Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Phẩm hạnh A La Hán
Trong
Tam Tạng kinh điển có rất nhiều Phật ngôn mô tả
trạng thái vắng lặng và hạnh phúc của một vị A La Hán,
còn tạm trú trên thế gian cho đến khi ngũ uẩn chấm
dứt, để phục vụ những ai muốn tìm Chân Lý, bằng
lời giáo huấn và gương lành trong sạch.
Kinh Pháp Cú ghi lại những Phật ngôn sau đây: Đối với người đã trải qua suốt cuộc hành trình
[1], chấm dứt mọi ưu phiền [2], hoàn toàn siêu thoát [3],
cắt đứt mọi trói buộc [4], nhiệt độ (tham ái) không còn
nữa .[5] -- (câu 90) Người tự lực cố gắng giữ tâm niệm, không luyến
ái, không đeo níu theo nơi trú ẩn nào; cũng tựa hồ như
những con thiên nga đã lìa ao hồ, người ấy rời bỏ nhà
này đến nhà khác, và ra đi. [6] -- (câu 91) Những ai không tích trữ [7], giữ chánh niệm khi dùng
vật thực [8], những vị đã nhắm sự Giải Thoát, vốn hư
không và vô hình tướng, như đối tượng của mình [9].
Lộ trình của những vị ấy không khác nào lộ trình
của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại được.
-- (câu 92) Người tận diệt ô nhiễm, không luyến ái vật thực,
nhắm đến Giải Thoát, vốn hư không và vô tướng, như
đối tượng của mình. Con đường của Ngài không khác nào
con đường của đàn chim bay trên không trung, không thể
vẽ lại. -- (câu 93) Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn
bằng cách chứng đắc Đạo Quả A La Hán trong kiếp sống
hiện tiền. Đã chế ngự lục căn như tuấn mã được
huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ ngã mạn và không
còn ô nhiễm, người vững chắc như thế, chí đến chư
Thiên cũng quý mộ. -- (câu 94) Như đất, người giữ tâm quân bình và có nếp sống
kỷ cương không còn xúc động. Người ấy như trụ đồng
Indakhila [10], như ao hồ phẳng lặng, không bị bùn đất làm
nhơ bẩn. Với người có tâm quân bình như thế [11],
cuộc đi lang thang bất định của đời sống không còn
lặp lại nữa [12]. -- (câu 95) Tâm trầm tĩnh, ngôn ngữ trầm tĩnh, hành động trầm tĩnh,
người ấy, hiểu biết chân chánh, trọn vẹn siêu thoát,
hoàn toàn tịnh lạc và quân bình. -- (câu 96) Người không nhẹ dạ [13], thấu triệt trạng thái Vô
Sanh [14] (Niết Bàn), cắt đứt mọi hệ lụy [15], chấm
dứt mọi cơ hội [16] (cho điều thiện và điều ác phát
sanh) [17], tận diệt mọi tham ái [18], người ấy quả
thật là tối thượng. -- (câu 97) Dù ở làng mạc hay trong rừng sâu, ở non cao hay trũng
thấp [19], bất luận nơi nào mà vị A La Hán trú ngụ, nơi
ấy quả thật là tịnh lạc. -- (câu 98) Quả thật tịnh lạc, chốn rừng sâu mà người trần
tục không thích ở. Người hết dục vọng [20] sẽ hoan
hỷ an trú (ở nơi ấy) vì các Ngài không tìm dục lạc.
-- (câu 99) Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người
thù hận. Giữa những người thù hận, ta sống không thù
hận. -- (câu 197) Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe [21] giữa những người
ươn yếu. Giữa đám người bệnh hoạn ta được sống
mạnh khoẻ. -- (câu 198) Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa
những người khao khát. Trong đám người tham ái ta sống
không dục vọng. -- (câu 199) Hạnh phúc thay, ta sống không bị chướng ngại. Dưỡng
nuôi phỉ lạc, ta sẽ như các vị Trời trong cảnh Quang Âm
Thiên. -- (câu 200) Người không còn bờ bên này [22] hay bên kia [23], cũng
không còn cả hai bên, bên này và bên kia, người thoát ly
phiền não và không còn bị ràng buộc [24] - Như Lai gọi
ngườiay là Bà La Môn (Brahmana). [25] -- (câu 385) Người có hành thiền [26], sống trong sạch và ẩn dật
[27], hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra khỏi mọi hoặc
lậu [28], người đã thành tựu Mục Tiêu Tối Thượng
[29] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 391) Người đã cắt đứt mọi thằng thúc, người không còn
run sợ, đã vượt hẳn ra khỏi mọi ràng buộc, không dính
mắc - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 397) Người ấy đã cắt đứt dây cương (sân hận), dây
thừng (luyến ái), và dây nọng (tà kiến), cùng các món
đồ bắt kế (những khuynh hướng còn ngủ ngầm), vứt
bỏ cây trục (vô minh), người đã giác ngộ (Phật) [30] -
Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 398) Người không tức giận, chịu đựng lời khiển trách,
roi vọt, và hình phạt. Người lấy hạnh nhẫn nhục làm
quân lực (để tự bảo vệ) - Như Lai gọi người ấy là
Bà La Môn. -- (câu 399) Người không nóng giận, làm tròn bổn phận [31], giới
hạnh trang nghiêm, thoát khỏi ái dục, thu thúc lục căn và
mang xác thân ngũ uẩn này lần cuối cùng [32] - Như Lai
gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 400) Như nước trên lá sen, như hột cải đặt trên đầu mũi
kim, người không luyến ái dục lạc - người ấy, Như Lai
gọi là Bà La Môn. -- (câu 401) Tại đây, trên thế gian này, người chứng ngộ sự
tận diệt phiền não của chính mình, người bỏ gánh
nặng xong bên đàng [33] và siêu thoát - người ấy, Như
Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 402) Người có tri kiến thâm diệu, người trí tuệ, thấu
hiểu đường chánh nẻo tà [34], người đã thành đạt
mục tiêu tối thượng - Như Lai gọi người ấy là Bà La
Môn. -- (câu 403) Người không trìu mến hàng cư sĩ cũng như hàng xuất
gia, người du phương đó đây, không có một nơi ở nhất
định, người không còn tham ái - người ấy, Như Lai gọi
là Bà La Môn. -- (câu 404) Người đã rời bỏ gậy gộc trong khi tiếp xúc với chúng
sanh, mạnh hay yếu, không sát sanh hoặc làm tổn thương
bất luận ai - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu
405) Thân hữu giữa những người thù nghịch, ôn hoà trong
đám đông hung hăng, hỷ xả giữa người cố chấp [35] -
Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 406) Nơi con người mà tham lam, sân hận, ngã mạn và phỉ báng
(không còn bám vào được) lả tả rơi như hột cải để
đầu mũi kim (phải rơi) - Như Lai gọi người ấy là Bà
La Môn. -- (câu 407) Người nói lời êm dịu, hiền hoà, xây dựng, chân
thật và không xúc phạm đến ai - người ấy, Như Lai
gọi là Bà La Môn. -- (câu 408) Người không tham ái điều gì trong thế gian này hay
thế gian kế, người dập tắt dục vọng và siêu thoát -
người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 410) Người đã vượt khỏi điều thiện, điều ác, và
mọi ràng buộc [36], người không ưu phiền, không ô
nhiễm và tinh khiết - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn.
-- (câu 412) Ngh không bợn nhơ, người trong sáng như mặt trăng,
thanh tịnh, vắng lặng và không chao động [37], người đã
tuyệt trừ tham ái thủ hữu - người ấy, Như Lai gọi là
Bà La Môn. -- (câu 413) Người đã tự tách rời ra những ràng buộc trong cảnh
người và vượt qua những thằng thúc của cảnh Trời,
thoát ly mọi hệ lụy - người ấy, Như Lai gọi là Bà La
Môn. -- (câu 417) Người đã dứt bỏ ưa [38] và ghét [39], thản nhiên, không
bị ô nhiễm [40] làm hoen ố, người đã khắc phục thế
gian [41] và kiên trì cố gắng - người ấy, Như Lai gọi là
Bà La Môn. -- (câu 418) Người không bám vào ngũ uẩn trong quá khứ, vị lai hay
hiện tại, không luyến ái (ái) và không bám chặt vào
(thủ) - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 412) Vô quý [42], cao thượng, anh dũng, đại hiện thánh [43],
người đã khắc phục [44], không còn dục vọng, người
ấy rửa sạch [45] (mọi ô nhiễm), đã giác ngộ [46] - người
ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 422) Bậc hiền thánh đã thấu hiểu tiền kiếp, đã thấy
những cảnh hạnh phúc [47] và đau khổ [48], đã đến
mức tận cùng của mọi kiếp sống [49], người đã, với
trí tuệ cao siêu, tự mình cải tiến [50], hoàn tất [51] (đời
sống phạm hạnh thiêng liêng) và chấm dứt mọi dục
vọng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 423). Chú thích: [1] Suốt cuộc hành trình trong vòng luân hồi: ám chỉ
một vị A La Hán. [2] Hành giả chấm dứt mọi ưu phiền lúc đắc Quả A
Na Hàm, tầng thứ ba trong bốn tầng thánh. Đến tầng
ấy, hành giả đã tận diệt mọi luyến ái đeo níu theo
dục vọng và mọi hình thức bất mãn. [3] Sabbadhi, hoàn toàn tự do, thoát ra khỏi mọi dính
mắc đối với ngũ uẩn v.v... [4] Có bốn loại trói buộc (gantha) là: a/ tham muốn
(abhijja), b/ oán ghét (vyapada), c/ dễ duôi nương theo nghi
thức lễ bái và cúng tế (silabbataparamasa, giới cấm
thủ), d/ cố chấp trong thành kiến, khư khư chấp rằng thành
kiến của mình là chân lý (idhamsaccabhinivesa, kiến thủ). [5] Những câu này ám chỉ phẩm hạnh của một vị A La
Hán. Có hai loại nhiệt độ: tinh thần và vật chất. Lúc
còn sống, một vị A La Hán còn thọ cảm nhiệt độ của
thể xác, nhưng không quan tâm đến. Tuy nhiên, Ngài không còn
có nhiệt độ của tham vọng, hay lửa tham ái. [6] Chư vị A La Hán đi lang thang bất định, không
luyến ái một nơi ở nhất định nào bởi vì các Ngài đã
hoàn toàn tự do, đã thoát ra khỏi mọi quan niệm về
"Ta" và "Của Ta". [7] Có hai loại tích trữ là hoạt động có liên quan đến
nghiệp (tức tích trữ nghiệp hay hành), và bốn món cần
thiết trong đời sống của một vị tỳ khưu (tứ vật
dụng: thuốc men, chỗ ở, y bát và vật thực). Loại tích
trữ đầu tiên có khuynh hướng kéo dài cuộc hành trình
trong vòng luân hồi. Tứ vật dụng, mặc dù cần thiết, có
thể là một trở ngại cho tiến bộ tinh thần. [8] Dứt khoát từ bỏ mọi thèm muốn về vật thực. [9] Giải Thoát, hay Niết Bàn, là thoát ra khỏi mọi
phiền não (Vimokkha). Gọi là hư không vì còn lòng tham-sân-si,
chớ không phải Niết Bàn là hư vô, không có gì hết hay
tuyệt diệt. Niết Bàn là trạng thái siêu thế tích cực,
không thể mô tả bằng ngôn ngữ tại thế. Không có dấu
vế của tham-sân-si, chư vị A La Hán chứng nghiệm quả
vị Niết Bàn lúc còn ở trong kiếp sống này. Nói rằng
sau khi từ bỏ kiếp này, các Ngài sẽ còn sống,
"tại", hay hết sống, "bất tại", đều
không đúng, bởi vì Niết Bàn không phải vĩnh cửu cũng
không phải hư vô. Không có cái gì để vĩnh viễn hóa cũng
không có cái gì, ngoại trừ khát vọng, để tuyệt diệt
(hư vô hoá). [10] Indakhila là một cây cột vừa vững chắc vừa cao
của Trời Đế Thích, hoặc là cây trụ chánh ở cổng vào
một thị trấn. Các nhà chú giải ghi nhận rằng Indakhila này là những
trụ cột vững chắc, dựng lên bên trong hay bên ngoài các
thị trấn cho đẹp mắt. Thông thường, các trụ cột này
làm bằng gạch hoặc bằng gỗ, hình bát giác. Những trụ
cột này được chôn thật sâu dưới đất. Do đó có thành
ngữ "vững chắc như trụ Indakhila". [11] "Tadi" là người đã buông xả, không còn
luyến ái những gì ưa thích, không bất mãn với điều không
vừa lòng, cũng không bám níu vào điều gì. Giữa tám điều
kiện thăng trầm của thế sự - được và thua, tán dương
và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau
khổ - một vị A La Hán sống hoàn toàn bình thản. Tâm quân
bình, không chao động, không biểu hiện lòng ưa thích hay
bất mãn, không hỷ hạ vui cười mà cũng không lo âu sầu
muộn. [12] Bởi vì các Ngài không còn sanh tử nữa. [13] Assaddho, theo sát nghĩa là không tín nhiệm hay không
trung thành. Vị A La Hán không chấp nhận suông những
nguồn hiểu biết, vì chính Ngài đã tự chứng nghiệm chân
lý. [14] Akata, Vô Sanh, là Niết Bàn. Akatannu cũng có thể
được hiểu là người vô ân bạc nghĩa. [15] Những dây nối liền trong kiếp nhân sinh. Sandicchedo
cũng có nghĩa là người phá nhà, một tên trộm. [16] Hata + avakaso là người đã tiêu trừ cơ hội. [17] Vanta + aso, người ăn đồ ói mửa, là một định
nghĩa khác của danh từ này. [18] Bằng bốn Thánh Đạo. Những hình thức thô kịch
của tham ái được chế ngự trong ba tầng Thánh đầu tiên.
Hình thức vi tế được tận diệt trong tầng cuối cùng. [19] Nina và Thala, sát văn tự là những lớp thấp và
những đất cao, những thung lũng và những đồi cao. [20] Chư vị A La Hán đã dứt bỏ dục vọng,thích ở nơi
vắng vẻ ẩn dật trong rừng sâu, nơi mà người trần
tục không thích. [21] Khỏe mạnh, không còn những chứng bệnh của tham
ái. [22] Bờ bên này, tức Param, lục căn: nhãn, nhĩ, tỹ,
thiệt, thân, ý. [23] Bờ bên kia, tức Aparam, lục trần: sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp. [24] Không dính mắc, không bị ràng buộc vào điều gì
như "Ta" và "Của Ta". [25] Brahmana là một danh từ có liên quan đến giai cấp
Bà La Môn, giai cấp được ưu đãi nhất thời bấy giờ,
và cũng là danh từ để gọi những người theo đạo Bà
la Môn. Mặc dù vậy ở đây Brahmana có nghĩa là người đã
hoàn tất Con Đường, người đã chứng nộ Đạo và
Quả, tức một vị Phật hay một vị A La Hán. Trong chương
này danh từ Bà La Môn được dùng theo ý nghĩa này. [26] Người thực hành thiền Vắng Lặng (Samatha, chỉ) và
thiền Minh sát (Vipassana, quán). [27] Asinam, người sống một mình trong rừng, ẩn dật. [28] Bằng cách chứng ngộ Tứ Diệu Đế và tận diệt
các Thằng Thúc. [29] Tức chứng ngộ Niết Bàn. [30] Đã thông suốt Tứ Diệu Đế. [31] Bổn phận đối với đạo giáo. [32] Vì người đã tận diệt dục vọng không còn tái
sanh nữa. [33] Gánh nặng của ngũ uẩn. [34] Người thông suốt con đường dẫn đến những
cảnh khổ, con đường dẫn đến các nhàn cảnh và con
đường Niết Bàn. [35] Những người còn thành kiến ngã chấp, còn luyến
ái ngũ uẩn. [36] Những ràng buộc ấy là: tham, sân, si, ngã mạn và
tà kiến. [37] Không bị ô nhiễm làm chao động. [38] Tức luyến ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần. [39] Arati, ghét bỏ, không chịu cuộc sống ở chốn
rừng sâu (theo bản Chú giải). [40] Upadhi, bợn nhơ. Có bốn loại upadhi là: ngũ uẩn
(khanda), khát vọng (kilesa), tác hành (abhisankhara), và dục
lạc (kama). [41] Thế gian là ngũ uẩn. [42] Usabham, là con trâu cổ - Ý nói người vô úy, không
sợ sệt, như con trâu cổ. [43] Mahesim, người tìm giới định, tuệ, cao thượng. [44] Vijitavinam, người đã khắc phục mọi khát vọng. [45] Nahatakam, người đã thanh lọc mọi ô nhiễm. [46] Buddham, người đã thông suốt Tứ Diệu Đế. [47] Sagga, là sáu cảnh Trời Dục, mười sáu cảnh
Trời Sắc Giới, bốn cảnh Trời Vô Sắc Giới. (Xem Chương
27). [48] Apaya là bốn khổ cảnh. [49] Jatikkhayam là đạo quả A La Hán. [50] Abhinnavosito tức là đến mức cùng tột bằng cách
thông suốt những điều phải được thông suốt, xa lìa
những điều phải xa lìa, chứng ngộ những gì phải
chứng ngộ và trau dồi những gì phải trau dồi (theo bản
Chú giải). [51] Sabbavositavosanam tức là đã sống đời phạm hạnh
thiêng liêng dẫn đến mức tận cùng là tuệ giác có liên
quan đến Con Đường A La Hán, chấm dứt mọi khát vọng.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 18-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |