Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Con Đường Hoằng Pháp
Con
đường Hoằng Pháp vừa lợi ích vừa thành công của Đức
Phật kéo dài bốn mươi lăm năm. Từ lúc Thành Đạo, năm
ấy ba mươi lăm tuổi, chí đến khi Đại Niết Bàn, tám mươi
tuổi, Đức Phật không ngừng phục vụ nhân loại bằng
cả hai lối - gương lành và lời dạy. Suốt cả năm trường,
đôi khi một mình, lắm lúc cùng với môn đệ, Ngài đi
từ nơi này đến nơi khác để truyền bá Giáo Pháp trong
dân gian và dẫn dắt nhiều người ra khỏi vòng cương
tỏa của luân hồi.
Theo khí hậu ở Ấn Độ, trong mùa Vassàna, trời mưa
tầm tã nên Đức Phật ở lại một nơi. Đó cũng là
phong tục của các nhà tu sĩ Ấn Độ thời bấy giờ. Thuở xưa, cũng như hiện nay, ở Ấn Độ có ba mùa rõ
rệt là Vassàna (mùa mưa), Hemanta (mùa đông) và Gimhana (mùa
nóng). Vassàna, hay mùa mưa bắt đầu từ tháng Asalha và kéo
dài đến tháng Assayuga nghĩa là từ khoảng giữa tháng
Bảy đến tháng Mười Một, Dương Lịch. Trong mùa Vassàna (Hạ), vì mưa dầm tầm tã nên mực nước
sông rạch thường dâng lên cao, đường sá ngập lụt,
giao thông gián đoạn, và dân chúng phải sống quanh quẩn
trong nhà hay trong làng với chút ít vật thực gì đã để
dành được từ các mùa trước. Trong thời gian ấy, các
vị đạo sĩ khó lòng đi được đó đây để giảng đạo,
khó lòng di chuyển mà không xúc phạm đến sanh mạng của
bao nhiêu loài động vật, tìm sống ở một nơi ít còn khô
ráo, hay tổn hại đến cây cỏ mùa màng. Do đó, các tu sĩ,
kể cả các đệ tử của Đức Phật, thường tạm ngưng
mọi họat động phải di chuyển để rút về những nơi
vắng vẻ. Theo thường, Đức Phật và các đệ tử Ngài được
cung thỉnh về an cư kiết hạ ở các tu viện hay những
khu vườn ẩn dật. Đôi khi các Ngài cũng rút vào rừng sâu.
Vào những lúc ấy, Đức Phật ở đâu thì dân chúng trong
vùng kéo đến nghe Pháp và cố tận dụng thời gian ấy để
tạo phước. Hai Mươi Hạ Đầu Tiên. Hạ Đầu Tiên - tại Benares (Ba La Nại). Sau khi Vận Chuyển Pháp Luân cho năm vị đệ tử trong
ngày trăng tròn tháng Asalha, Đức Phật nhập Hạ đầu tiên
tại vườn Lộc Uyển, Isipatana, gần Benares (Ba La Nại). Lúc
ấy ở đây chưa có nhà cửa hay tu viện. Trong Hạ này, Ngài
cảm hóa Yasa. Hạ Thứ Nhì, Thứ Ba Và Thứ Tư - tại Rajagaha.
Rajagaha (Vương Xá Thành) là kinh đô của Vương Quốc
Magadha (Ma Kiệt Đà), dưới triều Vua Bimbisara (Bình Sa Vương).
Do lời thỉnh cầu của vua trước ngày Bồ Tát Thành Đạo,
Đức Phật trở lại viếng thành Rajagaha, và trong dịp này
Vua Bimbisara dâng lên Đức Phật và chư đệ tử Ngài khu
Rừng Tre, Veluvana (Trúc Lâm). Nơi đây vắng vẻ, thật là
chỗ trú ngụ lý tưởng của hàng tu sĩ vì không quá xa cũng
không quá gần đô thị. Đức Phật nhập Hạ ba năm liên
tiếp tại nơi này. Hạ Thứ Năm - tại Vesali. Mùa Hạ này Đức Phật ngự trong một tịnh thất tại
Mahavana (Đại Lâm) gần thành Vesali (Vệ Xá). Ở đây, được
tin Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) lâm bệnh trầm trọng,
Ngài đi lần về đến tận phòng, thuyết Pháp cho cha nghe.
Đức vua tức khắc đắc Quả A La Hán, nhập Diệt Thọ Tưởng
Định (đại định) trong bảy ngày và viên tịch luôn. Cũng trong Hạ này Đức Phật cho phép sáng lập Giáo
Hội Tỳ Khưu Ni, theo lời thỉnh nguyện của Bà Maha
Pajapati Gotami. Sau khi cử hành lễ hỏa táng đức vua xong, Bà Maha
Pajapati Gotami đến hầu Phật, lúc ấy đang tạm ngự tại
Nigrodharama, và xin phép cho hàng phụ nữ được gia nhập vào
Giáo Hội. Nhưng Đức Phật từ chối và trở về tịnh
thất tại thành Vesali. Bà Pajapati Gotami muốn xuất gia đến
đỗi, cùng với các mệnh phụ phu nhân dòng Sakya (Thích
Ca) và dòng Koliya, đi bộ từ Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) đến
Vesali, và nhờ sự hỗ trợ của Đức Ananda, được phép
xuất gia và thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Hạ Thứ Sáu - tại đồi Mankula, trong Kosambi, gần
Allahabad.
Cũng như trước kia Ngài dùng "Đôi Phép Lạ" -
Yamaka Patihariya [1] (làm cho lửa và nước từ lỗ chân lông
phun ra) để chế ngự tính ngã mạn của thân bằng quyến
thuộc tại quê nhà, nơi đây Ngài dùng lại phép ấy lần
thứ nhì để thâu phục những người khác đạo. Hạ Thứ Bảy - tại cung Trời Tavatimsa (Đạo Lợi). Vài ngày sau khi hạ sanh Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta)
thì Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da) thăng hà và tái sanh vào cung
Trời Tusita (Đấu Xuất Đà). Trong Hạ thứ bảy Đức
Phật thuyết Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) cho chư Thiên ở cung
Trời Đạo Lợi, và vị Trời trước kia là Hoàng Hậu Ma
Da, từ Đấu Xuất Đà đến Đạo Lợi nghe Pháp. Mỗi ngày Đức Phật trở về quả địa cầu, tóm tắt
bài Pháp để cho Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) giảng
rộng giáo lý ấy cho hàng đệ tử. Tạng Vi Diệu Pháp còn
lưu truyền đến nay là bài Pháp đầy đủ chi tiết do Đại
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) truyền dạy. Kinh sách ghi
rằng sau khi nghe xong những thời Pháp này, vị Trời trước
kia là mẹ của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) đắc Quả
Tu Đà Hườn. Hạ Thứ Tám - tại rừng Bhesakala, gần tảng đá
Sumsumara, trong quận Bhagga. Hạ Thứ Chín - tại Kosambi. Trong Hạ này có bà
Magandiya tự tạo cho mình một mối hận thù sâu sắc đối
với Đức Phật và tìm mọi cơ hội để bêu xấu thanh
danh của Ngài. Magandiya là một thiếu nữ xinh đẹp sanh trưởng
trong một gia đình thuộc giai cấp Bà la môn. Cha mẹ nàng
kén rể, muốn chỉ gả nàng cho người thật xứng đáng.
Ngày kia, lúc quan sát thế gian, Đức Phật nhận thấy
hai ông bà đã hội đủ duyên lành, tinh thần phát triển
đầy đủ. Vì lòng từ bi muốn tế độ hai ông bà nên Đức
Phật ngự đến nơi, lúc ông đang cúng tế Thần Lửa.
Vị Bà la môn lấy làm say mê trước hình dáng tốt đẹp
của Đức Phật và nghĩ thầm rằng đây quả thật xứng
đáng là rể đông sàng mà ông hết lòng mong mỏi từ lâu.
Ông liền thỉnh Đức Phật ở nán lại chờ ông đi một
chút sẽ trở lại và vội vã chạy kêu con gái. Lúc ấy
Đức Phật cố ý giậm dấu chân trên mặt đất rồi đi
sang một chỗ khác gần đó. Khi người bà la môn dẫn vợ
và cô con gái ăn mặc đẹp đẽ đến nơi thì chỉ nhìn
thấy dấu chân. Bà vợ giỏi về khoa tướng số, biết
rằng dấu chân này không phải của người tầm thường mà
phải là của người rất trong sạch, đã tận diệt mọi
dục vọng. Ông Bà la môn chế nhạo vợ và nhìn thấy Đức
Phật cách đó không xa, ông dẫn con đến, đề nghị gả
cho Ngài. Đức Phật mô tả cách Ngài chế ngự dục vọng
như sau: "Đã nhận thấy Ái Dục, Bất Mãn và Tham Vọng
[2]
Nghe đến đây, hai ông bà Bà la môn chứng ngộ Đạo
Quả A Na Hàm, tầng thánh thứ ba. Nhưng cô Magandhiya không
hiểu, ngỡ rằng như thế là chửi mắng, làm nhục cô, nên
lấy làm tức giận. Bị chạm tự ái, cô nghĩ: "Nếu
người này không cần đến ta thì cứ nói thật, và như
vậy là hoàn toàn thích đáng. Tại sao ông ta lại tuyên
bố rằng cơ thể này đầy ô trược? Hay lắm! Ông ta sẽ
thấy, do sự sanh trưởng trong giai cấp Bà la môn, do gia
tộc, do địa vị xã hội, tài sản và duyên dáng trẻ son
của ta, ta sẽ có một người chồng xứng đáng và chừng
đó ta sẽ biết làm những gì phải làm đối với Sa Môn
Gotama (Cồ Đàm)." Về sau bà trở nên thứ hậu của Vua Udena. Dựa trên
quyền thế lúc bấy giờ, bà đút lót và xúi giục người
mắng chửi và xua đuổi Đức Phật ra khỏi thành phố.
Khi Đức Phật vào thành, những người ấy hô to ngay đến
Ngài: "Ông là tên trộm, là tên khờ dại, là người điên
cuồng, là con lạc đà, là bò, là lừa, là chúng sanh ở
địa ngục, là thú vật. Ông không mong gì được lên nhàn
cảnh. Hình phạt và khổ cảnh là tất cả những gì ông
có thể mong đợi." Đại Đức Ananda không thể chịu đựng những lời
nguyền rủa tục tằn như vậy, đến hầu Phật và bạch: "Bạch Đức Thế Tôn, người ta đang chửi rủa và
nhục mạ chúng ta thậm tệ. Xin Ngài cho dời đi nơi khác." - Này Ananda, bây giờ ta nên đi đâu? - Bạch Đức Thế Tôn, đến một thị trấn khác. - Nếu ở nơi ấy người ta cũng chửi rủa và nhục
mạ ta như vậy rồi ta sẽ đi đâu? - Bạch Đức Thế Tôn, lại đi đến một nơi khác
nữa. - Này Ananda, không nên nói vậy. Nơi nào gặp chuyện khó
khăn, chính nơi ấy ta phải giàn xếp ổn thỏa. Và chỉ
khi giàn xếp xong ta mới có quyền đi nơi khác. Nhưng này
Ananda, ai chửi rủa nhục mạ ta? - Bạch Đức Thế Tôn, ai cũng chửi rủa ta. Những người
cùng đinh nô lệ và tất cả mọi người. Đức Phật nhân cơ hội dạy Đại Đức Ananda hành pháp
nhẫn nhục như sau: "1. Như voi chiến ở trận địa, hứng lãnh làn tên
mũi đạn từ bốn phía dồn dập bắn tới, dường thế
ấy, ta phải chịu đựng những lời nguyền rủa chửi
mắng từ mọi nơi. Đúng thật vậy, phần đông sống không
giới đức. 2. Nhiều voi ngựa được dẫn đến chỗ vua quan tụ
tập. Giữa đám đông voi ngựa ấy, vua chọn con nào
thuần thục nhất để cưỡi. Giữa đám đông con người,
cao thượng nhất là người có giới đức thuần thục,
chịu đựng những lời nguyền rủa. 3. Quý báu thay! Những con lừa thuần thục, những con
ngựa rặc giống của xứ Sindh và những thớt tượng sang
trọng có ngà. Những con người thuần thục, giới đức
trang nghiêm là hơn tất cả." [4] Và Đức Phật dạy thêm Đức Ananda: "Không nên lo ngại, những người này chỉ chửi
mắng trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám họ sẽ lặng yên.
Một chuyện khó khăn xảy đến Đức Phật không thể kéo
dài quá bảy ngày." [5] Hạ Thứ Mười - tại rừng Parileyyaka. Trong lúc Đức Phật ngự tại Kosambi, một vụ tranh
luận xảy ra giữa hai nhóm tỳ khưu - một nhóm giỏi về
Kinh và một nhóm giỏi về Luật - vì có một vị phạm
nhằm một giới nhỏ có liên quan đến cách thức sử
dụng phòng vệ sinh. Những người ủng hộ cũng chia làm
hai phe. Đức Phật bổn thân đứng ra giàn xếp cũng không
xong. Hai bên đều tỏ ra có tánh gây gỗ, và niềm bất hòa
ngấm ngầm tiếp diễn. Đức Phật suy nghĩ: "Trong tình trạng hiện tại, đám đông người này
cố tâm muốn lấn áp nhau, khiến cho những ngày an cư
kiết hạ của ta trở nên bất ổn. Hơn nữa chúng Tăng
ở đây không để ý đến lời dạy của ta. Hay là ta
rời khỏi đám đông để ẩn dật trong rừng sâu". Liền đó, không cho chư Tăng biết, Ngài một mình ra đi,
đến khu rừng Parileyyaka, và nhập Hạ dưới gốc một cây
sala (long thọ) tươi đẹp. Theo tích chuyện được kể lại, trong thời gian này có
một con voi và một con khỉ theo hầu cận và lo lắng mọi
nhu cầu cho Đức Phật. [6] Hạ Thứ Mười Một - tại Ekanala, một làng theo đạo Bà
La Môn.
Bài kinh Kasibharadvaja Sutta [7] thuật lại như sau: Một thời kia Đức Phật ngự tại Ekanala trong
Dakkhinagiri, một làng theo Bà La Môn Giáo của xứ Magadha. Lúc
ấy lối năm trăm tay cày làm việc cho ông Bà la môn
Kasibharadvaja sắp sửa ra đồng. Đức Phật đắp y mang bát
đến nơi người ta đang phân phối vật thực và đứng
sang một bên. Vị Bà la môn Kasibharadvaja thấy vậy nói:
"Này Tôn Giả, tôi cày và gieo. Sau khi cày và gieo, tôi
ăn. Ông cũng vậy, này Tôn giả, ông cũng phải cày và
gieo, sau khi đã cày và gieo, ông sẽ ăn." - Này Ông Bà La Môn, Như Lai cũng cày và gieo vậy. Đã cày
và gieo xong, Như Lai ăn. - Nhưng nào tôi có thấy đâu cái cày, cái ách hay cái lưỡi
cày, cũng không thấy bò hay cây roi bò của Tôn Giả Gotama
(Cồ Đàm), mặc dầu Tôn Giả nói: "Như Lai cũng cày và
gieo. Đã cày và gieo xong, Như Lai ăn". Tôn Giả tự xưng là nông dân, nhưng chúng tôi có thấy
đâu lằn cày của Tôn Giả. Vậy xin Tôn Giả cho chúng tôi
biết ông cày ở đâu? Đức Phật trả lời: "Đức tin (saddha) là hột giống, giới luật (tapo) là
mưa, trí tuệ (panna) là ách cày và cây cày, hạnh khiêm
tốn (hiri) là cán cày, tâm (mano) là dây cương, và niệm
(sati) là lưỡi cày và roi bò. "Như Lai sống với lục căn thu thúc, nói năng và
ẩm thực tiết độ. Như Lai đã dùng hạnh chân thật để
cắt đứt những cọng cỏ dại. Thành đạt Đạo Quả
Tối Thượng (A La Hán) là mở dây thả bò. "Tinh tấn (viriya) là loài thú chở nặng đã đưa Như
Lai đến trạng thái không bị trói buộc (Niết Bàn). "Trực chỉ thẳng tiến, bất thối chuyển và đã
đi, không còn sầu muộn. "Đó, lằn cày của Như Lai được thực hiện như
thế đó. Hậu quả của nó là trạng thái Bất Tử. "Đã kéo xong lằn cày thì không còn phiền muộn âu
sầu nữa." Nghe xong, vị Bà La Môn Kasibharadvaja bới đầy một chén
cơm trộn sữa, dâng đến Đức Phật và nói: "Vậy
xin Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm) độ chén cơm trộn sữa này!
Tôn Giả quả thật là một nông dân vì Ngài đã trồng
một loại cây trổ trái 'Bất Tử'." Tuy nhiên, Đức Phật từ chối không nhận chén cơm. Ngài
dạy: "Vật thực nhận lãnh do sự thuyết giảng giáo lý
là không thích nghi để Như Lai dùng. Này Ông Bà La Môn, đó
là thông lệ của Bậc Đại Giác. Đấng Chánh Biến Tri không
thể dùng vật thực ấy. Khi nào truyền thống này còn
được giữ gìn thì đó là chánh mạng. "Chỉ dùng những vật thực và ẩm thực hoàn toàn
trong sạch bởi vì bậc thánh nhân tĩnh lặng là thửa
ruộng phì nhiêu để cho những ai muốn, có thể gieo
trồng hột giống tốt." Hạ Thứ Mười Hai - tại Veranja. Một vị Bà la môn ở Veranja nghe Đức Phật ngụ tại
quê mình cùng với đông đảo chúng Tăng, gần cây Nimba
của Naleru nên đến hầu Ngài và nêu lên nhiều câu hỏi
có liên quan đến phẩm hạnh của Đức Phật. Sau khi được
nghe lời giải đáp, vị Bà la môn lấy làm hoan hỷ, xin
quy y Tam Bảo và cung thỉnh Đức Phật và chư Tăng ở
lại nhập Hạ tại Veranja. Đức Thế Tôn nhận lời bằng
cách giữ im lặng. Bất hạnh thay, ngay lúc ấy tại Veranja có nạn đói. Do
đó Đức Phật và chư Tăng phải dùng thức ăn của
ngựa. Một người lái ngựa có lòng tốt dâng thức ăn
của ngựa còn lại và Đức Phật chia sớt phần vật
thực ấy một cách hoàn toàn bình thản. Trong khoảng thời gian ấy, Ngài Xá Lợi Phất, một hôm,
sau khi xuất thiền, đến hầu Phật và cung kính bạch:
"Bạch hóa Đức Thế Tôn, Giáo Pháp của vị Phật nào
tồn tại lâu dài và Giáo Pháp nào không tồn tại?"
Đức Phật trả lời rằng Giáo Pháp của chư Phật
Vipassi, Sikhi và Vessabhu không tồn tại lâu dài còn Giáo Pháp
của chư Phật Kakusandha, Konagamana và Kassapa tồn tại lâu
dài. [8] Đức Phật dạy rằng sự kiện này do một vài vị
Phật không giảng dạy cặn kẽ giáo lý và không ban hành
giới luật để giữ hàng môn đệ trong nếp sống kỷ cương
và có những vị Phật đã làm đầy đủ các điều ấy. Nhân đó Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) cung kính xin Đức
Phật ban hành những giới căn bản (Patimokkha, giới bổn)
để trong tương lai có thể giữ chư Tăng trong nếp sống
kỷ cương, và đời sống Thiêng Liêng Phạm Hạnh được
tồn tại lâu dài. - Hãy nhẫn nại, Sariputta(Xá Lợi Phất), hãy nhẫn
nại. Và Đức Phật dạy thêm: "Chỉ có Như Lai biết chừng nào là đúng lúc. Cho
đến khi có một vài trường hợp hoen ố phát sanh trong hàng
Tăng chúng Như Lai không ban hành những "Phương Tiện
Kỷ Luật" và đặt ra "Giới Luật Căn bản"
(Patimokkha) cho hàng môn đệ. Chừng nào có trường hợp
hoen ố xảy diễn trong hàng Tăng chúng, chỉ đến chừng
ấy Như Lai mới ban hành những "Phương Tiện Kỷ
Luật" và đặt ra "Giới luật Căn Bản" để
tận diệt các ô nhiễm ấy. "Này Sariputta (Xá Lợi Phất), chừng nào chúng Tăng
đạt đến mức cao thượng lâu dài (rattannu-mahattam), phát
triển đầy đủ (vepulla-mahattam), tăng trưởng lợi ích
(labhagga-mahattam), và pháp học uyên bác (bahussuta-mahattam)
thì trường hợp hoen ố sẽ phát sinh trong Tăng chúng. Đến
chừng ấy Như Lai sẽ ban hành những Phương Tiện Kỷ
Luật và Giới Luật Căn Bản để ngăn ngừa những điều
ô nhiễm ấy. "Này Sariputta (Xá Lợi Phất), hiện nay Giáo Hội các
đệ tử không có điều gì bất ổn, không có những
khuynh hướng xấu xa, không ô nhiễm, trong sạch và giới
hạnh trang nghiêm. Người cuối cùng trong năm trăm đệ
tử cũng đã Nhập Lưu, không còn phải bị rơi lại nữa,
đã vững chắc và đang tiến đến giác ngộ." [9] (Mùa nhập Hạ tại Veranja là đầu đề cho "Lời
Giới Thiệu" quyển Parajika trong tạng Luật). Khi ra Hạ này Đức Phật tiếp tục du phương hoằng đạo
đến Soreyya, Samkassa, Kannakujja, Payaga, và qua sông, ghé
lại ít lâu tại Bénares và từ đó trở về Vesali ngự
tại đồi Tháp trong Mahavana (Đại Lâm). Hạ Thứ Mười Ba - tại tảng đá Caliya. Hạ Thứ Mười Bốn - tại Jetavana, kỳ Viên, Savatthi.
Đại Đức Rahula (La Hầu La) thọ Cụ Túc Giới năm này
khi Ngài đúng hai mươi tuổi. Hạ Thứ Mười Lăm - tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Cái chết thê thảm của Vua Suppabuddha (Thiện Giác) xảy
ra trong Hạ này. Vua oán giận Đức Phật vì Ngài ra đi,
bỏ con gái vua là Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La). Cũng nên ghi nhận rằng Đức Phật chỉ nhập Hạ một
năm nơi chôn nhau cắt rún của Ngài. Hạ Thứ Mười Sáu - tại thành Avali.
Trong Hạ này Đức Phật thâu phục quỷ Alavaka (Dạ
Xoa), có tiếng là thường ăn thịt người. Alavaka là một con quỷ hung tợn, lấy làm tức giận khi
thấy Đức Phật ở trong nhà của nó. Quỷ Alavaka liền đến
trước mặt Đức Phật và bảo Ngài ra đi. Đức Phật nói:
"Được, tốt lắm", và đi ra. Alavaka lại biểu đi
vào. Đức Phật trở vô. Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba,
nó lại biểu như vậy. Đức Phật tuân lời. Nhưng đến
lần thứ tư, Ngài từ chối và bảo Alavaka muốn làm gì
thì cứ làm. -- Được, này ông Sa Môn, tôi hỏi ông một câu, nếu
ông không giải đáp được, tôi sẽ phân tán tâm ông,
hoặc cắt xẻ tim ông, hoặc nắm chân ông quăng tuốt qua
phía bên kia sông Hằng. - Không thể được, trên thế gian này Như Lai không
thấy ai, dầu là chư Thiên, sa môn, bà la môn hay trong đám
đông Trời và người, không ai có thể phân tán tâm Như
Lai, hoặc cắt xẻ tim Như Lai, hoặc nắm chân Như Lai cố
quăng qua phía bên kia sông Hằng. Tuy nhiên, Đạo Hữu
muốn hỏi việc gì cứ hỏi. Alavaka liền nêu lên câu hỏi sau đây: "Vật sở hữu quý nhất của con người là gì? Đức Phật trả lời: "Đức tin là vật sở hữu quý nhất của con người. Alavaka lại hỏi tiếp: "Làm cách nào vượt qua trận thủy tai? Đức Thế Tôn trả lời: "Vượt qua trận thủy tai nhờ niềm tin. Alavaka lại hỏi thêm: "Thành đạt trí tuệ bằng cách nào? Đức Phật đáp: "Người kiên trì, sáng suốt có niềm tin, thành đạt
trí tuệ bằng cách lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đại Giác,
có khả năng dẫn đến Niết Bàn. Người làm công việc thích nghi một cách kiên trì,
cần mẫn, sẽ tìm được sự nghiệp. Nhờ hạnh chân thật, thành đạt danh vọng. Đức quảng đại khoan dung làm cho tình bằng hữu trở
nên khắng khít. Người cư sĩ thành thật, có được bốn phẩm hạnh:
chân thật, giới đức, can đảm và rộng rãi bố thí,
sẽ không buồn phiền sầu muộn sau khi qua đời. Được rồi, Đạo Hữu hãy đi hỏi các vị sa môn và bà
la môn khác xem họ có gì quý báu, cao thượng hơn chân
thật, tự kiểm soát, quảng đại và nhẫn nại không?" Alavaka đã am hiểu những lời Phật dạy nên bạch: "Đã thấu hiểu bí quyết để mưu cầu an lạc
trong tương lai, vậy tôi còn phải đi hỏi các vị sa môn
và bà la môn khác làm gì? Đức Thế Tôn hôm nay quang lâm
đến Alavi chính vì sự an lành của tôi. Tôi đã thấu
hiểu rằng của bố thí sẽ đem lại quả lành phong phú.
Từ làng này sang làng khác, từ đô thị này đến thị
trấn kia, tôi sẽ thênh thang đó đây để tán dương công
đức của bậc Chánh Biến Tri và tánh cách toàn thiện
của Giáo Pháp Cao Thượng." Hạ Thứ Mười Bảy - tại Rajagaha. Hạ Thứ Mười Tám - tại tảng đá Caliya. Hạ Thứ Mười Chín Và Hai Mươi - tại Rajagaha.
-oOo- Đức Phật và Angulimala
[11] Đức Phật thâu phục tên sát nhân hung tợn Angulimala
trong hạ thứ hai mươi. Lúc nhỏ ông này tên Ahimsaka (người
vô tội). Cha ông là quốc sư của vua xứ Kosala. Ông ăn
học ở Taxila, một trung tâm giáo dục trứ danh thời xưa,
và trở thành vị đệ tử lỗi lạc và thân tín nhất
của một ông thầy rất danh tiếng. Bất hạnh thay, vì
thế mà bạn bè ông nảy sanh lòng ganh tị, bày điều gièm
xiểm và thành công đầu độc tư tưởng của thầy. Ông
này tin lời, lấy làm tức giận, và không kịp nghĩ suy
hay dò xét, mưu hại Ahimsaka bằng cách truyền lệnh cho ông
này phải đem đến một ngàn ngón tay người, ngón út ở
bàn tay mặt, dâng lên ông để làm lễ thọ giáo. Mặc
dầu không vui, Ahimsaka gượng gạo vâng lời thầy, đi vào
rừng Jalini, tại Kosala, và bắt đầu chuỗi dài những
cuộc sát nhân ghê tởm, để chặt lấy ngón tay. Ban đầu
ông xỏ xâu các ngón tay lại, treo lên cành cây. Nhưng vì
kên kên và quạ đến ăn nên ông đeo trên cổ như một tràng
hoa làm bằng ngón tay người, giữ cho khỏi bị mất và để
dành cho đủ số cần thiết. Do đó có tên
"Angulimala", có nghĩa là "tràng hoa kết bằng
ngón tay". Kinh sách [12] ghi rằng khi ông để dành được chín trăm
chín mươi chín ngón thì Đức Phật xuất hiện. Nhìn
thấy Đức Phật, Angulimala mừng lắm, nghĩ rằng đây là
cơ hội để ông hoàn tất sứ mạng. Ông liền rảo bước thẳng tới Đức Phật, tay rút gươm
ra khỏi vỏ. Đức Phật dùng thần thông tạo những trở ngại làm
cho Angulimala chạy theo không kịp, dầu cố hết sức rượt
bắt. Mệt mỏi hết sức, mồ hôi nhễ nhại, ông dừng chân
lại và cất tiếng gọi: "Hãy dừng lại, ông sa môn". Đức Thế Tôn từ tốn đáp: "Mặc dầu Như Lai đi, Như Lai đã dừng bước. Còn
con, Angulimala, hãy dừng bước." Tên sát nhân suy nghĩ: "Các vị sa môn này luôn luôn
nói thật. Vị này nói rằng ông ta đã dừng bước, còn
ta thì không dừng. Thế là nghĩa làm sao?" Angulimala liền hỏi thêm: "Này Ông Sa Môn. Ông còn
đi, chính tôi đã dừng. Ông lại nói rằng tôi không
dừng còn ông thì đã dừng. Xin hỏi, này Ông Sa Môn, lời
nói của ông có ý nghĩa gì?" Đức Phật dịu dàng đáp: "Đúng vậy, Angulimala, Như
Lai đã dừng bước, dừng luôn, mãi mãi. Như Lai đã từ
khước, dứt bỏ, không còn hành hung hay gây tổn thương
cho một sanh vật nào. Còn chính con không giữ lại bàn tay
đẫm máu, vẫn sát hại đồng loại. Vậy, Như Lai đã
dừng, còn con thì vẫn tiếp tục." Đến đây nghiệp tốt của Angulimala mau chóng trồi lên
mặt. Ông nghĩ rằng vị sa môn này chắc không phải ai khác
hơn là Đức Phật Gotama (Cồ Đàm), quang lâm đến đây vì
lòng bi mẫn, muốn tế độ mình. Nghĩ vậy, ông liền
vứt đi tất cả võ khí, rồi đến gần Đức Phật, đảnh
lễ Ngài và xin quy y. Về sau Đức Phật chấp nhận ông vào
Giáo Hội Tăng Già Cao Thượng bằng cách thốt ra lời:
"Ehi Bhikkhu!" "Hãy đến đây Tỳ Khưu!" Tin Angulimala xuất gia tỳ khưu với Đức Phật được
truyền rộng ra khắp xứ. Riêng Vua Kosala cảm thấy nhẹ
nhàng như thoát khỏi nạn, vì Angulimala quả thật là một
đại họa cho dân chúng trong xứ. Nhưng tâm của Tỳ khưu Angulimala vẫn không an tĩnh bởi
vì luôn luôn Ngài tưởng nhớ đến dĩ vãng tội lỗi
của mình và những tiếng kêu la than khóc của các nạn nhân.
Chí đến những lúc một mình hành thiền ở nơi vắng
vẻ cũng không quên được. Ngày kia, khi đi trì bình ngoài
đường, ngài bị người ta dùng gậy gộc đánh đập và
chọi đá vào mình, phải đi về chùa với đầu cổ đầy
thương tích, máu chảy dầm dề, mình mẩy chỗ bị bầm
dập, nơi bị cắt đứt, một cơ hội để Đức Phật
nhắc lại rằng đó là hậu quả bất thiện của những hành
vi hung bạo của ngài trong quá khứ. Ngày nọ, lúc đi bát, Tỳ Khưu Angulimala thấy một người
phụ nữ sắp lâm bồn đang gặp khó khăn, rên xiết bên
đường. Động lòng bi mẫn, Ngài đem câu chuyện đau thương
ấy bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên Ngài hãy
quày trở lại, đọc những lời xác nhận sau đây -
những câu này vẫn còn được lưu truyền đến nay dưới
tựa đề Angulimala Paritta: "Này Đạo Hữu, từ ngày được sanh vào Thánh tộc
(nghĩa là từ ngày tôi xuất gia), tôi chưa hề cố ý tiêu
diệt đời sống của một sinh vật nào. Do lời chân
thật này, ước mong cô được vuông tròn và con của cô bình
an vô sự." Ngài Angulimala học thuộc lòng bài kinh, rồi đi đến nơi,
ngồi cách người phụ nữ một bức màn, đọc lại. Người
mẹ đau khổ liền sanh được dễ dàng. Đến nay bài kinh
Paritta [13] này vẫn còn công hiệu. Về sau, vào đúng thời kỳ, Đại Đức Angulimala đắc
Quả A La Hán. Khi nhắc đến đường lối Đức Phật cảm
hóa Ngài, Đại Đức Angulimala nói: "Có những sanh vật bị khắc phục bằng võ lực, -oOo- Trong hai mươi lăm năm còn lại, Đức Phật sống phần lớn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá) do trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) kiến tạo và phần khác tại Pubbarama do bà Visakha dâng. Chú thích: [1] Xem Chương 8. [2] Tanha (Ái Dục), Arati (Bất Mãn) và Raga (Tham Vọng) là ba người con gái của Ma Vương. [3] Buddhist Legends, phần i, trang 274. [4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 320, 321, 322. [5] Xem Buddhist Legends, tập i, tr. 176. [6] Dhammapadatthakatha, bản Chú giải Kinh Pháp Cú, Kosambaka Vatthu. [7] Sutta Nipata, trang 12. [8] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, bài kinh Suttavibhanga (Parajika) tr. 1-11, Miss I. B. Horner, Book of The Discipline, phần 1, trang 1-23. [9] Đức Phật muốn ám chỉ Đại Đức Ananda. [10] Xem Kindred Sayings, phần I, trang 276-277. [11] Psalms of the Brethren, trang 318-325. Xem Angulimala Sutta, Majjhima Nikaya, kinh 86, tập 2, trang 97. [12] Psalms of the Brethren, trang 320-321. [13] Kinh Bảo vệ. [14] Psalms of the Brethren, trang 328.
|
[Chương trước][Mục lục][Chương kế] |
[^] |
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |