Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Những Đại Thí Chủ trong hàng Vua Chúa
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
Vua
Bimbisara (Bình Sa Vương), trị vì Vương Quốc Magadha (Ma
Kiệt Đà), đóng đô tại kinh thành Rajagaha (Vương Xá), là
vị thí chủ đầu tiên của Đức Phật trong hàng vua chúa.
Bimbisara (Bình Sa Vương) lên ngôi lúc mười lăm tuổi, làm
vua được năm mươi hai năm.
Khi Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thoát ly cuộc sống
trần tục, một hôm nhà vua trông thấy Ngài, một đạo sĩ
khiêm tốn, đi khất thực trên đường phố của kinh thành
Rajagaha. Trông thấy tướng mạo oai nghi và tư cách trang
nghiêm sang trọng của Ngài, vua lấy làm cảm kích, sai người
đi dò thăm. Khi được biết rằng thường bữa, sau khi độ
ngọ thì vị đạo sĩ cao quý ấy ngụ tại Pandavapabbata,
vua cùng với tùy tùng đến viếng đạo sĩ, hỏi thăm người
là ai, sanh trưởng ở xứ nào. Đạo sĩ Gotama (Cồ Đàm)
trả lời: "Ngay phía trước đây, Tâu Đại Vương, trên vùng
Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), trong châu thành Kosala của những
gia tộc cổ kính, một quốc gia truờng thạnh và phong phú,
tôi xuất thân từ triều đại Thái Dương, dòng Sakya (Thích
Ca). Tôi không luyến ái, chạy theo nhục dục ngũ trần.
Nhận thức được hiểm họa của thú vui vật chất và
thấy an toàn trong đời sống xuất gia, tôi đi tìm cái gì
cao quý nhất và tâm tôi được an lạc. [1]" Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) cung thỉnh đạo sĩ Gotama
(Cồ Đàm), sau khi chứng ngộ Đạo Quả, sẽ trở lại
viếng thăm Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà). Đức Phật Trở Lại Gặp Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương) Đúng theo như lời hứa, sau khi thành đạt Đạo Quả Chánh
Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cùng đi với các đệ tử A
La Hán từ Gaya đến Rajagaha. Nơi đây Ngài ngự tại diện
Suppatittha, trong một rừng kè. Tin lành đến tai Vua Bimbisara (Bình Sa Vương), và lúc
bấy giờ danh tiếng của vị giáo chủ vô song đã bay cùng
khắp Vương Quốc. Đức Vua đem theo rất đông quần
thần, đi đón mừng Đức Phật. Vua đến gần, cung kính
đảnh lễ Phật và ngồi lại một bên. Còn những người
khác, người thì đảnh lễ một cách cung kính, người thì
chào hỏi lễ phép như gặp bạn, người thì chắp tay xá,
người thì tự xưng danh tánh và cũng có người không nói
gì hết, lặng lẽ ngồi xuống. Lúc ấy phần đông dân chúng
tôn kính Đức Phật và Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) như
nhau, không biết ai là thầy. Đức Phật đọc được tư tưởng
ấy nên hỏi Ngài Kassapa (Ca Diếp) tại sao không thờ
Thần Lửa nữa. Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) hiểu ý Đức
Phật, giải thích rằng Ngài từ bỏ, không tôn thờ Thần
Lửa nữa vì Ngài chọn con đường đưa tới trạng thái
an vui châu toàn, không ô nhiễm dục vọng, đối nghịch
lại những lạc thú trần tục, không bổ ích. Nói xong, Ngài
Kassapa (Ca Diếp) khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức
Thế Tôn và xác nhận: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Ngài
là Đạo Sư của con. Con là đệ tử. Bạch hóa Đức Thế
Tôn, Ngài là Đạo Sư của con. Con là đệ tử." Tất cả mọi người đều hoan hỷ. Đức Phật nhân cơ
hội, thuyết một thời pháp về Túc Sanh Truyện Maha Narada
Kassapa [2], dạy rằng trong một tiền kiếp Ngài là Narada,
lúc ấy còn dục vọng, cũng đã dìu dắt Đại Đức
Kassapa (Ca Diếp) một cách tương tợ. Nghe Đức Phật thuyết giảng, Ánh Sáng Chân Lý rọi đến
mọi người. Đức Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) đắc Quả
Tu Đà Hườn, xin quy y Tam Bảo và thỉnh Đức Phật cùng
chư vị đệ tử về cung điện thọ trai ngày hôm sau. Khi
mọi người độ ngọ xong, đức vua tỏ ý muốn biết nơi
nào thích hợp để Đức Phật lưu ngụ. Đức Phật trả
lời: "Một nơi hẻo lánh, không xa mà cũng không gần thành
thị để những ai muốn viếng Ngài, có thể đến dễ dàng.
Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm
yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích
hợp," Đức Vua nghĩ rằng khu Trúc Lâm của mình có thể hội
đủ những yếu tố cần thiết ấy nên bạch với Đức
Phật xin dâng lên Đức Phật và chư Tăng khu Rừng Tre lý
tưởng này, cũng được gọi là "nơi trú ẩn của loài
sóc" . Khu rừng này không có nhà cửa lều cốc cho chư
tỳ khưu, nhưng có nhiều cây to bóng mát và những chỗ
ẩn dật kín đáo [3]. Dầu sao, đó là nơi được dâng cúng
đầu tiên đến Đức Phật và chư tăng. Tại ngôi
Veluvanarama (Trúc Lâm Tự) yên tĩnh này Đức Phật nhập
Hạ một lần ba năm liên tiếp và ba lần khác, vào ba Hạ
xa cách nhau. Sau khi quy y, Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) sống đời gương
mẫu của một vì vua. Ngài đều đặn nghiêm trì tám
giới (bát quan) trong sáu ngày giới (Uposatha). Công chúa Kosala Devi, con vua Maha Kosala và em vua Pasenadi
Kosala là chánh hậu của vua Bimbisara (Bình Sa Vương).
Ajatasattu (A Xà Thế) là con bà. Khema, một bà quý phi khác,
là một tín nữ rất tinh tấn nhờ sự khéo léo của đức
vua. Về sau bà Khema xuất gia tỳ khưu ni và trở thành đệ
nhất đệ tử của Đức Phật về phái nữ. Mặc dầu rất mực minh quân và có tâm đạo nhiệt thành,
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) phải chịu quả xấu của
tiền nghiệp, chết một cách thê lương ảm đạm và vô cùng
đau đớn. Hoàng tử Ajatasattu (A Xà Thế) bị Devadatta (Đề Bà Đạt
Đa) xúi giục, âm mưu sát hại vua cha là Bimbisara (Bình Sa
Vương) để chiếm ngôi. Nhưng công việc bại lộ,
Ajatasattu bị bắt quả tang, và người cha đầy lòng bi
mẫn không đành xử phạt xứng đáng như quần thần xin,
mà còn nhường ngôi vàng cho hoàng tử, vì thấy con thèm
muốn làm vua. Để trả ơn, vị hoàng tử bất hiếu vừa lên ngôi
liền hạ ngục cha và ra lệnh bỏ đói cho chết dần.
Chỉ một mình hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi
khi đi, bà giấu đồ ăn trong túi áo đem cho chồng. A Xà
Thế hay được quở trách mẹ. Sau lại, bà giấu trong đầu
tóc. A Xà Thế cũng biết được. Cùng đường, bà tắm
rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm
bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn này
để nuôi sống. Nhưng Ajatasattu (A Xà Thế) của bắt được,
và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua cha nữa. Lúc ấy Bimbisara (Bình Sa Vương) cam chịu đói, nhưng lòng
không oán trách con. Ngài đã đắc Quả Tu Đà Hườn nên thản nhiên, cố
gắng đi lên đi xuống kinh thành, chứng nghiệm hạnh phúc
tinh thần. Thấy cha vẫn vui tươi, Ajatasattu (A Xà Thế) nhất định
giết cho khuất mắt nên hạ lệnh cho người thợ cạo vào
khám, lấy dao bén gọt gót chân vua cha, xát dầu và muối
vào rồi hơ trên lửa nóng cho đến chết. Khi người cha bất hạnh thấy thợ cạo đến thì mừng
thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối cải, cho người
đến cạo râu tóc để rước về. Trái với sự ước
mong của Ngài, anh thợ cạo đến chỉ để thi hành lệnh
dã man của Vua A Xà Thế một cách tàn nhẫn, đem lại cho
Ngài một cái chết vô cùng thê thảm. Cùng ngày ấy, vợ Ajatasattu (A Xà Thế) hạ sanh một hoàng
nam. Tin lành đến cùng lúc với tin vua cha Bimbisara (Bình Sa
Vương) băng hà trong ngục thất. Tin chánh hậu hạ sanh hoàng nam được đọc trước.
Nỗi vui mừng của A Xà Thế không sao kể xiết. Cả người
cảm nghe nhẹ nhàng vui sướng. Tình thương của một người
cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng, mặn nồng sâu
sắc, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Đứa con đầu
lòng là một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng
thức một tình tôn giáo mới mẻ đậm đà, vô cùng trong
sạch. Cảm giác đầu tiên của người mới được đứa
con đầu lòng dường như đưa họ vào một cảnh giới
kỳ lạ, khiến họ có cảm tưởng rằng máu huyết mình
đã nhỏ giọt ra để nối tiếp mình. Tức khắc Ajatasattu vội vã chạy đi tìm người mẹ yêu
dấu và hỏi: "Thưa Mẫu Hậu, khi con còn nhỏ, phụ hoàng
có thương con không?" -- Tại sao con hỏi lạ vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này
không tìm đâu ra người cha lành như cha con. Để mẹ
thuật cho con nghe. Lúc mẹ còn mang con trong lòng, ngày nọ
mẹ nghe thèm lạ lùng một món kỳ lạ. Mẹ thèm nút vài
giọt máu trong bàn tay mặt của cha con. Mà nào mẹ dám nói
ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao, và sau cùng phải thú
nhận với cha con. Khi nghe vậy cha con vui vẻ lấy dao rạch
tay cho mẹ hút máu. Lúc ấy các nhà tiên tri trong triều tiên
tri rằng con sẽ là người thù của cha con. Do đó, tên con
là "Ajatasattu", có nghĩa "kẻ thù chưa
sanh". Mẹ có ý định giết con ngay trong lòng, nhưng
cha con không cho. Khi sanh con ra, mẹ nhớ đến lời tiên
tri, nên một lần nữa muốn giết con. Một lần nữa, cha
con ngăn cản mẹ. Một hôm, con có cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức
nhối vô cùng, khóc suốt ngày đêm, không ai dỗ được.
Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe
vậy cầm lòng không đặng, bế con trong lòng, và không
ngần ngại ngậm ngón tay của con trong miệng, nhè nhẹ nút
cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái nhọt bể, máu mủ tuôn ra
trong miệng cha con và, sợ lấy tay ra con sẽ nghe đau, cha
con nuốt luôn vào bụng cả mủ lẫn máu! Phải, người
cha hết lòng thương yêu con, vì tình phụ tử đậm đà,
nhè nhẹ nuốt hết vừa máu vừa mủ. Nghe đến đó Vua Ajatasattu bỗng đứng phắt dậy, kêu lên
như điên: "Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha
yêu quý của trẫm." Than ôi, người cha yêu quý ấy đã ra người thiên cổ! Tin thứ nhì được trao đến tận tay Vua Ajatasattu. Vua xúc
động rơi lệ dầm dề. Bấy giờ ông mới nhận định
rằng chỉ khi bắt đầu làm cha mới biết được tình cha
thương con như thế nào. Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) băng hà và tức khắc tái
sanh vào cảnh Trời Catummaharajika (Tứ Đại Thiên Vương) tên
là Janavassabha. Về sau Vua Ajatasattu (A Xà Thế) được gặp Đức Phật,
trở nên một thiện tín lỗi lạc và tạo nhiều công đức
trong cuộc Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên. Vua Pasenadi Kosala (Ba Tư Nặc)
Một đạ i thí chủ khác của Đức Phật trong hàng vua
chúa là Vua Pasenadi Kosala, con Vua Maha Kosala, trị vì vương
quốc Kosala, đóng đô tại thành Savatthi. Ông cùng trang
tuổi với Đức Phật, và nhờ tài đức lỗi lạc, may
mắn được nối ngôi vàng lúc vua cha còn sanh tiền [4]. Ông quy y trong những năm đầu tiên sau khi Đức Phật
bắt đầu hoằng dương Giáo Pháp. Kinh Samyutta Nikaya (Tạp
A Hàm) ghi rằng một ngày nọ vua Pasenadi Kosala đến yết
kiến Đức Phật và hỏi về Đạo Quả của Ngài, lúc
ấy còn trẻ tuổi. Đức Phật trả lời: "Tâu Đại Vương, có bốn chuyện không nên gạt
bỏ hay khinh thường. Đó là một hoàng tử hiếu chiến
(khattiya), một con rắn, lửa và một tỳ khưu. [5]" Và Đức Phật thuyết một thời Pháp có ý nghĩa về đề
tài này. Khi Đức Phật giảng xong, Vua Pasenadi lấy làm
hoan hỷ, xin thọ lễ quy y Tam Bảo. Kể từ ngày ấy vua
trở nên một đệ tử trung kiên của Đức Phật. Sách ghi
rằng có lần nhà Vua khấu đầu đảnh lễ Đức Phật
xong, ôm hôn chân Ngài. Lòng nhiệt thành tôn kính Đức
Phật của ông phần lớn cũng do sự khôn ngoan của bà Chánh
Hậu Mallika, rất sùng đạo, thông minh sáng suốt, và học
rành Giáo Lý. Trong nhiều trường hợp, bà dẫn dắt
chồng trên đường đạo đức như một người bạn chân
thành. Ngày kia vua nằm mộng liên tiếp mười sáu lần và
lấy làm bàng hoàng lo ngại [6]. Vị quân sư theo đạo Bà
La Môn bàn mộng, đoán rằng sắp có chuyện chẳng lành
xảy đến đức vua và bày cho vua nên giết trâu bò tế
lễ thần linh để tránh họa. Nghe lời, vua truyền sắm
sửa mọi việc để tế thần, một nghi thức vô nhân đạo
có thể làm mất mạng sống hàng ngàn chúng sanh. Hoàng
Hậu Mallika nghe tin lật đật can gián và thuyết phục vua
nên đến hầu Đức Phật, xin được giải thích. Vua nghe
theo lời, đem các điềm chiêm bao kể lại với Đức
Phật và xin Đức Phật giải thích ý nghĩa. Đức Phật
giảng giải rành rẽ. Không giống như trường hợp của vua Bimbisara (Bình Sa Vương),
vua Kosala tốt phước, được nghe Đức Phật giảng rất
nhiều bài Pháp. Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm) có
trọn một phần gọi là Kosala Samyutta [7] ghi lại những
lời Đức Phật dạy Vua Kosala. Ngày nọ, khi vua đang ngồi hầu Đức Phật, có vài đạo
sĩ đi ngang qua, mình mẩy đầy lông, râu tóc xồm xoàm, móng
tay dài thườn thượt. Vua liền đứng dậy cung kính đảnh
lễ và tự giới thiệu: "Kính bạch chư đạo sĩ,
Trẫm là Vua Kosala Pasenadi." Khi các đạo sĩ đi qua, vua
trở lại hầu Phật và bạch Đức Phật các vị ấy có
phải chăng là những vị A La Hán. Đức Phật giải thích
rằng một người phàm, còn thích thú trong những khoái
lạc vật chất, khó mà nhận thức được ai đã đắc
Quả A La Hán và ai chưa. Đức Phật dạy: "Nhờ sự thân cận (Samvasena) mới biết được
giới hạnh (Sila) của một người và, dầu thân cận đi
nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, phải thận trọng
quan sát và phải sáng suốt thông minh. Người lơ đễnh,
không sáng suốt thông minh, không đủ thì giờ quan sát,
dầu có thân cận cũng không thể xét đoán đúng. Xuyên
qua những cuộc đàm thoại (samvoharena) ta có thể nhận
thức trạng thái trong sạch (soceyyam) của người khác.
Trong tình trạng bất an, rối ren, nghịch cảnh, mới
thấy biểu lộ nghị lực, và trong cuộc thảo luận,
mới hiểu được trí tuệ của người khác. Dầu vậy
đi nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, thận trọng
quan sát và phải sáng suốt thông minh." Để tóm tắt, Đức Phật đọc bài kệ: "Không phải do lớp trang sức bề ngoài mà con người
được biết rõ. Là một quốc vương trị vì một quốc gia rộng lớn,
Vua Kosala không thể tránh chiến tranh, đặc biệt là với
các lân bang. Một lần kia ông phải gây chiến với người
cháu, Vua Ajatasattu (A Xà Thế) và thất bại. Nghe vậy Đức
Phật dạy: "Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù. Một lần khác, Vua Kosala chiến thắng và thâu đoạt toàn
thể quân đội của Vua Ajatasattu (A Xà Thế), ngoại trừ
nhà vua. Khi nghe được tin ấy, Đức Phật đọc lên
những câu kệ sau đây, vẫn có thể áp dụng trọn vẹn
trong thế gian hiện tại, luôn luôn phải lo sợ một cuộc
chiến tàn khốc có thể bùng nổ bất cứ lúc nào: "Một người có thể cướp bóc người khác, Những lời Đức Phật dạy Vua Kosala về cách xử sự
với hàng phụ nữ cũng có nhiều ý nghĩa bổ ích. Một hôm
Vua Kosala đang hầu chuyện với Đức Phật thì có người
đưa tin đến rằng Chánh Hậu Mallika vừa hạ sanh công chúa.
Vua không vui. Ở Ấn độ, thời xưa cũng như ngày nay vẫn
còn ở nhiều nơi, sanh con gái không được xem là một tin
lành, vì một vài lý do ích kỷ như vấn đề của hồi môn
chẳng hạn. Trái hẳn với trào lưu tư tưởng thời bấy
giờ, Đức Phật bày tỏ lòng tôn trọng và ca ngợi đức
tánh của người đàn bà qua bốn đặc điểm sau đây: "Một em bé gái, Tâu ĐạiVương, có thể Trong hàng phụ nữ có người còn tốt hơn đàn ông.
"Itthi hi pi ekacciya seyya" là nguyên văn câu Phật ngôn.
Giữa xã hội Ấn độ thới bấy giờ, trong lúc mà người
phụ nữ không bao giờ được sự kính nể xứng đáng,
lời nói cao quý và đầy quả cảm ấy thật là một khích
lệ lớn lao cho nữ giới. Khi hoàng thái hậu, nội tổ của Vua Kosala băng hà vào
năm 120 tuổi, đức vua lấy làm sầu muộn, đến bạch
với Đức Phật rằng ông có thể đổi bất cứ vật gì
của ông để tìm lại sự sống của người mà ông quý
trọng và trìu mến như mẹ. Đức Phật an ủi như sau: "Tất cả mọi chúng sanh đều phải chết. Đời
sống phải kết cuộc bằng sự chết. Cái chết luôn luôn
ở ngay trước mặt. Cũng như món đồ gốm, dầu hầm chín
hay không, đều có thể bể và phải bể một ngày nào.
Đặc tính 'bể' luôn luôn dính liền với món đồ gốm.
[11]" Vua Kosala rất thích nghe Pháp. Dầu công việc quốc gia
đại sự đa đoan thế nào ông cũng cố gắng tìm cơ hội
đến viếng Đức Phật và ắng nghe thuyết giảng. Hai bộ
kinh Dhammacetiya [12] và Kannakatthala [13] Sutta được giảng
trong những trường hợp ấy. Chánh Hậu của Vua Kosala, chết trước ông, là con gái
của một người làm tràng hoa. Chị của Vua Bimbisara (Bình
Sa Vương) là một bà khác. Em gái của ông là chánh hậu
của Vua Bimbisara (Bình Sa Vương), mẹ A Xà Thế. Vua Kosala có một hoàng tử tên Vidudabha, về sau nổi
loạn chống lại ông. Mẹ của vị hoàng tử ấy là con gái
của Mahanama dòng Sakya (Thích Ca) và bà ngoại của hoàng
tử là một nô tỳ. Khi cưới bà mẹ của Vidudabha, Vua
Kosala không biết rằng bà là con của một nô tỳ. Đến lúc
Vidudabha lớn lên, nghe người trong thân tộc Sakya (Thích
Ca) nói vậy thì lấy làm tức giận, quyết định tàn sát
hết dòng Sakya (Thích Ca) để trả thù. Vì Vidudabha, về
sau Vua Kosala phải chết một cách thê thảm trong một cái
đền ngoài thành phố. Lúc ấy chỉ có một người tùy tùng
đi theo hộ giá. Vua Kosala băng hà trước ngày Đức Phật nhập diệt. Chú thích: [1] Sutta Nipata, Pabbajja Sutta. [2] Xem Chương 7, và Túc Sanh Truyện số 544. [3] Phạn ngữ Arama chỉ có nghĩa là một khu vườn,
một khuôn viên. Lúc Đức Phật thọ lãnh vườn này, trên
đó không có xây cất nhà cửa. Ngày nay danh từ Arama được
dùng trong ý nghĩa là một tu viện trong đó có chỗ ở cho
các tỳ khưu. [4] Samyutta Nikaya, phần i, trang 64. Kindred Sayings, I, trang
94. [5] Hoàng tử hiếu chiến, dầu trẻ tuổi, có thể là
một đại họa. Con rắn dầu nhỏ bé, có thể rất độc.
Một đóm lửa nhỏ có thể gây hỏa tai khốc liệt. Một
vị tỳ khưu trẻ tuổi có thể đắc Quả Thánh hoặc có
pháp học cao siêu, thông suốt Giáo Pháp. [6] Xem Maha Supina Jataka, Jataka Translation, quyển I, trang
188-192, số 77. [7] Samyutta Nikaya, I, 68. Kindred Sayings, I, trang 94. [8] Kindred Sayings, phần I, trang 104-106 [9] Kindred Sayings, phần I, trang 109-110. Dhammapada, Kinh Pháp
Cú, câu 201. [10] Kindred Sayings, phần I, trang 110. [11] Xem Kindred Sayings, phần I, trang 122. [12] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, số 89. [13] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, số 90.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |