Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Con Đường Niết Bàn (III)
Tuệ Minh Sát (Vipassana)
Khi
đã tạm thời chế ngự các pháp Triền Cái (Nivarana) tức
năm chướng ngại tinh thần, tâm hành giả trở nên trong
sạch như mặt kiếng được lau chùi bóng loáng, phản
chiếu mọi sự vật một cách rõ ràng, đúng với sự
thật. Tuy nhiên, tâm định chỉ tạm thời đè nén những
tư tưởng bất thiện mà không tận diệt. Các tâm bất
thiện này có thể trồi lên mặt và tái phát một cách
bất ngờ, bất cứ lúc nào.
Giới luật điều hoà hành động và lời nói. Định
kiểm soát tâm. Nhưng chính Tuệ (Panna), giai đoạn cuối cùng,
giúp người có nguyện vọng từ phàm trở nên thánh tận
diệt mọi ô nhiễm mà tâm định tạm thời chế ngự. Hành giả bắt đầu phát triển quan kiến trong sạch
(ditthi-visuddhi, kiến tịnh) [2] để nhận thấy chân tướng
của vạn pháp. Với tâm an trụ vào một điểm, hành giả
phân tách và quan sát cái gọi là chúng sanh. Sự dò xét và
quan sát này cho thấy rằng cái được gọi là
"Ta", cá thể, hay tự ngã, chỉ là sự cấu thành
phức tạp của tâm và cơ thể vật chất, danh và sắc.
Cả hai đều ở trạng thái luôn luôn biến đổi, luôn luôn
trôi chảy, như một dòng suối trường lưu bất tức. Khi đã có được quan kiến chân chánh về bản chất
thực sự của cái gọi là chúng sanh và hoàn toàn dứt khoát
với mọi ảo tưởng về một linh hồn trường cửu, hành
giả cố tìm những nguyên nhân sanh ra cái "Ta" và
nhận định rằng thế gian này không có sự tự nhiên phát
sanh mà không tùy thuộc ở một, hay nhiều điều kiện,
trong hiện tại, hay trong quá khứ. Vạn pháp đều do duyên
sanh. Hành giả nhận định rằng kiếp sống của mình có
đây là do vô minh (avijja), ái dục (tanha), thủ (upadana), và
nghiệp (kamma), của kiếp quá khứ, và vật thực (oja)
trong kiếp sống hiện tại. Do năm nguyên nhân ấy, cái
gọi là chúng sanh được cấu tạo. Nguyên nhân quá khứ
tạo điều kiện cho hiện tại, và cùng thế ấy, hiện
tại tạo điều kiện cho tương lai. Chú tâm suy niệm như
thế ấy hành giả vượt lên mọi hoài nghi về quá khứ,
hiện tại và tương lai. [3] Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng tất cả các vật
cấu tạo, hay các pháp hữu, vi đều vô thường (anicca),
phải chịu đau khổ (dukkha), và không có một linh hồn trường
cửu phải bất diệt (anatta). Hướng tầm mắt vào bất
luận nơi nào, hành giả chỉ nhìn thấy ba đặc tướng
ấy phát rộ rành mạch, rõ ràng, không thể lầm lẫn. Bây
giờ hành giả nhận thức rằng kiếp sống chỉ là một
sự trôi chảy, một di động liên tục, không gián đoạn.
Dù ở các cảnh Trời hay trên quả địa cầu, hành giả
không tìm được nơi nào có hạnh phúc thật sự, bởi vì
mỗi hình thức khoái lạc chỉ là bước đầu, mở đường
đến đau khổ. Do đó, cái gì vô thường tất nhiên phải
chịu đau khổ, và nơi nào đau khổ và biến đổi chiếm
ưu thế thì không thể có một tự ngã trường tồn vĩnh
cửu. Khi cố tâm chuyên chú hành thiền như thế ấy, sẽ có
một ngày kia, trước sự ngạc nhiên của chính mình, hành
giả chứng kiến một ánh hào quang (obhasa) phát tủa ra
từ thân mình. lúc ấy hành giả thọ cảm trạng thái
thoả thích, hạnh phúc và vắng lặng, trước kia chưa
từng bao giờ được biết. Hành giả càng củng cố tâm
định và tinh tấn thêm. Tâm đạo nhiệt thành càng tăng
trưởng, tâm niệm toàn hảo, và Tuệ Minh Soát càng trở nên
sâu sắc một cách lạ thường. Lầm tưởng mức tiến bộ khá cao ấy là Đạo Quả Thánh,
nhất là vì thấy có hào quang, hành giả phát triển tâm
ưa thích trạng thái tinh thần ấy. Nhưng sớm nhận thấy
rằng những hiện tượng mới ấy chỉ làm trở ngại cho
những tiến bộ tinh thần mới ấy, hành giả trau giồi và
phát triển "trạng thái trong sạch của sự hiểu
biết" liên quan đến "Con Đường và Không-Phải-Con-Đường".
[4] Đã nhận thức con đường chân chánh, hành giả gom tâm
quán tưởng vào sự phát sanh (udaya nana, tuệ sanh) và sự
hoại diệt (vaya nana, tuệ diệt) của tất cả các pháp
hữu vi. Trong hai trạng thái sanh và diệt, sự hoại diệt
nổi bật chiếm ưu thế hơn, nên dần dần gây ấn tượng
mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự thay đổi được
nhận thấy dĩ nhiên và rõ ràng hơn sự trở thành. Do đó,
hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phân tán
của sự vật (bhanga nana, tuệ diệt) và nhận định rằng
cả hai, danh và sắc, hai thành phần cấu tạo cá nhân mình
luôn luôn ở trong trạng thái đổi thay, trôi chảy, không
thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp.
Bây giờ, phát sanh đến hành giả sự hiểu biết rằng
tất cả những gì bị phân tán đều là đáng sợ (bhaya
nana, tuệ kinh hãi). Toàn thể thế gian phát hiện trước
mắt hành giả như một đống củi đang phừng cháy, một
nguồn hiểm họa. Kế đó là hành giả suy tưởng về tánh
chất rách nát, đổ vỡ và tạm bợ nhất thời (adinava
nana, tuệ hiểm nguy) của thế gian đáng kinh sợ này và có
cảm giác nhàm chán nó (nibbida nana, tuệ chán nản) và
nảy sanh ra ý muốn tẩu thoát ra khỏi đó (muncitukamyata
nana, tuệ muốn giải thoát). Hướng về đối tượng ấy, hành giả chú tâm niệm
trở lại vào ba đặc tánh vô thường, khổ, vô ngã
(patisankha nana, tuệ suy tư) và sau đó phát triển tâm xả
chọn vẹn, hoàn toàn thản nhiên đối với tất cả các
pháp hữu vi - không luyến ái cũng không ghét bỏ, hay bất
toại nguyện - đối với bất luận sự việc gì trên
thế gian (sankharupekkha nana, tuệ xả hành). Chín loại tuệ giác ấy: udaya, vaya, bhanga, bhaya, adinava,
nibbida, muncitukamyata, patisamkha, và upekkha-nanas có tên chung
là "patipada nana dassana visuddhi", trạng thái trong
sạch của sự hiểu biết và trông thấy có liên quan đến
Con Đường hay pháp hành, Đạo Tri Kiến Tịnh, giai đoạn
thứ sáu của Con Đường Trong Sạch (Thanh Tịnh Đạo). Khi đạt đến mức độ tinh thần này, hành giả chọn
một trong ba loại đặc tướng, vô thường, khổ, vô ngã,
cái nào thích hợp nhất với mình và gia công khai triển
tuệ giác theo chiều hướng ấy cho đến ngày vẻ vang tươi
sáng mà hành giả thành tựu mục tiêu cuối cùng - Đạo
Quả Niết Bàn. [5] "Cũng như người đi trong đêm tối nhờ trời
chớp, nhìn thấy quang cảnh quanh mình rồi giữ lại hình
ảnh ấy trước mắt một lúc lâu. Cũng thế ấy, do cái
chớp bật sáng lên của tuệ giác, hành giả nhoáng chứng
ngộ Niết Bàn một cách rõ ràng và hình ảnh ấy lưu
lại trong tâm, không còn phai mờ nữa." [6] Người đã thành tựu Niết Bàn lần đầu tiên được
gọi là Tu Đà Huờn (Sotapanana, Nhập Lưu), có nghĩa là người
bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn lần đầu tiên. Dòng suối là Bát Chánh Đạo. 1) Vị Tu Đà Huờn (Sotapanna) không còn là
người phàm tại thế (puthujjana) nữa. Ngài đã là bậc Thánh
Nhân (Ariya). Khi bước vào dòng suối, vị Tu Đà Huờn đã tận
diệt ba Thằng Thúc (Samyojana), tức là ba trong mười dây
trói buộc cột chúng sanh vào cuộc phiêu lưu vô tận, sanh
tử triền miên trong vòng luân hồi. Ba dây trói buộc ấy
là: a. Sakkaya-ditthi = sati + kaye + ditthi - Thân Kiến. Theo đúng nghĩa là quan kiến trong khi có một nhóm hay
một hợp tổ tồn tại. Ở đây, danh từ Kaya ám chỉ năm
uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tin rằng có một
thực thể không biến đổi, một linh hồn trường cửu,
trong khi đó chỉ là một sự cấu thành phức tạp của
những uẩn tâm-vật-lý, được gọi là Sakkaya-dithi. Kinh
Dhammasangani (trong Vi Diệu Pháp) kể ra hai mươi loại lý
thuyết khác nhau về linh hồn. Sakkaya-ditthi, thường được
phiên dịch là ảo kiến về cái ta, hay thân kiến, lý
thuyết về bản ngã hay ảo ảnh của bản ngã luận. b.. Vicikiccha - Hoài Nghi. Có sự hoài nghi
về: 1. Đức Phật, 2. Giáo Pháp, 3. Giáo Hội Tăng Già, 4.
Giới Luật, 5. Quá Khứ, 6. Vị Lai, 7. Cả Hai, Quá Khứ và
Vị Lai, và 8. Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada). c. Silabbataparamasa - Giới Cấm Thủ. Tin tưởng vào những nghi thức và lễ cúng (sai lầm).
Kinh Dhammasangani giải thích điểm này như sau: "Có giáo lý của những vị tu sĩ và những vị Bà
La Môn, ngoài giáo lý này (tức ngoài Phật Giáo), dạy
rằng có thể tự thanh lọc bằng cách giữ giới hay
bằng nghi thức cúng tế hay bằng cả hai, nghiêm trì
giới luật và theo đúng nghi thức cúng tế." Để tận diệt bảy Thằng Thúc còn lại, vị Tu Đà
Huờn còn phải tái sanh nhiều lắm là bảy lần. Niềm
tin nơi Đức Phật, Giáo Pháp và Giáo Hội Tăng Già của
các Ngài thật hoàn toàn vững chắc. Bất luận trong trường
hợp nào và không vì lý do gì, các Ngài còn vi phạm năm
giới căn bản. Các Ngài không còn tái sanh vào cảnh
khổ. 2) Từ đây hành giả, bây giờ là bậc thánh
nhân, đã nhoáng chứng Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm
gia công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn Tuệ Giác, thành
tựu Đạo Quả Tư Đà Hàm (Sakadagami), tầng
nhì trong bốn tầng thánh, bằng cách làm suy giảm hai
Thằng Thúc là tham dục hay lòng tham duyên theo Dục Giới
(kamaraga) và bất toại nguyện (patigha). Danh từ
"Sakadagami" có nghĩa là Nhứt Lai. Gọi vị Tư Đà
Hàm là Nhứt Lai vì Ngài còn tái sanh trong cảnh người
chỉ một lần nữa thôi, nếu trong kiếp hiện tiền Ngài
chưa đắc được Đạo Quả A La Hán. Nên ghi nhận rằng
vị Thánh Nhân đắc được tầng thứ nhì chỉ có thể làm
suy giảm sức trói buộc chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã
cột trói Ngài từ quá khứ vô tận. Đôi khi các Ngài cũng
còn phải bận rộn với một vài tư tưởng luyến ái và
sân hận, nhưng ở mức độ rất thấp. 3) Chí đến khi thành đạt tầng thánh
thứ ba, A Na Hàm (Anagami, Bất Lai), hành giả
mới trọn vẹn tận diệt hai Thằng Thúc ấy. Kể từ đó,
Ngài không còn tái sanh vào cảnh người hay các cảnh
trời Dục Giới nữa vì đã hoàn toàn tận diệt mọi ham
muốn thoả mản vật chất của Dục Giới. Sau khi viên tịch ở đây, Ngài tái sanh vào cảnh giới
Vô Phiên Thiên (Suddhavasa, cảnh giới hoàn toàn tinh
khiết), một cảnh giới thích hợp với các vị A Na Hàm.
Ngài sẽ chứng đắc Đạo Quả A La Hán và sống hết
tuổi thọ trong cảnh giới này. Một người cư sĩ Đắc
Quả A Na Hàm sẽ sống độc thân. 4) Bậc Thánh Nhân A Na Hàm cố gắn thành
tựu bước tiến cuối cùng để tận diệt năm Thằng Thúc
còn lại là: luyến ái những cảnh Sắc Giới (Ruparaga),
luyến ái những cảnh Vô Sắc Giới (Aruparaga), ngã mạn
(mana), phóng dật (uddhacca) và vô minh (avijja), và đắc Quả
A La Hán, mức đến cuối cùng. Những vị Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm được
gọi là Sekhas (ta thường dịch là "bậc hữu
học", trong ý nghĩa là những vị "còn phải học
thêm nữa"), bởi vì các Ngài còn cần phải tu luyện
thêm nữa mới đến mức tuyệt đỉnh. Chư vị A La Hán
được gọi là Asekhas (thông thường được gọi là
"bậc vô học") vì các Ngài không còn phải học hành
thêm. Một vị A La Hán (đúng theo căn nguyên của danh từ
Arahant, là bậc xứng đáng thọ lãnh vật cúng dường,
Ứng Cúng) không còn tái sanh nữa vì Ngài không còn tạo
nghiệp mới. Mầm giống tái tạo đã bị tận diệt. Vị A La Hán nhận thức rằng tất cả những điều
kiện phải làm đã làm xong, gánh nặng phiền não đã được
đặt xuống và tất cả những hình thức ái dục, tất
cả những mức độ vô minh đều hoàn toàn được tiêu
diệt, loại trừ. Vị hành giả hữu phước ấy bấy giờ
đã đến mức tột đỉnh, cao hơn tất cả các cảnh
Trời, hoàn toàn dứt bỏ mọi tham vọng và mọi ô nhiễm
của thế gian, và chứng nghiệm hạnh phúc vô cùng cao thượng
mà ngôn ngữ trần gian phàm tục không thể mô tả - hạnh
phúc Niết Bàn. Tuy nhiên, ngày nào còn mang cơ thể vật chất này, một
vị A La Hán vẫn còn phải chịu đau đớn về vật chất. Ta có thể ghi rằng các vị A Na Hàm hay A La Hán nào đã
phát triển Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới (Rupa và
Arupa Jhana), ngay trong kiếp sống này có thể chứng nghiệm
hạnh phúc Niết Bàn liên tục trong bảy ngày. Danh từ Pali
goị là Nirodha Samapatti - Diệt Thọ Tưởng Định hay Đại
Định [7]. Trong trạng thái này, vị Thánh Nhân hoàn toàn
không thọ cảm đau đớn gì hết và mọi sanh hoạt tinh
thần đều ngưng. Luồng tâm tạm thời ngừng trôi chảy. Về sự khác biệt giữa người nhập Nirodha Samapatti,
Diệt Thọ Tưởng Định, và người chết, sách Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhi Magga) dạy rằng: "Trong xác chết, chẳng những mọi năng lực của cơ
thể như hơi thở, tiếng nói, tâm đều ngưng động và yên
lặng, mà mọi sự sống cũng đều chấm dứt. Hơi nóng không
còn và giác quan cũng hết nhạy cảm. Trong khi ấy, bên
trong vị tỳ khưu nhập Diệt Thọ Tưởng Định, sự
sống, hơi nóng vẫn còn và giác quan vẫn sáng suốt mặc
dù hơi thở, sự quan sát và tri giác đều ngưng động và
yên lặng." [8] Thep Phật Giáo, trong ngôn ngữ ước định thông thường,
ta nói đó là hình thức hạnh phúc cao thượng nhất có
thể có được trong kiếp sống này. Tại sao, đã đắc Quả Niết Bàn,
một vị A La Hán còn tiếp tục sống trong kiếp người? Là bởi vì cái nghiệp lực tạo điều kiện cho Ngài tái
sanh trong kiếp sống hiện tiền chưa chấm dứt. Để lặp
lạilời của Schopenhauer, cũng giống như cái bánh xe mà
anh thợ lò gốm quay để uốn nắn món độ Khi nắn xong,
giở tay ra, bánh xe vẫn còn quay cho đến lúc hết trớn. Hoặc nữa, để ghi lại một hình ảnh mà kinh sách chúng
ta thường dùng, cũng như một cái nhánh mà ta chặt lìa
khỏi thân cây. Nhánh không còn trổ ra thêm lá tươi hay
hoa quả nữa, vì không còn tiếp nhận mủ từ trong thân cây,
nhưng lá và hoa đã sẵn có trên cành vẫn tồn tại thêm
một thời gian. Vị A La Hán tiếp tục sống cho đến hết kiếp sống
hiện tiền, nhưng không tạo nên nghiệp mới và không hề
quan tâm đến sự chết. Ngài sẽ nói như Đức Sariputta (Xá Lợi Phất): "Ta không quan ngại đến cái chết hay sự sống, Sau khi vị A La Hán nhập diệt
Như ngọn lửa trước gió có thể tắt mà ta không thể
ghi nhận xem ngọn lửa ấy đi về đâu, cùng thế ấy, Đức
Phật dạy, một vị A La Hán thoát ra khỏi danh-sắc, tâm và
vật chất, rồi mất, ta không thể ghi nhận Ngài đi đâu. Như vậy, vị A La Hán chỉ biến mất đi đâu hay quả
thật Ngài không còn nữa? Kinh Nipata dạy rằng người đã biến "mất" thì
không còn hình thể để cho ta nói rằng người ấy "còn'.
Khi tất cả những điều kiện đều chấm dứt thì tất
cả mọi vấn đề để chấm dứt như vậy. Kinh Udana giải thích điểm phức tạp này như sau: "Như những tia lửa nóng văng tủa tung ra khi anh
thợ rèn đập vào cục sắt đỏ. Từng đớm một phát
lên, tủa ra, rồi tắt. Về vấn đề này, bộ Majjhima Nikaya, Trung A Hàm cũng có
ghi lại giai thoại lý thú sau đây: [11] "Một vị đạo sĩ du phương hành khất tên
Vacchagotta đến yết kiến Đức Phật và hỏi: "Này Đạo
Sĩ Cồ Đàm, một vị tỳ khưu đã giải thoát sẽ tái
sanh đi đâu?" Lẽ dĩ nhiên vị đạo sĩ muốn ám chỉ
người đã đắc Quả A La Hán. "Này Vaccha, nói rằng người ấy tái sanh thì không
đúng. - Vậy người ấy không tái sanh? - Nói rằng người ấy không tái sanh thì không đúng. - Này Đạo sĩ Cồ Đàm, vậy người ấy vừa tái sanh
vừa không tái sanh? - Nói rằng người ấy vừa tái sanh vừa không tái sanh
là không đúng. - Vậy người ấy không tái sanh mà cũng không tái sanh? - Này Vaccha, nói người ấy không tái sanh mà cũng không
không tái sanh cũng không đúng." Trước những câu giải đáp thoáng nghe hình như không
vững ấy, Vaccha lấy làm bối rối và trong tâm trạng
mập mờ ấy, vị đạo sĩ du khất than: "Này Đạo sĩ Cồ Đàm, quả thật tôi hết biết gì
nữa vấn đề này, và thấy càng rối trí! "Đủ rồi, Vaccha, không nên rối trí và không biết
gì nữa. Này Vaccha, giáo lý này thật uyên thâm, bí hiểm,
và khó hiểu, tốt đẹp, thật tốt đẹp và không thể
thấu hiểu bằng cách luận lý suông, tế nhị và chỉ có
bậc thiện trí mới thấu đạt. Đây là một giáo lý mà
Vaccha khó lãnh hội vì Vaccha trưởng thành trong một giáo
phái khác, trong niềm tin khác, trong tín ngưỡng khác, trong
kỷ cương khác và ngồi dưới chân một đạo sư khác. "Do đó, hỡi Vaccha, Như Lai sẽ nêu lên đây những
câu hỏi và Vaccha hãy giải đáp theo ý mình. Này Vaccha,
nếu có lửa đang cháy trước mặt, Vaccha có ý thức
rằng lửa đang cháy trước mặt mình không? - Nếu lửa cháy trước mặt tôi, tôi sẽ ý thức được
rằng lửa đang cháy trước mặt tôi. - Nếu có người hỏi do đâu lửa cháy thì Vaccha giải
đáp thế nào? - Tôi sẽ đáp rằng do nhiên liệu, cỏ và cây khô mà
lửa cháy trước mặt tôi. - Nếu lửa trước mặt Vaccha tắt, Vaccha có ý thức
rằng lửa trước mặt Vaccha tắt không? - Nếu lửa trước mặt tôi tắt, tôi sẽ ý thức rằng
lửa trước mặt tôi tắt. - Nếu có người hỏi ngọn lửa tắt rồi đi về ngã nào?
Hướng Đông hay hướng Tây, Nam hay Bắc? Vaccha sẽ giải
đáp thế nào? - Câu hỏi đặt như thế không đúng, hỡi Sa Môn Cồ Đàm,
bởi vì lửa cháy do nhiên liệu, cỏ và cây khô. Khi nhiên
liệu hết, không còn nhiên liệu nữa, không còn gì nuôi
ngọn lửa nữa, ta nói rằng ngọn lửa tắt. - Cũng đúng như vậy, tất cả những hình thể (sắc),
cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), sinh hoạt tinh thần (hành),
và thức đã bị dứt bỏ, diệt tận gốc rễ, giống như
ta bứng gốc một cây kè và không còn gì có thể đâm
chồi lên nữa, tắt hẳn. Vị Thánh Nhân, này Vaccha, đã vứt bỏ được cái gọi
là thân ngũ uẩn này, thật cao siêu, không thể đo lường
được, mênh mông như đại hải. Nói rằng vị ấy tái
sanh là không đúng. Nói rằng vị ấy không tái sanh cũng
không đúng, mà nói rằng vị ấy không tái sanh cũng không
không tái sanh cũng không đúng." Ta không thể nói rằng vị A La Hán tái sanh, vì mọi khát
vọng tạo điều kiện cho sự tái sanh đều bị tận
diệt. Ta cũng không thể nói rằng vị A La Hán tan biến,
mất tiêu, trở thành hư vô, không còn gì hết, at tại, vì
không có cái gì để tiêu mất, tở thành hư vô. Một khoa học gia, Robert Oppenheimer viết: "Nếu hỏi rằng vị trí của điện tử có ở nguyên
một chỗ không, ta phải trả lời "không". Nếu
hỏi điện tử có ngừng nghỉ không, ta phải trả lời
"không". Nếu hỏi điện tử có di động không, ta
phải trả lời "không". "Đức Phật cũng giải đáp như vậy, khi có người
hỏi về hiện trạng của con người sau khi chết [12]. Nhưng
đó không phải là những câu trả lời quen thuộc trong
truyền thống khoa học của những thế kỷ mười bảy, mười
tám." Vậy ta có thể kết luận chắc chắn rằng Niết Bàn
được thành đạt bằng cách hoàn toàn chấm dứt mọi ô
nhiễm (kilesa). Nhưng bản chất thật sự của pháp Cao Thượng
(Dhamma) ấy không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ. Về phương diện siêu hình, Niết Bàn là hoàn toàn
giải thoát ra khỏi mọi đau khổ. Về phương diện tâm lý,
Niết Bàn là tận diệt "Tự Ngã". Về phương
diện luân lý, Niết Bàn là sự tận diệt tham, sân, si. Chú thích: [1] Pháp hữu vi: những vật và những hiện tượng phát
sanh do điều kiện. Những vật cấu tạo, tùy thế, chỉ
hiện hữu nhờ có duyên sanh. [2] Kiến Tịnh là giai đoạn thứ ba của con đường
trong sạch (Visuddhi-magga,Thanh Tịnh Đạo). [3] Kankhavitaranavisuddhi: Đoạn Nghi Tịnh, giai đoạn thứ
tư của Con Đường Trong Sạch (Thanh Tịnh Đạo, Visuddhi
magga). [4] Maggamaggananadassanavisudhi: Đạo Phi Đạo Tri Kiến
Tịnh, giai đoạn thứ năm của Thanh Tịnh Đạo. [5] Tuệ giác trong Con Đường siêu thế nầy có tên là
Nanadassana visudhi, Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ bảy của
Thanh Tịnh Đạo. [6] Dr Dhalke. [7] Nirodha-Samapatti, đúng nghĩa là "thành đạt sự
chấm dứt". Xem "A Manual of Abhihamma", tác giả
Narada, trang 227 và 435. [8] The Path of Purity, Thanh Tịnh Đạo, phần 11, trang 872. [9] Psalm of the Brethen, trang 346. [10] Woodward, Verses of Uplift, trang 114. [11] Kinh Aggivacchagotta, Majjhima Nikaya, kinh số 72. [12 ] Lẽ dĩ nhiên, ở đây tác giả ám chỉ của người
đã đắc Quả A La Hán.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |