|
MỤC
LỤC |
[01] |
Lời Người Dịch
Lời TựaXIN CHÀO TỬ THẦN
HAI QUYẾT TÂM
Nói Chuyện Đó Bằng Cả Hoa Lá
ĐỐI PHÓ VỚI BỆNH TẬT
Chúng Ta Có Thể Hành Thiền
NGỢI KHEN KUAI CHAN |
[02] |
CHÚNG TA PHẢI LÀM TRÒN BỔN PHẬN
Làm Nhẹ Bớt Khổ Đau
THƯƠNG YÊU LÀ HIỂU BIẾT
Con Người Và Con Bọ Cạp
Năm Giới
CHÚNG TA LÀ CỨU TINH CỦA CHÍNH MÌNH
Tái Sinh Ngay Tức Khắc
Chia Sẻ Công Đức Ảnh Hưởng Ra Sao
Tang Lễ Phật Giáo Là Một Tang Lễ Đơn
Giản
Chúng Ta Có Thể Học Hỏi Từ Người Khác
Không Triệt Bỏ Phiền Não
Về Phần Tôi
|
[03] |
PHẢI CHẾT THANH THẢN
Những Giọt Nước Mắt Sung Sướng
Làm Cho Bầu Không Khí Thanh Tịnh
Chập Tư Tưởng Cuối Cùng
SUY NGẪM VỀ CÁI CHẾT
Khi Bốn Trái Núi Đổ Xuống
Ý Thức Cấp Bách
Suy Ngẫm Dẫn Đến Hiểu Biết và
Chấp Nhận
Than Vãn Khóc Than Không Tác Động Tro
Cốt
Cái Chết Không Xa Lạ Gì với Chúng Ta
Cái Chết Nhất Thời
Vấn Đề Đáng Suy Nghĩ
MỘT THẾ GIỚI KHÁC THƯỜNG
MỘT NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT
CHÀO THẦN CHẾT, TẠM BIỆT CUỘC ĐỜI
|
-ooOoo-
LỜI TỰA
Tôi viết tác phẩm này nhằm chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết với bất
cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu về cái chết. Suy nghĩ về cách chúng ta có thể
trực diện với cái chết – bằng can đảm và
tính thanh thản, có phẩm cách. Và nếu bạn muốn bằng một nụ cười. Suy nghĩ
về cách đương đầu với khổ đau, cách sống bằng
trí tuệ và lòng từ bi, hay bằng nhiều thứ về
điều đó mà chúng ta có thể tập trung
được cho đến khi chúng ta chết.
Nhưng thường thường người ta không thích nói về cái chết. Bất cứ lúc
nào vấn đề này
được đề cập, người tạ bắt đầu cảm thấy khó
chịu. Ðặc biệt được coi là cấm
kỵ không được nói đến vào những dịp
tốt lành như sinh nhật hay Năm Mới. Làm
như đề cập đến từ chết vào những dịp
tốt lành có thể gây tai hại và mang lai vận rủi hay chết sớm! Ðương nhiên,
tôi không đồng ý với những ý tưởng như thế.
Với tôi, điều đó chỉ là dị đoan. Tôi
có thể hiểu dù cho người ta coi vấn đề
về cái chết trong những dịp tốt lành là không ý nhị. Nhưng tôi cho
rằng nghẫm nghĩ về cái chết và cả đến những
dịp như sinh nhật và Năm Mới là
tốt và đúng, có lẽ nên suy ngẫm nhiều
hơn nữa vào những dịp như vậy. Tại sao? Bởi vì chúng ta có thể xét thấy
chúng ta không phải ngày một trẻ lại mà ngày một già
đi và cứ mỗi năm
trôi qua mang chúng ta đến gần nhà mồ. Trong suy ngẫm như thế,
chúng ta có thể đánh giá lại đời sống mình,
thẩm xét lại vị trí của mình và xem xét liệu chúng ta có
đi đúng hướng hay không - hướng của trí tuệ và
từ bi.
Là một nhà sư, tôi thường trầm tư (thiền) về cái chết. Việc này nhắc
nhở tôi sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn,
không uổng phí ngày giờ vô ích dù tôi phải thú nhận tôi vẫn còn
thỉnh thoảng lãng phí thì giờ quý báu; vì như quý vị biết cái tâm
đôi khi rất bướng bỉnh và lười biếng.
Tuy nhiên bởi suy ngẫm thường xuyên về cái chết, tôi luôn nhớ rằng tôi
phải tìm ra nhiều thì giờ hành thiền tuệ giác hơn nữa
để tôi có thể thanh lọc tâm ra khỏi những ô
nhiễm của tham sân và si.
Ðức Phật khuyên chúng ta nên thường xuyên suy ngẫm về cái chết, hàng
ngày hay vào bất cứ lúc nào. Nó sẽ khơi dậy trong chúng ta sự tỉnh thức –
ý thức cấp bách để phấn đấu tích cực hơn nữa
nhằm loại bỏ khổ đau do tâm ô nhiễm và bị lừa dối mang lại. Tôi
thích nói về cái chết. Ðó là đề tài sở
thích của tôi. Phải chăng tôi bệnh hoạn? Cũng
được đi - Cứ tiếp tục. Bạn có thể nói tôi bệnh hoạn và gì
đi nữa tùy bạn. Không sao cả. Tôi
không bận tâm. Người ta, có nghĩa không chỉ có tôi mà cả bạn nữa, phải
thừa nhận nhân quyền căn bản được bầy tỏ quan
điểm và cảm nghĩ miễn là bầy tỏ như vậy một cách chính
đáng, đồng cảm, không bị áp đặt và bất
bạo động. Không ai có thể giận dữ với một
người vì việc bầy tỏ bằng cách thức như vậy, dù không may là
đôi khi chúng ta quên và trở nên nóng
nảy. Nhưng trở lại với đề tài này, tôi
luôn cân nhắc, tôi luôn băn khoăn và
vẫn đang băn khoăn: Tại sao chúng
ta sống? Tại sao chúng ta chết? Tất cả cái đó
là gì? Cái đó để làm gì? Cho
mục đích gì? Vì cứu cánh gì?
Chắc chắn nhiều câu trả lời đã
được đề nghị. Tôi chắc chắn có nhiều người
rất vui vẻ cho tôi những câu trả lời về những câu hỏi này từ khi
con người biết suy nghĩ và cân nhắc. Nhưng tôi không thể nói là tôi
đã thỏa mãn với tất cả những câu trả
lời được đưa ra. Tôi vẫn còn
đang tìm kiếm. Trong những ngày này
tôi đã trở thành một nhà sư Phật Giáo
và hành thiền. Tôi nguyện giữ năm giới không
giết hay làm hại, không trộm cắp hay lừa
đảo, không phạm tội gian dâm như ngoại tình,
không nói dối và không dùng rượu hay ma túy. Thêm nữa là một nhà sư, tôi
phải tuân thủ cuộc sống độc thân và
những giới khác của một nhà sư.
Tôi không thể nói cho đến nay tôi đã
tìm thấy tất cả những câu trả lời đối với
những câu hỏi của tôi, nhưng tôi đã tìm thấy sự an ủi, sự thoải mái
nào đó trong giáo hệ của Ðức Phật. Tôi
có thể nói hiểu lời dạy của Ðức Phật về chánh niệm và từ bi. Và tôi vẫn
thiền. Có lẽ tôi có thể tìm thấy tất cả câu trả lời vào một ngày nào
đó. Sẽ rất tốt đẹp nếu tôi có thể. Nhưng nếu
tôi không làm được, thì cũng
không sao. Những vấn đề nào mà tôi
đã thử thách. Tôi sẽ rất sung sướng dù
cho tôi phải thử chết. Vì dẫu sao thì tôi cũng
đã thử. Bằng cách
đó đời sống của tôi vẫn còn có ý
nghĩa, ít nhất là ở mức độ nào
đó. Và
đương nhiên theo đường lối này,
tôi sẽ cố gắng truyền bá càng nhiều càng tốt sự vui vẻ và hạnh phúc theo
khuynh hướng và khả năng của tôi.
Tôi đã cố gắng viết cuốn sách này
để chia sẻ sự hiểu biết giới hạn của tôi về
cuộc sống và cái chết. Tôi cảm thấy chúng ta cần thảo luận vấn
đề cái chết một cách thẳng thắn. Chúng ta
không nên sợ đưa đề tài này ra.
Nếu không, làm sao chúng ta có thảo luận và học hỏi
được? Khi chúng ta có thể thảo luận công
khai, học hỏi và hiểu biết, điều đó
rất tốt vì chúng ta có thể đi đến chấp
nhận cái chết. Chúng ta có thể biết cách đối phó với nó tốt hơn.
Ðiều này rất quan trọng; vì lý do đơn giản là
tất cả chúng ta đều phải chết. Không ai có
thể thoát khỏi. Và nếu chúng ta không thể hiểu cái chết ngay bây
giờ, làm sao chúng ta có thể hiểu vấn đề đó
khi chúng ta nằm trên giường lúc lâm chung, vào lúc sắp thở hơi
cuối cùng? Phải chăng chúng ta thể vượt qua
được sợ hãi và bối rối? Cho nên tốt hơn là chúng ta học hỏi tất cả
về cái chết ngay từ giờ. Chắc chắn điều đó sẽ
rất có ích cho chúng ta. Vậy chúng ta không cần sợ hãi nữa. Chúng
ta sẽ có lòng tin, và khi cái chết đến chúng
ta có thể ra đi với nụ cười. Chúng ta có thể nói: "Tử Thần, cứ
làm điều xấu nhất đi. Ta biết mi rồi và
ta có thể mỉm cười".
Tôi đã viết tác phẩm này một cách
thẳng thắn và hấp dẫn theo khả năng. Tôi đã
cố gắng để nó không quá học thuật hay cứng
nhắc. Tôi chỉ muốn quý bạn vui vẻ đọc cuốn sách này, khúc khích
cười những phần có thể đáng cười và có
thể học được một hay hai sự việc có thể giúp
ích cho bạn trong cuộc sống, tình thương và chết chóc. Ngoài ra tôi
không viết thiên về tư cách một tu sĩ với một người không chuyên môn mà là
cách nói của con người với con người. Cho nên tôi
đã viết hoàn toàn tự do vói mục
đích truyền cảm, đi vào lòng người.
Mặc dầu tôi không thể nói tôi đã thành
công hay thất bại đến đâu! Chỉ quý bạn sẽ là
sự phán xét tốt nhất về điều đó.
Vì tôi là một nhà tu Phật Giáo, độc giả sẽ
thấy nội dung có nhiều chuẩn tắc đạo đức và khái niệm Phật Giáo.
Ðương nhiên, một số giá trị như tình thương và từ bi là phổ biến. Chúng
không thuộc về một tôn giáo nào cả mà thuộc về tất cả. Tất cả các tôn giáo
đều dạy tình thương và từ bi. Chúng
đều là những tôn giáo tốt. Nhưng chính
chúng ta những tín đồ lại không tuân theo.
Cho nên chúng ta giết, làm thương tổn, và gây tác hại dưới danh
nghĩa tôn giáo. Ai là người đáng trách ngoài
chúng ta ra! Không phải tôn giáo hay những khai sáng ra tôn giáo bao giờ
cũng thuyết giảng tình thương, trí tuệ, và lòng khoan dung, tha thứ và từ
bi sao. Nếu chúng ta có thể tỉnh thức trước sự ngu si của chúng ta thì
chúng ta có thể thương yêu thật tình. Chúng ta có thể sống như anh chị em
với độ lượng, kiên tâm và thông cảm,
với tình thương và từ bi.
Tôi viết tác phẩm này chủ yếu là cho Phật tử. Nhưng những người không
phải là Phật tử có thể đọc và tìm thấy
một số lợi ích, một số lãnh vực đồng thuận,
đánh giá đúng và hiểu biết chung. Tối thiểu, họ cũng biết
đến quan điểm của Phật Giáo, cách giải quyết
vấn đề và trí tuệ của Phật Giáo. Ðiều bổ ích là biết quan
điểm của nhau, nó dẫn đến độ lượng hơn, thông
cảm hơn và đánh giá đúng cách giải
quyết và niềm tin của người khác. Về phần tôi, tôi không có một
chút ý thích nào nhằm đổi đạo của người khác.
Việc đó phải thật rõ ràng. Hãy để cho
mọi người thực hành tôn giáo của riêng họ và hãy
để cho họ rèn tập tốt tôn giáo của họ,
như người trúng giải thưởng Hòa Binh Nobel, Ngài Ðạt Lai Lạt Ma
đã nói từ bi rốt cuộc là cốt lõi của
tất cả tôn giáo.
Tôi đã cố gắng chia sẻ sự hiểu biết
của tôi trong khả năng tốt nhất của tôi.
Nhưng tôi chắc chắn sẽ có một số khuyết điểm ở chỗ này chỗ kia. Hay
ở một số lãnh vực có thể có những khác biệt trong việc giải thích hay hiểu
biết. Rất có thể bạn không thích hay không
đồng ý với một số sự việc tôi nói. Hay bạn có thể không thích cách tôi
diễn đạt. Bạn có thể nghĩ điều đó không thích hợp, khiếm nhã, vô
tình, ủy mị, khó chịu, méo mó, vô lý, hay gì
đi nữa. Cũng được đi. Ðiều này là tự nhiên. Chỉ cần có hai người là
sẽ có những bất đồng ý kiến. Bạn chỉ cần
không chấp thuận những điều bạn không đồng ý, bác bỏ chúng ấy là
nói vậy. Bạn không cần phải chấp nhận mọi
điều tôi nói. Tại sao bạn phải chấp nhận? Ðương nhiên bạn có một
tâm tốt của mình, và bạn có thể nghĩ và quyết
định cho chính bạn. Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý mà
không bối rối hay giận dữ. Chúng ta có thể
đồng ý hay không đồng ý mà vẫn giữ
được tình bằng hữu. Phải chăng chúng
ta không thểâ? Ðó là việc tuyệt vời nhất, cái tinh hoa của sự
trưởng thành tinh thần. Vì mỗi người chúng ta quyết
định một cách thành thực và ngay thẳng
cho chính chúng ta những điều chúng có thể
hiểu và những điều chúng ta không thể
hiểu. Chúng ta không cần phải tin mọi thứ hay bất cứ thứ gì.
Chính Ðức Phật đã nói tốt hơn là
phải xem xét cẩn thận, điều tra nghiên
cứu và kiểm tra cho chính chúng ta trước khi chấp nhận một
điều gì. Ngay cả
đến những lời của Ðức Phật cũng phải
được kiểm tra kỹ lưỡng. Rốt cuộc, Ðức
Phật không ngoại trừ điều nào cả. Ngài
không bao giờ tin trong niềm tin mù quáng. Ngài không bao giờ bảo chúng ta
chỉ tin vào điều Ngài nói hay chỉ bác
bỏ điều người khác nói. Mà Ngài bảo
chúng ta hãy điều tra nghiên cứu, thực
hành và minh định cho chính chúng ta. Nếu
chúng ta thấy điều gì tốt, điều ấy là
điều thiện, lành mạnh dẫn
đến loại bỏ tham sân si, thì chúng ta
chấp nhận. Nếu không, chúng ta bác bỏ. Ðó là một lời khuyên tuyệt hảo. Cho
nên lấy ý của Ðức Phật, tôi bao giờ cũng thích nói: Không tin vào
điều gì cả. Nhưng hãy suy nghĩ, thực
hành và minh định cho chính mình. Với
tôi đó là cách giải quyết tốt nhất và
an toàn nhất. Nhưng về bất cứ lỗi lầm nào trong phần trước tác cuốn sách
này, tôi xin lỗi và xin được tha thứ.
Nguyện cầu tất cả chúng sinh đều hạnh
phúc. Chúc cho chúng ta tìm được trí
tuệ và hạnh phúc mà chúng ta đang tìm
kiếm theo con đường riêng của từng
người; và vui đọc sách!
---*---
XIN CHÀO TỬ THẦN,
CHÀO TỪ BIỆT CÕI ÐỜI
Một ngày nào đó khi tôi chết, vì
tôi phải chết, tôi muốn chết với một nụ cười trên môi. Tôi muốn ra
đi bình thản, muốn chào tử thần như
một người bạn, có thể nói vui vẻ: "Xin chào Tử Thần, Chào Từ Biệt Cõi
Ðời".
Tôi có thể tưởng tương chính tôi có một cuộc
đối thoại với tử thần. Có lẽ có thể như thế này:
"Chào Thần Chết! Mi có khỏe không? Ta đã
chờ đơi ngươi từ lâu. Suốt đời ta mong mỏi
ngươi đấy. Phải chăng rốt cuộc ngươi đang đến với ta? Ðã
đến giờ ta phải ra đi rồi phải không?
"Ðúng, đúng, Tử Thần! Ta đang đến đây. Hãy
kiên nhẫn. Ta đã sẵn sàng. Ngươi không
biết ta là gì? Từ lâu ta đã dự tính
chào ngươi bằng một nụ cười. Phải, Tử Thần à, ta hiểu. Ngươi không phải
xin lỗi. Ta biết ngươi có việc phải làm. Ta không có gì chống lại ngươi
cả. Không có cảm nghĩ khó chịu. Không có gì là riêng tư, ta hiểu.
"Như ta đã nói, Tử Thần à, suốt
đời ta mong đợi lúc này. Ðể xem liệu
ta có thể gặp ngươi với một nụ cười không. Ít ra cũng
để xem liệu ta có hứng trong cái chết không,
nếu không có hứng ở trong cõi đời. Bây
giờ ngươi đang cho ta cơ hội này và ta cảm ơn ngươi về
điều đó.
"Phải, ta đã nghe rất nhiều về
ngươi. Ngươi không đợi ai. Ngươi đến như một
tên trộm ban đêm. Ngươi không
mặc cả với một ai. Ngươi không chấp nhận câu trả lời "không".
Tử thần, được rồi. Ta sẽ đến với ngươi một
cách vui vẻ. Ta đã mệt rồi. Tấm thân này như một cái vỏ vỡ. Nó
đã rệu rã. Nó
đã sống lâu hơn thời gian nó
được sử dụng. Như ngươi thấy, ta đã
sẵn sàng kề cái chết. Và ta đã chịu
đựng tất cả sự đau đớn này, cố gắng
mỉm cười với tất cả khách đến mời gọi ta. Tử
thần, nói thật với ngươi, lẽ ra ngươi phải đến sớm hơn. Xét cho cùng
sự đau đớn này, ngươi là khoảng thời
gian thoải mái như của trời cho. Nhưng nói đủ
rồi. Tử Thần, không lần lữa nữa. Nào lên
đường. Hãy cầm tay ta."
Và ta phải đi như ta thường mơ ước với nụ
cười trên môi. Cách chết đẹp đẽ biết là
nhường nào! Tất cả những người xúm quanh tôi không cần phải khóc. Họ vui
vẻ vì thấy tôi đang mỉm cười. Họ sẽ biết tôi
được lắm chứ. Cái chết chẳng là cái gì mà phải sợ hãi. Hãy
đối xử với cái chết như một người bạn. Hãy
sẵn sàng nói lời chào tử thần và chào từ biệt cõi
đời.
Ðương nhiên không ai được miễn trừ trước
cái chết. Tất cả chúng ta phải chết. Như Ðức Phật
đã nói: Ðời sống mong manh và cái
chết là điều chắc chắn. Trong khi
chúng ta sống chúng ta đau khổ khi chia lìa
xẩy tới với cái chết của một người thân. Cả hai ông bà tôi
đều đã chết. Tôi không nhớ ông nội
tôi. Ông chết lúc tôi còn rất trẻ. Nhưng tôi nhớ bà nội tôi. Bà rất ân cần
với tôi. Bà cũng rất nghèo khổ. Bà thích sống ở miền quê trong khi cha mẹ
tôi lại sống ở thành thị. Tôi nhớ một lần bà
đến thăm chúng tôi, tôi xin bà năm xu.
Lập tức bà lấy ngay ví tìm ra năm xu và
đưa cho tôi. Vào thời
đó có thể mua đồ với năm xu:Bạn có thể mua
được một cục nước đá hay một ly nước đá với năm xu. Nếu bạn muốn uống nước
dừa do người da đỏ bán bạn có thể mua được hai ly nước dừa với năm xu! Và
với năm xu bạn có thể mua được năm cái kẹo.
Cha tôi chết lúc tôi mười tuổi. Tôi nhớ có
đến thăm cha tôi lần cuối vào một đêm
tại Bệnh Viện Ða Khoa, Cha tôi nằm chết tại
đấy vì bệnh lao và các biến chứng khác. Tôi nhớ mẹ tôi nói với cha
tôi: "Này Beh, đây là con Johnny
đến thăm" Cha tôi không nói
được. Ông thở qua ống dưỡng khí ở mũi. Ông
dường như nhìn tôi một cách yếu ớt. Tôi còn nhỏ. Tôi không biết gì
về cái chết, nhưng bây giờ tôi biết khá hơn. Bà mẹ tội nghiệp của tôi
đau khổ. Bà
đã chứng kiến quá nhiều cái chết và
đã có một
đời sống cực kỳ khó khăn từ hồi còn trẻ. Chắc chắn,
đời sống không phải là thảm hoa hồng
với bà.
Một trong những người anh em tôi chết khi còn nhỏ. Một người anh em
khác chết lúc 23 tuổi cùng với vị hôn thê. Ðó là một thảm kịch. Hai người
bị chết đuối. Tôi vẫn còn nhớ nhìn
thấy xác của họ tại nhà quàn. Mẹ tôi than khóc lòng
đau xót. Thật là
đau đớn cho bà vì mất một
đứa con trai thân yêu một cách bi thảm
như vậy. Tôi hoàn toàn choáng váng và không biết làm gì
để hiểu được điều này. Lúc
đó tôi đã 16 tuổi. Tôi cố gắng ra vẻ
thờ ơ, vô tình. Tôi gắng cầm nước mắt. Tôi nói và xử sự như không có gì
xẩy ra và như thể cái chết với tôi là chuyện hàng ngày, không cần phải sầu
thảm. Tôi coi điều đó là không quan
trọng và cố tỏ ra vẻ lạnh lùng.
Nhưng lúc một mình, tôi khóc. Tôi khóc một cách
đắng cay. Sau lễ mai táng tôi quay trở lại
nghĩa địa. Tôi đi vòng vòng trong nghĩa
địa đầu nặng trĩu. Tôi đào
đất và trồng hoa chung quanh mộ của
anh tôi và mộ người yêu dấu của anh. Tôi khắc vào cây thánh giá bằng gỗ
những chữ sau: "Không tình yêu vĩ đại nào
bằng tình yêu của một người đã chịu hy
sinh thân mình vì bạn", vì anh tôi đã
chết trong khi cố gắng cứu người vợ chưa cưới. Và tôi nói với Thượng Ðế
.Tôi hỏi Ngài: "Hỡi Ðức Chúa Trời, Sao Ngài cư xử với tôi thế này? Tại sao
Ngài bắt anh tôi? Phải chăng đó là ý
muốn hay lòng khát khao của Ngài? Nếu thế, xin
để ý muốn của Ngài
được thực hiện. Tôi chấp nhận việc đó".
Vì các bạn thấy lúc đó tôi là một
người Cơ Ðốc Giáo tốt. Và ý muốn của Thượng Ðế phải
đi trước tất cả mọi việc khác. Không được
nghi hoặc. Nhưng bây giờ tôi là một Phật tử, tôi tin là tôi hiểu
hơn một chút. Phải, không có Thượng Ðế nào bắt anh tôi. Nếu chúng ta chấp
nhận sự sống, chúng ta phải chấp nhận cái chết. Chết là phần thiết yếu của
sự sống. Như Ðức Phật đã nói, chính vô
minh đã làm cho vạn vật trong vòng khổ
đau, và chúng ta cứ trôi lăn
hết kiếp này đến kiếp khác theo những
hành vi của chúng ta. Thiện mang điều
lành và ác mang điều xấu. Tôi phải thú
thật rằng tôi có thể hiểu rõ hơn với cách Ðức Phật nhìn vào mọi sự.
Sau này trong cuộc sống tôi chứng kiến nhiều cái chết hơn. Là một nhà
báo, tôi đã nhìn thấy xác những người
chết vì tai nạn, băng đảng đánh nhau, tự tử,
độc dược vân vân... Tôi đã viết những chuyện bi kịch, cảm xúc hay
bi thảm về người ta chết ra sao. Có một người hôn
đứa con gái nhỏ từ biệt rồi tự bắn vào
đầu mình. Có một cặp trai gái thỏa
thuận cùng nhau tự tử trên giường của một khách sạn. Người con gái chết vì
thuốc độc họ mang theo, người con trai thoát
chết. Và có tên cướp khét tiếng bị bắn chết bởi Cảnh Sát vào Ngày
Tết. Tên cướp này bị theo dõi nên đã
không thể sống để nhìn thấy hết ngày
đầu năm mới. Nhưng đối với tôi đó chỉ là
một câu chuyện nữa. Tôi chưa bao giờ nghĩ sâu xa về cái chết. Tôi hoàn
toàn bị tê liệt bởi nó. Tất cả tôi muốn là câu chuyện hay
được đặt trên trang nhất của tờ báo.
Hầu như không có cảm nghĩ hay tình thương trong tôi
đối với những nạn nhân tội nghiệp. Tôi quả là
một người nhẫn tâm và ích kỷ chỉ chú trọng
đến phúc lợi của mình.
Mãi sau này, là một nhà sư, tôi đã
gặp những cái chết – vào lúc này tôi thấy nhiều cảm nghĩ và từ bi hơn. Khi
tôi thăm người bệnh tôi thông cảm với họ. Tôi
cố gắng hết mình để an ủi họ. Với
những người Phật Tử, tôi tụng kinh, những bài kinh Phật. Tôi nói
với họ câu Ðức Phật dạy: Thân bệnh nhưng
đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể không làm
được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta
có thể làm được gì
đó cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình
tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta có thể
chú tâm. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng
giảm của đau đớn, nó đến và đi từng
đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ
đau. Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi
từ nó. Chính đó là một cuộc thử nghiệm
– làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ
rằng không có cái ngã thường còn nơi đây mà
chỉ có sự thay đổi liên miên của sinh
và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận; làm sao chúng ta hiểu rõ
chính cái vô minh, tham ái, luyến chấp, giận hờn, sợ sệt vân vân của chúng
ta là nguyên nhân của khổ đau.
Bằng sự hiểu biết đó chúng ta có thể đứng
lên đón nhận cái đau đớn. Chúng ta có
thể coi điều đó là việc bình thường. Chúng ta có thể giữ bình tĩnh
và ôn hòa. Thậm chí không một chút gì ngã lòng. Ðúng chúng ta có thể mỉm
cười, ngay cả lúc đau đớn. Chúng ta có thể
nói: "Này đau đớn, mi thật tình
muốn ta chết phải không? Người khác có thể gục ngã với mi nhưng với ta thì
không. Ta đã
được huấn luyện và sắt
đá với mi. Ðức Phật dạy ta nên
đáp lại mà không giận dữ hay ghét bỏ.
Cho nên ta cố gắng đáp lại mi không giận dữ
hay ghét bỏ. Ta hiểu rằng bằng chánh niệm và an lạc trong tâm ta,
ta có thể vượt lên mi. Ta có thể cười mi. Mi dạy ta
đời là khổ
đau. Nhưng mi cũng dạy rằng ta có thể vượt lên
mi." Và bạn có thể mỉm cười trước cơn đau.
Bạn sẽ cảm thấy khỏe hơn ngay lập tức.
---*---
Cuộc sống hầu như là bèo bọt
Chỉ có hai điều trân quý
Tử tế với người phiền muộn,
Can đảm tự trong lòng
Adam Gordon
---*---
HAI QUYẾT TÂM
Khi tôi viết những dòng này, tôi nhớ lại mới hôm qua một nhà sư bạn tôi
chết. Ông bị ung thư giai đoạn cuối cùng
đã tám tháng. Khi tôi ở bên cạnh ông
tại bệnh viện một vài ngày trước khi ông chết, ông
đang ở trong cơn đau đớn. Tôi cố gắng đút cho
ông ăn một chút canh nhưng ông không ăn được. Ông trông rất hốc hác và
khủng khiếp. Ông hầu như không nói được. Bênh
ung thư đã tàn phá thân thể ông và
không phải là một nhiệm vụ dễ dàng để chịu
đựng cho tinh thần của ông. Tôi cố nài ông lưu ý quan sát cái
đau đớn như ông thường làm trong lúc
hành thiền, để càng giữ
được bình tĩnh và thanh thản càng tốt.
Ông là một người thiền định vững vàng
và tôi chắc chắn ông đã thiền về chính
phút cuối cùng này.
Tôi nhớ lại một dịp khác khi tôi đến thăm
một ông già khả ái bị bênh bạch cầu. Ông cũng ở trong cơn
đau đớn. Ðau
đớn hiện trên nét mặt ông. Có những
giọt mồ hôi trên trán và mặt ông. Tôi lấy cái khăn
và nhẹ nhàng lau mồ hôi cho ông. Tôi ghé vào tai ông thì thầm cố
gắng làm cho ông giảm đau. Ông này
cũng là người hành thiền và tôi lại nhắc nhở ông giữ chánh niệm quan sát
cái đau càng
điềm tĩnh càng tốt. Tôi cảm thấy vui
khi nhìn thấy vẻ đau đớn biến mất trên
mặt ông. Một lúc sau đó thân nhân đến và
tôi ra về. Một vài giờ sau, ông chết. Tôi vui vì
đã có thể giúp ông một chút trước khi
ông tắt thở.
Mặc dù có hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng vẫn có khổ
đau. Hạnh phúc hình như rất phù du –
nó ra đi không đợi chờ chỉ để rồi được thay
thế bằng phiền muộn và bất mãn. Bởi vì sự sống kết thúc bằng cái
chết nên tự nó là một thảm kịch. Có người nói
đời sống giống như một củ hành: bạn bóc nó làm chảy nước mắt. Ðức
Phật nói sinh là khổ đau vì sinh dẫn
đến suy tàn và chết. Chúng ta nên hiểu
rõ điều này. Nếu chúng ta chấp nhận sự
sống chúng ta phải chấp nhận cái chết. Nếu chúng ta muốn khóc khi người
nào đó chết thì chúng ta cũng nên khóc
vào lúc người ấy ra đời. Vào lúc
đứa trẻ sinh ra thì mầm mống của cái
chết đã ở trong nó. Nhưng chúng ta lại
mừng rỡ khi đứa trẻ được sinh ra. Chúng ta
cười và chúc mừng cha mẹ đứa trẻ. Nếu
chúng ta hiểu sinh – nó phải dẫn đến cái chết – thì khi cái chết
đến chúng ta có thể đối mặt với nó bằng một
nụ cười.
Nhìn con người chết trong đau đớn ra sao,
thân thể của họ bị suy sup vì bệnh, và thấy tất cả
đời sống phải kết liễu bằng cái chết (sự việc
đó đã làm cho tôi hiểu mỗi lần đi đến
nhà quàn để tụng kinh), hai quyết tâm
phát sinh trong tâm tôi: Trước nhất, đến lúc tôi chết, tôi muôn chết với
một nụ cười trên môi. Tôi muốn tôi có thể giữù chánh niệm và
được thanh thản. Nói một cách khác tôi muốn
giữ bình tĩnh. Tôi muốn có thể vẫn mỉm cười dù cái
đau đớn nó hành hạ tôi
đến thế nào
đi nũa. Tôi muốn tôi có thể mỉm cười với tất
cả khách khứa đến thăm viếng tôi. Tôi muốn tôi có thể mỉm cười với tất cả
các bác sĩ và y tá tốt bụng săn sóc
tôi. Tôi muốn tôi có thể mỉm cười với những bệnh nhân bạn tôi để giúp họ làm
bất cứ cách nào có thể ở bênh viện, hoặc để
truyền cảm hứng hoặc để an ủi.
Thay vì những bác sĩ và y tá hỏi tôi có khỏe không, tôi muốn hỏi họ:
"Bác sĩ có khỏe không? Chị có khỏe không? Hôm nay quí vị thế nào? Quí vị
biết không quí vị đang làm một công
việc cao cả. Chúng tôi rất may mắn có quý vị. Xin tiếp tục công việc tốt
đẹp này. Xin cảm ơn quý vị nhiều." Và
với những khách là Phật tử, tôi sẽ nói Phật Pháp. Tôi sẽ nói: Hãy nhìn
tôi. Tôi sắp chết rồi. Kết thúc rồi! Quý bạn biết
đấy hành thiền lúc sắp chết không phải
là dễ. Vậy nên trong khi bạn còn khỏe hãy cố gắng tận dụng
điều đó. Hãy hành thiền! Hãy thực hành
Pháp! Không còn hối hận sau này. Ðừng đợi đến
lúc bạn đau nặng thì đã quá
trễ. Nhưng nếu ngay bây giờ bạn thực hành thiền, khi bạn bệnh, bạn sẽ
không bị khó khăn nhiều lúc phải đối phó với
cơn đau. Bạn có thể quan sát nó và thậm chí vượt qua nó.
Các bạn biết đấy, Ðức Phật bảo
chúng ta rằng mọi thứ đều vô thường. Nếu
chúng ta hành thiền chăm chỉ đầy đủ,
chúng ta có thể hiểu được sự thật về vô thường sâu xa hơn, như vậy chúng
ta sẽ không bị trói buộc vào tâm và thân này. Chúng ta biết chắc
chắn thân này không phải của chúng ta, tâm này cũng chẳng phải của chúng
ta. Hiểu biết, chúng ta có thể buông bỏ. Chúng ta sẽ không bị trói buộc
vào vào những dục lạc thô thiển của sự sống. Chúng ta có thể sống một cách
khôn ngoan hơn. Chúng ta về già một cách thanh nhã. Và chúng ta không cần
sợ chết.
Ðức Phật nói khổ đau gắn liền với đời
sống. Và chúng ta phải học hỏi cách sống với nó và vượt qua nó. Chỉ
bằng cách áp dụng chánh niệm vào cuộc sống hàng ngày và hành thiền chúng
ta có thể thâm nhập vaò chân lý của khổ đau.
Khi chúng ta hiểu được khổ đau một cách sâu xa, chúng ta sẽ tranh đấu để
loại bỏ nguyên nhân của nó, đó là
tham ái, bị trói buộc vào đời sống, vào
sức cám dỗ của những cảnh tượng vui thích, âm thanh dịu dàng, những mùi vị
dễ chịu, và những đụng chạm êm
đềm. Chúng ta sẽ cố gắng thanh tịnh tâm trước
tất cả các ô nhiễm.
Theo Ðức Phật, khi tâm chúng ta được tẩy
sạch tham sân và si, chúng ta sẽ vượt qua
được tất cả khổ đau. Chúng ta sẽ không bao
giờ phản ứng lại bằng luyến chấp và ác cảm với bất cứ gì. Thay vì
điều đó sẽ có trí tuệ và từ bi trong
chúng ta. Chính điều này chính là chấm
dứt khổ đau. Không bám víu nữa chúng ta sẽ
không bao giờ khổ đau. Cả đến cái đau thể xác cũng không làm tinh
thần đau vì tâm không phản ứng bằng ác
cảm và giận dữ. Tâm sẽ bính an. Có chấp nhận và hiểu biết. Khi chúng ta
chết trong lúc có loại trí tuệ và an bình này, Ðức Phật nói
điều đó là sự chấm dứt khổ
đau. Không còn tái sanh, không còn trở
lại vòng sinh tử. Nếu chúng ta không tái sanh, không còn suy tàn và chết
kèm theo khổ đau. Chấm dứt! Hạ màn!
Cái khối đau khổ bị dập tắt. Và chúng
ta có thể nói giống như các vị thánh thời cổ
đã nói, Làm được cái đáng phải làm.
Ðược sống là cuộc đời thánh thiện.
Ðương nhiên, ngay bây giờ chúng ta có thể vẫn còn xa mục tiêu. Nhưng
người ta nói, hành trình ngàn dậm bắt đầu
bằng một bước đi. Cho nên tôi là người lạc quan. Vâng, tôi là một
Phật tử và một người lạc quan. (Ai nói người Phật tử là người bi quan?) Và
tôi tin rằng mỗi bước đi trên con
đường chánh niệm sẽ mang chúng ta bước gần
hơn tới mục tiêu – mục tiêu Niết Bàn, sự kết thúc của mọi khổ
đau. Và là một người lạc quan, tôi
thích nghĩ rằng sớm hay muộn chúng ta sẽ đạt
tới Niết Bàn.
NÓI CHUYỆN ÐÓ BẰNG CẢ HOA LÁ
Và khi tôi đang nằm trên giường
bênh viện, tôi thích nói Phật Pháp với tất cả những ai hỏi han tôi, hay
bất cứ ai muốn nghe.
Hơn nữa, tôi có thể gửi hoa tặng đến tất
cả những bạn hữu ngoài kia. Tôi có thể
đính kèm một cái thiệp với thông điệp
như sau: "Chào bạn! Bạn có mạnh khỏe không? Bạn có thích những
đóa hoa này không? Hoa này không
đẹp phải không? Bạn có thì giờ
để tạm nghỉ và thưởng thức cái
đẹp của bông hoa và hít hương thơm
ngát của nó không? Và khi bạn nhìn vào bông hoa, bạn có nhìn thấy những
cặp mắt long lanh của người thân hay đứa con
bạn không? Bạn có cảm thấy hiểu hy vọng và sợ hãi của họ không? Hay
là bạn quá bận, quá lo lắng với những kế hoạch tham vọng trần tục, sự theo
đuổi danh vọng và của cải của bạn phải
không?
"Bạn đã xem xét kỹ bản chất của vô
thường chưa bạn – làm sao tất cả phải úa tàn và chết? Và làm sao trong khi
chúng ta sống, chúng ta phải sống có ý nghĩa
để sau này khỏi phải ân hận. Cũng vậy, giống như bông hoa
đang úa tàn, tôi cũng
đang chết. Nhưng tôi gửi những lời cầu chúc
tới ban. Chúc bạn khoẻ và hạnh phúc! Tôi hy vọng bạn sẽ tìm
được thì giờ cho những người thân yêu
của bạn tập hành thiền. Ban biết không, kiếm tiền, có nhiều
đồ xa xỉ, vui hưởng dục lạc không phải là
mọi thứ. Những thứ đó có thể làm cho
bạn vui một lúc nào đó thôi, nhưng thực tế tử
tế và tình thương yêu quan trọng hơn nhiều: nó làmõ cho bạn thỏa
mãn và hạnh phúc nhiều hơn. Xin tha thứ cho tôi vì
đã thuyết giảng những lời làm nhàm như
vậy nhưng xin hãy lưu ý đến những lời của một
người sắp chết. Hãy cho phép người ấy
được giãi bày. Ðúng, trong khi bạn sống bạn nên cố gắng trải rộng
vui vẻ và hạnh phúc càng nhiều càng tốt. Hãy tha thứ cho mọi người. Không
nên nuôi dưỡng một thái độ hằn học nào
hay coi bất cứ ai là kẻ thù của bạn. Luôn luôn nhớ rằng
đời sống ngắn ngủi và chẳng bao lâu
tất cả chúng ta đều phải chết. Và
thương yêu chính là cho chứ không phải là nhận. Cho tình thương không kèm
theo điều kiện. Tình thương không mong
mỏi được đền bù. Hãy cố gắng trau dồi
loại tình thương đẹp đẽ như vậy. Chúc bạn
hạnh phúc!" Tôi kết thúc bằng lời tái bút: – "Hãy bảo trọng. Không
cần phải đến thăm tôi. Nhưng bạn có thể vui
sướng cho tôi. Vì tôi đang mỉm cười và
tôi sung sướng là tôi có thể chết với một nụ cười trên môi. Tạm biệt và
chúc may mắn"
Và nếu tôi không nói được vì quá
mệt thì tôi vẫn có thể mỉm cười để cho thấy
mọi việc đều tốt đẹp, và bệnh chỉ hại cái thân tôi nhưng không hại
cái tâm tôi. Bằng cách đó ta vẫn có thể
truyền cảm hứng cả đến khi chúng ta bệnh. Lúc ấy người ta sẽ đánh giá Phật
Pháp cao hơn, và thực hành chăm chỉ
hơn. Lẽ đương nhiên, nếu tôi đang nói
với những người bạn không phải là Phật tử, tôi phải
được áp đặt quan điểm tôn giáo của tôi lên
họ. Tôi có thể giãi bày quan điểm của tôi chứ
không đời nào lại áp đặt cho họ quan
điểm ấy. Giống như tôi không muốn họ áp đặt quan điễm của họ cho
tôi, vậy cũng thế tôi phải không áp đặt cho
họ quan điểm của tôi. Chúng ta phải tôn trọng quan điểm tôn giáo của nhau
và phải có tình thương yêu-khả ái với nhau. Bằng cách này, sẽ có
chung sống hòa bình.
---*---
ÐỐI PHÓ VỚI BỆNH TẬT –
THÁI ÐỘ THÍCH HỢP
Chúng ta không nên coi bệnh tật và khổ đau
là thứ hoàn toàn tàn phá chúng ta, và vì thế chịu thất vọng và ngã
lòng. Trái lại (nghĩa là trường hợp người Phật tử), chúng ta phải coi
đó là cuộc trắc nghiệm xem chúng ta
đã hiểu lời Phật dạy tốt
đến đâu, và chúng ta có thể áp dụng sự
hiểu biết mà chúng ta cho là đã học
tốt đến mức nào. Nếu chúng ta không
đối phó được về mặt tinh thần, nếu chúng ta
bị suy sụp, nó cho thấy sự hiểu biết của chúng ta về Phật Pháp, sự thực hành
của chúng ta, vẫn còn yếu. Vì vậy bằng cách này,
đó là cuộc trắc nghiệm và cơ hội cho
chúng ta thấy mức độ chúng ta đã quán
triệt sự thực hành của chúng ta.
Rồi bệnh cũng là cơ hội cho chúng ta nâng cao hơn nữa sự thực hành kiên
nhẫn và khoan dung của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể thực hành và phát
triển đến viên mãn (toàn hảo) ví như
lòng kiên nhẫn nếu chúng ta không trắc nghiệm, nếu chúng ta không bị
đặt vào những hoàn cảnh khó khó khăn
và khốc liệt? Vậy nên bằng cách này, chúng ta có thể coi bệnh là cơ
hội cho chúng ta trau dồi thêm nhẫn nại.
Chúng ta cũng có thể nhìn vào sức khỏe không phải chỉ là sự vắng bóng
của bệnh tật mà còn là khả năng trải qua
bệnh, và học hỏi và phát triển từ đó.
Ðúng, một định nghĩa mới lạ về sức
khỏe như thế bắt nguồn từ một số chuyên gia y tế như Bác Sĩ Paul
Pearsall của Bệnh viện Sinai tại Detroit, Hoa Kỳ. Thấy bệnh không bao giờ
trừ tiệt được và cuối cùng chúng ta
phải gục ngã bằng cách này hay cách khác ra sao, những bác sĩ này
đã đi đến
định nghĩa về sức khỏe có thể giúp ta có thể thích nghi với bệnh khi nó
đến. Ðiều đó đúng phải không? Cho dù
nhiều máy móc, phương pháp và thuốc men tinh vi
đến thế nào
đi nữa, người ta vẫn cứ gục ngã trước
ung thư, bệnh AIDS, bệnh đau tim và
nhiều bệnh khác.
Cuối cùng, không có lối thoát. Chúng ta phải hiểu và chấp nhận sự thật,
để khi nó đến và chúng ta phải gục
ngã, chúng ta có thể gục ngã một cách thanh tao. Chắc chắn, chúng ta sẽ
chữa trị bệnh bằng hết sức mình, nhưng khi bất chấp những cố gắng cao nhất
của chúng ta, chúng ta thất bại và bệnh tiếp tục gia tăng,
chúng ta phải chấp nhận và cam chịu với cái không thể tránh
được.
Phân tích đến cùng, không phải vấn
đề là chúng ta sống lâu bao nhiêu mà
là chúng ta sống tốt đẹp ra sao mới đáng kể,
và điều đó gồm cả cách chúng ta có thể
chấp nhận bệnh tật của chúng ta đến mức nào, và sau hết chúng ta có
thể chết ra sao. Về mặt này, Bác sĩ Bernie S. Siegel trong cuốn sách của
ông, "Hòa Bình, Tình Thương và Chữa Bệnh", viết:
Những bệnh nhân khác thường không cố gắng
để không chết. Họ cố gắng để sống cho đến khi họ chết. Họ đã thành
công, mặc dù hậu quả bệnh tình như thế nào, vì họ
đã chữa lành
đời sống của họ, chơ dù họ không chữa
được bệnh của họ.
Và ông cũng nói:
Một cuộc đời thành công không phải
về cái chết. Ðó là về sống tốt đẹp. Tôi đã
thấy có người mới hai tuổi và chín tuổi đã
thay đổi được người ta và cả các cộng
đồng bởi khả năng của họ về tình
thương, và đời sống của họ thành công
dù ngắn ngủi. Mặt khác, tôi biết nhiều người sống lâu hơn rất nhiều và
không để lại gì ngoài sự trống rỗng.
Cho nên thật tuyệt vời rốt cuộc là đời
sống của chúng ta có thể được chữa lành mặc dầu bệnh của chúng ta
có thể không được chữa khỏi. Sao vậy? vì
khổ đau là vị thầy giáo và nếu chúng
ta học bài thuộc, chúng ta có thể trở nên thành người tốt hơn một cách
đáng ngạc nhiên.Chúng ta
đã không nghe những chuyện có những
người trải qua đau đớn nhiều, thoát khỏi, đã
thay đổi thành người tốt hơn ư? Nếu họ
không kiên tâm, ích kỷ, cao ngạo và không thận trọng trước
đó, bây giờ họ có thể trở nên kiên
nhẫn, tử tế, lịch thiệp, và nhũn nhặn hơn. Ðôi khi họ nhận thấy bệnh là
một điều tốt cho họ – bệnh đã cho họ
cơ hội để xem xét lại lối sống và
những giá trị quan trọng hơn trong đời sống.
Họ đi đến đánh giá cao gia đình và bạn hữu hơn, và quý trọng thời
gian họ đã sống với những người thân
yêu. Và nếu họ bình phục lại được, họ sẽ dành
nhiều thì giờ hơn cho những người thân, và làm những việc thực sự quan
trọng và có ý nghĩa nhiều hơn.
Nhưng cho dù chúng ta bị gục ngã vì bệnh chúng ta vẫn có thể học hỏi và
phát triển từ nó. Chúng ta có thể hiểu được
cái mong manh của sự sống và lời dạy của Ðức Phật
đúng ra sao – có một yếu điểm trong sự sống.
Chúng ta có thể trở nên tử tế hơn, cảm niệm nhiều hơn về lòng khả
ái mà chúng ta nhận được từ người khác. Chúng
ta có thể tha thứ những ai đã làm cho chúng ta
đau đớn. Chúng ta có thể thương yêu
một cách hào phóng và sâu xa hơn. Và khi cái chết
đến, chúng ta có thể chết bằng sự chấp nhận và
an bình. Bằng cách đó, chúng ta có thể nói
đời sống của chúng ta được chữa lành vì chúng ta hòa hợp với thế
giới và chúng ta sống trong bình an.
CHÚNG TA CÓ THỂ HÀNH THIỀN
Khi chúng ta ốm và nằm liệt giường, chúng ta không cần phải thất vọng.
Chúng ta vẫn có thể hành thiền khi chúng ta nằm trên giường. Chúng ta có
thể quan sát tâm và thân chúng ta. Chúng ta có thể giành
được bình tĩnh và sức mạnh bằng cách
hành thiền hơi thở. Chúng ta có thể quan sát sự hít vào và thở ra, biết
chúng ta hít vào và thở ra. Việc này có thể cho chúng ta ấn tượng bình
tĩnh. Hay chúng ta có thể quan sát cái bụng phồng lên và xẹp xuống khi hít
vào và thở ra. Tâm của chúng ta có thể đi
theo sự lên xuống, và hòa nhập với nó. Việc này cũng có thể cho ta
sự bình tĩnh. Và từ sự bình tĩnh này, sự hiểu biết có thể phát sinh. Chúng
ta có thể nhìn thấy tính chất nhất thời và hủy diệt của tất cả các hiện
tượng, và có thể hòa hợp với sự thật về vô thường, bất toại nguyện và vô
ngã.
Nếu chúng ta đã học thiền chánh
niệm hay thiền Minh Sát [*], thời gian có thể trôi qua dễ dàng. Có nhiều
đối tượng chúng ta có thể quan sát trong bất
cứ tư thế nào dù nằm, ngồi đi hay
đứng. Chúng ta có thể biết tư thế của chúng ta đang ở tư thế nào,
và cảm thấy những cảm giác phát sinh trong thân chúng ta. Chúng ta có thể
quan sát chúng bằng cái tâm vững vàng và bình thản. Và lẽ
đương nhiên, tâm cũng phải là
đối tượng quan sát. Cho nên chúng ta
có thể quan sát các trạng thái của tâm. Tất cả
đều có thể được quan sát – buồn bã,
thất vọng, bồn chồn, lo lắng, suy tư – và tất cả chúng phải qua
đi nhường bước cho trầm tĩnh, an lạc và
trí tuệ. Trạng thái thiện và bất thiện đến
rồi đi. Chúng ta có thể quan sát tất cả chúng bằng sự hiểu biết và
trầm tĩnh.
[*] Thiền Minh Sát tức Tuệ giác thiền hay Chánh niệm thiền. Trong
Thiền Minh Sát, hành già dùng chánh niệm để
quan sát bản chất hiện tượng tinh thần và thể chất, cuối cùng nhận
thấy cái đặc điểm của vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã. Với sự giới thiệu vào thiền Minh Sát, và sự tu
tập một loại thiền khác gọi là từ bi thiền, hay thương yêu-khả ái thiền,
xin mời bạn xem "Thiền Minh Sát" và "Kiềm Chế Nóng Giận Trải Rộng Tình
Thương", cả hai đều cùng một tác giả
và phát hành bởi Trung Tâm Thiền Mã Lai, Penang
Ðôi khi chúng ta có thể biểu lộ lòng thương yêu-khả ái. Lập
đi lập lại nhiều lần chúng ta có thể nguyện
cho tất cả chúng sinh:
Nguyện cho chúng sinh tất cả đều được khỏe
mạnh và hạnh phúc
Nguyện cho chúng sinh đều thoát khỏi tổn hại
và hiểm họa.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau tinh
thần.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau thể xác.
Nguyện cho chúng sinh có thể chăm lo cho chính mình một cách hạnh
phúc.
Cũng bằng cách đó thì giờ có thể
trôi qua một cách hoàn toàn thích hợp cho dù chúng ta nằm liệt giường.
Chúng ta có thể truyền lòng từ bi-khả ái đến
các bác sĩ, y tá và các bệnh nhân đồng
cảnh ngộ. Chúng ta cũng có thể truyền từ bi khả ái đến những người thân,
họ hàng và bè bạn chúng ta. Hơn thế nữa chúng ta có thể thỉnh
thoảng suy nghĩ về Phật Pháp, nhớ lại những gì chúng ta
đã đọc,
nghe hay hiểu biết. Suy nghĩ như vậy, chúng ta có thể đáp lại được khổ đau
của chúng ta bằng trí tuệ và trầm tĩnh.
Giáo huấn của Ðức Phật là trau dồi tâm, hành thiền, và làm như vậy cả
khi chúng ta bị ốm đau. Thật ra, vào
những thời điểm như vậy chúng ta cần phải cố
gắng nhiều hơn nữa để tập trung chánh niệm của chúng ta. Ai biết, Niết Bàn
hay trí tuệ tối thượng, có thể đạt được vào
lúc trút hơi thở cuối cùng! Trong kinh, Ðức Phật có kể trường hợp một
người ốm – bị khổ sở vì cảm giác đau đớn thể
xác, buồn bã, đau dữ dội, hành
hạ, làm quẫn trí, khó chịu làm tàn lụi cuộc sống. Nhưng con người ấy không
ngã lòng. Người ấy cảm thấy samvega - một ý thức cấp bách phấn
đấu dù ở vào những giờ phút cuối cùng.
"Người ấy đã cố gắng phù hợp" Ðức Phật
nói, "Tâm của người ấy kiên quyết vào Niết Bàn, Người ấy
đã tự mình nhận thức
được chân lý tối thượng, người ấy thấy Niết Bàn
bằng cách thâm nhập vào bằng trí tuệ".
---*---
Ðúng là, đúng là
người chủ hộ bị ốm, thân của ngươi yếu và gây trở ngại. Vì ai mang cái
thân này, hỡi này chủ hộ, chỉ muốn sức khỏe chốc lát thì hoàn toàn ngu
dại. Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện:
"Dù thân bệnh, tâm tôi không bệnh."
Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện.
Ðức Phật
---*---
NGỢI KHEN KUAI CHAN
Tôi muốn nói với bạn về một hành giả du già can
đảm, đã chết êm ả do bệnh ung thư với
tiếng "Niết Bàn" trên môi. Tên bà là Kuai Chan và bà ra
đi vào ngày 18 Tháng Chạp Năm
1992 tại Kuala Lampur. Bà bốn mươi ba tuổi. Chồng bà, Billy, kể cho
tôi nghe bà đã
đương đầu với bệnh tình ra sao. Thấy
câu chuyện đầy hứng thú, nhất là
đối những hành giả du già (tu thiền),
tôi xin phép ông được kể lại trong sách này,
và tôi cảm ơn ông đã
đồng ý cho phép tôi.
Bà Kuai Chan được chẩn bệnh lần đầu tiên
với bệnh ung thư vú vào tháng 4 năm 1989. Vào
thời gian này bà đã tu tập thiền Minh
Sát vào khoảng độ một năm. Bà bình
tĩnh chấp nhận bệnh tình. Billy nói, "Vợ tôi chấp nhận bệnh,
đó là cái nghiệp của bà" (nghiệp
là một định luật tự nhiên của nguyên
nhân và hậu quả). Bà không đổ cho ai hay bất
cứ cái gì. Bà cũng không cay đắng hay
rơi vào tình trạng ngã lòng. Bà hết sức vững vàng và giữ bình thản
cho đến lúc chết". Kuai Chan
đã trải qua phẫu thuật
để loại bỏ vú bị nhiễm. Ba tháng sau bà
lại phải giải phẫu lẫn thứ hai khi người ta thấy những tế bào ung thư vẫn
còn ở trong khu vực này. Sau đó bà
được xạ trị và hóa trị có tác
động phụ tối thiểu. Trong suốt thời kỳ chữa
bệnh ung thu vú và trong sáu tháng cuối
đời khi được chẩn đoán là bệnh ung thư
phổi giai đoạn cuối, bà
đã từ chối không uống một thứ thuốc
giảm đau nào. Billy nói, "Bà không
muốn thứ thuốc giảm đau nào". Cả
đến khi cơn đau lên
đến cực độ bà vẫn từ chối không uống
thuốc giảm đau, ngay cả đến một viên
Panadol. Bà là một người kiên quyết, rất mạnh mẽ và
đáng khâm phục"
Quyết định không chữa trị bằng thuốc giảm
đau vì bà muốn giữ tâm bà càng trong sáng và tỉnh táo càng tốt. Bà
là hành giả du già, và tất cả những hành giả du già trân quý chánh niệm.
Họ không muốn một thứ thuốc nào làm cho tâm họ trì
độn và làm hại sự thiền
định của họ. Cho nên nếu họ lâm bệnh
họ sẽ làm như vậy. Kuai Chan đã sửa
soạn đối đầu với cái đau nên bà
đã từ chối thuốc giảm
đau. Bà chỉ chấp nhận xạ trị - hóa trị
cho ung thư vú của bà vì phương pháp này có thể dẫn
đến chữa lành bệnh. Nhưng về sau, bà
bị ung thư phổi và được cho biết đã ở
giai đoạn cuối bà
đã từ chối chữa bằng xạ trị-hóa trị mà
bệnh viện đề nghị làm cho bà
đỡû tức thở. Và khi bác sĩ
đề nghị thuốc giảm đau như morphine, bà
cũng từ chối.
Billy cho biết khi trong đợt ung thư vú
đầu tiên Kuai Chan có một chút khó khăn
với cơn đau sau khi giải phẫu. Là hành giả du già, bà
đã có thể nhận thấy cơn
đau rất rõ ràng và cơn
đau sẽ biến đi. Nhưng ung thư phổi là
một sự thử thách thực sự với bà. Cơn đau luôn
lên đến cực điểm nhưng bà vẫn
từ chối không dùng thuốc. Có nhiều lúc bà bị ngất xỉu và ngã sóng soài
trên sàn nhà khi cơn đau đột phát. Nhưng bà
vẫn bình tĩnh. Bà cũng bị ho dữ dội dai dẳng nhiều ngày
đêm. Billy ở bên cạnh bà và khi thấy
bà không ngủ được ban đêm ông cố làm
bà dịu cơn đau bằng cách xoa dầu, chà
sát và những cách chữa trị truyền thống. Billy
đưa ba
đến các thầy thuốc Trung Hoa và mua nhiều loại thuốc bắc và sắc lên
cho bà uống.
Billy nói chính niềm tin tưởng và thiền
định đã khiến bà có thể đối đầu với
khổ đau với một mức độ thanh thản và tự tại phi thường. Cả hai
đều đã hành thiền với Thượng Tọa
Sujiva tại một đạo tràng tại Ðài Bắc năm
1988. Sau đó Kuai Chan tiếp tục tham gia thường xuyên các
đạo tràng khổ hạnh của Thượng Tọa
Santisukharama tại Kota Tinggi, Johor.
Khi được chẩn đoán bị ung thư phổi sau đợt
ho vào tháng bẩy năm 1992, bác sĩ cho
biết bà chỉ sống được một tháng nữa.
Chỉ cho Kuai Chan và Billy hình chụp tia X, ông chỉ rõ ung thư
đã lan tràn ra sao khắp cả phổi. Ông
cũng rất ngạc nhiên thấy Kuai Chai vẫn đi
được và trông rất khỏe mạnh, mặc dù tình trạng ung thư tàn phá phổi
của bà. Nhưng bác sĩ không biết là Kuai Chan có một tâm thép. Bà
đã sống
được sáu tháng nữa. Ðối với bà không phải là một cuộc chiến
để sống mà là chết có nhân cách. Khi
bà và Billy gặp tôi tại Trung Tâm Trí Tuệ ở Petaling Jaya khi tôi
đến thăm nơi đây vào tháng 7, họ hỏi
họ có thể làm gì. Tôi bảo họ: Ðiều một hành giả du già có thể làm là thiền
định! Nếu tôi là bà tôi sẽ thiền
định cho đến lúc cuối cùng. Họ
được khích lệ và Kuai Chan kiên quyết
dành những ngày còn lại hành thiền tại nhà. Billy nói ông hỗ trợ bà tận
tình.
Nhưng bà không cho là cơn đau có thể ghê
gớm đến thế. Bà nói bà chưa từng thấy
cơn đau nào như vậy. Nhất là ở phần
dưới lưng, nóng như đốt và
đau như cắt. Bà
đã dồn tất cả sức mạnh tinh thần
để biết cái đau đớn nhưng bà vẫn không
thành công. Nó quá nhiều. Có những lúc bà nằm
đó bất lực không nhận biết được cái đau đớn nữa. Bà hơan toàn cam
chịu. Nhưng bà vẫn không uống thuốc giảm đau.
Bà tham khảo với thầy dạy thiền, Thượng Tọa Sujiva khuyên bà trải
lòng từ bi khả ái và tu thiền sổ tức hít thở
để giảm thiểu cơn đau khi bà chịu không nổi nữa. Việc làm này khiến
cho bà dễ chịu. Từ sự dễ chịu này bà có thể tiếp tục thiền minh sát. Một
hôm sau ba tuần chiến đấu với cơn đau dai
dẳng, bà có một kinh nghiệm độc đáo. Bà
nói với Billy trong khi nhận thấy cái đau như
cắt, bà quan sát thấy nó càng ngày càng nhỏ
đi cho đến khi nó biến hẳn. Bà nói bà
cảm thấy như tất cả giác quan đều bị cắt bỏ,
như thể không có danh-sắc (tâm và thân) vào lúc
đó tâm và thân
đã cùng nhau biến
đi với cái đau. Bà nói với Billy bà
cảm thấy giống như bà trải nghiệm Niết Bàn, và bà cảm thấy cực kỳ sung
sướng. Sau kinh nghiệm này, bà không bao giờ gặp phải loại
đau đớn cực độ nữa.
Mười ngày trước khi lâm chung, Billy mang bà vào một bênh viện tư vì bà
khó thở. Bác sĩ đặt ống dưỡng khí cho bà.
Hình chụp tia X cho thấy những tế bào ung thư
đã lan rộng hơn nữa làm trầm trọng sự nghẹt thở. Chữa bằng xạ trị –
hóa trị được đề nghị không phải là có
thể chữa lành bệnh mà chỉ để giảm nhẹ bệnh tình.
Nhưng Kuai Chan không muốn tâm mất sáng suốt nên bà
đã từ chối. Sau năm
ngày bà đòi Billy
đem bà về nhà vì bà cảm thấy không có
lý do nào nữa để bà phải ở lại bênh
viện. Billy lắp bình dưỡng khí tại nhà, mang bà về nhà và
để bà thở qua ống dưỡng khí hầu làm
giảm bớt khó khăn về hít thở của bà. Năm
ngày sau từ 13 Tháng Chạp đến lúc bà
chết ngày 18 Tháng Chạp bà dường như ở trong tình trạng thiêm thiếp ngủ,
thỉnh thoảng mới tỉnh dạy. Hai ngày trước khi chết bà vẫn còn nhớ ngày
sanh nhật thứ 17 của đứa con gái vào
ngày 17 Tháng Chạp. Bà nhắc Billy luộc hai quả trúng cho
đứa con gái và cho con gái một bao (lì
sì) đỏ, Billy đã làm theo lời bà.
Vào ngày 18 Tháng Chạp, bà tỉnh dạy lúc 9 giờ sáng với một nụ cười. Bà
hỏi, "Có phải tôi ngủ không?" Billy trả lời: "Phải
đã năm ngày
rồi, em biết không?" Bà ngạc nhiên. Bà dường như rất sung sướng và mỉm
cười. Bà nói bà không cần uống thuốc bắc nữa. Bà lại nhớ lại ngày sinh
nhật của đứa con gái và mặc dầu Billy
đã nói cho bà biết là ông
đã đưa
bao lỳ sì đỏ cho đứa con gái như bà
đã dặn, Bà lại nói lần nữa với Billy,
"Hãy cho cho đứa con gái một phong bao nữa
(bao lì sì khác) nhân danh tôi".
Billy nói, vào khoảng 2 giờ chiều Kuai Chan muốn nói cái gì với ông ta
nhưng quá yếu không nói nổi. Billy nhắc bà hãy duy trì tâm trạng vô tư,
đừng lo lắng gì về chồng và các con,
và cảm thấy tự do để ra đi êm ả. Ông
nói, họ đã thảo luận nhiều lần về việc
này trước đây, rằng nếu bà có thể lành
bệnh thì tốt, và nếu không thể chữa được, thì
cũng phải chịu: bà có thể đi một cách thanh
tao, hiểu biết nghiệp luật, rằng tất cả chúng ta một ngày
đó bắt buộc phải chia lìa.
Vào lúc ba giờ, khi đứa con trai 15 tuổi,
đi học về và báo với me: "Mẹ ơi, con đã
về", bà hiểu tuy không nói được. Bà
gật đầu để ra dấu bà biết.
Vào khoảng ba giờ ba mươi phút, Billy nói, Kuai Chan tận dụng sức lực
nói rõ ràng bằng tiếng Quảng Ðông, Woh Yap Niphoon, có nghĩa là
"Tôi đã vào Niết Bàn", câu này có ý
nói nói là bà tin tưởng bà đã thực
hiện hay chứng nghiệm Niết Bàn. Và bà chỉ vào bụng. Ðó là lời cuối cùng
của bà, bà ra đi một cách rất êm ả vào
khoảng 45 phút sau. Billy nói Kuai Chan, trong lúc hành thiền, thường quan
sát sự chuyển động lên xuống của bụng
xẩy ra mỗi lần hít vào hay thở ra. Bà thấy sự lên xuống của cái bụng là
một đối tượng tốt để đặt tâm vào, và
bà thường khuyến khích các hành giả du già nên bám vào
đối tượng ấy. Bất chấp hiện tượng nào
của thân hay tâm khi ta áp dụng chánh niệm và tập trung vào, cuối cùng ta
có thể thấy sự sinh diệt của hiện tượng và đi
đến hiểu biết tính chất vô thường, cái bất toại nguyện và vô ngã
của chúng. Sự hiểu biết có thể tiến tới đỉnh
cao trong việc đạt Niết Bàn, trạng thái chấm dứt khổ
đau. Những ô nhiễm của tham sân và si
sẽ bị hoàn toàn bị loại bỏ khi chứng nghiệm Niết Bàn
đạt được ở trình
đô A La Hán [*].
[*] Về kinh nghiệm chấm dứt những hiện tượng duyên hợp trong khi
thiền định, Niết Bàn có thể
đạt được ở bốn bậc thánh quả. Mặc dầu kinh
nghiệm của Niết Bàn là chấm dứt những hiện tượng duyên hợp ở tất cả
bốn bậc. Niết Bàn chỉ có một vị, đó là
vị "an lạc" kết quả về phương diện loại bỏ những ô nhiễm tinh thần tuy
nhiên khác biệt ở mỗi bậc của bốn bậc.
Ở bậc thứ nhất Tu Ðà Hoàn (Nhập lưu) tham và sân bị yếu
đi nhưng chưa bị loại bỏ hoàn toàn.
Hai ô nhiễm này bị yếu đến độ người đắc quả
Tu Ðà Hoàn không thể phá năm giới,
không giết (cả đến một côn trùng) không trộm cắp hay lùa bịp, không
ngoại tình, không nói dối và không uống rượu và không dùng các chất ma
túy. Ở bậc thứ hai Tư Ðà Hàm (Nhất Lai), những ô nhiễm bị yếu hơn nữa. Ớ
bậc thứ ba A Na Hàm (Bất Lai), lạc thú nhục dục và sân hoàn toàn bị loại
bỏ. Nhưng vẫn còn dấu vết của vô minh và ham thích một thiên nhiên không
nhục dục, có nghĩa là một ham thích dược tái sinh vào cảnh trời Phạm Thiên
không nhục dục. Ở bậc thứ tư A La Hán (Bất Sanh, quả thánh hoàn toàn) tất
cả ham muốn/ tham đều bị loại bỏ. A La Hán
sống kiếp cuối cùng và không còn bị tái sinh nữa.
Billy nói khi giờ phút cuối cùng sắp tới, mặt của Kuai Chan rạng rỡ,
khi bà nói, mắt của bà long lanh và sáng. Vào khoảng 4 giờ 15 chiều, Billy
nhận thấy bà đã tắt thở. "Bà trông rất
bình thản, thanh thoát. Billy nói, Bà đã
ra đi một cách rất an lạc.
Vào khoảng 4 giờ chiều hôm ấy, một người bạn
đạo, Lily, cư ngụ ở xa Petaling Jaya 25 cây
số, đột nhiên có ý nghĩ trải tâm từ bi-khả ái
đến Kuai Chan. Lily ngồi xuống và
thiền định, gửi đi tất cả những tư tưởng về
từ bi-khả ái đến Kuai Chan. Bà ta nói bà thấy Kuai Chan rất thanh
thản trong một ảo ảnh trong suốt như pha lê. Khi bà ngừng thiền, bà ta
nhìn đồng hồ lúc đó là 4 giờ 15, cùng
lúc Kuai Chan ra đi.
Chết theo cách Kuai Chan đã chết,
rõ ràng là một cái chết đẹp đẽ. Cách ra đi nào
tốt hơn – với tâm bà tập trung về Niết Bàn. Ai có thể nói cái kinh nghiệm
duy nhất nào bà đã trải qua? Chỉ có
mình bà biết thôi. Nhưng có một điều chắc
chắn là, tâm bà vững vàng vào lúc cuối cùng, hướng về Niết Bàn. Tôi
cớ thể nghĩ rằng bà đã
đạt Niết Bàn. Nếu bà
đã không làm
được thế trong đời này, tôi nghĩ rằng
bằng tâm vững chắc và cương quyết của bà, bà sẽ trải qua tái sanh lành làm
người hay người trời, và sẽ đạt được mục tiêu
hằng ấp ủ trong kiếp sống đó.
Là một Phật tử, Bà đã chỉ dẫn cho
Billy tổ chức cho bà một tang lễ đơn giản,
không có những nghi lễ và nghi thức không cần thiết. Theo ý muốn
của bà, Billy đã thu xếp việc hỏa táng
vào ngày hôm sau. Một vài nhà sư Phật Giáo, một số hành giả du già và bạn
bè tụng kinh Phật. Tang lễ rất giản dị theo lời bà yêu cầu. Billy thu thập
tro cốt và đem rắc tại cây bồ đề tại thiền
đường sư phụ của họ tại Jahor.
Hồi tưởng lại đời sống cùng nhau,
Billy nói Kuai Chan là một người vợ tốt nhất mà ông
đã có
được: "Chúng tôi lấy nhau đã 22
năm và bà
đã sát cánh với tôi qua thăng trầm,
qua nhiều thử thách và cực khổ. Bà có một tâm tính vui tươi và hoạt
bát. Bà bao giờ cũng thương yêu và ân cần. Ngay cả lúc bà ốm bà vẫn tuyệt
vời. Bà không bao giờ phàn nàn. Bà không ngã lòng. Không có giận hờn hay
cay đắng nơi bà. Bà vẫn bình tĩnh và
vững vàng. Bà vẫn có thể mỉm cười và cười lớn. Bà chấp nhận tất cả khổ
đau với thái độ trang nhã. Bà nói thân
bà bệnh nhưng tâm bà không bệnh. Tâm bà vẫn sung sức và khỏe mạnh. Sự quan
ngại của bà không phải cho chính bà mà cho người khác. Bà nói nếu bà có
thể sống thêm 10 năm nữa, bà sẽ thực
hành Phật Pháp nhiều hơn. Bà rất quan tâm đến
tôi và những đứa con.
"Thực ra bà đã chịu
đựng khổ đau tốt hơn tôi. Tôi không thểâ chịu
nổi khi thấy bà quá nhiều đau đớn. Tôi
cố gắng cho bà uống thứ thuốc bắc tốt nhất hy vọng có thể chữa khỏi
hay cho bà được nghỉ ngơi. Ðôi khi tôi
hỏi tại sao tất cả việc đó lại xẩy ra cho bà.
Và tôi nghĩ: Hãy để cho bà sống thêm
mười năm và cuộc
đời tôi ngắn đi mười năm. Xin để cho tôi cho
bà 10 năm của đời tôi. Nhưng lẽ đương
nhiên điều đó không phải là
để cho chúng ta nói. Chính nghiệp mới có
quyền ăn nói cuối cùng.
"Bà thường nói với tôi: "Ðó là nghiệp của em, Billy à. Cái
đó hoàn toàn
đúng. Em không biết em đã làm gì trong
quá khứ. Em phải chấp nhận nghiệp của em." Ðôi khi bà nói: "Em rất hối hận
vì đã đem
đến cho anh tất cả khó khăn này, Billy, tất cả cái khổ
đau này. Billy biết không em nợ anh
rất nhiều trong cuộc đời này." Tôi
phải nói với bà xin đừng nói thế. Tôi nói, bà
không nợ gì tôi cả. Chúng ta là vợ chồng phải không? – và bà là người vợ
tuyệt vời của tôi. Chúng ta cùng trải qua những lúc thăng
trầm, và bây giờ là giờ phút cần thiết của bà, tôi sẽ ở bên cạnh
bà. Chúng ta sẽ một mất một còn cùng nhau, tôi nói với bà, tôi cam
đoan với bà.
"Vào những dịp khác, bà nói với tôi:, Này Billy
đây là giáo lý chân chính, con
đường thực sự, tôi rất tin điều đó",
và bà nhắc tôi đừng lơ là thực tập
hành thiền, không nên tự mãn mà phải tu tập chăm
chỉ. Chúng tôi đã mất một thời gian tìm kiếm một giáo lý mà chúng
tôi có thế hiểu. Và khi chúng tôi tình cờ gặp Phật Giáo và thiền Minh Sát
vào năm 1988, chúng tôi đã say mê nó.
Ông biết không, chúng tôi thường cùng nhau bàn luận Phật Pháp mỗi
đêm bên tách trà. Mối liên hệ của
chúng tôi rất tuyệt vời."
Người anh em họ của Kuai Chan, Sati, hỏi liệu bà có sợ bệnh ung thư
không, bà trả lời không, bà không sợ bệnh này. Bà sẵn sàng chịu
đựng đau đớn mà không dùng thuốc. Bà
quả là một hành giả du già can đảm, mặc dù
hết sức chênh lệch, mà vẫn kiên trì thực hành Pháp. Bà làm tôi băn
khoăn, nếu tôi, một nhà sư mà ở hoàn cảnh như bà, bị ung thư, tôi
có thể chịu được nhiều như thế không, có can
đảm và chịu đựng như thế không? Bà
quả là một tấm gương đầy cảm hứng, một vị
thầy làm gương cho tất cả chúng ta. Tôi phải cảm ơn Billy
đã đưa ra
chuyện riêng tư của mình để chia sẻ
với chúng ta câu chuyện truyền cảm này
để chúng ta có thể can đảm trong việc tu tập cương quyết hơn nữa và
phấn đấu mạnh hơn nữa.
Billy yêu cầu tôi ghi nhận lòng biết ơn của ông
đối với Thượng Tọa Sujiva và những nhà
sư khác cùng với các hành giả du già về tất cả sự giúp
đỡ ân cần mà họ
đã cho ông và Kuai Chan. Những bạn
hành giả Du già tại Trung Tâm Trí Tuệ Phật Giáo, PJ,
đã đặc
biệt hỗ trợ tinh thần và khuyến khích Kuai Chan trong suốt thời
gian bà bệnh. "Tôi không biết làm sao bầy tỏ lòng biết ơn của tôi
đến tất cả mọi người đã giúp
đỡ tôi. Xin vui lòng nói với họ, tôi
xin cảm ơn tất cả, xin được nói, Cảm ơn quý
vị. Cảm ơn quý vị rất nhiều về mọi thứ mà quý vị
đã dành cho Kuai Chan."
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 |
02 | 03
Bản Anh ngữ:
Loving and Dying |