BuddhaSasana Home Page HẠNH
PHÚC AN LÀNH - 2
HIẾU NGHĨA Tỳ khưu Hộ Pháp
Dhammarakkhita Phần 2 Tích Con Kên Kên Chúa
Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama, sanh làm con
kên kên chúa phụng dưỡng cha mẹ già đui mù
ở động kên kên. Hàng ngày, kên kên
chúa tìm thịt tha về phụng dưỡng cha mẹ (Bộ Jàtaka Sattakanipàta, chuyện
Màtupasakagijjha-jàtaka). Một hôm, người thợ săn tên Nilìya
đặt bẫy trong nghĩa địa gần thành
Bàrànasì, Ðức Bồ Tát đi tìm thịt trong
nghĩa địa chẳng may bị mắc bẫy, Ngài
không hề nghĩ đến mình, mà nằm nghĩ
đến cha mẹ già
đui mù than vãn rằng: "Song thân già
đui mù của ta sẽ ra sao? Song thân
không biết ta đã bị mắc bẫy, rồi song
thân không có nơi nương nhờ, không có vật thực, rồi song thân ta sẽ chết
khô trong động mà thôi!". Người thợ săn lắng nghe con kên kên
than khóc bèn hỏi rằng: -- Này kên kên, người than khóc gì vậy, ta chưa từng thấy, chưa từng
nghe loài chim lại nói được tiếng người như
vậy?
Kên kên chúa đáp rằng:
-- Này người thợ săn, tôi có phận sự lo
phụng dưỡng cha mẹ già đui mù ở
trong động, bây giờ tôi đã bị mắc bẫy
của người rồi, cha mẹ của tôi sẽ ra sao? Người thợ săn hỏi:
-- Này kên kên, người đời thường nói rằng:
loài kên kên có khả năng nhìn
xa cả 100 do tuần (1 do tuần - yojana - khoảng 20 cây số.). Vậy tại sao
ngươi đến gần rập lưới, hoặc gần bẫy
mà không hay biết? Ðức Bồ Tát giải đáp rằng:
-- Này người thợ săn, bởi vì chúng
sinh đến luùc mạng chung,
đến thời tai hoạ, khi ấy, dầu đến gần rập
lưới hoặc bẫy cũng chẳng hay biết.
Lắng nghe lời giải đáp của Ðức Bồ
Tát, người thợ săn vô cùng hoan hỉ,
nghĩ rằng: con kên kên chúa này thật đáng
kính phục, khi mắc bẫy không hề nghĩ đến mình, mà chỉ khóc than
thương cha mẹ già đui mù không ai
phụng dưỡng. Người thợ săn vô cùng cảm
động, hai tay nhẹ nhàng cẩn thận tháo
gỡ bẫy thả Ðức Bồ Tát ra với tâm bi cứu khổ, bèn nói với Ðức Bồ Tát rằng: -- Này kên kên chúa, tôi xin thả người ra rồi người bay trở về lo phụng
dưỡng cha mẹ già đui mù, cầu chúc
người được thân tâm an lạc, đoàn tụ
với cha mẹ thân quyến. Do phước lo phụng dưỡng cha mẹ già, nên Ðức Bồ Tát kên kên chúa
được thoát nạn chết, Ngài vô cùng hoan
hỉ và cầu chúc người thợ săn rằng:
-- Này người thợ săn, cũng như vậy, cầu
chúc ngươi được hạnh phúc an lạc cùng với cha mẹ, thân bằng quyến
thuộc của người. Còn tôi, xin từ giả trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già
đui mù của tôi. Con kên kên chúa tha thịt đem về phụng
dưỡng cha mẹ như trước.
Tích Chim vẹt Thời quá khứ, miền Ðông Bắc xứ Magadha, có rất nhiều con vẹt sống trong
khu rừng lớn gần núi. Thời ấy, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama sanh làm chim vẹt
chúa1 rất xinh đẹp, thường tha đồ ăn từ rừng
núi Himavanta đem về phụng dưỡng cha mẹ (Bộ Jàtaka Pakinnakanipàta,
chuyện Sàlikedarajàtaka). Trong làng Sàlindiya, có Bà la môn dòng Kosiya gieo trồng lúa Sàli trên
một thửa ruộng lớn cả 100 mẫu, có cho người trông nom canh gác giữ gìn
đám lúa ấy.
Chim vẹt chúa cùng với bầy chim rất đông
bay đáp xuống ruộng ăn lúa Sàli, mà người trông nom canh gác không
thể nào ngăn cấm được; bầy chim vẹt ăn no đủ
bay về, riêng có một con chim vẹt chúa không những
ăn no đủ rồi, mà còn tha lúa Sàli bay
về nữa. Người trông nom canh gác ruộng lúa trình với ông chủ, ông Bà la
môn bảo rằng: -- Nếu như vậy, ngươi hãy đặt bẫy rập chờ
chim vẹt chúa đáp xuống, bắt sống nó đem về đây cho ta.
Người trông nom canh gác tuân theo lệnh ông chủ, bắt sống
được chim vẹt chúa đem trình
đến ông chủ.
Vừa nhìn thấy con chim vẹt chúa, ông Bà la môn phát sanh tâm thương yêu
quý mến vô cùng. Ông đặt Ðức Bồ Tát
đậu trên
đầu gối rồi bảo rằng: -- Này chim vẹt, nhà ngươi ăn lúa Sàli
của ta no nê rồi, còn tha đem về, nhà
ngươi có bồ lúa phải không? Hay nhà ngươi muốn gây oan trái với ta? Nghe câu hỏi, Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa ôn tồn
đáp bằng bài kệ rằng: -- Thưa ông Ko-si-ya kính mến! Nghe câu giải đáp với ý nghĩa sâu sắc, ông
Bà la môn không hiểu, nên hỏi lại Ðức Bồ Tát rằng: -- Ngươi trả món nợ cũ đến cho ai? Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa giải thích rằng: -- Thưa ông Ko-si-ya kính mến! Lắng nghe lời giải thích, ông Bà la môn có
đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát và vô cùng hoan hỉ cho phép rằng: -- Kể từ nay về sau, nhà ngươi cùng bà con thân quyến của ngươi
được an toàn sanh mạng,
được phép tự do ăn lúa Sàli trên toàn
đám ruộng của ta.
Ðám ruộng lúa Sàli của ông Bà la môn cả 100 mẫu, Ðức Bồ Tát biết tri
túc, chỉ xin phép ăn lúa Sàli trên
khoảng 8 mẫu ruộng, phần còn lại thuộc về của ông Bà la môn, sẽ không
đụng chạm đến.
Ðức Bồ Tát trước khi từ giả, có lời khuyên ông Bà la môn rằng: -- Này ông Bà la môn, xin ông chớ nên dễ duôi, cố gắng tinh tấn tạo
nhiều phước thiện. Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa tha lúa về nuôi dưỡng cha mẹ, con cái và những
con chim già yếu bệnh hoạn. Ông Bà la môn sai người cắm cọc khoanh vùng khoảng 8 mẫu, bảo người
trông nom canh gác rằng: -- Ngươi chớ nên ngăn cấm loài chim
ăn lúa Sàli và tha
đem về trong vùng lúa này. Từ đó về sau, bầy chim được phép ăn lúa Sàli,
trong phạm vi khoảng 8 mẫu ấy và được phép
tha lúa đem về nuôi dưỡng cha mẹ, con cái và những con chim già
yếu. Tích Voi Chúa Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama sanh làm bạch
tươïng chúa, có đàn tùy tùng gồm có
84.000 thớt voi. Voi Bồ Tát nuôi dưỡng mẹ già
đui mù trong khu rừng núi Himavanta. Về sau, Bồ Tát bạch tượng chúa từ bỏ đàn
voi, dẫn voi mẹ đến chân núi tên
Candïorana, để voi mẹ trong động gần hồ sen.
Hàng ngày, Bồ Tát bạch tượng đem đồ ăn
về phụng dưỡng voi mẹ.
Khi ấy, một người thợ săn dân thành
Bàrànasì bị lạc đường trong rừng sâu suốt 7
ngày, không biết đường trở về, đi lạc
đến chỗ ở của bạch tượng chúa. Bồ Tát bạch tượng chúa chở y ngồi trên
lưng của mình với tâm bi, đem y ra khỏi rừng
đến địa phận của loài người, thả y xuống, rồi trở về chỗ ở của
mình. Người thợ săn vô ơn kia đi thẳng đến kinh
thành xin vào yết kiến Ðức Vua rồi tâu rằng: -- Tâu bệ hạ, kẻ tiện dân đi săn trong
rừng có thaáy một bạch tượng chúa xứng đáng làm phương tiện của
hoàng thượng. Trong triều đình, bạch tượng của
Ðức Vua đã qua
đời, chưa tìm ra bạch tượng khác, khi
nghe người thợ săn tâu, Ðức Vua rất
hoan hỉ, truyền lệnh cho người nài voi đi cùng
với người thợ săn vào rừng bắt Bồ Tát
bạch tượng chúa đem về nhốt trong chuồng voi.
Chính Ðức Vua đến ban cho những nắm cỏ
ngon lành đến Bồ Tát bạch tượng chúa.
Bồ Tát bạch tượng chúa nghĩ rằng: "Không thấy voi mẹ, ta không chịu
ăn". Ðức Vua truyền rằng: -- Này bạch tượng chúa, xin dùng cỏ ngon này. Ðức Bồ Tát không đón nhận bèn tâu
rằng: -- Tâu Ðại Vương, tiện thú này có bổn phận nuôi dưỡng voi mẹ già
đui mù, voi mẹ của tiện thú nếu không
có tiện thú nuôi dưỡng, thì không thể sống
được. Tiện thú không có voi mẹ, thì không cần một thứ gì trên
đời này cả. Hôm nay
đã là ngày thứ 7 voi mẹ của tiện thú
không có một món ăn nào, voi mẹ của
tiện thú sẽ ra sao? Lắng nghe bạch tượng chúa tâu, Ðức Vua vô cùng cảm kích trước tấm lòng
hiếu thảo của bạch tượng chúa, truyền lệnh rằng: -- Này các ngươi, hãy thả bạch tượng chúa này trở về rừng ngay bây giờ.
Ðức Vua truyền rằng: -- Xin bạch tượng chúa trở về an toàn được
sum họp đoàn tụ với voi mẹ già thân yêu và cùng tất cả thân quyến.
Bồ Tát bạch tượng chúa được giải thoát
khỏi xiềng xích đôi chân, rồi thuyết pháp tế độ Ðức Vua, dạy Ðức
Vua thực hành 10 pháp vương của Ðức Vua, trị vì
đất nước bằng thiện pháp để đem lại sự an lành
thịnh vượng trong nước cùng thần dân thiên hạ.... Bạch tượng khuyên Ðức Vua rằng: -- Chớ nên dễ duôi, nên cố gắng tinh tấn trong mọi thiện pháp. Bồ Tát bạch tượng chúa được mọi người cúng
dường, đi ra khỏi kinh thành Bàrànasì về gặp lại voi mẹ ngay trong
ngày hôm ấy. Ðức Vua có đức tin trong sạch nơi ân đức
của bạch tượng chúa, truyền lệnh làm nhà gần hồ sen
để cho bạch tượng chúa và voi mẹ ở, và
hàng ngày cho người cung cấp đồ ăn cúng dường
đến Bồ Tát bạch tươïng và voi mẹ. Về sau, khi voi mẹ của Ðức Bồ Tát qua đời,
Ðức Vua truyền lệnh làm lễ hoả táng thi thể xong mới hồi cung. Ðức
Vua truyền lệnh cho xây cất chỗ ở cho 500 vị
đạo sĩ ở triền núi rừng ấy, hàng ngày Ðức Vua hộ
độ 4 thứ vật dụng đến chư vị đạo sĩ.
Khi Bồ Tát bạch tượng chúa qua đời,
Ðức Vua làm lễ hoả táng xong, cho tạo một tượng bằng
đá giống như Bồ Tát bạch tượng chúa làm
kỷ niệm, để tỏ lòng biết ơn Ðức Bồ
Tát; và để dân chúng toàn cõi Nam
thiện bộ châu đến thăm viếng nhớ ơn
Ðức Bồ Tát. Những người con có hiếu nghĩa, biết công ơn sinh thành dưỡng dục của
cha mẹ, và biết đền ơn, biết lo phụng dưỡng
cha mẹ dầu là loài người hoặc loài thú, do phước thiện ấy, trong
kiếp hiện tại, những người con ấy được an lành
hạnh phúc; tránh khỏi mọi tai hoạ một cách phi thường, chư bậc Thiện trí
đều tán dương ca tụng. Sau khi chết, kiếp vị
lai, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ ấy, cho quả
được tái sanh cõi thiện giới,
đó là tái sanh làm người cao quý trong
cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cao quý ở cõi trời dục giới, hưởng
mọi sự an lạc trên cõi trời ấy. Ngược lại, người con nào bất hiếu, không biết ơn và không
đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ,
không biết lo phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn ốm
đau, trong kiếp hiện tại người con ấy thường
gặp điều bất hạnh, đau khổ, thường bị
tai hoạ, chư bậc Thiện trí chê trách. Sau khi chết, kiếp vị lai, do
ác nghiệp ấy cho quả tái sanh bị sa vào 1 trong 4 cõi ác giới...,
đó là cõi
địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ do ác nghiệp của mình
đã tạo. Cho nên, người con phải nên làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, người
con ấy không những được sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn
được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài
trong kiếp vị lai. Ba Hạng Con Trong kinh Puttasutta (Itivuttaka, kinh
Puttasutta), Ðức Phật dạy: -- "Này chư Tỳ khưu, có 3 hạng con trong
đời này: 1- Atijàtaputta: con hơn cha mẹ. Thế nào gọi là atijàtaputta: con hơn cha mẹ? --"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong đời này
là người không có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng;
không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà daâm, sự nói dối, sự
uống rượu và các chất say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người không có
đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không
có ngũ giới, thường tạo mọi ác pháp. Còn người con của cha mẹ ấy là người đã
có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng;
thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự
uống rượu và các chất say là nhân sanh deã duôi. Người con là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là atijàta-putta: con hơn cha mẹ." Thế nào gọi là anujàtaputta: con như cha mẹ? --"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong đời này
là người đã có quy y, nương nhờ nơi
Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; tránh
xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và
các chất say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp. Còn người con của cha mẹ ấy cũng là người
đã có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng;
thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự
uống rượu và các chất say là nhân sanh dễ duôi. Người con là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là anujàta-putta: con như cha mẹ." Thế nào gọi là avajàtaputta: con kém cha mẹ? --"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong đời này
là người đã có quy y, nương nhờ nơi
Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; tránh
xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và
các chất say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người không có quy y, nương nhờ nơi Ðức
Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; không tránh
xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và
các chất say là nhân sanh dễ duôi. Người con là người không có
đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi ác pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là avajàta-putta: con kém cha mẹ." Bài kinh trên đề cập đến 3 hạng người con
so với cha mẹ, đó là sự so sánh căn
cứ theo thiện pháp, ác pháp.
Tục ngữ có câu: "Con hơn cha là nhà có phúc". Theo quan niệm Phật giáo:
"con hơn cha mẹ..." như: -- Cha mẹ là người không có giới, không có
định, không có tuệ, thường tạo mọi tội lỗi,
mọi ác pháp; còn con là người có giới
đức trong sạch, thường tiến hành thiền
định, tiến hành thiền tuệ, thường tạo
mọi phước thiện, mọi thiện pháp. Như vậy mới gọi "Con hơn cha mẹ là nhà có phúc". -- Cha mẹ là người có giới đức
trong sạch, tiến hành thiền định chứng
đắc thiền bậc thập, tiến hành thiền tuệ chứng
đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả bậc thấp;
còn con là người cũng có giới đức
trong sạch, thường tiến hành thiền
định chứng đắc thiền bậc cao, tiến hành thiền tuệ chứng
đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả bậc cao. Như vậy mới gọi "Con hơn cha mẹ là nhà có phúc". Phật giáo quan niệm giá trị con người không căn
cứ vào sự giàu hoặc nghèo, trình độ
học vấn, công danh cao, sự nghiệp lớn, có chức có quyền v.v..., mà
chỉ căn cứ vào thiện pháp, ác pháp
mà thôi. Cho nên, dầu cha mẹ là người dân thường, ít học; song là người
có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã
quy y nương nhờ nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng,
có giới đức, hoan hỉ trong mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn giới
trong sạch, thường tiến hành thiền định, tiến
hành thiền tuệ v.v.... Còn con là người có học vị tiến sĩ,
có quyền cao chức trọng; song là người không có
đưùc tin nơi Tam bảo, không có giới,
thường tạo mọi tội lỗi, lại còn làm những việc xấu xa, vi phạm luật pháp,
phải bị lãnh án tù v.v... làm cha mẹ mang tiếng xấu, gia
đình dòng họ phải hổ thẹn với mọi
người. Như vậy không thể gọi "Con hơn cha là nhà có phúc". Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh tưø vô thuỷ cho
đến kiếp hiện tại, mỗi chúng sinh tích luỹ
thiện nghiệp hoặc ác nghiệp khác nhau, cho nên quả của nghiệp cũng
khác nhau. Cha mẹ (loài người) là nơi nương nhờ
để thiện nghiệp cho quả tái sanh trở thành
người con của cha mẹ. Do đó, có những người
con xét về đức hạnh, về thiện pháp hơn cha mẹ, hoặc như cha mẹ hoặc kém
cha mẹ.
Ví dụ: Ðức Bồ Tát thái tử Siddhattha khi sanh ra có 32 tướng tốt của bậc Thiện
trí và 80 vẽ đẹp, mà trong dòng họ
Sakya không có một ai sánh được, đó là
do quả của thiện nghiệp mà Ðức Bồ Tát đã
tạo nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ (không
phải do mẫu hậu và phụ vương của Ngài). Công Ơn Cha mẹ Không Dễ Ðền Ðáp Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ
đối với các con lớn lao vô lượng vô biên. Cho nên, bổn phận làm con
không thể nào đền đáp một cách xứng đáng công
ơn ấy bằng thân, khẩu, ý của mình và phụng dưỡng với tất cả những
gì có trong thế gian này. Trong Tăng Chi bộ kinh
(Anguttaranikàya, phần Dukanipàta), Ðức Phật dạy rằng: -- "Này chư Tỳ khưu, Như Lai dạy rằng: sự
đền đáp công ơn của hai Người trong đời này không phải dễ. Hai
người ấy là thân mẫu và thân phụ. Này chư Tỳ khưu, người con nâng mẹ lên đặt
bên vai phải, nâng cha lên đặt bên
vai trái; phụng dưỡng cha mẹ bằng vật thực ăn
uống ngon lành, vật thoa, vật thơm, xoa bóp thân mình cho bớt mỏi
mệt, kéo tay chân cho giãn gân cốt... taém rửa (nước ấm khi trời lạnh,
nước mát khi trời nóng)..., và để cha mẹ tiểu
tiện, đại tiện trên đôi vai của người
con; dầu người con có tuổi thọ 100 năm, việc phụng dưỡng cha mẹ của người
con như vậy, cũng không đền đáp được công ơn của cha mẹ; thì không
thể gọi là người con biết ơn và đền đáp công
ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Này chư Tỳ khưu, một cách khác, người con suy tôn cha lên ngôi Ðức
Chuyển luân thánh vương, suy tôn mẹ lên ngôi chánh cung hoàng hậu, có
đầy đủ bảy thứ báu vật trong đời này;
dầu việc làm của người con như vậy, cũng không thể gọi là người con biết
ơn và đền đáp công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ. Ðiều ấy tại sao? Bởi vì, nhờ có cha mẹ người con mới nhìn thấy
đời này, nhờ cha mẹ nuôi dưỡng người
con mới lớn khôn trưởng thành; do đó, công ơn
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ lớn lao, vô lượng, vô biên, không
sao kể xiết." Vậy, có cách nào để người con đền đáp được
công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách xứng
đáng hay không?
Ðức Phật dạy: "Người con nào, - Thấy cha mẹ không có đức tin, giúp
cho cha mẹ có đức tin trọn đủ (saddhàsampadà). -- Thấy cha mẹ không có giới, giúp cho cha mẹ có giới trọn
đủ (sìlasampadà). - Thấy cha mẹ có tánh keo kiệt bỏn xẻn, không muốn bố thí, giúp cho
cha mẹ hoan hỉ trong việc bố thí trọn đủ
(càgasampadà). - Thấy cha mẹ không có trí tuệ, giúp cho cha mẹ có trí tuệ trọn
đủ (pannàsampadà). Này chư Tỳ khưu, người con nào làm được
như vậy, mới được gọi là người con biết ơn và
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ một cách xứng đáng." Giải thích 4 pháp Sampadà 1- Saddhà-sampadà: đức tin trọn đủ.
1- Có đức tin trọn đủ như thế nào? Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi 9
Ân Ðức Phật, 6 Ân Ðức Pháp, 9 Ân Ðức Tăng;
tin nghiệp và quả của nghiệp trọn đủ.
Có đức tin trong sạch trọn đủ, nơi 9 Ân
Ðức Phật rằng: Ðức Thế Tôn, - là bậc Arahán xứng đáng thọ nhận sự
lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên, nhân loại. - là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh
Quả đầu tiên trên toàn thế giới
chúng sinh, trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác. - là bậc có trọn đủ Tam minh, Bát
minh và 15 Ðức hạnh cao thượng. - là bậc Thánh Thiện giáo huấn sự thật chân lý
đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng
sinh.
- là bậc Thông Suốt chúng sinh thế giới, cõi thế giới, pháp hành
thế giới. - là bậc Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh. - là bậc Thiên Nhơn Sư. - là Ðức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, rồi giáo huấn chúng sinh có
duyên lành cũng chứng ngộ như Ngài. - là bậc Cao Thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh, do Ngài
tự mình chứng đắc thành bậc Chánh
Ðẳng Giác. Và có đức tin trong sạch trọn đủ 6 Ân
Ðức Pháp của Ðức Phật, 9 Ân Ðức Tăng,
bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật; và có
đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả
của nghiệp. Tin rằng: "Nghiệp là của riêng mình.... Nghiệp thiện cho quả
an lạc; nghiệp ác cho quả khổ". 2- Có giới trong sạch và trọn đủ như thế nào? Người Phật tử là bậc Xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới
hạnh trong sạch và trọn đủ theo phẩm hạnh của
mình. - Người cận sự Nam - Nữ có ngũ giới; bát giới... trong sạch và trọn
đủ.
- Bậc Sa di có 10 Sa di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75
điều học, 14 pháp hành.... - Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể
đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.
3- Sự bố thí trọn đủ như thế nào? Người Phật tử có tâm từ, tâm bi tế độ,
hoan hỉ trong sự bố thí tùy theo khả năng
của mình, có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí;
hoan hỉ đang khi bố thí; hoan hỉ sau khi đã
bố thí xong. Người Phật tử không nên có tâm bỏn xẻn keo kiệt trong của cải và sự
hiểu biết của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí nhiều tùy
theo khả năng, tùy theo người thọ thí.
Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng:
được làm phước thiện bố thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải,
tiền bạc không phải là phước thiện (là quả của phước thiện) thuộc về của
chung cho mọi người, nếu ta không biết sử dụng
đem làm phước bố thí, thì của cải ấy
qua thời gian cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài
được; nếu ta biết sử dụng của cải ấy
đem bố thí, thì của cải ấy là nhân
sanh phước thiện, chắc chắn thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an lạc
nhiều kiếp, có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện bố
thí chỉ có con người ở cõi Nam thiện bộ châu (trái
đất chúng ta đang sống) này mà thôi;
các chúng sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước
thiện bố thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy. 4- Có trí tuệ trọn đủ như thế nào? Người Phật tử nên có trí tuệ hợp trong mọi thiện pháp. Khi bố thí, thí
chủ nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ đang
khi bố thí. Cũng như vậy, hành giả nên có
đại thiện tâm hợp với trí tuệ khi giữ giới,
khi tiến hành thiền định, tiến hành
thiền tuệ. Thật ra, trí tuệ để cho trọn đủ là
trí tuệ thiền tuệ trong tam giới thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn
đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.
Trí tuệ gọi là trọn đủ chính là trí
tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó là 4
Thánh Ðạo tuệ, đồng sanh trong 4 Thánh
Ðạo tâm và 4 Thánh Quả tuệ đồng sanh trong 4
Thánh Quả tâm, có Niết Bàn làm đối
tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh nhân. Ðó là 4 pháp thực hành sẽ đem lại sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho cả kiếp hiện tại, lẫn nhiều
kiếp vị lai. Tại sao người con giúp cho cha mẹ có được
4 pháp: đức tin trọn đủ, giới trọn đủ, bố thí trọn đủ, trí tuệ trọn
đủ gọi là người con
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ một cách xứng đáng?
Bởi vì, người con phụng dưỡng cha mẹ tất cả các thứ vật dụng trong
đời, chỉ giúp cho thân thể của cha mẹ được an
lạc trong kiếp hiện tại mà thôi; còn 4 pháp trọn
đủ kia không những giúp cha mẹ, chắc chắn
thân tâm được an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn hưởng mọi sự an
lạc trong nhiều kiếp vị lai; và còn hơn thế nữa, giúp cho cha mẹ tạo mọi
thiện pháp, bồi bổ pháp hạnh Ba-la-mật để
mong chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả
và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân, chắc chắn sẽ
đạt đến sự giải thoát hoàn toàn mọi
cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Do đó, người con giúp cho cha mẹ trọn đủ 4
pháp ấy gọi là người con biết ơn và
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách xứng
đáng.
Cho nên, diễm phúc cho những người con nào còn có cha có mẹ, những
người con ấy có cơ hội tốt giúp cho cha mẹ có
được trọn đủ 4 pháp ấy. Nếu trường hợp người con không có khả năng
giúp cho cha mẹ có được trọn đủ 4 pháp ấy, người con nên hướng dẫn,
dẫn dắt cha mẹ đến gặp vị Ðại Ðức bậc
Trưởng lão thuyết pháp giảng dạy cho cha mẹ hiểu rõ 4 pháp ấy
đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an
lạc lâu dài cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa;
để cho cha mẹ phát sanh đức tin trong sạch,
mới cố gắng thực hành theo 4 pháp ấy cho
được trọn đủ.
Nếu người con nào không còn cha, hoặc không còn mẹ, hoặc không còn cả
cha lẫn mẹ; đối với người con ấy chỉ còn
cách làm trọn những điều hy vọng của cha mẹ.
Trong kinh Puttasutta (Bộ Anguttaranikàya, phần Pancakanipàta, kinh
Puttasutta), Ðức Phật dạy: Cha mẹ cầu mong có con trong gia đình
với hy vọng nơi con rằng: 1- Người con mà chúng ta nuôi dưỡng, về sau, khi chúng ta già yếu,
người con sẽ phụng dưỡng lại chúng ta. 2- Người con sẽ giúp lo công việc của chúng ta. 3- Người con sẽ nối dòng dõi của tổ tiên. 4- Người con sẽ thừa hưởng của cải sự nghiệp của chúng ta. 5- Khi chúng ta qua đời, các con làm
phước thiện hồi hướng đến chúng ta.
Ðó là năm điều hy vọng của cha mẹ, mà
người con có bổn phận làm tròn những điều hy
vọng của cha mẹ, cho được thành tựu như ý, làm toại nguyện của cha
mẹ, dầu cha mẹ còn sống hay khi đã qua
đời.
Tóm lại, mỗi người chúng ta hiện hữu trên cõi
đời này là do nhờ công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ. Mỗi người phân tích có hai phần: thân và tâm nương nhờ
lẫn nhau, không thể tách rời nhau được, nếu
khi tâm tách rời khỏi thân, thì thân trở thành tử
thi. 1- Phần thân: thuộc về sắc pháp
đó là sắc tứ
đại: chất đất, chất nước, chất lửa, chất gió
là phần sắc pháp chính; còn phần sắc pháp phụ thuộc có 24 sắc pháp
khác đồng hiện hữu trong thân này. Phần sắc tứ đại này là của cha mẹ
cho con, song người con có thân hình xinh
đẹp, xấu xí, đầy tật nguyền v.v... như thế nào,
đó là do quả của thiện nghiệp, ác
nghiệp của người con, không liên quan đến cha
mẹ.
2- Phần tâm: thuộc về danh pháp là của riêng người con. Do đó, có người con thuộc hạng
người có đủ tam nhân (vô tham, vô
sân, vô si); có người con thuộc hạng người có nhị nhân (vô tham và
vô sân); cũng có người con thuộc hạng người vô nhân (không có một
nhân nào trong ba nhân). Người con có trí tuệ hiểu biết, hay không có trí
tuệ hiểu biết; có thân hình xinh đẹp hay xấu
xí; giàu có hay nghèo khổ, bệnh nhiều hay ít bệnh v.v...
đó là do quả của nghiệp, do người con
đã tạo từ nhiều
đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp
hiện tại, không liên quan đến cha mẹ.
Thật ra, người cha mẹ nào cũng muốn cho con mình xinh
đẹp tốt lành, có trí tuệ sáng suốt
v.v.... Nhưng do quả nghiệp của người con tái sanh trong lòng mẹ, khi sanh
ra đời là
đứa con đui mù, câm điếc, tật
nguyền... nào đó, thì cha mẹ
vẫn có một tấm lòng thương yêu con, nuôi dưỡng con cho
đến khi trưởng thành, với tâm từ, tâm
bi vô lượng của cha mẹ. Cho nên, người con phải biết ơn cha mẹ và biết
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
cho cha mẹ, không những các thứ vật dụng cần thiết hàng ngày như: vật
thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh và các phương tiện khác,
để giúp cho cuộc sống của cha mẹ được thân
tâm an lạc trong kiếp hiện tại; mà còn phải biết giúp cho cha mẹ
có đức tin trọn đủ, có giới trọn đủ, có sự bố
thí trọn đủ, có trí tuệ trọn đủ;
để cho cha mẹ thật sự thân tâm thường an lạc cả trong kiếp hiện tại lẫn
nhiều kiếp vị lai.
Người con nào làm được như vậy, người con
ấy được gọi là phụng dưỡng, đền đáp
một cách xứng đáng với công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Ðức Phật dạy cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối
với các con như sau:
- Cha mẹ phải biết ngăn cấm các con làm
mọi việc tội ác. - Cha mẹ khuyên dạy các con tạo mọi điều
phước thiện.
- Cha mẹ lo nuôi dưỡng các con nên người, cho con học hành có trình
độ văn hoá, có nghề nghiệp lương
thiện và thành thạo. - Cha mẹ lo làm lễ thành hôn (cưới vợ, gả chồng) cho các con, khi
chúng đến tuổi trưởng thành. - Cha mẹ cho của cải tài sản đến các
con, xét thấy đúng lúc hợp thời.
Cha mẹ nên làm tròn bổn phận đối với các
con.
* * * Bần sư biên soạn tập sách nhỏ này làm món quà pháp thí kính dâng
đến cha mẹ và những bậc ân nhân từ
kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá
khứ, xin cha mẹ và các bậc ân nhân hoan hỉ phần pháp thí này
để thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài;
đồng thời cũng là món quà pháp thân
tặng những người con hiếu nghĩa, biết ơn và biết cách
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ một cách xứng đáng.
"Màtàpitu upatthànam Này người con hiếu nghĩa! Núi Rừng Viên Không -ooOoo- Xin xem thêm:
Hạnh Phúc An Lành, tập 1 Chân thành cám ơn Tỳ kheo Hộ
Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Bồ lúa của tôi nào đâu có!
Oan trái với ông tôi không nghĩ.
Tôi ở trong khu rừng lớn này
Lo trả món nợ cũ đã vay,
Cho vay món nợ mới về sau.
Chôn cất của quý, dành mang theo.
Xin ông thông cảm cho tôi vậy!
Và cho ai vay món nợ mới?
Chôn cất của quý để dành mang theo bên
mình được như thế nào?
Nhà ngươi giải thích rõ ràng cho ta hiểu.
Cha mẹ tôi già yếu ở tổ,
Tôi tha lúa về nuôi cha mẹ,
Trả nợ cũ đã vay từ nhỏ.
Con tôi còn nhỏ bé thơ dại,
Chưa có cánh bay đi kiếm ăn,
Tôi tha lúa về nuôi con tôi,
Cho vay món nợ mới về già,
Con tôi sẽ nuôi dưỡng lại tôi.
Những chim khác bệnh hoạn yếu đuối,
Có đôi cánh mà bay không
được,
Tôi tha lúa về nuôi dưỡng chúng,
Tạo phước thiện bố thí để dành,
Bậc Thiện trí gọi phước thiện ấy,
Là kho tàng phước mang theo mình,
Xin ông hiểu rõ ý nghĩa vậy!
2- Anujàtaputta: con như cha mẹ.
3- Avajàtaputta: con kém cha mẹ."
2- Sìla-sampadà: giới trọn đủ.
3- Càga-sampadà: bố thí trọn đủ.
4- Pannà-sampadà: trí tuệ trọn đủ.
Etam mangalamuttamam"...
Phụng dưỡng cha mẹ mình,
Là điều an lành nhất,
Hạnh phúc cao thượng nhất.
Thu Nhâm-Ngọ, 2002
Sư Hộ Pháp
updated:
01-10-2002