh có làm em hạnh phúc
không? Nếu là không, xin em cho biết thiếu cái gì
để anh có thể thay đổi và yêu em nhiều
hơn?" Nếu bạn hỏi nàng dịu dàng với tình yêu chân thật và quan tâm, thì
nàng có thể khóc. Sư trưởng nói, đó là
dấu hiệu tốt. Vì nó có nghĩa là bạn đã
chạm đến đúng vào tình cảm của nàng.
Và rồi ở đấy có thể có sự trao đổi tâm tình
giữa bạn và nàng. Và vì vậy nàng có thể nói với bạn giữa những tiếng thổn thức sao bạn
đã không có ý tứ gì rất nhiều lần.
Chẳng hạn nàng có thể nói: "Anh không còn mở cửa xe cho em nữa. Anh thường
mở cửa xe cho em khi lần đầu anh theo đuổi em
và cả đến năm đầu lấy nhau. Anh cũng
cẩn thận xem em ngồi ngay ngắn chưa rồi anh mới nhẹ nhàng
đóng cửa xe. Bây giờ anh không làm như
thế nữa. Anh vào xe trước và cho ngay máy chạy. Em phải tự mở cửa và vào
xe thật nhanh. Nếu không anh có thể chạy xe
đi trước khi em kịp đóng cửa! Em muốn khóc khi anh sử xự như thế. Cái gì
đã xẩy ra cho con người lịch sự và có
ý tứ mà em đã lấy?" Và nàng có thể tiếp tục: "Anh đã
không nắm tay em nữa khi qua đường. Anh đi
trước và muốn em phải theo anh. Rồi khi chúng ta vào nhà hàng. Anh
không mở cửa và mời em vào trước. Anh không kéo ghế cho em ngồi. Anh không
hỏi em thích ăn gì mà tự
động đặt các món ăn anh thích. Anh không mua
những bộ áo đẹp cho em nữa. Anh không mua tặng phẩm gì cho cha mẹ
em, ngay cả đến những dịp lễ hội. Và
mặc dầu anh có thể nhớ đến việc cho em quà
vào ngày sinh nhật, nhưng anh không kèm theo thiệp sinh nhật với những lời
tình cảm đẹp đẽ. Nói tóm lại, anh đã
không làm những việc nhỏ bé dễ thương mà anh thường làm cho em khi anh
theo đuổi em và cưới em. Nếu em biết
anh sẽ thay đổi như thế này, có lẽ em
đã suy nghĩ lại về việc lấy anh. Em băn
khoăn không biết thực sự anh còn yêu em hay quan tâm
đến em nữa không?" Và nàng có thể tiếp
tục một mạch nêu lên một bản danh sách về những bất hạnh của nàng. Nàng có
thể thổn thức to hơn và bạn có thể ngạc nhiên vì bạn không biết nàng
đã giữ trong lòng tất cả những thứ
đó, nàng
đã không nhận ra tất cả những sự việc nho nhỏ dễ thương mà bạn
thường làm cho nàng, và nàng đã không
hiểu sự bầy tỏ quan tâm và thương yêu tuy nhỏ bé nhưng quan trọng của bạn.
Ðương nhiên, rất có thể bạn cũng có những phiền muộn chính
đáng. Cho nên
đây là dịp tốt
để bạn thổ lộ, nhưng bằng một cách thật dịu dàng.
"Ồ, anh xin lỗi về cách sử xự vô tâm và không ý tứ của anh, em thân yêu.
Tin anh đi, anh thật tình. Xin tha lỗi
cho anh. Từ nay trở đi anh sẽ làm lại
cho em. Anh hứa anh sẽ không cẩu thả trong tương lai. Anh sẽ trông nom em
thật tốt. Anh sẽ bắt đầu làm trở lại
những việc nho nhỏ mà anh đã lơ là làm
cho em. Anh không nhận ra được là em
đã quá nhớ những thứ
đó.
"Nhưng em thân yêu, xin đừng giận dỗi với
điều mà anh sắp nói. Vì anh có nhiều lầm lỗi, em cũng nên biết có
một số điều em thường làm cho anh mà
em chưa bao giờ làm. Chẳng hạn anh thích ăn đùi
gà chiên theo lối sambal belacan mà em thường nấu cho anh. Nhưng bây giờ
em không còn nấu món ấy nữa, không kể đến
những thứ súp cà chua và những món khác. Em biết không, người già
nói về cách đi vào lòng con người là
qua bao tử hãy còn rất thích đáng.
"Ngày xưa em thường đánh thức anh dạy với
một nụ cười và một cái hôn nhẹ nhàng trên má nhưng nay em
đâu còn làm như thế nữa. Ðôi khi em
còn dạy trễ nên anh phải tự làm để ăn sáng
hay ăn tại văn phòng. Em đã
thường đợi cửa khi anh đi làm về và
hỏi anh ngày ấy ra sao. Em thực tình muốn biết và em tỏ ta rất có tình cảm
và an ủi khi anh có chuyện không vui. Nhưng dạo này dường như em không
quan tâm đến việc anh sống ra sao nữa, liệu
anh có ngày làm vui vẻ hay vất vả không. Em bận xem truyền hình, la
các con, hay ở các nơi sửa sang sắc đẹp hay làm
cái này cái nọ. Khi anh gọi, "Hello, em thân yêu, anh
đã vế",
đôi lúc em gắt và nói những thứ đó
không thật khả ái, vân vân và vân vân..." Và như vậy cả hai trao đổi tâm tình.
Truyền thông rất quan trong trong quan hệ. Có phải không? Quan hệ sẽ tan
vỡ khi không có truyền thông, và cả hai phía
đều giữ phiền muộn trong lòng, nuôi dưỡng chúng trong tâm. Nhưng
khi có sự truyền thông, sẽ có sự thông cảm. Cởi mở trong lòng cả hai phía
sẽ đưa đến thông cảm và thương yêu.
Nếu hai người quan tâm đủ và coi trọng
quan hệ của họ thì họ sẽ trò chuyện tâm sự. và áp dụng các biện pháp sửa
chữa khi cần. Bằng cách ấy, quan hệ sẽ trở nên mạnh mẽ và
đẹp đẽ với mỗi ngày qua. Mỗi một người chúng ta cần phải đóng góp
bằng cách riêng của mình, bằng bất cứ
đường lối nào mà ta biết ra sao. Trong trường hợp của tôi, là một
nhà sư, tôi có thể đóng góp bằng cách chia sẻ
chút ít kiến thức về Phật Pháp mà tôi biết, một chút hiểu biết mà
tôi có. Tôi có thể khuyến khích người ta tu tập thiền
định và hướng dẫn họ một chút trên con
đường này. Tôi có thể kêu gọi người ta
hãy thương yêu và quan tâm, ân cần và nhẫn nại vân vân... Ðương nhiên
chúng ta không hoàn toàn, có những lúc chính chúng ta thất bại không góp
phần được. Nói thì thật là dễ nhưng
thực hành điều ta thuyết giảng thì
thật là khó, điều đó rất đúng. Cho nên
tôi phải là người đầu tiên thừa nhận
những thiếu sót của tôi và chấp nhận sửa chữa. Trong khi phán xét tôi hay
những người khác, tôi cầu mong người ta xem xét giảm nhẹ những yếu tố như
ý tốt. Chúng tôi có ý tốt và không có ý làm hại. Nhưng vì những nhược
điểm, không khéo léo, không kiên nhẫn,
không độ lượng, kiêu ngạo vân vân...
chúng ta có thể làm người khác đau đớn mặc dù
chúng tôi muốn làm tốt. Nhưng nếu là một người cao thượng, người
đó có thể hiểu và tha thứ. Khả năng
tha thứ là một đức tính tuyệt vời, cho
nên có câu nói, lầm lỗi là con người; tha thứ là siêu phàm,
đã được
đặt ra.
Hãy tận dụng cơ hội để cho và chính
bạn sẽ biết cách tốt nhất để đóng góp. Tất cả
chúng ta có những kỹ năng, tài ba và năng
khiếu khác nhau, điều kiện và hoàn cảnh cũng khác. Cho nên mỗi
chúng ta chỉ có thể đóng góp theo đường lối
riêng của mình, tùy theo hoàn cảnh và khuynh hướng. Ðiều quan trọng
là cố gắng; chúng ta làm theo khả năng. Như
chúng ta đã nói, mỗi chút cũng đáng kể
và khi thời gian qua đi, chúng ta sẽ
thấy thực tế chúng ta đã làm được một
chút gì phải lẽ. Và đó là
nguyên nhân cho chúng ta hoan hỉ. Ðương nhiên nó không có nghĩa là chúng
ta cứ nghỉ ngơi trên vòng hoa chiến thắng. Còn nhiều việc phải làm. Nên
chúng ta phải tinh tấn; chúng ta phải tiếp tục tấn tới. ---*--- Người ấy sống tràn đầy tâm
từ ở phương thứ nhất, cũng như vậy ở phương thứ hai cũng như vậy ở phương
thứ ba, cũng như vậy ở phương thứ tư, đúng vậy ở bên trên, bên
dưới, chung quanh người ấy sống tràn đầy tâm
từ cả thế giới, ở khắp nơi, theo mọi cách, tâm từ ấy sâu xa trải rộng, mênh
mông, không thù hằn, không ác ý. Ðức Phật
Hiểu biết mọi thứ là tha thứ mọi thứ Vô danh ---*---
THƯƠNG YÊU LÀ HIỂU BIẾT Muốn chết tốt đẹp chúng ta phải sống tốt lành.
Nếu chúng ta đã sống tốt lành chúng ta
có thể chết êm ả. Sẽ không còn nuối tiếc. Chúng ta sẽ ra
đi một cách an bình, mãn nguyện rằng
chúng ta đã làm cái chúng ta có thể,
rằng trên con đường mà chúng ta
đã gieo rắc cảm thông và hạnh phúc,
rằng chúng ta đã sống theo nguyên tắc
và lời cam kết trước những lý tưởng về thương yêu và từ bi. Thương yêu là hiểu biết. Thương yêu không phán xét hay kết tội. Thương
yêu lắng nghe và cảm thông. Thương yêu quan tâm và
đồng tình. Thương yêu chấp nhận và tha
thứ. Thương yêu không biết đến chướng ngại.
Nó không phân biệt mà nói: Tôi là Nguyên Thủy, bạn là Ðại Thừa hay
Tây Tạng. Nó không nói: Tôi là Phật tử và bạn là Cơ Ðốc, Hồi Giáo hay Ấn
Giáo. Hay tôi là người Trung Hoa, bạn là người Mã Lai, người Ấn Ðộ hay
người Lai Âu Á. Hay tôi là người Phương Ðông và bạn là người Phương Tây;
hay tôi là người Mã Lai, bạn là người Nhật Bản, Hoa Kỳ, Miến Ðiện, Thái và
vân vân... Thương yêu vượt qua tất cả chướng ngại. Thương yêu thấy và cảm thấy
chúng ta đều là một giống nòi, một
giống người. Nước mắt của chúng ta đều giống
nhau; chúng đều mặn, và máu của chúng ta
đều đỏ. Khi có loại tình yêu và từ bi
này chúng ta có thể có cảm tình với người khác. Chúng ta có thể thấy chúng
ta cùng đi trên một con thuyền trong
biển dông bão của cuộc đời. Chúng ta là
những bạn đau khổ trong luân hồi, cái bất tận
xẩy ra trong vòng sinh tử. Chúng ta là anh em và chị em. Khi chúng ta nhìn thấy và cảm thấy điều này,
thì tất cả những chướng ngại về nòi giống, tôn giáo lý tưởng vân vân... sẽ
biến mất. Chúng ta có thể vươn tới bằng con tim của tình thương yêu thanh
khiết. Chúng ta có thể hiểu và cảm thông với
đau khổ của người khác. Từ bi sẽ tăng lên và tràn
đầy trong lòng chúng ta. Và trong bất
cứ cái gì chúng ta nói hay làm, tình thương yêu và từ bi này cũng sẽ in
dấu. Nó sẽ xoa dịu và làm lành. Nó sẽ góp phần vào hòa bình và hiểu biết.
CON NGƯỜI VÀ CON BỌ CẠP Tình thương đi đôi với từ bi. Khi chúng ta
có một trái tim thương yêu, từ bi nảy sinh dễ dàng nơi chúng ta.
Bất cứ lúc nào chúng ta nhìn thấy một người khổ
đau, chúng ta cảm thấy muốn chìa tay
ra làm cho người ấy đỡ đau. Từ bi có đặc tính
là muốn loại bỏ khổ đau. Nó có thể đặc
biệt được cảm thấy khi chúng ta tự ý hành
động để loại bỏ hay làm giảm bớt khổ
đau của người khác. Có một câu chuyện làm
sáng tỏ vấn đề: Một người trông thấy một con
bọ cạp sắp sửa bị chìm trong vũng nước. Ý muốn cứu con bọ cạp
đột nhiên nổi lên trong tâm, và không
lưỡng lự chìa tay ra nhấc con bọ cạp ra khỏi vũng nước và
để nó trên mặt
đất. Con bọ cạp đốt người đó. Và muốn
qua sang bên kia đường con bọ cạp lại bò
đi và đi
thẳng vào vũng nước. Nhìn thấy nó quờ quạng và sắp bị chìm lần nữa,
người ấy bắt nó lần thứ hai và lại bị nó đốt.
Một người khác đến và nhìn thấy tất cả sự việc xẩy ra liền nói với
người ấy: "Tại sao bạn ngu đần đến như thế?
Bây giờ bạn thấy bạn bị đốt không những một lần mà bị
đốt đến hai lần! Thật là ngu dại
đi cứu con bọ cạp". Người ấy trả lời:
"Thưa Ngài, Tôi không thể chịu được việc này.
Ngài thấy, bản tính của con bọ cạp là đốt.
Nhưng bản tính của tôi là cứu. Tôi không thể chịu
được ngoài việc cố gắng cứu con bọ
cạp". Ðúng, đáng lẽ người ấy có thể dùng
trí tuệ và sử dụng một cái gậy hay một thứ gì
đó để nhấc con bọ cạp ra khỏi. Nhưng người ấy có lẽ đã nghĩ rằng có
thể nhấc con bọ cạp ra bằng tay theo cách ấy mà không bị nó
đốt. Hay người ấy có lẽ đã nghĩ rằng
con bọ cạp ở trong cơn hoạn nạn khốc liệt như vậy sẽ không
đốt mình. Dù sao, tinh thần của câu
chuyện là phản ứng tự phát của người ấy trong việc muốn cứu một chúng sinh
khác, mặc dầu chúng sinh ấy chỉ là một côn trùng. Câu chuyện cũng cho thấy
người từ bi là như vậy mặc dù có thể nhận
được sự bội ơn của người mình đã
cứu giúp, điều đó không thành vấn
đề. Ðó chính là bản tính muốn giúp
đỡ và nếu có thể giúp nữa thì người ấy
vẫn làm. Người ấy không biết nuôi dưỡng niềm cay
đắng hay ác cảm ra sao!
Từ bi là tiếng nói của con tim. Ở vào lúc khi chúng ta bị thúc
đẩy bởi tình thương và từ bi, chúng ta
chìa tay ra giúp đỡ không phân biệt nòi
giống, tín ngưỡng, hay quốc tịch của người khác. Dưới ánh sáng của từ bi,
sự nhận dạng về nòi giống, tín ngưỡng vân vân trở thành thứ yếu; chúng trở
thành vô nghĩa. Hơn nữa, từ bi như vậy không phải chỉ giới hạn ở con người
mà còn trải rộng tới tất cả những vật sống gồm có súc vật và côn trùng.
Song hàng với đề tài từ bi như tiếng
nói của con tim, tôi muốn kinh gửi quí vị một bài thơ TIẾNG NÓI CỦA TỪ BI Ðại Thừa Nguyên Thủy Kim Cang Thừa Tôi cảm thấy nếu chúng ta cố gắng trau dồi loại tình thương ấy và từ bi
ấy, và đến lúc cái chết tới, chúng ta sẽ ra
đi an bình. Cho dù chúng ta không thành công 100 phần trăm
ở trong tình thương yêu toàn hảo, chúng ta vẫn sung sướng và mãn
nguyện rằng chúng ta đã cố gắng. Và
chắc chắn chúng ta đã thành công ở một
mức độ nào
đó.
NĂM GIỚI
Nếu chúng ta cố gắng trau dồi loại tình thương này, thì việc giữ năm
giới không khó khăn gì. Giới thứ nhất như các bạn biết là không
giết, không lấy mạng sống cho dù là con vật hay côn trùng. Ðó là một giới
đẹp đẽ. Giới đó có nghĩa chúng ta tôn trọng
sự sống. Nói đúng hơn là chúng ta không những tôn trọng sự sống mà
chúng ta còn trân quý nó. Ðời sống quý giá cho tất cả. Khi chúng ta cho sự
sống là chúng ta cho một tặng phẩm cao quí nhất. Khi chúng ta giữ
được giới này chúng ta trở nên tử tế
hơn Không những chúng ta kiềm chế không giết, chúng ta còn kiềm chế không
làm hại bất cứ chúng sinh nào. Ðúng, trong cái thế giới bất toàn hảo này, người mạnh cuớp bóc kẻ yếu,
giết chóc lan tràn. Chúng ta có thể nhìn thấy
điều này trong thế giới động vật, con
hổ ăn thịt con nai ra sao, con rắn bắt con nhái, con nhái bắt chuồn chuồn,
con chim bắt sâu, và cá lớn nuốt cá bé. Và con người chúng ta giết
thú vật và cá và thậm chí giết lẫn nhau. Nhưng chúng ta ở
đây không phải để xét xử hay kết tội. Chúng
ta hiểu những nhược điểm của con người và bản chất không hoàn chỉnh
của cuộc sống. Ðức Phật cũng hiểu như vậy. Ngài nói khi chúng ta có thể
thanh tịnh tâm của chúng ta và đạt Niết bàn
thì chúng ta có thể không chọn cuộc sống bất toàn hảo, cái vòng sinh tử
này. Chính chúng ta sẽ kiểm tra xem liệu chúng ta có thể làm
được điều này không. Khi chúng ta
đã tẩy sạch
được tất cả tham, sân si trong tâm chúng ta,
chúng ta sẽ biết chắc bằng kinh nghiệm trực tiếp liệu Ðức Phật nói
đúng hay không. Cho đến lúc đó, tôi có niềm
tin chẳng là gì tốt hơn là đi theo con
đường của Ðức Phật, con đường thanh
tịnh tâm.
Mỗi người trong chúng ta phải đi theo con
đường phát triển của chúng ta. Hãy để
cho mỗi người chúng ta cố gắng giữ giới thứ nhất với khả năng tốt nhất của
mình: chúng ta không nên giết; chúng ta nên dung nạp sự sống, cho
sự sống. Giới thứ hai là không trộm cắp hay lừa
đảo, không lấy bất cứ thứ gì với ý
định bất lương. Chúng ta lương thiện chúng ta kiếm sống bằng đường lối
thật thà. Có một số người nói rằng một con người thành thật không
thể thành công hay không thể giàu có. Tôi không
đồng ý với điều này. Tôi chắc chắn có
rất nhiều người chân thật giữ đúng nguyên
tắc của họ đã thành công. Và hơn thế
nữa họ vui hưởng hạnh phúc của một lương tâm trong sạch và tâm an lạc. Mặt
khác những người lừa đảo đều bị lộ chân tướng
và cuối cùng bị trừng phạt. Cho dù họ có thể tìm cách thoát khỏi sự
phát hiện, họ vẫn bị khổ vì sợ bị phát hiện và những day dứt của lương tâm
tội lỗi. và khi họ chết, cái khổ đau của tái
sinh thống khổ chờ đợi họ. Như vậy, thành thật
đã luôn luôn và sẽ luôn luôn là cách
xử sự tốt nhất. Ðừng nghe những kẻ nói ngược lại. Người thành thật sẽ
thành công hơn. Cho dù chúng ta phải đương
đầu với những chướng ngại to lớn hơn, chúng ta cũng không lừa đảo để thành
công. Chúng ta thà thành thật mà nghèo còn hơn là giàu có mà không thẳng
thắn. Không có gì hạnh phúc hơn khi có một lương tâm trong sạch nhất là
lúc chúng ta đương đầu với cái chết.
Giới thứ ba là có trách nhiệm trong vấn đề
tình dục. Nếu hai người hôn phối gìn giữ mối quan hệ
đứng đắn, ân cần, thương yêu và trung
thành với nhau, thì tình yêu của họ được bảo
vệ. Không có người thứ ba nào có thể xen vào giữa. Trách nhiệm tình
dục rất quan trọng. Vì nếu không có trách nhiệm, sự
đối xử tàn nhẫn sẽ xẩy ra. Bọn chủ
chứa ma cô hủy hoại đời sống của các thiếu
nữ; và những người bị gục ngã bởi tính ham nhục dục là những kẻ
tiếp tay cho những hành vi ác độc. Nhưng ở
đây chúng ta sẽ không phán xử mà là biện hộ cho tình thương yêu và
từ bi thực sự. Ðúng, nếu chúng ta có thể thanh tịnh tâm chúng ta và kiềm
chế những ham muốn nhục dục, thì sẽ có ít đau
khổ và ít bị lợi dụng hơn trong thế giới này. Và bệnh AIDS
đáng sợ nay đã trở thành một tai họa
trên khắp thế giới cũng có thể bị ngăn chặn.
Giới thứ tư là không nói dối mà nói sự thật. Một lần nữa chúng ta không
nên nghe những kẻ nói rằng ta sẽ không thành công nếu không nói dối và
đóng vai giả dối. Lòng chân thật là
một trong thập pháp (mười đức hạnh) được
triệt để tuân theo bởi một Bồ Tát (một người muốn đạt Phật quả). Tất cả
những người Phật tử cũng phải phát triển những đức hạnh đến một mức độ
đáng kể nếu muốn đạt được A La Hán quả - giải thoát khỏi vòng sinh
tử. Ðức Phật muốn chúng ta hết sức ngay thẳng nên
đã khuyến cáo chúng ta không nói dối
thậm chí khi nói đùa chơi. Cho nên
chúng ta nên cố gắng hết mình để giữ giới cao
quý không nói dối này. Hơn nữa mặc dù chúng ta không
đi tìm nó, thanh danh của một người
chân thật vẫn lan tràn xa rộng. Thâm chí người gièm pha cũng phải thừa
nhận và kính trọng người chân thật. Giới thứ năm là không uống rượu và
dùng ma túy vì chúng làm tâm đần độn. Và
chúng cũng có hại cho thân thể. Một số người nghĩ rằng giới này cho phép
uống một chút có tính cách giải trí nhưng tôi không nghĩ như vậy. Ðức Phật
không muốn chúng ta làm hại chánh niệm có thể quay về khiến chúng ta làm
hại những giới khác. Ngoài ra, rượu rất có hại cho sức khỏe của chúng ta.
Về ma túy tất cả chúng ta đều đồng ý những
chất ma túy mạnh như heroin (bạch phiến) rất có hại. Nhưng thuốc lá được
một số người nghĩ rằng không ở trong giới này. Ở thời
đại Ðức Phật, thuốc lá rõ ràng chưa
được khám phá ra. Tuy nhiên dưới ánh
sáng của ngày nay, chứng cớ y khoa quá mạnh về sự tai hại của thuốc lá và
những cố gắng của các chính phủ trên khắp thế giới cấm hoặc cắt bớt sự sử
dụng thuốc lá, chúng ta tin tưởng để nói rằng
nếu Ðức Phật ở đây ngày nay thì
Ngài cũng khuyến cáo chúng ta đừng hút thuốc
lá, vì Ngài không muốn chúng ta làm hại
đến sức khỏe thể chất chúng ta và Ngài
cũng chẳng muốn chúng ta bị nghiện ngập với chất ma túy nhẹ nhưng
đã được
chứng tỏ có hại này. Có thể nói nhiều hơn nữa về tai hại của rượu và thuốc lá
đã trút và vẫn còn
đang trút lên
đầu xã hội nhưng
điều đó không nằm trong phạm vi cuốn sách này
để đi vào một cuộc thảo luận dài về
đề tài này. Chỉ cần rằng chính quan
điểm của chúng ta ngay cả đến cái gọi là
uống chơi và hút sách cũng có phần vi phạm
đến tinh thần của giới thứ năm này. Cho nên tốt hơn là tuyệt
đối giữ giới nhất là trường hợp về
rượu khi đã xét kỹ
đến những lời dạy của Ðức Phật: Này
các tỳ kheo, dùng các chất say trong lúc tu tập, phát triển, và thi hành
lặp đi lặp lại, khiến chúng ta đi vào
đia ngục, thế giới thú vật, và thế
giới ngã quỷ, và kết quả tối thiểu ta cũng phải tái sanh làm người bị mất
trí". Khi chúng ta giữ năm giới, chúng ta đem
hạnh phúc và yên ổn đến cho người
khác. Bằng cách nào? tại sao không một ai còn phải lo lắng về chúng
ta. Họ không còn phải lo sợ chúng ta. Họ sẽ thấy an toàn và thoải mái với
chúng ta. Vì họ có thể thấy được bảo đảm là
chúng ta không làm hại họ, trộm cắp của họ hay lừa
đảo họ. Chúng ta sẽ không ngoại tình
với vợ chồng của họ. Chúng ta không nói dối họ. Và gì nữa chúng ta không
uống rượu không hút thuốc lá, họ không phải lo lắng về con cái họ bắt
chước chúng ta quen thói rượu chè hay hút thuốc lá hay nguy hiểm mà họ
phải đối đầu bởi phảiï hít các làn
khói thuốc. Họ sẽ cảm thấy họ có thể tin chúng ta vì chúng ta không còn
uống rượu. Chúng ta là người có đạo lý và
giữ vững cách sống trung thực và đạo đức.
Chúng ta không làm hại ai. Những kẻ say
đắm dục lạc có thể nghĩ rằng chúng ta sống
một cuộc đời buồn tẻ và chúng ta khờ dại. Nhưng
điều đó không thành vấn
đề. Chúng ta hạnh phúc vì chúng ta là
thế. Chúng ta hạnh phúc vì chúng ta hạnh phúc. và nói thật, chúng ta sẽ
được tán dương bởi người hiền.
Cho nên thật tốt lành khi chúng ta giữ năm
giới cơ bản. Hơn nữa chúng ta tu tập sự khoan dung và tử tế. Chúng
ta quan tâm và chia sẻ bất cứ gì chúng ta có thể. Chúng ta cũng trau dồi
chánh niệm như lời Ðức Phật khuyên. Chúng ta cố gắng sống một cuộc
đời có chánh niệm. Chúng ta hành thiền
để đạt nhiều hiểu biết hơn nữa về bản chất
cuộc sống của chúng ta, đặc tính của nó là vô thường, khổ
đau và vô ngã. Bởi vậy khi chúng ta
thực hành những điều ấy, chúng ta đã
sống một cuộc sống thiện, thì ta có gì phải sợ khi chúng ta chết? Chúng ta
có nuối tiếc gì? Ðó là lý do tại sao chúng ta nói để chết
êm ả chúng ta phải sống tốt đẹp và
rằng khi chúng ta sống tốt đẹp, chúng ta có
thể chết êm ả. Chúng ta có thể ra đi
an lạc, mãn nguyện rằng chúng đã
làm tất cả những gì chúng ta có thể. Ðúng, chúng ta thể mắc một số sai lầm
trên đường đời. Nhưng ai mà không lầm
lẫn? Jesus Christ có lần đã nói: "Hãy
để cho kẻ không tội lỗi ném hòn
đá đầu tiên". Cho nên trước khi chúng
ta học hỏi và trở nên chín chắn, chúng ta có thể
đã có một số hành vi xấu. Việc
đó có thể hiểu được, vì tất cả chúng
ta đều không hoàn hảo. Nhưng vấn
đề là một khi chúng ta nhận thức
được những lỗi lầm của chúng ta, chúng ta bắt
đầu trau dồi tình thương yêu và từ bi, chúng ta bắt
đầu giữ giới và thanh lọc tâm trí.
Chúng ta có thể có hạnh phúc vì chúng ta có thì giờ thay
đổi để đi đúng đường. Như người tạ thường nói
muộn còn hơn không. Chúng ta đễn muộn
một chút sau những người khác nhưng ít nhất chúng ta cũng vẫn tới.
---*--- CHÚNG TA LÀ NHỮNG CỨU TINH CỦA CHÍNH MÌNH Ðôi khi là một nhà sư tôi được yêu
cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy
buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không
giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai trò của một nhà sư
đi tụng kinh đám tang.
Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp
tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng
tiếng Phúc Kiến: "Xin mời thầy đến
tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi". Tôi nhìn cô ta với
tất cả tấm lòng từ bi mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối
rối và đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20
tuổi và là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm
với mình: "Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người
như thế nào đây? Con đường tưởng tượng
nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng
đặt chân lên? Làm sao tôi có thể nói
với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở
trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng không có con
đường nào như cô có lẽ
đã tưởng tượng như thế?" Ðức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy và Ngài
đã trả lời ra sao? Một hôm một người
trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và hỏi Ngài: "Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin
mời Ðức Phật đến và cầu nguyện cho cha
con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể
đi lên thiên đàng. Những người
Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Ðức Phật lại còn mạnh hơn họ
nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn
cha con sẽ bay thẳng về thiên đàng".
Ðức Phật trả lời, "Rất tốt, hãy đi ra chợ
và và đem về cho ta hai cái bình
đất và một ít bơ". Người trẻ tuổi sung
sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi hành
một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình.
Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ
mà Ðức Phật bảo. Ðức Phật chỉ dẫn cho anh ta
để bơ vào một bình và để đá vào
bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao.
Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình
đều chìm xuống đáy ao. Rồi Ðức
Phật tiếp tục: "Bây giờ hãy lấy một cái gậy và
đập vỡ hai bình
đó ở dưới ao". Người trẻ tuổi làm
theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì
nhẹ đã nổi lên còn hòn
đá vì nặng nên vẫn ở dưới
đáy ao.
Rồi Ðức Phật nói: "Bây giờ nhanh lên đi
tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ
đến và tụng kinh
để bơ chìm xuống và viên
đá nổi lên." Người trẻ tuổi nhìn Ðức
Phật, sửng sốt, nói, "Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc
chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và
đá nặng mà nổi. Ðiều
đó ngược lại với qưi luật tự nhiên." Ðức Phật mỉm cười và nói: "Này con, con đã
thấy nếu cha con có một cuộc đời lương thiện
thì những hành vi của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông
cũng lên thiên đàng. Không ai có thể
cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể
chống lại nghiệp luật thiên nhiên. Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc
đời bất thiện thì cũng giống như hòn
đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào
địa ngục. Dù tụng kinh nhiều
đến đâu đi nũa bởi tất cả các thầy tu trên
thế giới này cũng không thể gây thành khác
được." Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh chữa lại quan niệm sai lầm của anh và ngừng
đi loanh quanh đòi hỏi cái không thể
được. Nụ cười của Ðức Phật
đã đi tới
điểm: Không ai có thể cứu chúng ta, tối thiểu của tất cả sau khi chúng ta
chết. Theo nghiệp luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành vi
của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành vi của chúng ta.
Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng ta. Chúng là chỗ
nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của chúng ta.
Chúng là trung tâm từ đó chúng ta xuất phát.
Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với
chúng ta, hay bất cứ thứ đồ gì của cá
nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được
một trong những người thân để cùng đi
với chúng ta. Giống như chúng ta đến một mình theo nghiệp của chúng
ta thì chúng ta cũng phải ra đi một mình.
Nếu chúng ta hiểu rõ nghiệp luật, thì chúng ta sẽ cảm niệm thấy sống một
cuộc đời lương thiện quan trọng đến như thế nào
trong khi chúng ta còn sống. Ðợi đến lúc chết
thì sẽ quá muộn. Có một chút gì đó có
thể làm được.
TÁI SANH NGAY TỨC KHẮC Tuy nhiên, có một vai trò mà người thầy tu có thể áp dụng trong việc
tụng kinh tang lễ. Ðó là cách chia sẻ công
đức của Phật Giáo. Chia sẻ công đức hay hồi hướng công đức ảnh hưởng thế nào?
Trước khi chúng ta có thể giảng nghĩa điều này,
trước hết chúng ta phải hiểu cái gì xẩy ra vào lúc chết. Theo Ðức Phật,
tái sinh xẩy ra lập tức sau khi chết, thức có tính chất sinh diệt không
ngừng. Không có khoảng cách giữa cái chết và tái sinh kế tiếp.Vào lúc
chúng ta chết thì lúc sau tái sinh xuất hiện, cả trên bình diện con người
cũng như bình diện thú vật, bình diện ngạ quỷ, bình diện của A Tu La, bình
diện địa ngục, hay bình diện thiên
giới. Ta tái sanh theo nghiệp của ta. Nếu ta sống một cuộc
đời lương thiện, nói chung ta sẽ được sự tái
sanh tốt. Tâm ở trong trạng thái thiện vào lúc chết làm cho tái
sanh tốt đến. Ta có thể tái sinh làm
người hay thần ở một trong nhiều cảnh giới cõi trời. Ðức Phật có thể nhìn
thấy bằng năng lực tâm linh những cảnh giới
khác nhau về kiếp sống, và cũng nhìn thấy chúng sinh chết ra sao và
tái sinh ngay lập tức theo những hành vi của chúngï. Ðức Phật và nhiều các
nhà sư ở thời đại của Ngài
đã có thể nhớ lại
được tiền kiếp.
Nếu ta sống một cuộc đời tội lỗi, thì
tái sinh xấu sẽ đến – một trong bốn trạng
thái thống khổ là địa ngục, ngã
quỷ, súc sinh hay A Tu La. Nhưng dù tái sinh vào bất cứ nơi nào, ta cũng
không ở đấy vĩnh viễn. Khi thọ mạng ở trong
đó hết hạn, cái chết xảy ra và nó đi vào
một tái sinh mới. Cho nên kiếp sống ở địa
ngục hay ngã quỷ cũng không vĩnh viễn. Có hy vọng: sẽ có cơ hội,
tuy có thể phải mất một thời gian không kể xiết
để có cơ hội này. Cho nên tốt hơn là
đừng để rơi vào những nơi thống khổ,
một khi đã rơi vào
đó không ai biết sẽ phải ở đó bao lâu. Có thể
dường như vô tận!
Tương tự như vậy, kiếp sống ở cõi trời cũng không vĩnh viễn. Khi kiếp
sống tại đó đã mãn, rất có thể rơi vào
bình diện thấp hơn. Chỉ có các bậc A La Hán đã
rũ bỏ tất cả ham muốn để tái sinh, đã
loại bỏ được tất cả những ô nhiễm của tham,
sân và si, sẽ không phải tái sinh. Lúc chết họ không còn phải sinh
vào bất cứ một trong 31 bình diện kiếp sống. Họ không còn bị luân hồi,
không còn bị vào vòng sinh tử. Họ đạt được vô
dư niết bàn, tức là dập tắt được toàn
bộ khổ đau của thân và tâm. Nhưng cho
đến khi trở thành A La Hán, vẫn phải
tái sinh. CHIA SẺ CÔNG ÐỨC ẢNH HƯỞNG RA SAO Bây giờ muốn hồi hướng công đức được hữu
hiệu, điều cần thiết là người nhận công
đức phải biết việc gì
đang xẩy ra. Người đó phải có mặt và
có thể chấp thuận những hành vi thiện được
tiến hành bằng tên người ấy hay nhân danh người ấy. Nếu người ấy
chấp thuận, thì sự chấp thuận hay trạng thái tâm vui vẻ là một trạng thái
thiện trong tâm. Nói một cách khác, người ấy giành
được công đức cho chính mình bằng cách
vui mừng những hành vi lương thiện đã
được làm vì người ấy. Bởi vậy
không phải là chúng ta chuyển công đức của
chúng ta cho người ấy. Việc đó theo nghĩa đen không thể làm
được. Cái xẩy ra là người ấy vui mừng
và sự vui mừng ấy là một hành vi công đức
khiến cho sự khổ đau của người ấy có thể giảm đi và hạnh phúc của
người ấy tăng lên. Nếu sau khi chết, tái sinh xảy ra trong bình diện con người hay thú,
chúng sinh sẽ không ở trong vị trí biết được
điều gì xẩy ra – chẳng hạn vẫn còn là một bào thai trong dạ con
người mẹ. Trong những hoàn cảnh như vậy, người ấy không thể vui hưởng hay
chia sẻ trong việc làm công đức.
Nếu một người đã bị tái sinh vào
địa ngục, người ấy cũng không thể biết cái gì
sẽ xẩy ra trên thế giới này vì người ấy bị
đau khổ ở địa ngục, đây là một bình diện khác của kiếp sống trong
đó người ấy không hiểu biết về cái gì
diễn ra nơi đây trên trái
đất. Nếu người ấy được tái sinh làm
người của cõi trời, cũng không hẳn là người ấy có thể tiếp xúc
được với thế giới này. Người ta nói
rằng vì quá sung sướng và quá bận rộn tìm hiểu những cái tuyệt vời của
kiếp sống mới họ không thể quan tâm ngay đến
cái gì đang xẩy ra trên trái
đất. Thời gian chỉ là tương
đối, và một ngày ở tầng trời Tavatimsa
được nói rằng bằng 100 năm ở trái đất! Cho nên
vào lúc mà người trời, ấy là nói vậy, nhìn xuống dưới này, chúng ta tất cả
đều đã chết và
đi rồi! Hơn thế nữa, chúng ta không thể nói
chắc người trời tự động có thần thông tâm linh để nhớ lại tiền kiếp của mình,
mặc dù kinh sách có ghi lại một số trường hợp người trời nhớ những gì họ
đã làm ở tiền kiếp
để được tái sinh vào cõi trời. Cho nên trong kinh Tirokutta, Ðức Phật nói với một người Bà La Môn là
chỉ có thần hồn bất hạnh (peta) mới có thể chia sẻ công
đức. Những thần hồn này, tuy ở trong
những cảnh giới riêng của họ, có thể quan sát bình diện của loài người
bằng chính mắt của họ. Nếu họ nhận thức được
những hành vi công đức được làm
cho họ, và vui hưởng về điều này, thì
họ có thể giành được công đức do sự vui mừng
của họ. Ðương nhiên không ai muốn người thân của mình tái sinh làm
thần hồn bất hạnh (peta). Người ta thích nghĩ là họ sẽ tái sinh làm người
hay làm người ở cõi trời. Vì thế người Bà La Môn hỏi Ðức Phật cái gì sẽ xẩy ra nếu người chết
đã giành
được sự tái sinh tốt. Ðức Phật trả lời, chia sẻ công
đức vẫn là tốt, vì ta sẽ ít lạc hướng
hơn luân hồi, lúc bắt đầu chắc chắn có một số
thân quyến của chúng ta ở tiền kiếp đã có tái sinh không may thành
petas. Vì tuổi thọ của peta rất dài, họ vẫn còn ở quanh quẩn
đâu đó. Cho nên chúng ta chia sẻ công
đức với thân quyến quá cố, và với tất
cả chúng sinh. Ngoài ra, Ðức Phật nhấn mạnh, người làm hành vi tốt vì
người đã ra
đi chính mình cũng giành
được công đức.
Chia sẻ công đức là một truyền
thống Phật Giáo. Người Phật tử làm những hành vi tốt như cúng dường thực
phẩm và những đồ cần thiết cho các thầy tu,
bảo trợ in kinh và bố thí cho công cuộc từ thiện, như chỗ ở cho
người già, bệnh viện từ thiện và cơ sở cho người tàn tật. Rồi người ấy mời
những người đã ra
đi và tất cả chúng hữu tình vui hưởng
và chia sẻ công đức. Ðiều này tự nó là
hành vi tốt, người làm không "mất" tý công
đức nào mà còn được hưởng nhiều hơn
bởi sự chia sẻ, vì hành động chia sẻ là
một hành vi công đức khác. Cho nên
người sống có hai công đức – thứ nhất là
thực hiện hành vi tốt và thứ hai là chia sẻ công
đức.
Sự có mặt của các nhà sư để tụng kinh Phật
và nói Pháp cho những người thân bị mất mát vào lúc buồn phiền của
họ, cũng là một sự hỗ trợ tinh thần to lớn. Nhà sư có thể nhắc nhở những
thân nhân còn sống về giáo lý vô thường, khổ
đau và vô ngã của Ðức Phật. Các nhà sư thuyết phục thân nhân chấp
nhận sự khổ đau với trí tuệ, và phấn
đấu chuyên cần hơn
để dạt Niết Bàn, sự chấm dứt hoàn toàn
tất cả khổ đau.
Nếu chúng ta hiểu và chấp nhận khái niệm Phật Giáo về tái sinh xẩy ra
ngay lập tức, thì chúng ta sẽ hiểu được điều
quan trọng là phải thực hành những hành vi tốt trong khi chúng ta
đang sống. Bởi làm những hành vi tốt,
chúng ta có nghiệp tốt. Nghiệp là di sản thực sự của chúng ta, vì chỉ có
hành vi hay nghiệp mới có thể theo chúng ta. Sau khi chết, việc
đốt vàng mã, nha cửa, xe cộ bằng giấy
vân vân... không có lợi lộc gì cho người chết. Việc làm này
đi ngược lại với cái hợp lý của nghiệp. Hơn
thế nữa chúng ta có thể quyết định – làm sao có thể
đốt cái gì ở nơi
đây lại có thể biến thành cái gì ở bên
kia thế giới hay ở bất cứ nơi nào. Cái gì
được đốt thì chỉ là cháy; nó vẫn là cái bị cháy. Trong pham vi
nghiệp luật, cũng vậy dâng cúng đồ ăn cho
người chết cũng vô nghĩa. Khi tái sinh, chúng sinh mới sinh tồn bằng loại
đồ ăn thích hợp với bình diện của kiếp sống. Bởi vậy chúng ta thấy
Ðức Phật không bao giờ bảo chúng ta cúng đồ
ăn cho người chết hay đốt vàng mã, vân vân... Hiển nhiên, những nghi thức và nghi lễ về tang chế
được truyền thừa từ thế hệ này
đến thế hệ nọ không có một tư tưởng nào
là căn bản và có nghĩa lý. Ðiều mà Ðức
Phật dạy là, như đã giải thích trước
đây, làm một số hành vi tốt vì hay
để tưởng nhớ đến người chết và rồi
chia sẻ công đức bằng cách tụng bằng tiếng
Pali hay bằng ngôn ngữ chúng ta có thể hiểu được: Xin
đem công đức này hướng về những người
chết. Xin những người chết hoan hỉ và chia sẻ công
đức đã
được làm. TANG LỄ PHẬT GIÁO LÀ MỘT TANG LỄ ÐƠN GIẢN Con đường Phật Giáo có nghĩa lý và
đơn giản. Nếu chúng ta hiểu và
đánh giá cao con đường Phật Giáo, thì
tang lễ Phật Giáo sẽ rất đơn giản tránh nghi
thức và nghi lễ dị đoan, tránh sợ hãi,
lo lắng hay bối rối. Ta không cần phải đốt
cái này cái kia,tiến hành những loại nghi thức xa lạ, và phải tuân
thủ tất cả những điều cấm kỵ, tất cả những
thứ hoàn toàn vô nghĩa và gây bối rối cho những người sống thường
bị cuốn theo điều đó vì sợ hãi, áp lực
xã hội hay dốt nát hơn là bất cứ cái gì khác. Ta không phải mời những
người chuyên nghiệp để tụng kinh hay thực
hiện các nghi thức cho một lệ phí nặng nề lên tới cả ngàn Mỹ Kim
hay thuê một ban nhạc để cử nhạc mặc dù
có thể là nhạc rất nghiêm trang. Là một Phật tử, ta chỉ cần mời những nhà sư Phật Giáo
để tụng kinh Phật Giáo không cần phải dài.
Sẽ là tốt nếu có thể những kinh này được dịch
ra tiếng Anh hay Trung Hoa để tất cả mọi người có mặt có thể hiểu được,
cảm niệm và sưy ngẫm về cái đã
được tụng những điều Ðức Phật
đã dạy về bản chất của sự sống và cái
chết. Quan trọng nhất là giữ năm giới bởi
người cư sĩ – tụng bằng tiếng Pali, được phiên dịch thì tốt hơn
theo nhà sư. Sự gìn giữ và tuân theo năm giới
là sự tu hành căn bản của người cư sĩ
Phật Giáo. Sau khi thọ giới, nhà sư có thể nói Pháp
để an ủi, khuyên giải và khuyến khích
người có thân nhân chết. Trong truyền thống Nguyên Thủy, các nhà sư không thu một khoản lệ phí
nào về buổi lễ của họ. Lễ này các nhà sư làm do lòng từ bi,
để hỗ trợ tinh thần cho những cư sĩ thuần thành
trong giờ cần thiết của họ. Bởi vậy các nhà sư không tìm kiếm sự
đền bù bằng tiền bạc vì
điều đó không hòa hợp với tinh thần
Phật Pháp. Tuy nhiên, những cư sĩ thuần thành
đôi khi cúng dường một phong thư đỏ cho vị sư để mua những thứ cần thiết,
như y áo hay thuốc men. Số tiền này, nếu cúng dường, chỉ là một
biểu hiện biết ơn. Thực ra, các nhà sư không mong muốn phong bì
đỏ, và nếu nó
được cúng dường thì chỉ là sự cúng
dường hoàn toàn theo sáng kiến của người cúng dường. Phơng bì này là biểu
hiện sự biết ơn không phải là lệ phí mà là cúng dường. Lệ phí, trong
trường hợp tang lễ, thường là một món tiền lớn lao
được ấn định bởi người làm dịch vụ
tang lễ trước khi đồng ý tiến hành
những tế lễ tỷ mỉ. Và như chúng tôi đã
nói điều đó không phải là việc làm của
một nhà sư. Những thân quyến, đương nhiên có
thể cúng dường đồ ăn cho các vị sư tại chùa.
Những người có khả năng hơn có thể cúng dường
in kinh sách Phật Pháp để biếu không. Họ cũng có thể cúng dường cho những
cơ sở từ thiện, cho những người nghèo, và những người túng thiếu.
Thay vì những vòng hoa tang, thân quyến và bạn bè nên
được khuyến khích cúng cho những hội từ thiện
đặc biệt. Tất cả những việc như thế làm tang lễ có ý nghĩa – bớt
đi những lề thói vụng về đem đến nhiều bối
rối và uổng phí tiền bạc. CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI TỪ NHỮNG NGƯỜI KHÁC Người chết có thể đem thiêu hay
đem chôn ngay – vào cùng ngày hay ngày
hôm sau. Trên phương diện này tôi nghĩ những gia
đình Trung Hoa nên học hỏi một
đôi điều từ đám tang của người Hồi Giáo mà
tôi được biết là
đơn giản, thực tế và không tốn kém.
Một người Hồi Giáo bạn tôi nói cách thức của người Hồi Giáo là chôn ngay
vào ngày chết hay chậm nhất là ngày hôm sau. Cho nên nếu một người Hồi
Giáo chết lúc 2 giờ chiều, người chết có thể
được chôn trước khi mặt trời lặn vào cùng ngày. Nếu người chết vào
buổi tối hay đêm, người ấy
được đem chôn ngày hôm sau. Tang lễ không tốn kém, dễ lo liệu vì như người bạn tôi nói, Hồi Giáo
không khuyến khích tiêu pha phung phí mà khuyến khích
đơn giản và tiết kiệm. Một
đám tang Hồi Giáo theo như bạn tôi nói có một
quan tài với giá ít ỏi là 500 đồng
(tiền Mã Lai) – rất khác với một tang lễ Trung Hoa có thể tốn kém
đến 30,000 đồng hay hơn nữa! Thủ tục tang lễ
của người Hồi Giáo, trong phạm vi Hồi Giáo, tương đối đơn giản và
có ý nghĩa. Tang lễ của người Cơ Ðốc Giáo cũng
đơn giản, không tốn kém và có ý nghĩa
đối với người Cơ Ðốc Giáo, và sư chôn
cất được thi hành trong phạm vi 48
giờ. Tôi tin rằng trong đời sống chúng ta không
bao giờ ngưng học hỏi. Thường có những cách làm tốt hơn và có ý
nghĩa hơn. Nếu chúng ta duy trì tâm cởi mở và không thành kiến chúng ta có
thể học hỏi được từ những người khác. Trong
Kinh Kalama, Ðức Phật khuyên chúng ta phải luôn luôn suy nghĩ và
điều tra nghiên cứu chính chúng ta.
Nếu chúng ta thấy một thói quen tốt và có ý nghĩa thì chúng ta nên theo;
nếu chúng ta thấy nó xấu và vụng về thì chúng ta không theo nó, hay nếu
chúng ta đã chót theo nó, chúng ta nên
đủ dũng cảm và khôn ngoan
để bỏ nó đi. Ðức Phật nói, không có gì
mà ta phải theo một cách mù quáng không hiểu biết hay không
đặt câu hỏi. Ðức Phật khuyến khích
chúng ta đặt vấn đề và
điều tra nghiên cứu. Cả
đến những lời của Ngài cũng phải
điều tra nghiên cứu, và chỉ khi thấy
những lời nói ấy đúng thì hãy theo.
Ðức Phật không muốn chúng ta có niềm tin mù quáng mà là một niềm tin căn
cứ vào kiến thức kinh nghiệm trực tiếp. Cho nên, nếu chúng ta thấy những sự thực hành
đơn giản và tốt ở những tôn giáo và
truyền thống khác, chúng ta có thể áp dụng và theo chúng miễn là chúng
không mâu thuẫn với niềm tin đạo lý của chúng
ta. Về phương diện này, chúng ta có thể học hỏi từ những người về
cách họ thi hành tang lễ nhanh chóng và không tốn kém. Chúng ta cũng nên
loại bỏ những lề thói dị đoan và không
phải là Phật Giáo của chúng ta. Tôi thấy có nhiều dị đoan trong tang lễ
truyền thống của người Trung Hoa, và chính tôi
đã thấy những lề thói này trong khi
tụng kinh ở tang lễ. Tôi cảm thấy bát lực vì tôi chỉ có thể chứng kiến
trong thầm lặng. Có một chút mà ta có thể làm
được. Truyền thống rất khó để thay đổi, và bất cứ cố gắng nào
để thay đổi thường gặp phải sự chống đối mãnh
liệt và thâm chí bị kết tội nữa. Có những lúc tôi ngần ngại không muốn đi
tụng kinh tang lễ vì băn khoăn rằng sự
có mặt của tôi ở đó là phụng sự cho mục tiêu gì. Nhưng tôi luôn
luôn hưởng ứng và cố làm những gì có thể được
bằng cách nói Pháp và làm trong sáng tỏ lập trường của Phật Giáo
bằng sự khéo léo có thể được. Tôi nghĩ rằng
bây giờ là thời điểm cấp bách mà
người Phật tử Trung Hoa xét lại những thói quen tang lễ theo truyền thống
và nên giản dị hóa theo trí tuệ Phật Giáo. Tôi có thể bị chỉ trích về quan
niệm của tôi nhưng tôi cảm thấy nếu chúng ta không nói lên, chúng ta sẽ
làm hại cho cộng đồng Phật Giáo.
Nếu tôi có thể đề xuất một tang lễ Phật
Giáo đơn giản, tôi sẽ đề nghị việc hỏa táng nên
được tiến hành cùng ngày nếu có thể
được, còn nếu không thì vào ngày hôm
sau. Tuy nhiên một số người muốn giữ thi thể một vài ngày
để thân quyến và bạn bè ở xa có thể về
tiễn biệt người ra đi lần cuối, hay với nhiều
lý do riêng tư. Cho nên việc quyết
định sẽ là một quyết định riêng
tư do gia đình lo liệu. Tôi
đề nghị thiêu hơn là chôn vì nhiều suy
xét thực tế như thiếu đất, dân số tăng
trưởng, và tiết kiệm chi phí tang lễ có thể hướng vào những nhu cầu
có nghĩa hơn như từ thiện. Người chết nên được tắm rửa, sạch sẽ và
mặc quần áo bởi thân nhân hơn là người lạ. Việc này có ý nghĩa vì xác thân
là người yêu dấu của chúng ta, và điều tối
thiểu chúng ta có thể làm được là
nhẹ nhàng thi hành vời lòng thương yêu và kính trọng. Thi hài
được mặc quần áo không cần thiết phải khoa
trương hay hình thức mà người chết nên mặc
đồ thường được thích mặc khi còn sống.
Thi hài đàn ông nên
được tắm rửa và mặc quần áo bởi thân
quyến đàn ông, và thi hài phụ nữ thì
do thân quyến phụ nữ. Chúng ta không nên cảm thấy sợ hãi gì về xác chết,
nhất là xác chết của người thân yêu. Cũng không có điểm nào nói là phải
để đồ trang sức trên thi thể. Một lần
trong khi tụng kinh tại tang lễ, tôi thấy những người lo việc mai táng
phục sức xác người chết với những chiếc nhẫn và những bông tai làm cho
người chết. Việc này thật mỉa mai và vô nghĩa khi cho rằng dù tái sinh nào
thì người chết cũng sẽ mang theo, ông ấy hay bà ấy không thể mang theo một
thứ gì ngoại trừ toàn bộ những hành vi tốt và xấu. Khi nhấc xác từ trên giường và đặt vào
quan tài, việc này nên để thân quyến làm,
và bao giờ thi thể cũng phải được tiến hành
một cách kính trọng và nhẹ nhàng. Thói quen quay lưng lại phía người chết
khi thi hài được đưa vào quan tài hay
khi quan tài được đặt vào xe tang là
một việc kỳ cục. Người chết là người thân yêu của chúng ta và chính chúng
ta trước nhất phải nhẹ nhàng đặt thi hài
vào quan tài, hoặc đứng chứng kiến một cách
kính cẩn trong khi những người khác làm. Quay
đi để lưng hướng về người chết với tôi là
một biểu hiện thất kính! Tôi không thể không nghĩ rằng nếu tôi là người
chết tôi sẽ bực mình vì bị đối xử một cách
như thế.
Thói quen quay lưng lại chỉ là một dị đoan
khác. Tại sao chúng ta phải sợ sự không may giáng xuống chúng ta nếu chúng
ta không tuân theo những điều cấm kỵ như thế? Là người Phật tử
chúng ta nên tin vào nghiệp, nghiệp chính là nơi nương tựa
và hỗ trợ đích thực của chúng ta. Làm
tốt được tốt làm xấu bị xấu. Chúng ta
nên sợ những hành vi xấu, như không giữ giới, và những hành vi xấu như thế
sẽ mang lại khổ đau. Ðiều cuối cùng
chúng ta cần sợ là dị đoan, những điều cấm kỵ
vô căn cứ.
Quan tài không cần đắt tiền. Nó phải được
đặt ở phòng lớn với một số hoa sắp đặt
khéo léo chung quanh và hình ảnh của người chết. Một vài câu Phật
Pháp có ý nghĩa, một đoạn trích hay tục ngữ
có thể treo để suy ngẫm. Không cần giữ vòng hoa tang
đến, thay vì vòng hoa tang, tiền phúng
viếng nên được gửi cho các cơ sở từ thiện mà
gia đình người chết có thể
định rõ. Nên tiêu pha thế nào
để tiết kiệm bằng cách tổ chức tang lễ đơn
giản và có ý nghĩa để có thể hướng về
tổ chức từ thiện.
Ðồ ăn không cần phải để trước linh cữu
người chết vì chúng ta đã giải
thích, người chết sẽ không thể ăn. Ðốt
giấy tiền vàng mã cũng vô nghĩa và không nên làm. Ðốt nến và hương cũng
không cần thiết. Thực ra nhiều lề thói dị
đoan và những điều cấm kỵ thường đi kèm
với nghi lễ truyền thống của người Trung Hoa nên
được dẹp bỏ, khi nhớ đến những lời của
Ðức Phật là một người cư sĩ thuần thành phải có năm
đức tính: "Người cư sĩ phải có niềm tin, giữ kỷ luật tinh thần,
không tin vào những điềm triệu dị đoan; tin vào
nghiệp, không tin vào điềm báo; không
tìm thiên thần quỷ vật ngoài nơi đây
(ngoài hệ thống của Ðức Phật) và chứng tỏ danh dự nơi
đây (có nghĩa là tôn trọng hệ thống
của Ðức Phật và không nên tự mình lệ thuộc vào những lề thói không phải là
Phật Giáo)". Mặc quần áo tang chế là không cần thiết. Ðức Phật không muốn chúng ta
than khóc hay phiền muộn mà chấp nhận sự thật về việc chia lìa và cái chết
bằng trí tuệ và sự thanh thản. Soka hay phiền não là một trạng thái
tâm không lành mạnh và ta phải vượt qua nó bằng chánh niệm và suy ngẫm
khôn ngoan. Bởi vậy các bậc Tư Ðà Hàm và A La Hán (đã
đạt được giai đoạn thứ ba và thứ tư
của quả vị thánh) không than khóc và phiền não. Khi Ðức Phật nhập diệt,
những nhà sư đã
đạt được thánh quả Tư Ðà Hàm và A La
Hán không khóc. Hiểu biết bản chất của vô thường, họ không phiền não dù
cho Ðức Phật qua đời trước mắt họ.
Ðức Phật cũng chẳng phiền não khi hai đệ
tử lớn của Ngài là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên chết trong vòng hai
tuần kẻ trước người sau vào khoảng sáu tháng trước Ngài. Chính Ðức Phật
đã nhận xét: "Tuyệt vời, hết sức tuyệt
vời, này các tỳ kheo, về những bậc giác ngộ như khi cặp
đệ tử qua đời, Ðấng Giác Ngộ không
phiền não, không than khóc". Và Ðức Phật nói thêm: "Vì về cái sinh ra,
đi đến trụ, hợp thành, và phải bị hoại
thì làm sao lại nói nó không phải ra đi?
Ðương nhiên, điều đó là không
thể được.
"Cho nên, này các tỳ kheo, các ngươi là hải
đảo của chính các ngươi, là nơi nương
tựa cho chính các ngươi chứ không có nơi nương tựa bên ngoài nào khác, với
Giáo Lý là hải đảo, Giáo Lý là nơi
nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác." KHÔNG TRIỆT BỎ ÐƯỢC PHIỀN NÃO, MÀ PHẢI THỪA NHẬN VÀ XUA TAN NÓ BẰNG
CHÁNH NIỆM VÀ HIỂU BIẾT Cho nên nếu chúng ta để tâm lời Phật dạy,
chúng ta có thể giữ bình tĩnh trước phiền não. Ở
đây chúng ta phải nhấn mạnh là chúng
ta không nói là chúng ta phải triệt bỏ phiền não bằng sức mạnh, lờ
đi, hay phủ nhận sự tồn tại của nó. Không, đó
là cách giải quyết không khéo léo. Cách giải quyết của chúng ta là thừa nhận và quan sát trạng thái phiền
não của tâm. Qua chánh niệm và suy ngẫm khôn ngoan, chúng ta có thể ngăn
chặn phiền não và trở nên bình tĩnh. Chánh niệm và hiểu biết là con
đường trung đạo và là con
đường tốt nhất – nó cũng không liên
quan đến việc triệt bỏ và cũng chẳng
phải cho lối thoát chồ những cảm xúc tiêu cực và thiếu xây dựng. Chánh
niệm là thừa nhận và quan sát, từ đó, hiểu
biết, chấp nhận, hòa hợp và trí tuệ nẩy sinh. Chúng ta không thể
phủ nhận hay triệt bỏ những cảm xúc. Chúng ta thừa nhận và quan sát chúng.
Trong sự thừa nhận và quan sát đó, chúng
ta có thể đối phó tốt hơn với sự xáo trộn và xung
đột có thể xẩy ra trong tâm chúng ta. Chúng
ta có thể sử dụng cách suy nghĩ khôn ngoan về tính chất của vô thường, khổ
đau và vô ngã. Chúng ta có thể rút ra những bài học từ trí tuệ của
người xưa và bằng cách đi đến thừa nhận phiền
não của chúng ta. Nói một cách khác, trí tuệ có thể nẩy sinh. Chúng
ta có thể hiểu và chấp nhận phiền não. Và phiền não sẽ không thể chi phối
tâm của chúng ta hay áp đảo chúng ta.
Ðây là ý mà chúng ta muốn nói khi chúng ta nói áp dụng cẩn thận chánh niệm
dẫn đến sự hiểu biết và tự tại. Bằng cách này chúng ta sẽ không than van. Chúng ta có thể quan sát xúc
cảm của phiền não trong chúng ta, và nó có thể bị ngăn
chặn khá tự nhiên, không cần chúng ta phải biểu lộ thái
độ thô lỗ về việc đó. Sẽ có bình tĩnh,
chấp nhận và hiểu biết. Cho dù chúng ta không kiềm chế nổi và phải khóc,
chúng ta vẫn có thể hạn chế. Cuối cùng chúng ta có thể giành lại
được sự kiềm chế và lắng dịu. Chánh
niệm sẽ tới giúp chúng ta và giúp chúng ta hòa hợp với phiền não. Chúng ta
sẽ hiểu sự thật của khổ đau, chân lý mà
Ðức Phật và các đạo sư khôn ngoan khác đã
dạy, và chúng ta có thể lại cười. Trở lại với đề tài than khóc, chúng
ta có thể thấy trong phạm vi trí tuệ và không-phiền não, việc mặc
đồ tang chế là không cần thiết. Nó
không có nghĩa là chúng ta không hiếu thảo, hay chúng ta thương yêu người
thân ít hơn, nếu chúng ta không mặc đồ tang
chế. Không, chúng ta vẫn hết sức kính trọng người thân nhưng chúng ta
không thấy công đức gì khi phơi bày công khai và không cần thiết
phiền não của chúng ta. Tôn kính và phiền não ở
đây là vấn
đề rất riêng tư. Chúng
được cảm thấy trong tâm của chúng ta và
không cần phải phô bày ra trước công chúng. Thay vì nhấn mạnh những hình thức thương tiếc bề ngoài không cần thiết,
lòng hiếu thảo phải kết hợp với những hành
động hướng về người già khi họ còn sống. Những hành vi tự chúng sẽ
nói lên. Quả là hết sức bất hạnh nếu một số người nghĩ rằng những nghi
thức và nghi lễ cầu kỳ trong tang lễ và việc mặc quần áo tang chế sẽ bù
đắp được cho những hành vi thương yêu
và quan tâm không được bầy tỏ khi người chết
còn sống. Tuy nhiên, với sự đúng mức trong dịp trọng
thể, có thể mặc quần áo "lễ nghi". Ta có thể chọn bộ
đồ mầu sẫm, trắng hay một mầu thích hợp hơn
trong tủ áo của mình. Như vậy đối với
tâm tôi thế là đủ dù người
chết, nếu đã là một người Phật tử vui
vẻ và hiểu biết, có thể không muốn chúng ta mặc những quần áo "tang chế"
mà vui mừng là đã sống một cuộc
đời lương hảo và
đã đi tới
một tái sinh tốt đẹp hơn. Cho nên trước khi chết, người ta có thể
yêu cầu không đi theo thói dị doan hay than
khóc mà chỉ cầu một tang lễ đơn giản.
Người ta có thể ủy thác cho một người có trách nhiệm xem xét tất cả những
ước nguyện của mình có được thi hành
không. Người ta có thể viết trên giấy và ký trước sự hiện diện của nhân
chứng để tất cả người liên quan
đều biết và tuân theo lời ước nguyện
của mình. Bầu không khí chung trong nhà và suốt cả tang lễ phải là một bầu không
khí thanh tịnh và hiểu biết. Những hoạt động
không thích hợp như rượu chè, cờ bạc tuyệt
đối không được phép. Tất cả phải là
kính cẩn và cư xử bằng sự đúng mức thích
đáng. Những đoạn có ý nghĩa trong Kinh Phật có thể thinh thoảng được đọc lên
và được suy ngẫm bởi thân quyến trong gia đình
và những người có mặt. Một người có thể đứng
đầu trong sự suy nghĩ. Nếu tất cả những người liên quan
đều có sự hiểu biết tốt về Phật Pháp, họ có
thể ngăn chặn phiền não. Người nhiều cứng rắn hơn có thể an ủi
người phiền muộn. Bằng cách ấy, sẽ có bầu không khí an lạc và hiểu biết
trong toàn bộ nghi thức. Và những người có mặt cảm thấy quyết tâm và có
động cơ hơn để phấn đấu hăng hái hơn trong
việc tìm kiếm tinh thần, và sống với tình thương yêu và từ bi hơn.
Một khóa lễ cho người chết có thể được cử
hành tại nhà. Những thân quyến lớn tuổi trong gia
đình có thể hướng dẫn cuộc lễ, trong
đó đời và những hành vi thiện của
người chết được kể lại. Con cái nhắc lại lòng
khả ái và tình thương to lớn của cha mẹ và quyết tâm sống một cuộc
đời gương mẫu trong sự hồi tưởng của họ.
(Về phương diện này, cha mẹ đã
để tâm đến thực tế là các hành vi vượt
qua đời sống thể chất. Một đời sống lương
thiện là một di sản tốt nhất để lại
cho con cái. Một di sản vừa thôi thúc vừa để lại phẩm giá cho người thừa
kế. Hương thơm của những hành vi và
đời sống gương mẫu sẽ còn mãi sau khi cha mẹ
đã ra đi)
Có thể mời một vị sư để hướng dẫn một thời
Pháp thích đáng. Khóa thiền có thể tổ chức ở phòng lớn. Ðiều
đó có thể là hành vi công
đức và vừa là sự biểu hiện lòng tôn
kính đối với người quá cố. Người quá cố, nếu
là một thiền gia vững vàng, chắc chắn sẽ rất sung sướng nếu biết
được mọi người ngồi chung quanh quan tài
và thiền định. Nếu được tái sinh lên
cõi trời, và có thể nhìn thấy những gì đang
diễn ra, và tôi chắc chắn người ấy sẽ rất thích thú. Chắc chắn tôi
sẽ rất thích thú nếu tôi nhìn xuống và thấy mọi người
đang thiền chung quanh cái quan tài
của tôi. Niềm vui của tôi sẽ bất tận. Và nếu có thể tôi sẽ xuống và vui vẻ
ngồi thiền với mọi người, nhưng, đương nhiên,
bạn phải thứ lỗi cho tôi: Tôi biết tôi đang
thả lỏng trí tưởng tượng của mình. Vào ngày thiêu, tất cả những công đức đã
đạt được lại được chia sẻ. Một danh sách
những tổ chức thiện nhận được tiền tặng cũng được đem ra đọc. Một khóa lễ
có ý nghĩa có thể được cử hành tại nhà thiêu ngay trước khi quan
tài được đưa vào lò thiêu. Những
đoạn kinh có ý nghĩa từ các bộ kinh có thể
được tụng. Những đoạn kinh này nói về cái vô thường của
đời sống, cái chết không tránh được và
sự cần thiết sống một cuộc đời lương thiện, hành
thiền và phục vụ đồng loại. Việc này
có thể giúp mở mang trí tuệ nhiều hơn nếu khóa lễ này
được đặc biệt biên soạn và
được đọc lên vào dịp này. Nếu một vị
sư hướng dẫn toàn bộ khóa lễ thì rất tốt nhưng nếu không thể
được thì một người lớn trong gia
đình, thân quyến hay bạn bè có thể
đúng ra.
Sau khi thiêu xong, chúng ta phải làm gì với tro cốt? Ở xứ Phật Giáo
Miến Ðiện, tôi được biết thường thường xác
thiêu thành tro để lại tại nhà
thiêu. Thân nhân không thu thập tro vì tin rằng người quá cố ngay sau khi
chết đã có cuộc tái sinh mới, và xác
thân để lại chỉ là một cái vỏ rỗng.
Tuy nhiên thói quen của người Trung Hoa tại Mã Lai lại giữ tro cốt
để ở chùa hay ở những nơi giữ tro cốt
với chi phí đáng kể. Cảm nghĩ riêng
của tôi là không có mục đích nào
để giữ tro cốt vì nó không phục vụ cho
nhiều mục tiêu, không cần thiết phải dâng cúng hay cử hành một khóa lễ nào
trước tro cốt. Vì, như chúng ta biết về Pháp, tro cốt chỉ là những thành
phần của vật vô tri trong khi thức đã
đi vào một tái sinh mới, một xác thân
mới trong một kiếp sống mới nào đó. Cho nên
tôi nhất trí với cách để lại tro cốt của
người Phật Tử Miến Ðiện. Nếu chúng ta muốn tưởng nhớ và tôn kính
người quá cố, chúng ta nên sống một cuộc đời
lương hảo và làm những hành vi thiện
để tưởng nhớ. Vào ngày giỗ người quá cố, chúng ta có thể cúng dường
(thực phẩm và tặng phẩm) tại chùa hay quyên góp cho những cơ sở từ thiện.
Tất cả những đề xuất về phương diện tang
lễ mà tôi đã trình bày trên
đây, có ý nghĩa và
đáng chú ý hơn những lề thói hiện nay. Nhưng
đương nhiên điều đó là tùy
độc giả quyết định cho chính mình. Ðây
chỉ là cảm nghĩ của tôi, cách tôi nhìn vào
điều đó. Tôi hiểu rằng nhiều người cảm nghĩ khác hẳn. Họ có thể không đồng
ý với tôi, và họ có quyền làm như vậy. Vì tôi bao giờ cũng có niềm
tin dứt khoát là không ai có thể áp đặt quan
điểm của mình lên trên một quan điểm
của người khác. Chúng ta tất cả đều có tâm riêng của chúng ta và
phải được phép suy nghĩ và quyết
định cho chính chúng ta.
Cho nên tôi xin nói rõ ràng nơi đây tôi
không áp đặt quan điểm của tôi lên bất cứ ai. Thay vì tôi chỉ là
bầy tỏ và chia sẻ chúng. Và tôi xin để cho
mỗi người tự quyết định cho chính mình
điều mình muốn tin tưởng và theo. Mỗi người phải cảm thấy tự do làm
điều mà mình nghĩ rằng thích hợp. Hơn
nữa, quyết định một tang lễ sau khi có người
chết, phải có sự bàn thảo và đồng
thuận giữa những người trong gia đình. Cho nên tốt nhất là trước
khi chết hãy làm cho rõ ràng loại tang lễ mà mình muốn. Và việc này nên
làm bằng cách viết ra, ký tên và có nhân chứng. Sẽ không có ý kiến phản
đối sau khi người ấy chết. Thân nhân gia đình
nên tôn trọng và làm theo những ước muốn của người ấy. Ðương nhiên, những đề xuất của tôi không
toàn diện. Chúng không bao gồm tất cả những chi tiết và khía cạnh
của một tang lễ. Chúng chỉ là một khuôn khổ thô sơ, chỉ là một món
ăn nào đó
cho tư tưởng. Có thể có những biến thể khác. Cho nên nó sẽ rất tốt
nếu một nhóm Phật tử có cùng tâm ý và được
tôn trọng ngồi bàn với nhau để hình
thành một tang lễ Phật Giáo đơn giản bao gồm
tất cả các khía cạnh và chi tiết, và trả lời tất cả những câu hỏi
có thể nảy sinh. Trước tiên là những điều cần
được xem xét là những lề thói hiện tại. Chúng như thế nào? Chúng có
ý nghĩa gì? Chúng ta có biết và hiểu những gì chúng ta
đang làm không? Tại sao chúng ta thực
hành chúng? Chúng có ý nghĩa không? Chúng có phù hợp với Phật Pháp không?
Hay chúng là những lề thói dị đoan hay những
thói quen không thể hòa hợp với sự hiểu biết của chúng ta về Pháp
đã được
thuyết giảng bởi Ðức Phật. Từ những gì tôi có thể nhìn thấy nhiều thói quen trong một gia
đình Trung Hoa tự nhận là có lối sống
Phật Giáo về đời sống, không thể hòa
hợp với Pháp. Dường như nhiều người chỉ làm theo những nghi thức tang lễ
mà không có ý niệm chúng là gì. Họ chỉ làm theo những chỉ dẫn mà không hỏi
han hay hiểu biết. Vào lúc tang lễ, họ quả thật rất bối rối và quẫn trí.
Họ chỉ bàn theo những điều được bảo vì
đó là truyền thống và họ không thể
đi ngược lại mà không bị chê trách và
bị kết tội là bất hiếu vân vân... Cho nên sự tham gia thực sự vô nghĩa.
Ðối với tôi, tất cả dường như khá cảm động.
Vô minh và cam chịu trước bất cứ điều
gì được thực hiện dường như là
chương trình làm việc. Cho nên một nhóm Phật tử đáng kính nhìn
vào tất cả những lề thói này có thể đi đến
một sự lựa chọn có ý nghĩa phù hợp với Phật Pháp. Chi tiết về tang
lễ được đề xuất với nhiều lựa chọn khác nhau
sẽ được soạn thảo sau khi đã thực hiện một cuộc nghiên cứu tình
hình địa phương. Một cuốn sách toàn
diện cung cấp tất cả những lựa chọn về tang lễ khác nhau và những thông
tin cần thiết có thể được biên soạn và
phổ biến. Một đề án như thế sẽ là một
sự phục vụ lớn lao cho Cộng Ðồng Phật Giáo thường bị bối rối không biết
cái gì cấu thành một tang lễ Phật Giáo thích hợp. VỀ PHẦN TÔI Ðối với tang lễ của chính tôi, tôi đã
đưa ra ý nghĩ thích hợp về cách tôi muốn thân
xác tôi được xử lý ra sao sau khi chết. Thân xác thực sự không là
gì khác hơn một cái xác sau khi chết. Nó sẽ trở về với
đất. Cho nên tôi muốn làm một hành vi
thiện cuối cùng có nghĩa là tặng xác cho bệnh viện. Bác sĩ có thể lấy giác
mạc ở mắt tôi và trao tặng phẩm tuyệt vời này cho một người mù. Hãy tưởng
tượng đến sự vui mừng như thế nào khi
người mù có thể nhìn lại được, và tặng
phẩm sẽ quí giá đến nhường nào với
người ấy. Và hãy tưởng tượng tôi cũng sung sướng
đến thế nào khi biết
đã tặng cho người ấy tặng phẩm về thị
lực. Tặng phẩm này không có sư hy sinh gì về phần tôi cả, vì thân xác
không còn sử dụng được gì sau khi
chết. Cho nên tôi có thể làm hành vi thiện cuối cùng trước khi thân bị tan
rã. Nếu có thể, bác sĩ lấy tim, thận, phổi, gan và bất cứ cơ quan nào có
thể dùng được sau cái chết của tôi, đem ghép
cho người khác. Và bất cứ gì còn lại có thể
đem lợi ích cho những sinh viên y khoa
trong việc nghiên cứu của họ. Họ có thể thực hành mổ xẻ xác tôi. Cuối
cùng, họ có thể tùy nghi xử lý những gì còn lại của thân tôi như họ muốn.
Có thể phần còn lại làm phân bón cho đất và
cây cối lớn cho bóng mát và hoa đẹp. Và
cũng bằng cách này, không ai cần phải lo lắng cho tôi về cái gọi là tang
lễ thích hợp. Mỗi người đều có thể để lại xác
cho bệnh viện để tùy nghi xử lý những gì mà họ nghĩ là thích hợp.
Việc này sẽ làm cho mọi người dễ dàng hơn. Nói cho
đúng, nó sẽ làm cho mình nhẹ nhõm.
Không ai còn bị bị phiền phức về chuyện của tôi. Và nếu có người nói về một tang lễ thích hợp cho tôi và việc bầy tỏ
lòng tôn kính cuối cùng, tôi sẽ nói: Xin đừng
bận tâm về việc đó. Tang lễ không dành với tôi. Nhưng nếu bạn thực
tâm nhớ đến tôi, xin bạn hãy làm
điều thiện. Hãy làm bất cứ
điều thiện nào bạn thích
để tưởng nhớ đến tôi. Hãy sống một
cuộc đời lương hảo. Hãy quan tâm và
chia sẻ. Hãy tha thứ và thương yêu. Hãy rộng lượng và mở rộng con tim. Hãy
tử tế và lịch sự. Ðó là tất cả những gì tôi yêu cầu. Ðiều
đó sẽ làm cho tôi rất hạnh phúc – biết
rằng tôi đã có thể truyền bá thông
điệp tốt nào
đó và đã
có ảnh hưởng tốt nào đó.
-ooOoo- Bản Anh ngữ:
Loving and Dying Chân thành cám ơn
Thượng tọa Thích Tâm Quang đã gửi tặng bản vi
tính (Bình Anson, 08-2004) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
LOVING AND DYING
Thích Tâm Quang dịch
BỔN PHẬN CỦA CHÚNG TA
Và lúc ấy sẽ có có tình thương yêu
Cơ Ðốc Phật Hồi Ấn Ðộ Giáo
Người Mã Hoa Ấn Ðộ Lai Âu Á
Mã Lai Nhật Bản Mỹ Phi Châu
Người Da trắng Da đen Da vàng Da
nâu
và vân vân... và vân vân...
như bạn muốn.
Vấn đề đó là gì?
Tiếng nói của từ bi
là tiếng nói con tim.
Khi con tim nói
Ngàn hoa đua nở
Và tình thương tràn ngập
như mặt trời bình minh
ùa qua cửa sổ
Không cần lời
một cái nhìn, một tiếp xúc
đủ
để nói
mà ngàn tiếng không bằng.
Và Từ bi rực sáng
như vì sao sáng lạn
trong bầu trời ban đêm.
Chướng ngại sụp đổ
lay động thành kiến
Giành lại ưu thế
Tình thương và từ bi,
chế ngự mọi sợ hãi, hoài nghi
chữa lành các vết thương,
bao trùm.
last updated: 05-09-2004