BuddhaSasana Home Page CHẾT TRONG AN BÌNH Tỳ Kheo Visuddhacara PHẬT LỊCH 2548 – DƯƠNG LỊCH 2004 [03] ---*--- Này các tỳ kheo, một tỳ kheo Ðức Phật ---*--- PHẢI CHẾT THANH THẢN Tất cả chúng ta một ngày nào đó sẽ phải
chết. Chúng ta phải chết thanh thản và an bình. Cho nên, một người
sắp phải chết chúng ta nên cố gắng làm cho cái chết càng thanh thản và
đẹp đẽ cho ông ấy hay bà ấy càng tốt.
Vâng, bạn ngạc nhiên cái chết có thể lại đẹp
đẽ ư? Nếu bạn ngạc nhiên, đó là
vì chúng ta thường ác cảm đối với cái chết.
Nỗi sợ về đau đớn và cái bấp bênh thường
đến sau cái chết. Rồi có sự gắn bó với người
thân của chúng ta phát sinh nhiều đau đớn trong tâm của chúng ta khi phải
lìa bỏ họ. Tuy nhiên chúng ta nên nhận thức rằng sự hiểu biết và thái
độ sai lầm của chúng ta là nguyên nhân
của khổ đau. Chúng ta không hiểu Pháp đủ sâu
xa. Chúng ta không hiểu và thâm nhập bản chất của tâm và thân là vô
thường, khổ đau và vô ngã. Chúng ta
không biết cách buông bỏ một cách uyển chuyển, cách cam chịu với cái không
tránh được.
Khi bà mẹ kế của Ðức Phật Maha Pajapati Gotami sắp chết vào lúc ở tuổi
120 già lão, A Nan và những nhà sư nữ khóc. Maha Pajapati Gotami nhẹ nhàng
quở trách họ: "Tại sao các ngươi khóc, con trai và con gái của ta. Các
ngươi không trông thấy thân ta đã trở
nên già nua và hom hem sao? Nó giống như nơi rắn thường lui tới của bệnh
tật, nơi nghỉ ngơi của tuổi già và cái chết, cái nhà của khổ
đau. Ta mệt mỏi đã phải lớn lên trong
cái xác thân này. Nó chẳng là gì cả nhưng là một gánh nặng cho ta. Ðã từ
lâu ta mong mỏi sự giải thoát Niết Bàn. Và ngày hôm nay
điều mong ước của ta sắp thành hiện
thực. Thật ra cái chết của ta là hạnh phúc. Ðó là lúc cho ta
đánh trống mãn nguyện và sung sướng.
Tại sao các ngươi lại khóc?" Ðức Phật, khi Ngài sắp chết giữa môi trường thiên nhiên dưới hai cây
sala (tha la) trong rừng, cũng bảo Ðức A Nan
đừng khóc vào lúc Ngài chết. Ngài nói người có trí tuệ và trầm tĩnh
phải chấp nhận sự thật về cái chết và chia ly cùng tất cả những gì mà
chúng ta thương yêu là không thể tránh được.
Ðức Phật nhắc chúng ta phải tu tập thiền chánh niệm
để đạt được trí tuệ giúp ta đối đầu với cái
chết bằng sự thanh thản. Ngài nói với các tỳ kheo: "Bởi vậy các con
phải tự rèn luyện. Chúng ta phải chấp nhận cái chết bằng chánh niệm và tự
tại." Và lời dặn dò cuối cùng của Ðức Phật là: "Tất cả những gì do duyên
hợp đều phải tan rã. Các con phải phấn
đấu chuyên cần." Người sống một cuộc đời đẹp đẽ có thể chết
một cách đẹp đẽ. Một ngày nọ tôi tình cờ
đọc mấy dòng hồi tưởng rất cảm
động trong một tờ báo. Khi bà trút hơi
thở cuối cùng và đi vào cõi bất diệt,
mặt bà sáng ngời và môi bà nở một nụ cười. Chị F, trông thấy vậy, thốt
lên: "Hãy nhìn kìa, bà đang nhìn thấy
Thượng Ðế". Việc này xẩy ra như vậy, tôi biết bà là một người Cơ Ðốc Giáo,
đã chết một cái chết
đẹp như vậy. Bà có tính dịu dàng, tử
tế và lúc nào cũng quan tâm đến phúc lợi của
người khác. Tôi được biết bà là một nhà giáo thường tìm các học trò
yếu kém để dạy thêm và khuyến khích
chúng. Bà được thương yêu sâu xa và
trân quý bởi gia đình và tất cả những
người đã tiếp xúc với bà. Tôi
được biết bà bao giờ cũng là một người
dễ thương và thương yêu tất cả mọi người quả thật
đời bà giống như một vị thánh. Vì đã sống một cuộc
đời đẹp như vậy, thảo nào bà
đã chết một cái chết
đẹp. Tôn giáo của chúng ta có thể khác nhau
nhưng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, người được
giải Hòa Bình Nobel, nói rằng: "Từ bi là cốt lõi của tất cả tôn
giáo." Niềm tin sắt đá của tôi là nếu
chúng ta đã sống một cuộc
đời tốt đẹp, thì khi chúng ta chết
chúng ta sẽ chết một cái chết đẹp dù
chúng ta là Phật Tử, Cơ Ðốc Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo hay của bất cứ quan
điểm nào hay niềm tin nào. Như Ðức
Phật nói, chính hành vi tạo thành con người. Trong phương diện này, tôi
thường nói với người Phật tử: thà là một người Cơ Ðốc Giáo, một người Hồi
Giáo tốt còn hơn là một Phật tử xấu. Bởi vậy, người Cơ Ðốc Giáo tốt khi họ
chết họ có thể thấy Thượng Ðế của họ hay ánh sáng. Người Phật tử có thể
thấy những hình ảnh tinh thần của Ðức Phật, a la hán, thiên nhân, hay cảnh
thiên đường và ánh sáng rực rỡ. Jack Kornfield, một vị thầy thiền Minh Sát người Mỹ, có lần kể trong tờ
báo Inquiring Mind khi ông viếng thăm Howard
Nudleman, một bác sĩ phẫu thuật và là một người tu thiền một ngày
trước khi ông chết về ung thư ra sao. Ông nhớ lại rằng khi ông
đi vào phòng ông Howard giống như ông
đi vào một ngôi chùa như thế nào. Và
khi ông nhìn vào ông Howard, ông Howard nhìn ông mỉm cười, một nụ cười
ngọt ngào không thể tưởng tượng được, một nụ
cười mà ông Kornfield không bao giờ có thể quên
được trong quãng
đời còn lại của ông. Vâng, tôi tin chắc có rất nhiều chuyện cảm
động về những cái chết đẹp của những người con người đẹp. Cho nên,
chính cái chết có thể là một sự kinh qua đẹp.
Khi chúng ta sống một cuộc đời lương hảo, và thân này trở nên yếu
ớt và suy sụp, chúng ta có thể đối mặt với
cái chết một cách tao nhã khi biết rằng chúng ta
đã sống một cuộc
đời thiện và bây giờ
đã đến
lúc chúng ta tiến tới.
Cho nên khi một người thân yêu sắp phải chết, chúng ta nên hiểu biết và
để cho người ấy ra đi an bình. Chúng
ta cố gắng làm điều đó vì người
đó càng thanh thản và
đẹp đẽ càng tốtõ. Rõ ràng, chúng ta
không nên khóc lóc than van. Than khóc chỉ gây khó khăn
thêm cho người sắp chết. Ðương nhiên nếu người ấy là một người Phật
tử hiểu biết và còn đủ sức để nói thì
người ấy, giống như Ðức Phật, sẽ nhẹ nhàng quở trách: Này các người thân
yêu, tại sao các người phải khóc? Ðức Phật chẳng
đã dạy ta bằng nhiều cách là chia ly
không thể tránh được trong đời sống đó sao? Làm
sao có thể là cái mà phải tan rã lại không tan rã? Ðiều
đó không thể được. Cho nên chúng ta
phải suy ngẫm sâu xa về Pháp. Này người thân yêu của tôi, thân này không
phải của chúng ta. Tâm này cũng không phải của chúng ta. Chúng sinh diệt
theo duyên hợp. Chúng ta phải tu tập chánh niệm sâu xa
để thấy việc này, cho nên,
đừng bám víu nữa, chúng ta có thể giải thoát
khỏi sinh tử. Người thân yêu của ta, hãy mạnh lên. Dù tôi phải cáo
từ bạn, tôi muốn nhắc nhở các bạn về những lời dặn cuối cùng của Ðức Phật:
"Tất cả những hiện tượng do duyên hợp đều
phải tan rã. Cho nên, ta kêu gọi các con, hãy phấn
đấu chuyên cần." Vâng, tất cả Phật tử nên nhớ lời dặn cuối cùng của Ðức Phật cho chúng
ta là hãy phấn đấu không mệt mỏi để đạt được
trí tuệ hầu giải thoát chúng ta khỏi sinh tử. Một người tu thiền định phải
thiền về cái chết. Người ấy có thể quán hơi thở, thở ra hít vào của
mình hay bụng phồng lên và xẹp xuống do hít vào thở ra. Nếu gặp phải khó
khăn gì, người ấy có thể nhận thức về
chúng, ghi nhận chúng là thế không sợ hãi lo lắng mà bình tĩnh và vững
tâm. Người ấy có thể quán thấy những cảm giác
đau đớn, chịu đựng chúng dù chúng lên cao
độ. Người ấy có thể tự nhắc nhở mình,
chúng chỉ là những cảm giác, mặc dù là cảm giác khó chịu. Người ấy cũng
thấy chúng vô thường, chúng không ngừng sinh rồi diệt. Người ấy sẽ hiểu và
không bám víu hay bị ràng buộc vào thân. Người ấy biết cả tâm lẫn thân
cũng sinh và diệt theo duyên hợp. Người ấy có thể suy ngẫm: "Thân này và
tâm này không phải của tôi. Chúng chẳng bao giờ thuộc về tôi cả. Chúng
sinh vì duyên hợp, và theo duyên hợp, chúng sẽ diệt. Cho nên, mắt này
không phải của tôi, tai này không phải của tôi, mũi này không phải của
tôi... Thân này được tạo thành bởi bốn
yếu tố, đất, lửa, nước và gió, chúng
tượng trưng cho những đặc tính của vật chất,
những đặc tính về tính cứng, tính mềm, sức ép, sức căng, nóng và
lạnh vân vân... Chừng nào năng lượng của
nghiệp còn kéo dài kiếp sống của tôi trong cỡi
đời này, thân này còn sinh tồn. Khi năng
lượng của nghiệp cho đời này hết, thì thân này chết và một cái tâm
mới được duyên hợp bởi cái tâm cũ vào
lúc chết. sinh ra trong thân mới. Nếu tôi đạt
được a la hán quả, không cần phải tái sinh nữa. Nếu tôi không có a la hán
quả, tuy nhiên, đã sống cuộc
đời thiện, tôi không sợ tái sinh. Tôi có thể
có một cuộc sống mới làm người được
phú cho mọi điều tốt đẹp và thông minh hay một chúng sinh ở cảnh
trời và từ đấy tôi tiếp tục con đường phát
triển cho đến khi tôi đạt được Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt sinh
tử." Suy ngẫm như vậy, người tu thiền sẽ trở nên rất bình tĩnh và vững vàng.
Người ấy sẽ trở nên rất an lạc. Người ấy có thể mỉm cười ngay cả trước cái
đau đớn và với những người tập hợp
chung quanh. Với tâm rất an lạc, cảm giác đau
đớn của thân có thể chấm dứt. Người ấy có thể chết thanh thản và an
lành, nhẹ nhàng chút hơi thở cuối cùng. NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SUNG SƯỚNG Khi Cấp Cô Ðộc, người nhân đức và
đại ân nhân của Ðoàn Thể Tăng
Già sắp chết, Xá Lợi Phất, người Ðệ Tử lớn nhất của Ðức Phật,
thuyết giảng về sự không quyến luyến cho ông. Xá Lợi Phất nhắc Cấp Cô Ðộc
là đời sống chỉ là một tiến trình tùy
thuộc vào duyên hợp, và tâm và thân tạm bợ này không có gì
đáng để bám víu vào. Xá Lợi Phất
đưa ra một bản danh sách toàn bộ những
cái mà đời sống cấu thành, cho thấy
tất cả đều là duyên hợp phù du không
thể bám víu vào được. Ngài giảng: "Cho
nên Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo những dạng thức nhìn thấy và mắt, âm
thanh và tai, mùi và mũi, vị và lưỡi, xúc và thân, và ý thức tùy thuộc vào
tất cả những thứ này. Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo nhãn thức, nhĩ thức,
tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Ông nên hiểu bản chất vô thường
của chúng và quan sát sự sinh diệt của chúng, không bám víu vào chúng và
hay không thích chúng. "Tương tự như vậy, Cấp Cộ Ðộc không nên hiểu theo sự tiếp xúc tùy thuộc
vào mắt và hình dạng, tai và âm thanh và vân vân... Ông không nên hiểu
theo cảm nghĩ dù thích thú hay không thích thú, cảm nghĩ nảy sinh tùy
thuộc vào sự tiếp xúc. Ông phải xem xét tất cả chúng bằng trầm tĩnh, hiểu
biết thực chất của vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Thân
được tạo thành bởi bốn yếu tố giãn nở,
dao động, cố kết, và nhiệt
độ. Tâm được tạo thành bởi cảm nghĩ,
nhận thức, hoạt động tinh thần và
thức. Tất cả chúng đều vô thường và
lúc nào cũng thay đổi. Xá Lợi Phất khuyến
khích Cấp Cô Ðộc không nên luyến chấp vào một trong những thứ
đó. Không có gì trong thế giới này có
thể gọi là cái ngã thường còn. Trong ý nghĩa tối hậu, không có cái ngã
trong tâm và thân. Và cho nên không có gì để
Cấp Cô Ðộc bám víu vào." Khi nghe được Pháp sâu xa này, một
niềm an lạc và sung sướng lớn lao bao trùm Cấp Cô Ðộc. Và ông ta
đã khóc. Thị Giả của Ðức Phật, Ngài A
Nan có mặt lúc ấy tiến lại gần và hỏi Cấp Cô Ðộc tại sao ông khóc. "Có
phải vì ông đã không chịu nổi cơn
đau?" "Không phải", Cấp Cô Ðộc trả
lời. Không phải là như thế. Mà đúng hơn là
vì bài thuyết giảng của Xá Lợi Phất quá đẹp
đến nỗi đã làm cho ông xúc động sâu
xa. "Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ
cảm xúc như thế. Cho nên đó là
lý do tại sao tôi khóc," ông nói với A Nan và Xá Lợi Phất. Những giọt nước
mắt của ông không phải là nước mắt phiền não mà là những giọt nước mắt vui
sướng – vui sướng vì nghe và hiểu được Pháp
sâu xa như thế.
Cấp Cô Ðộc hỏi tại sao Pháp như thế không
được thường thuyết giảng cho các cư sĩ. Xá Lợi Phất trả lời vì
người cư sĩ thường thấy khó lĩnh hội Pháp sâu xa như thế, họ
đều bị luyến ái vào rất nhiều lạc thú
sẵn có trong đời sống. Cấp Cố Ðộc phản
đối là có những người có thể hiểu và
lĩnh hội Pháp sâu xa này, và những ai không
được nghe sẽ bị thiệt thòi. Ông thúc giục Xá Lợi Phất thường xuyên
thuyết giảng về không luyến chấp cho những người khác như bài giảng mà ông
vừa được thuyết giảng.
Ít lâu sau, Cấp Cô Ðộc chết. Vì lúc cuối cùng của ông rất an lạc và
đã sống một cuộc
đời lương hảo, theo lời Ðức Phật, ông
được tái sinh ở cung trời Ðâu-xuất.
Khi một người đã
đạt được bậc thứ nhất của thánh quả (Tu-đà-hoàn)
người ta tin rằng Cấp Cô Ðộc có thể, trong bảy kiếp, sẽ
đạt giác ngộ hoàn toàn và do
đó sẽ giải thoát khỏi tái sinh.
Cũng có những câu chuyện về những thầy tỳ kheo
đắc quả A la hán (giác ngộ hoàn toàn)
trên giường lúc sắp chết. Cho nên những hành giả du già ngày nay có thể
thiền định đến lúc cuối cùng, họ biết
họ có thể thực hiện kiến thức tuệ giác, hiểu thấu về vô thường, khổ
đau và vô ngã, và thậm chí
đạt được thánh quả vào lúc chết. Một hành giả du già có thể trải tâm từ, thương yêu-khả ái. Cả
đến lúc sắp chết, người ấy có thể trải những
ý nghĩ thương yêu-khả ái đến tất cả
chúng sinh. "Nguyện cho tất cả chúng sinh
đều hạnh phúc. Nguyện cho chúng sinh thoát
khỏi tai họa và nguy hiểm. Nguyện tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ
đau tinh thần .... khổ đau thể chất... Nguyện
cho họ quan tâm lẫn nhau trong hạnh phúc". Chết với những tư tưởng
thương yêu cho tất cả chúng sinh là một cách chết cao thượng. Trong cuốn
Visuddhimaga, một cuốn sách thiền kinh của Phật Giáo, có nói rằng một
người có thói quen trải tâm từ, sẽ chết rất an lạc, như thể là ngủ thiếp
đi một cách dễ chịu. Và nếu người ấy
không đạt được thánh quả A la hán, và
phải tái sinh thì cũng tái sinh vào cõi trời. Vâng, một người du già không sợ chết. Người ấy có thể từ bỏ một cách
thanh nhã thân và tâm vì biết rằng sống hay chết chỉ là hai mặt của một
vấn đề, vì hiểu rằng trong khi chúng
ta còn sống chúng ta đang chết từng chập một,
chết vào mỗi lúc qua đi, và bị
tái sinh vào mỗi lúc mới đến. Các hiện tượng
tinh thần và thể chất không ngừng sinh và diệt. Không có gì
đứng nguyên dù chỉ một giây. Ðiều này
cũng đã chứng minh
được trong vật lý lượng tử nơi người ta thấy
rằng các hạt hạ nguyên tử triệt tiêu năng
lượng với mức 10 tới 22 lần chỉ trong một giây. Ðức Phật cũng nói
các hiện tượng tinh thần và thể chất không ngừng sinh ra và tan biến.
Chừng nào mà chúng ta chưa loại bỏ được năng
lượng nghiệp-tái sinh bằng cách nhổ tận gốc rễ những ô nhiễm của tham sân
và si, thì chúng ta vẫn tiếp tục phải tái sinh. Chết trong sự sống
này chỉ là sự chấm dứt của tuổi thọ cho thân và tâm trong sự sống này.
Nhưng ngay lúc mãn hạn của tâm vào lúc chết, không có khoảng cách nào, một
tâm mới nảy sinh nhập vào một thân mới theo nghiệp hay những hành vi của
chúng sinh ấy trong đời trước. Cho nên
người du già hiểu tâm lúc chết căn bản không
khác gì tâm ở mọi lúc nên không sợ hãi. Người ấy chấp nhận cái chết
trong chánh niệm và tự tại phù hợp với chỉ dẫn của Ðức Phật. LÀM CHO BẦU KHÔNG KHÍ THANH THẢN Khi tạo bầu không khí thanh thản cho một người sắp chết, chúng ta phải
biết sở thích của người đó, những gì
thích, những gì không thích của người ấy. Thí dụ, người ấy thích hoa.
Chúng ta nên có hoa trong phòng bệnh cạnh giường. Người ấy có thể thích
chết trong căn phòng ấm cúng của mình,
trong môi trường quen thuộc và thanh bình với mình. Cho nên nếu có thể
người ấy thích chết ở nhà hơn là ở bệnh viện. Nhưng nếu không thể
được và cần
để bệnh viện săn sóc, chúng ta nên cố
gắng làm cho cảnh chung quanh trong bệnh viện càng riêng tư, ấm cúng và
thanh bình càng tốt. Một phòng riêng thì tốt nhất, nhưng không phải tất cả
mọi người có thể có đủ khả năng để trả tiền.
Dù bất cứ ở chỗ nào, chúng ta cũng cố gắng làm cho bầu không khí
càng thanh bình càng tốt. Có thể có một hình ảnh nhỏ của Ðức Phật mà người ấy thích ngắm. Nếu như
vậy, chúng ta có thể để bức hình bên
cạnh hoa ở bên cạnh giường. Thái độâ nghiêm
trang thanh thản ở hình Ðức Phật có thể làm cho an tâm. Nhìn vào bức hình
này, ta nhớ đến trí tuệ và lời dạy của
Ðức Phật. Việc đó có thể cho nhiều an ủi và
an lạc, nhất là những lúc cần thiết. Căn phòng
phải được sạch sẽ và ấm cúng. Người
sắp chết có thể thích cái giường của mình hướng về của sổ
để có thể nhìn
được cây cối có thể làm cho tâm an
tịnh. (Thí dụ, Ðức Phật đã chọn cái
chết trong thiên nhiên giữa hai cây sala (tha la)
đang nở hoa tại rừng Câu Thi Na)
Nếu chẳng may người sắp chết mất bình tĩnh và lộ vẻ sợ hãi, lo âu hay
đau đớn, thân nhân nên làm cho người
ấy an tâm. Thí dụ như người thân có thể cầm tay người sắp chết trong tay
hay vuốt nhẹ vào trán, nói năng ngọt ngào
để người ấy an tâm. Người vợ có thể nhắc nhở
nhẹ nhàng người sắp chết về Pháp, sự cần thiết phải giữ tâm bình
tĩnh và hành thiền. Bà ấy cũng có thể an tâm người sắp chết hãy
đừng lo lắng gì về bà hay con cái,
rằng đã có giáo lý của Ðức Phật và sẽ
sống nương nhờ vào giáo lý ấy. Bà ấy biết cách săn
sóc cho mình và những đứa con. Bà
cũng có thể nhắc người sắp chết là tài sản, người thân yêu và tâm và thân
rốt cuộc cũng không phải là của chúng ta. Chỉ có những hành vi của chúng
ta mới là tài sản thực sự theo chúng ta. Bà cũng nhắc nhở ông ấy về cuộc
đời lương thiện của ông, sự săn sóc của ông
cho gia đình, và tất cả những hành
động thiện mà ông đã làm. Nhớ
như vậy và hiểu rõ Pháp, người ấy có thể trở thành mạnh mẽ. Người ấy có
thể mỉm cười và thanh thản. Cái chết không còn làm cho người ấy sợ hãi.
Ðương nhiên những gì chúng ta đã
nói chỉ là một thí dụ cho một diễn tiến có thể xẩy ra. Ðến lúc
đó, không thể có kịch bản nào
được sửa soạn cho việc này. Nhưng nếu
ta hiểu Pháp ta có thể phản ứng Pháp theo trực giác và theo hoàn cảnh lúc
ấy, nói và làm điều phải để giúp đỡ người ra
đi một cách an bình. Vào thời Ðức Phật, Nakulamata, vợ của Nakulapita chỉ làm như sau: Bà
đã an tâm người chồng khi ông này sắp
chết. Bà ta nói với chồng: "Anh thân yêu,
đừng chết với bất cứ nuối tiếc nào hay luyến chấp bất cứ thứ gì.
Giáo chủ của chúng ta, Ðức Phật đã nói
chết theo cách như vậy thật không khôn ngoan chút nào." Hiểu tính chồng, bà tiếp tục: "Anh thân yêu, anh có thể nghĩ rằng khi
anh đi rồi, em không thể nuôi nấng con cái và
giữ gia đình êm ấm. Nhưng
đừng nghĩ như vậy, em rất khéo tay về cuốn
bông và chải len. Em có thể nuôi nấng con cái và giữ gia
đình êm ấm. Cho nên, hãy thanh thản." Và bà ta đã an tâm người chồng là
bà sẽ giữ đức hạnh và tu tập Phật Pháp
cho đến khi đạt được giác ngộ. Và nếu
ai nghi ngờ việc này, hãy để cho họ đi hỏi
Ðức Phật là người mà bà ta chắc chắn là sẽ bầy tỏ lòng tin tưởng ở
nơi bà. Nghe thấy những lời bảo đảm như vậy,
thay vì chết, Nakalapita cảm thấy khỏe hơn rất nhiều và
đã khỏi bệnh! Sau này, khi cặp vợ
chồng thắm thiết này đến gặp Ðức Phật,
Ðấng Thế Tôn đã nói với Nakulapita
rằng Nakulapita đã rất may mắn có một
người vợ như Nakulamata: "Ông thật hết sức may mắn có người vợ như
Nakulamata đã hết sức thương yêu và từ
bi với ông, bà đã mong muốn ông
được hạnh phúc và có thể khuyên nhủ
ông trong lúc cấp thiết" Thân quyến cũng nên ủng hộ triệt để những
gì có thể cho người sắp chết. Như đã
nói trước đây họ không nên khóc vì
khóc sẽ gây khó khăn cho người chết. Nhưng
nếu họ thấy khó kìm hãm nổi mình thì hãy suy ngẫm về Pháp. Họ có
thể suy ngẫm rằng cái chết không thể tách rời sự sống. Khi có sự sống ắt
phải có cái chết. Ðó là điều chúng ta phải
chấp nhận một cách tế nhị. Ngoài ra khi thân
đã hư hoại và bệnh nặng, thì thật là
mừng để "thoát khỏi" nó. Nhận lấy một
cuộc kiếp sống mới, người ấy sẽ khá hơn. Suy nghĩ một cách khôn ngoan,
thân quyến có thể giành lại được sự tự tại và
giúp đỡ người sắp chết ra đi xứng đáng và
thanh thản. CHẬP TƯ TƯỞNG CUỐI CÙNG Chập tư tưởng cuối cùng hay lúc chết được
cho là rất quan trọng. Nếu ta chết vì sợ hãi, giận dữ, tham lam hay
bất cứ với trạng thái tinh thần bất thiện nào, thì tái sinh xấu sẽ nảy
sinh. Nếu ta chết trong thanh thản, hiểu biết, với chánh niệm và trầm
tĩnh, tái sinh tốt sẽ xảy ra. Thường thường nếu ta có một cuộc sống thiện
thì chập tư tưởng cuối cùng đương nhiên
sẽ là chập tư tưởng thiện. Những hành vi thiện ta
đã làm có thể xuất hiện trước tuệ
nhãn. Hay ta có thể có những ảo giác về định
mênh sắp tới, như nhìn thấy quang cảnh ngoạn mục ở cõi trời và
những người rất đẹp. Trái lại nếu ta sống một
cuộc đời tội lỗi thì những hành vi ác
đã làm có thể xuất hiện trước mắt ta hay có những ảo giác về lửa
địa ngục hay có thể nhìn thấy những
điềm xấu khác. Trong đời sống tuy nhiên
chúng ta không hẳn là tốt hay cũng không hẳn là xấu, có một sự pha trộn
xấu và tốt trong chúng ta. Nhưng nếu xếp toàn bộ chúng ta là tốt thì chúng
ta tin là sẽ có một tái sinh tốt. Nếu chúng ta có một sự hiểu biết rõ ràng về sống và chết, chúng ta có
thể chết với sự vững vàng và trầm tĩnh. Chúng ta có thể, như
đã nói, hành thiền cho
đến lúc cuối cùng, giữ vững chánh niệm
và tự tại. Vì đã sống một cuộc
đời thường là thiện và hơn nữa có thể
giữ chánh niệm trong lúc trực diện với cái chết, chúng ta chắc chắn
được bảo đảm một tái sinh tốt – lại là
người tốt – hay chư thiên, một chúng sinh ở cõi trời. Cũng có hy vọng là
chúng ta có thể nhanh chóng, dù bất cứ tái sinh nào
đã xẩy ra, chấm dứt luân hồi, vòng
sinh tử, cho nên không còn phải tái sinh, chúng ta sẽ giành
được an lạc của Niết Bàn. Ðôi khi có câu hỏi sau đây: Cái gì
sẽ xảy ra nếu không giữ được chánh niệm, nhất
là khi người ấy không trải qua sự rèn luyện hành thiền nào? Chẳng
hạn nếu người ấy chết trong trường hợp hôn mê thì sao? Hoặc người ấy
đột nhiên bị chết
đột ngột trong một tai nạn xe cộ thì
sao? Theo sự hiểu biết của tôi về kinh sách
được dạy của Ðức Phật, tôi có thể nói rằng nếu ai
đã sống một cuộc
đời lương thiện, thì những cơ may là
chập tư tưởng tốt sẽ xuất hiện vào lúc chết và một tái sinh tốt sẽ nảy
sinh. Nghiệp của chúng ta là nơi nương tựa
đích thực của chúng ta (nghiệp quả), cho nên theo tổng số sức nặng
về những hành động thiện mà chúng ta
đã làm sẽ dẫn chúng ta
đến một tái sinh tốt. Ðó là lý do tại
sao chúng ta phải sống một cuộc đời thiện
trong lúc còn sống, và không chờ đến
lúc gần chết thì đã quá muộn.
Nhưng vì trong đời sống chúng ta đã
làm cả xấu lẫn tốt, có khả năng là
chúng ta có thể vụng nhớ đến những hành
vi xấu thay vì những hành vi tốt vào lúc chết. Cho nên giữ chánh niệm quan
trọng hơn tất cả; chánh niệm giúp ích nhiều. Với chánh niệm, những tư
tưởng xấu không thể thâm nhập tâm chúng ta và chúng ta có thể chết bình
tĩnh, thanh thản. Chánh niệm là một đức tính
tuyệt vời – có thể giúp chúng ta trong cả sống và chết – tại sao
chúng ta không trau dồi và phát triển nó trong khi chúng ta còn sống? ---*--- Một tỳ kheo chuyên tâm chánh niệm về cái chết thì lúc
nào cũng siêng năng. Vị tỳ kheo ấy nhận thức
được sự tan vỡ ảo tưởng của tất cả các loại đang trở thành (sự
sống). Thắng được sự luyến ái vào
đời sống, vị tỳ khéo ấy lên án tội
lỗi. Vị ấy tránh tích trữ nhiều. Vị ấy không bợn chút tham lam nào về vật
dụng cần thiết. Nhận thức về vô thường phát triển trong mình, theo sau là
xuất hiện sự nhận thức về khổ đau và
vô ngã. Nhưng trong khi chúng sinh không phát triển chánh niệm về cái chết
không tránh nổi sợ hãi, khủng khiếp, và bối rối vào lúc chết như thể
đột nhiên bị bắt bởi thú rừng, ma quỷ,
rắn, trộm cướp, hay kẻ giết người thì vị tỳ kheo ấy không một chút sợ hãi,
và không bi rơi vào bất kỳ tình trạng nào như vậy. Và nếu vị ấy không
đạt được cái bất tử, thì ít nhất vị ấy
cũng đi về một định mệnh hạnh phúc khi thân
tan rã. Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimaga) ---*--- SUY NGẪM VỀ CÁI CHẾT Khi sống, thỉnh thoảng suy ngẫm về cái chết là tốt. Thực ra suy ngẫm
hàng ngày càng tốt. Ðức Phật dặn chúng ta thường xuyên suy ngẫm về cái
chết vì có rất nhiều lợi lạc đạt được từ sự
suy ngẫm này. Trước nhất chúng ta phải hiểu rõ rằng suy gẫm về cái chết không phải là
chúng ta phải trở nên rầu rĩ, sợ hãi, không lành mạnh hay ngã lòng, hay
cảm thấy như tự giết mình. Không, chắc chắn là không, chúng tôi muốn nói
rằng chúng ta nên suy ngẫm về cái chết một cách khôn ngoan, có thể sống
một cách khôn ngoan và từ bi hơn. Thí dụ, bất cứ lúc nào tôi bị khó chịu hay nản lòng, tôi phải (nếu tôi
không quá vô tâm) suy ngẫm theo những hàng chữ sau
đây: Ðời sống ngắn ngủi, chảng bao
lâu chúng ta đều sẽ chết. Cho nên
cãi nhau hay tranh giành có ích gì? Giận dữ có ích gì? Không có ý nghĩa
chút nào cả. Tốt hơn là tôi giữ sự an lạc của tôi. Tranh cãi hay giận dữ
không giải quyết được vấn đề. Nó chỉ gây ra
thêm thù oán và bực mình. Nghĩ như vậy tôi có thể bình tĩnh lại,
kiềm chế mình để khỏi bị kích động bởi những
cảm nghĩ mạnh mẽ, và liên hệ với người khác một cách lịch sự và
khéo léo hơn. Ðương nhiên, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng
đôi khi (có lẽ là nhiều lần) tôi
đã quên và bị kích thích của tài hùng
biện và xúc cảm, nhưng khi tôi tự nhớ lại về sự ngắn ngủi của
đời sống và cái vô nghĩa của nóng giận
đùng đùng,
tôi có thể bình tĩnh lại một chút và nói năng
một cách lịch sự và thận trọng hơn. Tương tự như thế, khi tôi bị dao động hay
lo lắng về một việc gì đó, tôi sẽ nghĩ
rằng tất cả những lo lắng và băn khoăn
có ích gì. Cuộc đời cứ tuần tự vi
tiến, cái chết chờ đợi mỗi người chúng ta. Không ai trong thế giới này
có thể thoát chết. Tử thần là người thực thi bình
đẳng vĩ đại, và là người san bằng
chênh lệch trong xã hội. Cho nên, trong khi tôi còn sống, tốt hơn là phải
sống tốt hết sức mình, và điều đó có nghĩa là
sống theo Pháp, sống trong chánh niệm, từ lúc này
đến lúc khác, từ ngày này
đến ngày khác, chỉ làm những
điều tốt nhất mà tôi có thể, cứ thế
mỗi ngày. Suy nghĩ khôn ngoan như vậy, tôi có thể kiểm soát những lo lắng,
sống nhẹ nhàng và sung sướng hơn. Hơn nữa, chúng ta có thể suy xét rằng có hay không lo lắng tất cả chúng
ta đều phải già và chết. Cho nên chúng
ta có thể già mà không lo lắng! Làm điều đó
sẽ là khôn khéo hơn. Không ai là người không
đồng ý là chúng ta chắc chắn sung
sướng hơn nếu không lo lắng. Mặt khác, tất cả những lo lắng làm tổn thọ,
khiến cho chúng ta phát bệnh sớm và chết. Cũng bằng cách nghĩ này, chúng
ta có thể kiểm soát lo lắng và sống một cuộc
đời hạnh phúc hơn. Bởi vậy, suy nghĩ về cái chết một cách khéo léo khiến
cho chúng ta rộng lượng và nhẫn nại hơn, tử tế và lịch sự hơn, cho
cả chính chúng ta và người khác. Rồi chúng ta có thể trở nên ít bị ràng buộc vào của cải vật chất, ít
tham lam. Vâng, khi chúng ta nhận thức sâu xa cái ngắn ngủi của cuộc
đời, và không thành vấn
đề chúng ta có thể có bao nhiêu nhưng
chúng ta không thể mang theo chỉ một xu khi chết chúng ta sẽ trở nên ít
keo kiệt hơn. Khi chúng ta rộng rãi một chút thì bắt
đầu vui trong việc chia sẻ và cho
đi, thương yêu và quan tâm. Lúc
đó chúng ta sẽ nhận thức ra rằng đời sống
không chỉ là chỉ gom góp và tích trữ của cải. Chúng ta sẽ thích
rộng lượng hơn, chia sẻ và mang niềm vui và hạnh phúc vào cuộc
đời của những người khác. Mang niềm vui và
hạnh phúc cho người khác là làm cái cho đời
sống có ý nghĩa và đẹp đẽ. Ðiều
đó mới đáng kể. Tình thương yêu và từ
bi nảy nở và thăng hoa trong chúng ta giống
như hoa nở đẹp của cây. Chúng ta trở nên thành những người thực sự
đẹp, đắm mình trong từ bi,
đáp lại bằng tấm lòng không có bất cứ
sự kỳ thị giống nòi, giáo phái, tôn giáo, địa
vị xã hội vân vân... Ðời sống của chúng ta sẽ có một luồng sáng mới
và chúng ta có thể nói chúng ta thực sự hạnh phúc và
đầy tình người. Và khi cái chết
đến, chúng ta không có gì nuối tiếc.
Chúng ta có thể mỉm cười với cái chết một cách hạnh phúc và an bình. KHI BỐN TRÁI NÚI ÐỔ XUỐNG Ðức Phật có lần nói dùng lối so sánh để
gây ấn tượng cho chúng ta sự cần thiết sống một cuộc đời có ý nghĩa. Ngài
đặt câu hỏi này với Hoàng Ðế Pasenadi:
"Này Hoàng Ðế, Ngài làm gì khi Ngài được biết
bốn trái núi lớn, một từ hướng Bắc, một từ hướng Nam, một từ hướng
Ðông và một từ hướng Tây, đang tiến về hướng
vương quốc của Ngài, nghiền nát mọi vật sống và không có gì thoát
khỏi?" Hoàng Ðế Pasenadi trả lời: "Bạch Ðức Thế Tôn, trong một thảm họa lớn
lao như vậy, sự hủy diệt đời sống con người
quá lớn, và tái sinh làm người rất khó
đạt được, tôi có thể làm gì để cứu vãn
mà sống một cuộc đời ngay thẳng và làm
những hành vi thiện?" Ðức Phật đã làm
cho vua hiểu vấn đề: "Thưa Hoàng Ðế,
tôi nói để Ngài biết – tuổi già và cái
chết đang lăn vào Ngài. Vì tuổi già và
cái chết đang lăn vào Ngài, Ngài phải
làm gì?" Hoàng Ðế trả lời rằng trong hoàn cảnh như thế tất cả việc cấp
thiết là phải sống một cuộc đời lương thiện và
thực hiện hành vi tốt. Nhà vua thừa nhận tất cả uy quyền, uy thế, của cải
và lạc thú mà nhà vua hưởng như một hoàng đế,
có thể khi đứng trước cái chết chỉ là con số không. Ví thế khi chúng ta suy nghĩ một cách khôn ngoan về cái chết, chúng ta
sẽ nhận ra rằng của cải, uy quyền, uy tín và những lạc thú nhục dục không
phải là mọi thứ. Chúng không thể bảo đảm hạnh
phúc cho chúng ta. Nhiều người có chúng nhưng vẫn sống một cuộc đời sóng
gió và bất hạnh. Một số người hối tiếc
đã hành hạ, áp bức và làm hại người khác trong khi theo
đuổi điên cuồng những tham vọng trần
tục của họ. Sau khi đã tiến
được tới đỉnh, họ thấy là thành quả
rốt cuộc không phải là thỏa mãn mà thậm chí trống rỗng và vô nghĩa. Ðôi
khi họ ước ao phải chi họ đã có nhiều
thì giờ hơn để sống với thân quyến và
bạn bè và bộc lộ sự quan tâm và trìu mến hơn. Họ nuối tiếc
đã lơ là với người thân yêu. Một số
người đã
đạt được mức đô khá thành công, đã
thay đổi thái độ giữa chừng. Họ đã
dành nhiều thì giờ hơn cho người thân, bạn bè và xã hội và sửa soạn vì
điều thiện cao cả hơn, bỏ những tham vọng cao
nhất để bằng lòng với cái ít hơn. Nếu chúng ta biết được một số người giàu
có và thành công đã xáo trộn
đời họ ra sao, chúng ta sẽ học được một bài
học từ sự lầm lẫn của họ. Một hôm tôi đọc
cuốn sách với tựa đề "Những Người Giầu Có Nhất Trên Thế Giới Thua
Cuộc" .Tôi thấy đây là một cuốn sách
giáo dục. Tựa đềù hoàn toàn thích
đáng. Họ là những người thua cuộc
trong đời sống bất chấp của cải của họ. Vâng,
tôi đã học được khá nhiều Phật Pháp
trong cuốn sách đó, làm sao mà tiền bạc và thành công không bảo
đảm hạnh phúc riêng cho họ. Thay vì họ
đã không hạnh phúc bất chấp của cải và
thành công của họ. Ðọc biết về những người giàu có và nổi tiếng như Howard
Huges, Mario Lanza, Elvis Presley, Marylyn Monroe và Aristotle Onassis,
đã sống và chết ra sao, tôi không thèm
muốn như họ. Những nhân vật đầy quyến rũ như Elvis và
Monroe chết vì ma túy quá độ, sống qua câu
châm ngôn: "Từ nghèo khổ đến giàu
có, và từ giàu có đến rỗng không". Tất
cả của cải và thành công của họ không mang lại hạnh phúc mà họ tìm kiếm.
Hạnh phúc vẫn tránh né họ. Họ có vẻ khá tệ héo hon vì nóng giận cao
độ, phiền muộn, sợ hãi và trống rỗng.
Lấy trường hợp của một người phụ nữ thừa kế một gia tài vô cùng to lớn,
lấy chồng bẩy lần mà không tìm thấy hạnh phúc. Bà nói với người viết tiểu
sử của bà: "Tôi thừa hưởng mọi thứ trừ tình yêu. Tôi lúc nào cũng tìm kiếm
nó vì không biết nó là cái gì". Sáu cuộc hôn nhân
đầu kết thúc bằng ly dị và cuộc hôn
nhân cuối kết liễu bằng ly thân. Chung cuộc, mặc dù của cải lớn lao, người
ta nói bà chỉ là một người đàn bà
đau khổ dễ bị thương tổn bị ảnh hưởng bởi cô
đơn. Bà chết vào năm 66 tuổi với một vài
người bạn bên giường mà không có người chồng nào
đến. Những chuyện bi thảm như vậy, tôi chắc
chắn, có thể cũng tìm thấy ở phương Ðông. Ðương nhiên, đề cập đến những người khác,
chúng tôi không có ý xem thường một cách tự cho là
đúng. Nhưng chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh tầm
quan trọng về việc có những giá trị thích đáng trong đời sống, hiểu bản
chất của tình thương và từ bi thực sự. Chúng tôi cũng không có ý
lên án sự giàu có và thành công hay nói rằng bạn không nên phấn
đấu vì chúng. Không, chúng tôi không
nói như vậy. Chúng tôi hiểu rõ là chúng ta phải thực tế và hiện thực.
Chúng tôi hiểu rằng nếu các bạn đang làm
việc trên thế giới này thì lý đương nhiên
bạn cố gắng hết mình để kiếm được càng
nhiều của cải càng tốt. Sau hết, nếu bạn muốn làm
điều thiện và giúp
đỡ người khác, như xây dựng cơ sở từ thiện,
bệnh viện và trung tâm hành thiền, và cúng dường thực phẩm cho các
nhà sư và người nghèo túng, bạn cần phải có tiền. Cho nên chúng tôi không
nói là bạn không nên cố gắng làm một cư sĩ để
làm giàu cho chính bạn. Nhưng đương
nhiên, trong việc kiếm của cải, bạn nên làm bằng phương tiện lương
thiện, không làm hại người khác. Nói một cách khác, điều chúng tôi nhấn
mạnh là sự đúng mức về luân lý. Chúng
ta cần có những giá trị tinh thần, nhận thức sâu sắc là hạnh phúc
không phải là sự ham mê lạc thú mà là chia sẻ và quan tâm. Khi chúng ta có
những giá trị đúng, chúng ta có thể sống có ý
nghĩa và mang niềm vui và hạnh phúc
đến tất cả những người ở trong môi trường đời sống của chúng ta. Khi chúng
ta hiểu Pháp nhất là chân lý về vô thường, khổ
đau và vô ngã, chúng ta không bám víu
vào danh vọng hay lợi lạc. Chúng ta có thể sống khiêm nhường và từ bi,
chia sẻ của cải và thành công, và tìm thấy niềm vui trong việc làm cho
người khác hạnh phúc. Nhưng khi chúng ta không hiểu thấu sâu xa về những
gì cấu thành hạnh phúc – mà hạnh phúc thực sự
đến từ cái tâm đã thoát khỏi tham, sân và si – rồi thì chúng ta
không hiểu chúng ta có thể làm điều sai lầm,
chúng ta nhất định bị chìm vào vũng bùn nhục dục
đi đến sự kết liễu thống khổ. Cho nên
điều quan trọng là chúng ta hãy suy
ngẫm cẩn thận về sự sống và cái chết, và lái vào
đúng hướng, con đường thích hợp.
Ý THỨC CẤP BÁCH Suy ngẫm về cái chết cũng có thể mang lại cái
được gọi là Samvega bằng tiếng
Pali – một ý thức cấp bách có thể tiếp sức cho chúng ta làm tất cả các
điều thiện mà chúng ta có thể làm
được trước khi chết và
đặc biệt là hành thiền
để trải nghiệm được chân lý sâu xa hơn và
sự hiểu biết. Ðức Phật nói hầu hết mọi người tất tưởi vội vã ở bờ bên này;
họ không tìm cách vượt sang bờ bên kia. Ý Ðức Phật muốn nói chúng ta tất
cả đều bị vướng mắc vào những mưu cầu
khoái cảm trong những lạc thú trần tục của
đời sống. Chúng ta không tìm cách vượt khỏi phàm trần – vượt qua
sinh tử, để nếm rượu thần tiên của
hạnh phúc bất tử, Niết Bàn bất tử. Niết Bàn là gì? Niết Bàn không thể mô tả
được mà mỗi người phải trải nghiệm nó cho chính mình. Nhưng Ðức
Phật đã cố gắng
đưa ra một số ý niệm về Niết Bàn là
thế nào. Thí dụ, Ngài mô tả Niết Bàn là cái bất sinh, không nguồn gốc,
không hình dáng, không điều kiện, bất tử,
hạnh phúc cao nhất, an lạc to lớn nhất. Niết Bàn tượng trưng một
trạng thái bất sinh bất diệt, không sinh hay tử. Nó
được mô tả như ngọn gió thổi tắt những ngọn
lửa của tham, sân và si, sự chấm dứt của tâm và vật, sự dập tắt khổ
đau. (Ðể
đọc thêm về Niết Bàn, hãy
đọc cuốn "Bản Chất Của Niết Bàn",
tác giả Mahasi Sayadaw, phát hành bởi Tổ Chức Buddha Sasana Nuggaha,
Rangoon, Miến Ðiện) Một người đạt được trạng thái Niết Bàn,
trạng thái này có thể thực hiện được trong
quá trình thiền định, được gọi là
giác ngộ. Một người giác ngộ có thể là bậc A La Hán hay Ðức Phật. Sự khác
biệt giữa A La Hán và Ðức Phật là A La Hán
đạt giác ngộ, bằng cách lắng nghe một người giác ngộ khác trong khi
Ðức Phật đạt giác ngộ bởi chính mình.
Người giác ngộ là người có thể trực diện với những nỗi thăng
trầm của cuộc đời bằng cái tâm điềm đạm. Qua những thăng trầm, như thua và
được, thành công và thất bại, khen và
chê, đau đớn hay thích thú, nổi tiếng hay
mang tiếng, người giác ngộ vẫn thanh thản và không lay chuyển. Họ
tiếp tục lối sống ấy không phải là bị lừa dối hay không cảm thấy mà vì
đã được
giác ngộ và khôn ngoan; hiểu rõ bản chất thực sự của cuộc sống, bản
chất của hiện tượng vật chất và tinh thần, bản chất vô thường, bất an cửa
chúng và không có một hạt nhân hay cốt lõi nào có thể gọi là cái ngã trong
ý nghĩa tối hậu. Nếu họ không tham đắm vào
lạc thú, và thích đau đớn, không phải là
họ không cảm thấy chúng. Họ cảm thấy chúng nhưng hiểu rõ bản chất thực sự
của chúng nên họ không bị áp đảo bởi chúng.
Họ có thể chấp nhận cả đau đớn lẫn lạc thú khi chúng tới bằng trí tuệ và
trầm tĩnh. Cũng vậy đối với những hoàn cảnh
trần thế khác như khen chê, thua được. Nếu họ
được khen họ không kiêu căng hay tự
cao tự đai. Họ không hãnh diện. Nếu họ bị chê, họ không buồn phiền
hay ngã lòng. Ðiều ấy không thành vấn đề với
họ. Họ vững vàng và không xao xuyến vì biết mình
đã hành
động đúng – không một vết nhơ của tham sân và si,
động cơ thúc đẩy họ là thương yêu-khả
ái và từ bi. Họ cũng không có ý thích làm hại
đến con kiến hay con muỗi. Lương tâm của họ trong sáng, tâm trí họ nhẹ nhàng
và tự do. A La Hán sống kiếp sống cuối cùng trên trái
đất và khi chết không bị tái sinh nữa.
A La Hán chấm dứt như một ngọn đèn,
đạt nirodha – sự chấm dứt. Người ây đạt
Parinibbana (vô dư Niết Bàn) – có nghĩa là người ấy
đạt Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt tất
cả cuộc sống, đạt được yếu tố an lạc tối
thượng của Niết Bàn. Bởi vậy, A La Hán trong thời Ðức Phật có câu
sau: Tôi thích thú không phải trong sự sống Một bài kệ khác như sau: Vô thường là những thứ duyên hợp Suy ngẫm về cái chết có thể giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của cám
dỗ nhục dục. Chúng ta sẽ không bị lừa dối bởi của cải vật chất mà hướng
nguồn vui của chúng ta vào một cuộc đời đáng
hài lòng và bổ ích vì sự phát triển trí tuệ và từ bi. Chúng ta
được khuyến khích hành thiền hoặc, nếu
chúng ta đã thực hành rồi, hãy tăng
gấp đôi nỗ lực đạt mục tiêu tối hậu giải thoát khỏi tất cả khổ
đau.
SUY NGẪM DẪN ÐẾN HIỂU BIẾT VÀ CHẤP NHẬN Suy ngẫm thường xuyên về cái chết – về làm sao không thể tránh
được và tài sản
đích thực của ta là những hành vi – có
thể khuyến khích chúng ta sống một cuộc đời
lương thiện đến mức khi chết chúng ta sẽ không sợ hãi cái chết. Hơn nữa khi một người thân của chúng ta chết, không thể tránh khỏi là
tất cả chúng ta đều phải chết, phiền muộn
không làm đau đớn chúng ta khi chúng
ta hiểu biết và chấp nhận. Ðó không phải là vì chúng ta không
động lòng hay vô tâm. Không, chúng ta
có một con tim, một con tim dễ xúc cảm. Chúng ta có thể cảm
động sâu xa nhưng chúng ta cũng biết bản chất
của sự sống, và có thể chấp nhận cái chết
đan dệt thành sự sống. Giải thích người trí chấp nhận cái chết ra sao, Ðức Phật nói: "Thấy bản
chất của thế giới, người trí không than van. Khóc lóc, rên rỉ sẽ chỉ dẫn
đến khổ đau và
đau đớn hơn. Nó không thể làm người
chết trở lại. Người than khóc trở nên xanh xao và ốm yếu. Người ấy
đã làm ngược với chính mình và sự than
khóc của mình không đem lại gì cả."
Ðức Phật nói người khôn ngoan đã thực
sự nắm vững bản chất của cuộc sống, đã
"rút ra mũi lao phiền muộn và thất vọng". "Người ấy không có sự bám víu.
Vì đã đạt
được an lạc trong tâm, người ấy đã vượt qua tất cả phiền não. Người
ấy tự do." Cho nên chúng ta nên suy ngẫm về những khía cạnh sâu xa hơn trong những
lời dạy của Ðức Phật để chúng ta có thể trực
diện với cái chết không bị phiền não mà hiểu biết. Người ra
đi cũng không muốn chúng ta mất tự chủ. Họ
cũng không muốn chúng ta bị đau lòng mà hãy chấp nhận sự ra
đi của họ một cách thoải mái. Vì
đã tái sinh, họ
đâu còn hiện diện
để nhìn chúng ta khóc than. Khóc than
và phiền muộn của chúng ta không giúp gì cho họ cả. Cho nên cái
đó thật phù phiếm. Nếu chúng ta suy
xét sâu xa hơn, chúng ta có thể thấy phiền não của chúng ta là do luyến
chấp. Chúng ta không chịu nổi sự chia ly. Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm sâu
xa hơn, và trở nên khôn ngoan hơn, chúng ta có thể chấp nhận cái không thể
tránh được. Thay vì phiền não, chúng
ta can đảm. Chúng ta có thể phản ứng một cách
có nghĩa lý, giả thử quyết định sống một cuộc đời cao thượng và
gương mẫu để tưởng niệm hay tưởng nhớ người
thân. Một người khôn ngoan chắc chắn không muốn chúng ta than khóc cho
người ấy. Trái lại người ấy muốn nói: "Nếu bạn thực sự muốn tưởng
niệm hay tưởng nhớ đến tôi, xin hãy
sống cuộc đời thiên, làm những hành vi
thiện, hãy tử tế với đồng loại... Ðó
là tất cả những gì tôi đòi hỏi". Khi Ðức Phật sắp nhập diệt, người ta nói hoa trời và phấn hương gỗ
đàn hương từ trên trời rải xuống khắp
thân Ngài để vinh danh Ngài. Và nhạc
trời cũng trỗi dậy. Nhưng Ðức Phật cho thấy tất cả những thứ vinh danh
Ngài như vậy không phải là điều Ðức
Phật muốn. "Không phải như vậy mà Như Lai
được vinh danh đến tột độ," Ngài nói. "Nhưng này A Nan, ai tôn
trọng Pháp, sống đúng Pháp, bước đúng con
đường của Pháp, đó chính là cách để
vinh danh Như Lai đến mức cao nhất. Cho nên này A Nan, các ngươi
phải tự rèn luyện: Chúng ta phải tôn trọng Pháp, sống
đúng Pháp, bước theo con đường của Pháp."
Và tuy chúng tôi đã nói trước
đây, chúng tôi muốn nói lại lần nữa: - Lời
dặn dò cuối cùng của Ðức Phật là: "Vayadhama sankhara.
Appammadena sampadetha.- Tất cả những gì duyên hợp
đều phải tan rả. Hãy gắng lên chuyên
cần (để giải thoát)." THAN VAN KHÔNG THỂ TÁC ÐỘNG ÐẾN TRO CỐT CỦA NGƯỜI CHẾT Trong những kiếp trước, Ðức Phật là một vị Bồ Tát (một vị Phật sẽ
thành), cũng không biểu lộ phiền não trước cái chết của những người thân.
Ðức Phật có thể bằng tâm linh nhớ lại những tiền kiếp của Ngài, và
được biết rằng có một kiếp Ngài là một
nông dân, ngài không phiền não khi mất một
đứa con trai duy nhất. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái gì phải tan rã
sẽ tan rã và cái gì phải chết sẽ chết. Tất cả
đời sống chỉ là tạm bợ và phải chết." Khi một người Bà La Môn hỏi
tại sao Ngài không khóc – phải chăng Ngài
có trái tim sắt đá, Ngài không cảm
động vì
đứa con của Ngài – vị Bồ Tát trả lời rằng Ngài rất quí
đứa con của Ngài, nhưng phiền não
không thể mang đứa con trở lại được.
"Không có than van nào có thể tác động đến
tro cốt của người chết. Làm sao tôi phải phiền não? Nó
đi theo con đường mà nó phải
đi". Trong một kiếp khác Ngài không khóc trước cái chết của người anh và
đã bị buộc tội là vô tâm, Ngài trả lời
những nguời đó không hiểu tám hoàn
cảnh trần thế mà tất cả chúng sinh phải đối
diện, tức là, được và thua,
hạnh phúc và bất hạnh, khen và chê, nổi tiếng và bị mang tiếng. "Vì ông
không hiểu tám hoàn cảnh trần thế, nên rên rỉ, khóc than. Tất cả mọi thứ
hiện hữu chỉ là tạm bợ và cuối cùng phải chấm dứt. Nếu ông không hiểu
điều này và vì cái vô minh của ông cho
nên ông khóc và than van, tại sao tôi phải theo ông than khóc?" Trong một kiếp khác nữa, Vị Bồ Tát không khóc trước cái chết của người
vợ trẻ và đẹp. Trái lại, Ngài suy
ngẫm: "Cái gì có bản chất tan rã thì phải tan rã. Tất cả những gì hiện hữu
đều vô thường", và ngồi xuống một cái
ghế gần đấy, Ngài dùng cơm như thường
lệ, cho thấy khả năng tuyệt vời lúc nào
cũng sống trong chánh niệm. Những người tụ tập chung quanh Ngài hết sức
ngạc nhiên và hỏi làm sao Ngài có thể giữ bình tĩnh vào lúc như thế này.
Phải chăng Ngài không yêu vợ Ngài, một
người rất đẹp đến nỗi kể cả những người không
biết bà cũng không cầm được nước mắt?
Vị Bồ Tát trả lời bằng bài kệ: Vì sao tôi phải nhỏ lệ với em Những chuyện rất ngạc nhiên như vậy về sự tự chủ của Bồ Tát rất
đáng kính sợ. Nó cũng dạy chúng ta phải suy
ngẫm kỹ và sâu xa về giáo lý để hiểu rõ
chân lý của vô thường và chấp nhận sự thật về cái chết. Có lẽ khi chúng ta
đau khổ vì mất người thân, chúng ta sẽ
suy ngẫm như vị Bồ Tát này và giữ được sự
điềm tĩnh.
CÁI CHẾT KHÔNG CÓ GÌ XA LẠ VỚI CHÚNG TA Một cách suy ngẫm khác về cái chết để khắc
phục được sợ hãi cái chết, là coi cái chết không có gì xa lạ với
chúng ta. Nổi trôi đằng đẵng trong luân hồi,
vòng sinh tử bất tận, Ðức Phật nói chúng ta
đã chết
đi và tái sinh nhiều lần không kể xiết – quá nhiều
đến nỗi nếu chúng ta gom tất cả xương khô lại
cùng nhau, thì mỗi đống xương đó có
thể cao hơn quả núi cao nhất! Cũng vậy, Ðức Phật nói nước mắt chảy
trong luân hồi vì mất người thân nhiều hơn nước của bốn
đại dương.
Ðúng, Ðức Phật nói, chúng ta đã
đủ đau khổ nhiều, để hoàn toàn mỏi mệt
về đời sống, hãy tìm kiếm con
đường để ra khỏi cái mê cung khổ
đau, con đường để đi đến Niết Bàn bất
diệt. Nhưng không may, chúng ta ít trí nhớ nên không nhớ
được kiếp nào trong quá khứ. Làm sao
mà đôi khi chúng ta không thể nhớ nổi những gì
chúng ta đã làm ngày hôm qua! Cho nên
chúng ta cứ tiếp tục sống một cách tự mãn, không có ý thức khẩn cấp gì
để trau dồi trí tuệ để giải thoát chúng ta
khỏi khổ đau. Tuy nhiên trong thời Ðức Phật, có nhiều thầy tỳ kheo,
kể cả Ðức Phật dã có thể nhớ lại được tiền
kiếp của mình. Ở thời nay cũng có những chuyện của những người có
khả năng kỳ lạ nhớ lại tiền kiếp của họ.
Francis Story và Bác Sĩ Ian Stevenson
đã viết những cuốn sách, đưa ra tài
liệu về một số những trường hợp này. Khi chúng ta suy ngẫm về tái sinh chúng ta lợi trên hai phương diện:
Tóm lại chúng ta có thể coi cái chết không có gì xa lạ với chúng ta.
Chúng ta đã gặp nó nhiều lần trước
đây. Cho nên chúng ta không cần
đối đầu nó bằng sợ hãi. Chúng ta có
thể coi nó chỉ là một chuyển tiếp, sự thay
đổi từ cuộc sống này đến một cuộc sống
khác.
Chúng ta sẽ có động cơ tìm cách ra
khỏi luân hồi, vòng sinh tử. Chúng ta có thể nghiên cứu giáo lý của Ðức
Phật sâu xa hơn. Chúng ta có thể phấn đấu
mạnh hơn nữa và thực hành những lời dạy của Ðức Phật,
để phát triển lòng vị tha,
đạo đức và thiền
định.
CÁI CHẾT NHẤT THỜI Trong một đường lối khác nhìn cái
chết là cái mà ta trải nghiệm hết lần này đến
lần khác. Vì trong ý nghĩa tuyệt đối,
sinh và diệt liên tiếp xảy ra. Theo Ðức Phật, thức lúc nào cũng
sinh ra và chết đi. Khi thức này tan
rã thì lập tức thức khác nảy sinh và cứ thế tiếp diễn, vô tận, cho
đến khi và trừ phi chúng ta thực hiện
được Niết Bàn tối hậu. Những hiện
tượng về thân thể cũng sinh diệt không ngừng. Cho nên cái mà chúng ta có
chỉ là sự sinh diệt không ngừng của các hiện tượng thể chất và tinh thần.
Ở một mức độ nào
đó hồ như sinh và tái sinh luôn luôn
xảy ra. Trong tiếng Pali, nó được gọi là
khanika-maranam - cái chết nhất thời. Trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo, nó
được nói đến như sau:
"Theo tuyệt đối, chúng sinh chỉ có một
thời gian sống rất ngắn ngủi, đời sống chỉ tiếp tục chừng nào mà
thức còn. Giống như cái bánh xe, dù chạy hay ngừng luôn luôn dựa vào một
điểm trên chu vi của nó, dù vậy
đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài
trong lúc thức còn. Chừng nào mà lúc này chấm dứt, thì chúng sinh cũng
chấm dứt. Vì người ta nói rằng: ‘Chúng sinh thuộc về chập quá khứ của
thức đã tồn tại, nhưng không tồn tại
trong hiện tại, và cũng chẳng tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc
về chập tương lai không tồn tại, cũng chẳng tồn tại trong hiện tại,
nhưng nó sẽ tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc về chập hiện tại
đã không tồn tại, nó chỉ tồn tại
trong hiện tại, nhưng nó sẽ không tồn tại trong tương lai.’" Trong phạm vi này, chúng sinh chỉ là thuật ngữ qui ước. Phân tích
đến cùng, nó chỉ là một chuỗi thức
sinh ra và chết đi. Thức này chết
đi thì thức kia nảy sinh - tất cả là
như thế. Và chúng ta gọi tiến trìnhï tiếp tục này là một chúng sinh. Nhưng
trong ý nghĩa tuyệt đối, không có chúng sinh
– không có sự thay đổi của linh hồn hay tâm, mà chỉ có một chuỗi
thức sinh ra và chết đi, thức này tạo
điều kiện cho sự sinh ra của thức kia.
Hơn nữa cái chết thông thường mà chúng ta trải qua vào lúc chấm dứt của
tuổi thọ không chỉ là cái chết tối hậu. Một thức khác tức khắc sinh ra
nhưng trong một thân mới hay cảnh giới mới theo tái sinh mà ta
đi vào. Chỉ khi ta
đã loại bỏ
được những dấu vết tinh thần của tham, sân và
si, thì mới không có tái sinh. Suy ngẫm như vậy, chúng ta cũng có thể
đánh giá đúng bản chất của vô thường, khổ đau
và vô ngã. Và chúng ta có thể vượt qua cái sống và chết dễ dàng.
VẤN ÐỀ ÐÁNG SUY NGHĨ Mỗi lần bạn nhìn vào tờ báo và gặp mục lời cáo phó hay những thông báo
về cái chết, bạn có suy nghĩ về cái chết không? Bạn có dừng lại và suy
ngẫm sự thật về cái chết của chính bạn không? Bất cứ lúc nào cái chết
đến với những người khác, chúng ta không cảm
thấy nhiều về việc đó. Người chết có thể là người xa lạ với chúng
ta. Khổ đau không phải là của chúng
ta, ngoài ra chúng ta đã trở nên hoàn
toàn tê liệt trước những chuyện về cái chết – Chúng
được đăng trên báo hàng ngày. Ðọc tin
người ta bị giết ra sao, nhất là trong chiến tranh,sự sống dường như rẻ
mạt. Dường như không có sự tôn trọng gì đối
với sự sống. Nhưng khi cái chết đánh vào người thân của chúng ta,
chúng ta chịu đựng ra sao? Và khi
chúng ta trực diện cái chết của chính chúng ta, chúng ta có sợ chết
điếng không? Vâng, mặc dầu chúng ta biết chết
và các thảm kịch xẩy ra chung quanh chúng ta, nhưng chúng ta sững
sờ kinh ngạc và không thể chấp nhận nó khi nó thực sự xẩy ra cho chúng ta.
Khi chúng ta đọc "mục tưởng nhớ"
trong báo chí, chúng ta có thể thấy tuy một người
đã chết mấy năm
qua rồi, nhưng người thân vẫn còn khổ vì
đau đớn bởi chia ly như thể nó mới giáng
xuống ngày hôm qua. Ðôi khi trong những thông diệp, người hôn phối
hay thân nhân công khai bầy tỏ buồn phiền mà họ vẫn còn cảm thấy và nước
mắt vẫn nhỏ xuống bởi người thân. Chúng ta hiểu
đó là tình người cảm thấy như vậy.
Nhưng Ðức Phật dạy chúng ta rằng con người chúng ta có thể tự tiếp thu
bằng trí tuệ và sức mạnh để chấp nhận sự mất
mát và chịu đựng một cách kiên
cường. Không phải là Ðức Phật muốn chúng ta vô tâm mà Ngài muốn chúng ta
có trí tuệ để chấp nhận sự mất mát và
hiểu biết sự phù phiếm của phiền não. Nhất
định Ngài không muốn chúng ta héo hon vì phiền não, trở nên gầy gò
và yếu đuối, mất tất cả lợi ích trong đời.
Ðặc biệt những người Phật Tử nên hiểu
điều này và do đó chấp nhận sự mất mát
một cách kiên cường. Nếu người Phật tử cần thiết đưa ra thông
điệp với lời cáo phó hay để tưởng nhớ trên báo, tại sao không
để những lời Pháp như: Vô thường là
tất cả mọi thứ duyên hợp. Hãy phấn đấu không
mệt mỏi cho Niết Bàn vôvi; hay suy ngẫm một caùch có ý nghĩa về
cái chết: Giống như hạt sương trên ngọn cỏ chẳng mấy chốc vào lúc mặt
trời mọc sẽ biến mất và không tiếp tục tồn tại
được lâu; giống như vậy đời sống của con
người giống như hạt sương rơi rất ngắn ngủi và phù du. Ta nên hiểu
điều này một cách khôn ngoan, hãy làm
những hành vi thiện và sống một cuộc đời đạo
đức, không ai có thể thoát chết. Hay nếu ta muốn có tính cách riêng tư, sao không
để một thông điệp như sau: "Anh thân
yêu, nếu anh có thể biết được, anh sẽ hài
lòng biết rằng con cái lớn lên rất tốt đẹp.
Em đã dạy kỹ chúng về Pháp, quý trọng những giá trị quý báu của
tình thương yêu và lòng tốt, trí tuệ và hiểu biết. Em cũng dạy kỹ chúng
đừng bắt chước bạo lực và tham lam
thường thấy qua truyền thông như truyền hình và phim ảnh. Kết quả, chúng
rất hòa nhã và thân thương với mọi người. Về phần em, em vẫn giữ giới và
hành thiền. Em đang thực hành chánh
niệm hàng ngày và ẩn tu một hay hai lần một năm.
Em rất an lạc và phát triển trong Pháp. Em cố gắng không phiền não,
vì anh và em đã hiểu một chút
điều Phật dạy – đó là phiền não thật
phù phiếm: Nó không có ích gì. Và em biết anh cũng chẳng muốn em phiền
não, mà là sống một cuộc đời thiên và
gương mẫu. "Tuy nhiên có những lúc, em phải công nhận, khi em cảm thấy
đau đớn, khi em thấy nhớ anh kinh khủng, nhất
là khi nghĩ đến những lúc vui cùng
nhau, hạnh phúc mà chúng ta cùng chia sẻ, nụ cười ngọt ngào và ánh mắt
sáng ngời của anh, cách anh cười và chòng ghẹo. Vâng, khi em lạc vào trong
cái nhớ nhung quá khứ ấy, em phải công nhận em cảm thấy nước mắt muốn trào
ra. Nhưng anh thân thương, em có thể tự kiềm chế
được. Em có thể có chánh niệm. Em có thể quan
sát cái đau đớn và chấp nhận nó. Em có thể quan sát tư tưởng và tâm
trạng em. Em có thể suy ngẫm giáo lý của Ðức Phật và hiểu sự phù phiếm của
phiền não. Em có thể hạnh phúc và trông vào các phước báu – ít nhất chúng
ta đã có những giờ phút hạnh phúc bên
nhau và bây giờ chúng ta có con cái để sống vì
chúng. Em hiểu sự đau đớn đến từ sự luyến
chấp và thiếu sự hiểu biết sâu xa về bản chất của tất cả cuộc sống.
Cảm ơn Ðức Phật đã dạy chúng ta về
chánh niệm, dạy chúng ta sống trong hiện tại, phải luôn luôn hạnh phúc,
trông mong vào phước báu, tắm mình trong hạnh phúc của một cuộc
đời đã sống lương thiện. "Vậy thì, em biết lời nhắn nhủ này đã
dài rồi. Em cũng biết rằng anh không ở đâu
đây để nghe. Nhưng nó làm cho em cảm thấy dễ chịu
được bầy tỏ theo cách này. Em cảm ơn
anh về hạnh phúc mà anh đã cho em, và
em dành tất cả những hành vi thiện mà em đã
làm, và đời sống thiện mà nay em
đã cố gắng sống, tất cả em dành cho kỷ
niệm ngọt ngào và thân thương của anh. Em cũng chúc anh, dù tái sinh tốt
thế nào, cầu nguyện anh hãy tiếp tục tu tập Pháp cho
đến khi anh đạt được Niết Bàn, sự chấm
dứt tất cả khổ đau, vân vân... và vân
vân..." Thừa nhận đây là một một thông
điệp khá dài mà tôi
đã hơi say mê một chút. Nhưng
điều tôi muốn nhấn mạnh nơi đây là chủ
đề của thông điệp, một chủ đề về hiểu biết và
chấp nhận. Ðó chỉ là đưa ra ý niệm về lời
nhắn nhủ cách diễn đạt Phật Giáo. Nó có thể được rút ngắn lại và
viết đơn giản hơn. Hay ngoại trừ mục đích
giáo dục của nó (có nghĩa dạy dỗ), lời nhắn nhủ có thể là không cần
thiết. Những cảm nghĩ như vậy có tính cách cá nhân và có thể
được giữ riêng tư. Khi ta hiểu thấu
Pháp, ta có thể tiếp tục sống một cuộc đời
thiện và mãn nguyện. ---*--- MỘT THẾ GIỚI KHÁC
Ðọc báo và tạp chí có thể cho chúng ta nhiều cái
đáng suy ngẫm. Bên cạnh những cáo phó,
có những chuyện ác liệt nhắc tới khổ đau trên
khắp thế giới, dẫu cho chúng ta có thể chết lặng
đi vì nó. Có những vụ giết người, trộm
cướp, hiếp dâm và chiến tranh, những vụ xung
đột tôn giáo, sắc tộc, xã hội và chính trị, ô nhiễm, bệnh tật, chết
đói, nghèo túng, tra tấn, áp bức,
khủng bố, tai nạn, tự tử và những thiên tai như
động đất, hỏa hoạn, lụt lội và bão tố.
Quả là một bản liệt kê dài và đáng buồn cứ
tiếp tục.
Ðồng thời bên cạnh những tin tức có những bức tranh và quảng cáo trình
bày những người hạnh phúc đang hưởng thụ cuộc
sống như thể không quan tâm gì đến thế
giới. Họ cười và chụp hình đằng sau
các xe sang trọng, những lâu đài đồ
xộ, những căn phòng khách sạn lộng lẫy, những chai rượu, thuốc lá,
nước hoa, mỹ phẩm, đồ trang phục trình
bày quyến rũ, và đồ trang sức lộng lẫy. Họ
đắm mình trong những tiệc tùng, cuộc thi sắc
đẹp và biểu diễn thời trang với những
người kiểu mẫu đẹp và sành
điệu diễu hành trên lối
đi của bục trình diễn. Sự tương phản
đặc biệt thật mỉa mai, khi bạn nhìn
thấy một cuộc biểu diễn thời trang lớn bên cạnh một bức tranh não lòng của
những trẻ em Phi Châu đáng thương chỉ còn
da bọc xương gần chết đói.
Người ta nói chúng ta là người văn minh ghê
tởm bạo lực và sự gây đau đớn điên rồ
cho người khác. Tuy nhiên chúng ta có những trận
đấu tranh tài vô
địch quyền Anh của hai võ sĩ khỏe
mạnh, vì món tiền lớn, cố hết sức giã vào đầu
nhau giữa những tiếng la hét tán thưởng rầm rộ của người xem, không phải là
không giống thời dã mãn của người La Mã khi những
đấu sĩ đánh nhau với sư tử hay với nhau để
giải trí cho những khán giả khát máu. Chúng ta có những người đấu bò,
điên lên, hành hạ và giết con bò chỉ
để mua vui. Và mọi người, hay ít nhất
những khán giả đông nghẹt tại đấu trường,
dường như nghĩ rằng đó cũng là trò vui. Hút thuốc và uống rượu đã gây thiệt
hại rất lớn cho sức khỏe của con người, tuy nhiên các hãng thuốc lá và làm
rượu vẫn cứ cung cấp bằng mọi cách, thậm chí thông qua các võ
đài thể thao, những sản phẩm chết
người của họ. Hút thuốc được mô tả một cách
lố bịch là "gặp gỡ sự dịu hiền" và uống rượu ngang bằng với thành
công và uy tín giữa nhiều việc khác! Cái gọi là các nước phát triển bán hạ
giá thuốc lá và những sản phẩm có hại khác cho các nước Thế Giới thứ ba,
trong khi kiềm chế sự tiêu thụ các sản phẩm ấy trong dân chúng của họ.
Trong sự tham lam quá quắt của cải của họ, các hãng xưởng sẵn sàng làm bất
cứ cái gì, dường như không có một chút băn
khoăn nào về tất cả những gì họ nói hay làm trong việc cung cấp các
sản phẩm như vậy. Các phương tiện truyền thông
đại chúng như báo chí và tạp chí, chấp
nhận và phát hành quảng cáo vì tham lam số tiền lớn mà họ mang
đến, không thể tự tha trách nhiệm của mình.
Họ có nhân quyền cơ bản để thi hành
lương tâm xã hội bằng cách từ chối những quảng cáo có hại nhưng họ chọn
cách không làm thế. Nhìn vào một tạp chí hàng không bóng loáng, bức ảnh ông chủ tịch già
một hãng bia ở Thái Lan đã khiến tôi
lưu ý. Mặc com lê và với mớ tóc hoa râm, ông ta hãnh diện trình bày, trong
phòng họp sang trọng của ông, một dẫy chai bia sản xuất bởi hãng của ông.
Ngay đàng sau ông là một cái bàn thờ
với hình ảnh Ðức Phật chiếu sáng lấp lánh. Ta có thể nhìn thấy bàn thờ
đã được
bầy ở giữa phòng một cách rất ấn tượng. Vì chúng ta
đều biết Ðức Phật dạy về sự cấm rượu,
giới thứ năm mà tất cả người Phật tử
tán thành nói rằng: "Tôi nguyện giữ giới không uống rượu hay dùng ma túy,
vì nó là nguyên nhân làm mất sự lưu tâm". Cho nên người giữ giới khó có
thể thỏa hiệp với sự sản xuất và phân phối rượu hàng loạt,
được coi như một cách sống sai lầm trong
Ðạo Phật, với hình ảnh của Ðức Phật,
được trình bày một cách trang trọng trong phòng. Sulak Sivaraksa, một nhà hoạt động và
phê bình xã hội Thái, viết trong cuốn sách của ông, "Những hạt giống
của Hòa Bình": "Sự thật đáng buồn là
Thái Lan có khoảng 250,000 nhà sư nhưng gái mãi dâm nhiều gấp
đôi. Ðiều này phát ngôn cho một hệ
thống không hữu hiệu và phải thẩm xét lại từ cội nguồn. Nếu chúng ta có
thể quay về nguồn gốc tốt đẹp của truyền
thống Á Châu, chúng ta có thể tạo ra một kiểu sống lành mạnh và hữu
hiệu". Kể ra hai thí dụ sau cùng, chúng tôi không có ý chỉ trích Thái Lan,
mà chỉ là nhấn mạnh vào cái dị thường. Thật ra, dị thường hiện hữu ở khắp
nơi. Giống như ở Thai Lan, những việc đó cũng
thấy ở Phật Giáo Miến Ðiện, Phật Giáo Sri Lankha, xứ sở của chúng
tôi và ở bất kỳ một xứ nào khác. Không ai có
độc quyền.
Vâng, chúng ta có thể tiếp tục dài dài với bản liệt kê những mâu thuẫn
trên thế giới mà chúng ta sống, chúng ta tin chỉ
điều này cũng
đủ để thấy vấn đề. Vâng, phải chăng hồ như
chúng ta không phải là một xã hội có một trạng thái tâm lý bị chia
rẽ hay loạn tinh thần? giống như một Bác Sĩ Jekyll và ông Hyde. Chúng ta
biết cái gì là bất thiện, tuy nhiên chúng ta tha thứ và thậm chí còn
khuyến khích sự tăng trưởng của nó. Rõ
ràng, dù muốn dù không chúng ta bị vương mắc vào
đấy, và chúng ta lao vào theo ngọn
thủy triều. Ðược lập trình và bị tác động bởi
những người có thế lực trong phương diện truyền thông quảng cáo đại chúng,
chúng ta đáp ứng điều khiển và thông
điệp của họ. Mua cái này, mua cái kia.
Ăn cái này, ăn cái nọ. Mặc cái này,
mặc cái kia. Làm cái này, đừng làm cái
đó. Cái này thô kệch và cái
đó có tính chất đàn bà. Cái này
đúng mốt và cái kia không. Ðây là lối
sống tuyệt vời; đó là xã hội giàu sang
đi đây đi đó bằng máy bay phản lực, một thế
giới vui nhộn và tiêu khiển tuyệt vời. Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có vẻ giống một người chỉ trích, một trò
thể thao xấu, một nhà sư giận dữ đứng trên
bục diễn giả ngoài trời cao giọng tuyên bố rằng ngày tận thế gần kề và
đe dọa một xã hội suy
đồi bằng lửa địa ngục. Nhưng bạn có thể đồng
ý với tôi rằng có lẽ đó không phải là một ý kiến xấu, nếu thỉnh
thoảng, chúng ta lùi lại một phút và nhìn vào tình hình thế giới, trạng
thái tâm chúng ta và tình trạng cuộc đời
chúng ta. Một số trí tuệ có thể nẩy sinh từ sự suy ngẫm đó. Chúng ta có
thể đánh giá lại lập trường của chúng ta và hướng
đi mà chúng ta muốn theo. Chúng ta
theo đám đông hay chúng ta bỏ hàng
ngũ? Và giả dụ tôi xin mượn một vần thơ của Robert Frost: Hai con
đường rẽ ra hai ngả trong rừng rậm và
tôi – tôi đi con đường ít người qua lại.
Và việc đó đã làm cho sự thể thay
đổi hoàn toàn. Vâng, khi hai con
đường rẽ hai ngả trong đường đời, bạn đi con
đường nào? Con đường ít người đi – con
đường của chánh niệm và trí tuệ, con
đường của tình thương và từ bi? Xin hãy nghĩ về việc này, vì nó có
thể làm sự thể hoàn toàn thay đổi.
---*--- Nơi đất và nước Ðức Phật ---*--- MỘT NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT Khi chúng ta đã
đi đến phần cuối cùng trong việc bàn
luận về Thương Yêu và Cái Chết, tôi phải nói rõ ràng tôi không chút nào tự
nhận là chuyên gia về sự sống, tình thương yêu hay cái chết. Nhưng tôi cố
gắng chia sẻ một số suy nghĩ về vấn đề này
với quý vị, những suy nghĩ về cách sống và chết bằng tình thương yêu và
hiểu biết trên đường đời. Chính là
đề tài tôi
đã đưa
ra, và tôi còn tiếp tục đưa ra, nhiều
suy nghĩ về nó. Chính đề tài mà tôi tin rằng sẽ
đem lợi ích cho tất cả chúng ta – vấn đề sự
sống, tình thương yêu và cái chết. Ðương nhiên tôi không tự nhận là
khôn ngoan và tôi biết tôi cũng có nhiều nhược
điểm. Ðúng là giống như người có ý
định tốt đấy nhưng vẫn còn vụng về
trên đường đời. Tôi cũng vụng về và
vấp ngã trên đường đời. Nhưng mỗi lần tôi tự
đứng lên, phủi bụi đi, cố gắng không
than van hay khóc lóc, một lần nữa hướng mắt về đỉnh núi cao tít trên
bầu trời, và tiếp tục với cuộc hành trình của sự sống. Tôi hy vọng rằng một số suy nghĩ tôi chia sẻ nơi
đây có thể giúp ích một phần nào cho
quý vị, chúng có thể soi sáng chút ít cho con
đường của quý vị. Nếu chúng có thể cho quý vị một chút gợi ý và
quyết tâm sống và chết bằng tình thương yêu và hiểu biết nhiều hơn, thì
tôi sẽ rất sung sướng. Nếu chẳng may, những phần trong bài có thể làm mếch
lòng quý vị trên bất cứ mặt nào, tôi cũng xin quý vị lượng thứ cho. Là con
người, chúng ta có thể chỉ cố gắng – để phục
vụ và chia sẻ. Chúng ta có ý định tốt,
và cái nhỏ nhoi mà chúng ta có thể, bất chấp những hạn chế, tìm
cách đóng góp cho một xã hội tốt
đẹp hơn, đó là một
điều hạnh phúc. Bất cứ lúc nào tôi
nhìn lại, nó cũng cho tôi một niềm vui và an ủi khi biết rằng ít nhất tôi
đã cố gắng làm nhiều mặc dầu nó chỉ có
thể là một chút thôi. Và khi tôi chết, có lẽ tôi có thể nói với Thần Chết: Này Thần Chết, bây
giờ ngươi cứ thử làm đi, vì ta
đã sống và thương yêu, và ta
đã làm
được chút gì cho đồng loại của ta".
Và trước khi tôi lẳng lặng lẻn vào đêm
tối, bạn có thể nhìn thấy vết tích mờ nhạt của một nụ cười trên môi tôi.
Tôi sẽ mỉm cười. ---*--- CHÀO THẦN CHẾT, Khi cái chết đến, vì nó phải
đến, bạn làm thế nào
để đối đầu với nó? Bạn có thể cười, nụ cười
ngọt ngào nhất lúc đó: "Chào mi
- Thần Chết, Tạm biệt cuộc đời"? Vâng, bạn có thể gặp thần chết không chút sợ hãi mà còn can
đảm và hiểu biết không? Bạn có thể
chào nó như bạn gặp lại một người bạn xa nhau từ lâu, như thể một người
nào đó gọi bạn đã lâu rồi và bây giờ
bạn nhìn thấy, từ nơi xa đến? Rốt cuộc, chết
không xa lạ gì với chúng ta; chúng ta
đã sống và chết nhiều lần không kể siết, gặp hết tái sinh này
đến tái sinh khác, sống đi sống lại trong
luân hồi, cái vòng bất tận của tử và sinh. Vâng, cái chết, chúng ta
có thể nói, chỉ là sự thay đổi của sự tốn
tại, chỉ là tiếp tục chuyển động một
lần nữa.
Cuốn sách này nhìn vào sống và chết từ khung cảnh Phật giáo - làm sao
chúng ta có thể sống đẹp và chết
đẹp, làm sao chúng ta có thể làm
đẹp đời sống bằng những giá trị đẹp của tình
yêu thương, trí tuệ và từ bi, những thứ đó
dẫn ta đến một chung cuộc đẹp, một cái chết đẹp.
Tác giả, một nhà sư Phật giáo Mã Lai, đưa
ra cách giải quyết và thái độ Phật
Giáo với giá trị chung và phổ quát trước những câu hỏi muôn thuở về
đời sống. Ông hy vọng những lời của ông có
thể cho quý vị một số gợi ý về sự sống, tình thương yêu và cái
chết. ---*--- "Nơi nào Phật Pháp đã thăng
hoa Ðức Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ về -ooOoo- Bản Anh ngữ:
Loving and Dying Chân thành cám ơn
Thượng tọa Thích Tâm Quang đã gửi tặng bản vi
tính (Bình Anson, 08-2004) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
LOVING AND DYING
Thích Tâm Quang dịch
phải đối diện cái chết của mình bằng
chánh niệm và thấu triệt rõ ràng.
Ðó là huấn thị của ta cho các ngươi.
.
Tôi thích thú không phải trong cái chết
Mà tôi chờ lúc ra đi của tôi trong chánh
niệm và tự tại
Có bản chất sinh ra và mất đi
Ðã nẩy sinh rồi phải chết đi
Bình lặïng và chấm dứt là hạnh phúc thực sự.
Sammilllabhasini xinh đẹp kia ơi?
Em đi về cõi chết
Từ nay ta mất em .
Vì sao chàng trai yếu đuối than van
Những gì đối với hắn chỉ là
vay mượn?
Hắn cũng hít vào hơi thở tử vong
Bị tước đi từng giờ bởi cái chết.
Lúc hắn đứng, hắn ngồi, đi lại hay nghỉ
ngơi
Trong cái nháy mắt,
Cái chết xẩy tới ngay.
Ðời sống tôi cho là thứ không vững chắc
Mất bạn bè là chuyện không tránh được
Hãy trân quý tất cả những gì còn sống
Buồn phiền em cũng chẳng sống lại đâu.
(Lược dịch ý)
(chuyển ngữ bởi ngài Nyanatikola theo cuốn Tự Ðiển Phật Giáo)
Lửa và gió không tìm được duyên hợp,
Dòng thủy triều đang tắt dần
Vòng luân hồi không còn xoáy tít nữa
Tâm và vật sẽ ngừng không còn gì lại nữa
.
Một nụ cười ngọt ngào nhất lúc này
Bạn sẽ thấy
Tôi ra đi rất an bình
vào đêm tối.
Bạn có thể mỉm cười
Với tôi không?
Và nói --
Chào Thần Chết
Tạm biệt cuộc đời
VĨNH BIỆT CUỘC ÐỜI
dù ở thành thị hay thôn quê,
người ta sẽ có những lợi ích phi thường,
Ðất đai và con người
được bao trùm trong hòa bình.
Mặt trời và mặt trăng trong sáng và
rực rỡ.
Gió và mưa sẽ đến thuận hòa,
và không có thiên tai
Các quốc gia sẽ phồn thịnh và
không cần dùng đến binh sĩ và khí
giới.
Con người sẽ tuân theo đạo đức và
hòa hợp với qui luật.
Họ sẽ lịch sự và khiêm nhường,
Và mọi người đều thỏa mãn vì không
có bất công.
Không có kẻ trộm cướp hay bạo lực.
Người mạnh không bắt nạt người yếu
và ai ai cũng có được phần của mình"
sự trang nghiêm, thanh tịnh, bình đẳng và
sự giác ngộ,
theo tông phái Ðại Thừa.
last updated: 05-09-2004