BuddhaSasana Home Page
KINH NGHIỆM NỘI QUÁN
Joseph Goldstein Phần II SÁNG THỨ 6 Hướng Dẩn: Nhận Thức
K
-ooOoo- TRƯA THỨ 7 Những Câu Chuyện C Phải có một cố gắng nhất định nào đó được áp dụng trong phát triển từng
giây phút ý thức. Nó không phải là sự cố gắng để đạt được cái gì trong
tương lai mà là sự cố gắng để sống trong hiện tại, chánh niệm với tâm bình
thản, thư thái đến những gì đang xãy ra ngay bây giờ. Một câu chuyện về một người đã có chút công phu đến thăm một vị Thiền
Sư. Trời đang mưa. Anh ta đến cửa, bỏ giầy và dù ở bên ngoài. Sau khi đảnh
lễ, vị thiền sư hỏi anh ta để dù ở phía phải hay trái của đôi giầy. Anh ta
đã không thể nhớ. Được kể lại rằng anh phải đi hành tập đến bảy năm nửa để
hoàn chỉnh sống thiền trong từng giây phút. Rất là quan trọng để triển khai sự chú tâm xuyên thấu luôn luôn về mọi
phương diện ta sống, từ thời điểm ta thức giấc vào buổi sáng đến lúc đi
ngủ trở lại. Tỉnh giác quay về với "phồng-xẹp," hay "ra-vào," và từ giây
phút đầu tiên đó, chánh niệm trong mỗi hành động được bao gồm lúc thức dậy
rửa mặt, bắt đầu đi, chuẩn bị ngồi cũng như đứng và cho đến lúc ăn. Khi
nằm xuống ngủ, có mặt với "phồng-xẹp" hay "ra-vào," cho đến giây phút cuối
khi chìm vào giấc ngủ. Lối lưu tâm nầy sẽ là một lợi ích lớn. Nếu có tư
tưởng rằng hành tập trong lúc tọa thiền và kinh hành, và thời gian còn lại
thì không quan trọng lắm, vậy trong khoảng dừng nghĩ đó, ta mất đi xung
lực đã được tạo ra lúc trước. Trau dồi sự tỉnh giác mạnh mẻ trong mỗi hành
động nguyên một ngày giúp tâm giữ được tập trung và lặng yên. Sự cương
quyết và quân bình tâm nầy có thể đưa đến chứng ngộ. Không có bất cứ một hoàn cảnh nào mà chánh niệm lại không có giá trị.
Trực giác sâu thẳm về chơn lý bất thần có thể xãy ra bất cứ lúc nào khi
những yếu tố chứng ngộ đã chín mùi và tụ hội đúng lúc. Có câu chuyện về Ngài Anada, Thị-giả của Đức Phật, coi sóc những gì Đức
Phật cần thiết và sắp đặt mọi thứ. Nhưng khi làm Thị-giả cho Đức Phật,
Ngài đã không có đủ thì giờ để hành thiền. Nhiều đồng đạo của Ngài đã
chứng đắt rồi mà Ngài vẫn còn ở vị trí ban đầu. Chỉ sau đó Ngài mới có cơ
hội thực tập một cách rốt ráo. Một thời gian sau khi Đức Phật nhập diệt,
chư Tăng được gọi về để kết tập kinh điển những gì Đức Phật thuyết pháp để
giáo lý không bị quên mất. Có tất cả 499 vị Trưởng lão, tất cả đều đã
chứng đắc với đầy đủ thần thông. Họ chọn Ngài Ananda vì Ngài có mặt mỗi
khi Đức Phật thuyết giãng và cũng do bởi Ngài có trí nhớ bật nhất . Vì
thế, mặc dù Ngài vẩn chưa chứng ngộ, Ngài vẩn được coi là nhân vật rất
quan trọng cho cuộc kết tập kinh điển. Khi ngày kết tập kinh điển đến gần,
tất cả chư Tăng thúc dục Ngài Ananda cố gắng đạt đạo quả. Đêm trước lúc
kết tập kinh điển, Ngài cố gắng triệt để, một cách căng thẳng. Ngài đi
kinh hành, "nhấc chân, đưa tới, đặt xuống." Nửa đêm, một , hai giờ sáng và
Ngài vẩn chưa chứng đạo quả. Khoảng bốn giờ sáng, Ngài kiểm điểm lại toàn
diện tiến trình hành tập. Ngài rất là thông minh và có nghe tất cả những
lời giáo huấn của Đức Phật. Ngài nhận ra rằng tâm Ngài đã không quân bình.
Ngài đã cố gắng quá sức mà không có sự tập trung đúng mức và tâm yên tĩnh.
Đã có quá nhiều mong đợi trong tâm Ngài. Cho nên Ngài dừng lại và đổi tư
thế thiền, cố gắng quân bình mọi sự việc lại. Ngài đi đến giường nằm với
tâm thật chánh niệm, nhìn toàn diện diễn biến. Và được kể lại rằng vừa lúc
đầu Ngài sắp sửa chạm gối, trước lúc đặt hai chân trên giường, trong chớp
nhoáng đó, Ngài chứng ngộ sự thật tối thượng, và trong chứng ngộ giải
thoát đó Ngài đạt được thần thông. Lúc đó vào khoảng bốn giờ sáng Ngài
được hưởng niết bàn hỷ lạc, yên bình. Sáng hôm đó, Ngài xuất hiện tức thời
nơi dành riêng cho Ngài trong buổi kết tập, mọi người nhận ra rằng Ngài
Ananda đã chứng quả tuyệt đối. Không thể nào biết rằng khi nào đám mây vô minh sẽ tan đi. Nó có thể
xãy ra kể cả trong diển trình đang nằm xuống ngủ. Chánh niệm ! Trong mỗi
giây phút, theo dỏi, tỉnh thức đến những gì đang xãy ra. Lối sống thiền
nầy, ngày qua ngày, tạo cho tâm có một sức mạnh khác thường. Sử dụng tất
cả những cơ hội trong khóa thiền đến tận cùng: đừng lãng phí thời giờ hay
nghĩ rằng mình đã tập đủ rồi. Nếu đã quá khuya và bạn không cảm thấy buồn
ngủ, tiếp tục hành tập. Thông thường những giờ ban đêm lại rất thuận tiện
cho hạ thủ công phu. Nên hiểu là tin tấn tối đa nhưng không thúc ép, không
tạo nên sự căng thẳng. Lúc tôi đang ở Ấn Độ khi mới bắt đầu học thiền. Có một người bạn sống
đối diện dảy phòng. Anh ta đã là một khuông mẩu toàn hảo về sự bền chí.
Mỗi lần tôi gặp anh, là anh ta đang hành thiền. Mười, mười một giờ đêm
rồi, lúc tôi chuẩn bị đi ngủ, mà tôi vẩn còn thấy đèn phòng anh ta chưa
tắt. Việc nầy năng động tôi khiến tôi lại trổi dậy, tiếp tục hành thiền.
Sau một lúc kinh hành, thân và tâm được bổ xung lại nghị lực, và rồi tôi
lại có thể toạ thiền một hai giờ nữa, ngồi thiền, kinh hành, và lại ngồi
thiền. Như vậy tôi đã thúc bản thân đến mức có thể được, và nó rất là có
giá trị tốt. Tác dụng tích lủy về định tâm và chánh niệm cũng cần nên có,
sau một ngày hành tập, trong những giờ ban đêm, tâm đạt được tính chất
xuyên thấu sâu thẳm. Nếu bạn cảm thấy nó đang xãy ra như vậy, xin cứ tiếp
tục hành tập. Toạ thiền và kinh hành càng nhiều càng tốt. Có rất nhiều thứ
để chứng nghiệm, rất nhiều tần lớp của tâm để trải qua. Rất nhiều trung tâm Thiền ở Miến Điện, hành giả chỉ ngủ có bốn giờ và,
như lúc thiền được phát triển hơn, giờ ngủ lại càng ít đi. Ta không nên
rơi vào cạm bẩy điều kiện hóa chính ta, suy nghĩ rằng nếu ta không đủ bẩy
hay tám giờ ngủ ta sẽ bị mệt mỏi. Đó đơn giản chỉ là một mô hình, thói
quen củ. Khi tâm được quân bình cả ngày, không dính mắc, không lên án,
không đồng hóa với sự vật, ta không tiếp thâu nhiều, cho nên tâm không bị
mỏi mệt và căng thẳng. Thầy tôi đã nói rằng khi ông ta được huấn luyện ở
Miến Điện ông ta đã qua một thời gian năm ngày không ngủ,không mệt mỏi gì
cả. Chỉ làm một cách nhịp nhàn và đều đặng, hành tập y hệt theo Minh Sát
tuệ, Hành tập chánh niệm. Nhạy bén đến những gì cần thay đổi trong bạn và
nếu bạn không thấy mệt hay buồn ngủ, tiếp tục hành
tập qua đêm luôn. -ooOoo- SÁNG THỨ 8 Hướng Dẫn Tác Ý H
trạng thái tâm là quả. Và đôi khi tâm là nhân và động tác thân là quả.
Tác ý nổi lên ra lệnh chân phải chuyển hướng. Chẵng có ai cả, không có một
người nào làm động tác xoay chuyển đó. Nó là mối liên hệ nhân và quả một
cách khách quan. Nhưng, nếu trong lúc xoay mà ta không chánh niệm được
toàn cảnh diển trình đang xãy ra, nó rất dể dàng bị đồng hóa với suy nghĩ
rằng có một "người" nào đó đang làm như vậy. Giả sử bạn đang cảm giác lạnh và bạn đi tìm một áo len để mặc. Do bởi
sắc thân thọ cảm, sự ước mong trổi dậy làm sau cho ấm thân. Bởi ước mong
đó, ý chí nổi lên đi tìm áo để mặc. Do từ ý chí đó, thân sẽ di động. Thói
quen chánh niệm với tất cả những tác ý đó tạo thành trí tuệ quán sát trong
mối liên kết hỗ tương, tiến trình giửa thân và tâm. Trong khi ngồi, tác ý cũng có thể được khám phá ra trước mỗi hành động.
Nếu bạn thay đổi tư thế, sẽ có một tác ý như vậy xãy ra trước. Nếu bạn mở
mắt, sẽ có tác ý mở mắt trước. Những cái nầy cần nên được lưu tâm. Tác ý
không luôn luôn là tư tưởng trong tâm, không nhất thiết phải là những
tiếng nói trong đầu. Lắm khi chúng được cảm nhận ra chỉ là một sự thúc
dục, một tín hiệu gì đó sắp xãy ra. Bạn không cần chữ hoặc câu nói trong
đầu. Chỉ thuần lưu ý sự thúc đẩy đó cái tạo ra hành động. Và bạn bắt đầu
thấy ra liên hệ nhân quả đang làm việc trong thân tâm nầy như thế nào,
khái niệm về tự ngã tan biến vào trong bản chất trải rộng tự nhiên và đơn
giản của các nguyên tố. -ooOoo- SÁNG THỨ CHÍN Hướng Dẩn: Thọ Thực C Khi giờ thọ thực bắt đầu. Diển trình đầu tiên là thức ăn. Lưu tâm
"thấy, thấy." Sau đó là một tác ý để lấy thức ăn, tiến trình tâm thức.
Phần tác ý đó cũng nên được ghi nhận ra. "Tác ý, tác ý." Tâm ra lệnh khiến
cho cánh tay di chuyển. "di chuyển, di chuyển." Khi tay và muỗng chạm vào
thức ăn, sẽ có cảm giác va chạm, sự tiếp xúc. Và rồi có tác ý để nhấc cánh
tay, nhấc tay lên. Lưu ý một cách cẩn thận đến những diển biến nầy. Mở miệng. Đưa thức ăn vào. Ngậm miệng lại. Tác ý để hạ cánh tay xuống,
và rồi sự di động. Mỗi lần một sự kiện. Cảm nhận được thức ăn trong miệng,
kết cấu của thức ăn trong miệng. Nhai. Kinh nghiệm từng động tác. Khi ta
bắt đầu nhai, sẽ có vị giác xãy ra. Chánh niệm về vị giác nầy. Như lúc ta
tiếp tục nhai, vị giác biến mất dần. Nuốt. Lưu ý đến nguyên biến trình
từng chặng một đang xãy ra. Chẵng có ai đằng sau đó cả, không ai là người
ăn. Nó chỉ là nhiều tác ý nối tiếp nhau, sự chuyển động, vị giác và xúc
giác. Chúng ta là thế-những diển trình liên tục của các căn trần hỗn hợp
xãy ra, và bằng cách chánh niệm từng diển biến một, ta cởi bỏ được khái
niệm về bản thân thật có. Ta thấy được toàn bộ liên tiếp những chuyển biến
hoạt động của thân và tâm. Tác ý, tư tưởng, cảm thọ, sự di chuyển, tất cả
đều nhịp nhàng liên hệ lẩn nhau, tâm tác động cho thân di chuyển, thân xúc
chạm làm cái nhân xui khiến sự thèm muốn và tâm lại tác ý. Thông thường ta ăn không chánh niệm. Mùi vị đến và qua đi rất nhanh.
Lúc thức ăn vẩn còn trong miệng, và vì tham lam, thèm thuồng xúc vị được
tiếp tục hoài, tay không ngừng gắp thức ăn, nói chung ta không ý thức được
toàn vẹn diển trình được xãy ra. Nhai nuốt hết tất hết thức ăn trong miệng
trước rồi hảy tiếp đến miếng thứ hai. Theo cách nầy ta trở nên nhạy cảm
đến thân và có thể biết được dung lượng bao nhiêu ăn cho vừa đủ. Khi có
chánh niệm trong lúc ăn, ta không dể gì bị bội thực cả. Trong buổi sáng tu tập nầy, tất cả mọi việc đều được làm chẩm rải để ta
có cơ hội thanh tra một cách kỷ càng những gì đang xãy ra. Khi chánh niệm
được phát triển mạnh, bạn có thể làm công chuyện nhanh, bình thường. Nhưng
trong khi hành tập, không nhất thiết phải vội vã. Làm một cách từ tốn
trong im lặng và ý thức. Sát nhập thiền ăn vào đời sống thực tập hằng ngày
không để một kẻ hở gián đoạn nào trong chánh niệm. Từ lúc thức dậy, xuyên
qua mọi sự việc được làm trong ngày, lúc nào cũng chánh niệm, tạo nên mọi
sự việc đều là thiền. -ooOoo- TỐI THỨ CHÍN Những Chướng Ngại T
Cái hữu ích lớn nhất bây giờ là nhận diện được kẻ thù là ai. Nếu không
nhận ra, chúng vẩn giữ nguyên tiềm năng hủy hoại trong tâm; trong ánh sáng
chánh niệm, chúng trở nên dể dàng để đối phó hơn. Có năm tên giặc hung
hiểm trong trận chiến tâm thức nầy, học cách nhận dạng được chúng thì vô
cùng thiết yếu để hiểu biết, xuyên thấu vào tần lớp sâu thẳm của chúng
hơn. Kẻ thù thứ nhất, hay chướng ngại, là ái dục; thèm khát sau khi cảm thọ
được khoái lạc, muốn nắm giữ đối tượng cảm giác đó. Nó làm cho tâm luôn
phóng ra ngoài, tìm kiếm đối tượng bằng cách nầy hay cách khác với trạng
thái xáo động không quân bình. Bản chất tham ái dục lạc không lúc nào là
đủ hay thỏa mản. Như cái túi tham không đáy, nó chẵng bao giờ dừng nghĩ
kiếm tìm. Ta thọ hưởng khoái cảm đó, nó xuất hiện và biến mất, bản chất vô
thường trong mọi hiện tượng, và ta bị bỏ rơi với cảm giác không thỏa mản
và rồi lại mong muốn nửa để bù vào chổ trống đó để cho được toại nguyện.
Khi ta chưa trực diện với tâm thức ái dục đó, ta vẩn chưa hoàn tất, vẩn
luôn đi tìm khoái lạc mới, lạc thú khác. Nó có thể là sự luyến ái một
khung cảnh đẹp, âm thanh ngọt ngào, hương thơm, mùi ngon, khoái cảm về
thân, hay ý tưởng mê say, quyến rủ. Sự dính mắc vào trong những đối tượng
nầy làm tăng trưởng nhân tố tham; một cách thật chính xác, tham trong tâm,
sự bám níu nắm giữ nầy ràng buột ta đi trong bánh xe sinh tử luân hồi. Khi
ta giải quyết thành tựu rốt ráo chướng ngại tham ái nầy thì mới gọi là yên
ổn. Nếu không, ta vẩn ở lẩn quẩn trong hấp lực của chiếm hữu và dính mắc. Kẻ thù thứ hai là sân hận; nóng giận, ác tâm, ác cảm, bực mình, phát
cáu, là những biểu hiện của một tâm thức luôn kết án, chê trách. Nó là tâm
lúc nào cũng phản kháng lại đối tượng và muốn vất bỏ nó đi. Đây là trạng
thái bạo động và hỗn loạn. Trong Anh ngữ ta dùng hai câu nói để diển tả
một cách rỏ ràng ảnh hưởng của hai tên giặc nầy, ái dục và ác tâm. Người
ta thường nói "thèm khát đang đốt cháy" (burning with desire), hay người
đó đang "cháy thành ngọn" (buring up), có nghĩa là người đó đang rất là
nóng giận. Tâm trạng nầy là thật vậy đang nóng đốt: một sự đau khổ to lớn. Kẻ thù thứ ba là tâm lười biếng, tính chất uể oải, lờ phờ. Một trạng
thái tâm như vầy thì chỉ muốn đi ngủ thôi. Có loài sinh vật gọi là con
sên: dài khoảng 2.5 centimeter, không thể hiện một động năng xúc tác nào,
với tôi nó luôn luôn biểu hiện tính chất chậm chạp lười biếng, trạng thái
mê mờ. Nếu ta không vượt qua được trạng thái tâm mê mờ buồn ngủ đó, chẵng
có gì xong được, chẵng có gì để nhận dạng rỏ ràng, tâm nằm trong tình
trạng nặng nề và đần độn. Chướng ngại thứ tư là trạo cử, tâm thức trong tình trạng lo lắng, hối
hận và xáo động thì không thể nào an định được. Nó luôn nhảy từ đối tượng
nầy sang đối tượng khác mà không có chánh niệm. Cái tâm hay thay đổi do dự
nầy ngăn cản sự phát triển trực giác nội quán. Kẻ thù lớn thứ năm là nghi ngờ, và như thế nào đó nó là tên giặc khó
trị nhất. Nếu ta vẩn chưa xuyên suốt được nó, hồ nghi sẽ khống chế tâm,
làm mất đi tuệ năng, ngăn trở sự tin tấn sáng suốt. Khi tâm nầy trổi lên,
nó chất vấn về khả năng và những gì ta làm. Có thể từ lúc đầu tiên có mặt
ở đây, tư tưởng đã hỏi, "tôi đang làm gì ở đây? Tại sao tôi phải đến đây?
Tôi không thể làm như vậy, nó khó khăn quá." Đây là tâm nghi ngờ, một
chướng ngại lớn trên con đường hành tập. Tất cả những chướng ngại nầy - tham ái, giận, lười, trạo cử, hồ nghi
-đều là các tần lớp tâm sở. Chúng không có một bản ngã thường còn, chỉ là
yếu tố vô cá tính hoạt động theo cách riêng của chúng. Sau đây là một sự
so sánh để làm sáng tỏ những ảnh hưởng chướng ngại nầy. Thử tưởng tượng
một cái hồ nước trong veo. Cảm giác tham ái giống như những mầu sắc tuyệt
đẹp pha lẫn trong nước. Ta trở nên xuất hồn bởi vẻ đẹp và sự lôi cuốn phức
tạp của mầu sắc cho nên không đi sâu vào trong hồ. Giận, ác tâm, không ưa
thích thì như nước đang sôi. Nước đang sôi thì rất là xáo động. Bạn không
thể thấy được đáy hồ. Tâm thức xáo động nầy, phản ứng hung bạo của sân và
ghét bỏ, là chướng ngại lớn để đi đến sự hiểu thấy thấu đáo. Hôn trầm - dã
dượi là nước hồ bị bao phủ một lớp rong dầy đặt. Ta không thể nhìn thấu
suốt tận đáy hồ do bởi quá nhiều rong. Nó là một tâm thức nặng nề. Phóng
dật - lo âu như là hồ nước khi có gió. Mặt nước chao động nhiều khi gió
thổi mạnh. Khi bị tác động bởi phóng dật - lo âu nầy, tuệ giác không phát
triển được vì tâm không được tập trung và bình an. Hoài nghi thì như nước
hồ bị khuấy bùn đục; trí tuệ bị ngăn cản bởi tâm vẫn đục bao phủ. Có nhiều cách để đối trị với những tên giặc nầy khi chúng xuất hiện
trên trên con đường hành tập. Đầu tiên là nhận dạng ra chúng, thấy chúng
rỏ ràng từng giây phút. Nếu cảm giác tham ái nổi lên, nhận ra một cách tức
thì rằng đang có tham ái trong tâm, hay nếu có oán giận, hay hôn trầm - dã
dượi, hay phóng dật, lo âu, ý thức liền tức thời chướng ngại ma quân đó
đang hiện diện. Sự nhận biết đó có một năng lực vô cùng mạnh mẽ, từ ý thức
được nó mà ta vượt qua chướng ngại một cách hữu hiệu. Nhận thức dẩn đến
tâm chánh niệm và chánh niệm nghĩa là không bị thằng thúc, không kết án,
không đồng hóa với đối tượng. Tất cả chướng ngại đều là trạng thái tâm vô
thường. Chúng nổi lên và tan biến, như mây trên trời. Nếu ta chánh niệm
khi chúng đến và đừng có một phản ứng hay đồng hóa gì cả, chúng chỉ diển
hành xuyên qua tâm mà không tạo nên sự quấy rầy nào. Chánh niệm là phương
pháp hữu hiệu nhất để đương đầu với chúng. Cũng có những giải liệu đặt biệt cho những chướng ngại nầy khi tâm bị
áp chế bởi chúng và khi chánh niệm còn yếu. Khi tham ái chế ngự tâm, Rất
hữu ích để ta quán chiếu thực chấc của cái thân đang tan hoại nầy, sự thật
là tất cả chúng ta, ở điểm cuối cùng, cũng sẽ là cái thây ma. Hình như nó
chỉ là cái gì trong chốc lác, ta sẽ là người già lụm cụm bảy mươi, tám
mươi, hay chín mươi tuổi. Ngài Hán Sanh ( Han Shan), một nhà thơ cổ sống
ẩn dật, đã diển tả việc nầy một cách rỏ ràng: Một rèm ngọc trai treo trước sảnh đường đầy ngọc bích, Sự quán tưởng nầy làm yếu đi nhục dục tham ái lúc ta nhận ra cái chết
của mình sắp xảy ra. Không phải rằng chết chỉ dành riêng cho một số người.
Khi ta không cảm nhận ra sự cấp bách của sự chết thì ta không cảm giác cái
vô song và quyền năng của giây phút hiện tại. Cũng có mối tương quan giữa các tần lớp tham dục và cảm giác quá nuông
chiều bản thân trong việc ăn uống, ngủ nghĩ. Tiết chế hai phần nầy làm
giảm đi tâm tham ái và đem lại trạng thái rỏ ràng, trong sáng hơn. Ác tâm, nóng giận, đố kỵ, sân hận; một lần nửa, cách tốt nhất để đối
phó với những chướng ngại nầy là biết được chúng, là có chánh niệm. Bạn
đang ngồi và bất ngờ bị tràn ngập với nhiều suy tưởng bất thiện về một
người nào hay hoàn cảnh. Ngồi lại và lưu ý "giận, giận." Không đồng hóa
với cơn giận, không tự trách mình tại sao lại giận. Chỉ đơn giản nhìn. Nó
đến và sẽ đi. Sân hận càng tăng khi nó được nung đúc bằng sự đồng hóa,
"tôi giận và tôi cũng nên giận bởi vì người đó đụng chạm đến tôi. . .,"
Thay vì đi theo sở hướng của ác tâm, ta chọn lựa cách chỉ quan sát thật kỹ
lưỡng. Bạn sẽ thấy ra rằng tự nhiên nó sẽ mất năng lực để quấy rầy tâm.
Một cách đặt biệt khác để đương đầu với tâm ác khi chúng trở nên quá mạnh
là quán tâm từ: mong mỏi chúng sinh mọi nơi đều được bình an hạnh phúc,
rải tâm từ đến từng người, và cuối cùng đến riêng những người bạn đang
giận đến, bao trùm người đó với ý tưởng thương yêu mặc dù ở thời điểm đó
có thể nó rất khó khăn. Dần dà nóng giận sẽ tiêu tan và một lần nửa tâm sẽ
mát mẻ và bình an trở lại. Một cách thực dụng nhất đương đầu với ác tâm,
nếu bạn có một cảm giác đố kỵ quá sức đến một người, là tặng cho họ một
món quà. Nó rất khó để ôm khư khư cơn giận trong sự thể hiện được một hành
động buông xã, bởi vì bạn đang có lòng nhân hậu và mở rộng, nó giúp ta
đánh tan đi sự căng thẳng và bực dọc. Nó là đường lối rất thiện xão để
giải toả tâm từ sự nóng đốt của sân hận. Có thể, một cách thông suốt hơn nửa trong đối đầu với giận và sân hận
là quán chiếu trên luật nhân - quả: để hiểu ra rằng ta là người thừa kế
hành động chính ta tạo nên. Mỗi chúng sanh thì đang trải qua kinh nghiệm
những kết quả của hành vi thiện và bất thiện. Nếu người nào đó làm cái gì
bất thiện, thay vì phản ứng lại với giận dử, ta có thể đáp ứng lại với
lòng bi mẫn, thông cảm rằng người đó đang bị vô minh thâu nạp, theo lối
đó, nhân quả báo ứng, cái khổ sẽ trở lại với chính họ. Không cần phải tưới
tẩm thêm khổ đau trên khổ đau mà người đó đã tự tạo ra rồi; thay vì vậy,
xuất phát từ lòng bi mẫn, ta nên xoa dịu đi nổi chồng chất của vô minh đó. Hôn trầm và dã dượi. Một lần nửa, cách tốt nhất để đối trị chúng là
quan sát chúng một cách thật kỷ, giảo nghiệm và tra cứu tính chất của
chúng, tính chất lờ đờ của tâm. Nội chiếu xuyên thấu vào trong tâm đó. Với
cách chánh niệm tra cứu nầy, bạn có thể kinh nghiệm được rằng trạng thái
ngủ gục biến mất vừa kịp lúc. Bạn có thể lưu ý một vài lần "buồn ngủ, buồn
ngủ," và rồi ngay sau đó, tâm bừng tỉnh hoàn toàn trở lại. Bằng cách chăm
chú mà không đồng hóa với cảm giác buồn ngủ, nó sẽ vượt qua được. Nhưng
nếu bạn cố chánh niệm mà vẩn bị gục hoài, có vài phương pháp đặt biệt để
làm. Thay đổi tư thế. Nếu bạn đang ngồi, hảy đứng dậy và bước vụt nhanh
lên. Hoặc nếu bạn đang ở trong nhà, hảy đi ra ngoài. Không khí tươi mát sẽ
tiếp thêm nghị lực. Nhìn vào vật sáng vài giây phút, bóng đèn, mặt Trăng,
hay ngôi sao. Ánh sáng có ảnh hưởng đánh thức lại bộ não. Rửa mặt bằng
nước lạnh. Đi kinh hành thục lùi. Hôn trầm và dã dượi đều là vô thường và
có thể vượt qua được. Nếu bạn đã làm mọi cách mà vẩn còn gục, thì thôi hảy
đi ngủ. Nhưng hảy cố gắng. Nếu mỗi lần cơn ngủ đến, ta nghĩ, " ồ được, tôi
sẽ đi ngủ một chút," nó làm cho phóng dật mạnh thêm thôi. Phải kiên quyết
và có nghị lực để đối trị với chướng ngại nầy. Phóng dật và lo âu. Một lần nửa, chỉ chánh niệm. Nhìn vào phóng dật,
tra cứu đó là tâm gì, lưu ý kỷ lưởng về phẩm chất phóng dật. Nếu bạn đang
ngồi thiền và có cảm giác lo âu và không tập trung, chuyển hướng lấy tâm
thức đó làm đối tượng quan sát. Chỉ ngồi nhìn nó, "phóng dật, phóng dật."
Quan sát mà không bị đồng hóa. Chẵng có "ai" đang phóng dật; hơn nửa đó
chỉ là trạng thái tâm thức riêng biệt đang làm việc. Nó đến và sẽ đi. Nếu
sự nhận biết được quân bình, nó không quấy rầy tâm ta. Một cách khác nửa là tập trung tâm lại, gom tâm vào một điểm. Đây là
phương thuốc hữu hiệu đặt biệt để trị chứng bệnh phóng dật. Nếu tâm cảm
thấy bị xao động nhiều, trở về chánh niệm với hơi thở. Đặt tâm trên một
đối tượng và trụ ở đó khoảng một thời gian, hai mươi phút, nửa giờ, như vậy
để yếu tố tập trung trở nên vững chắt. Ngồi yên, thẳng, bất động, đúng tư
thế cũng giúp cho vượt qua được phóng dật. Kẻ thù cuối cùng là nghi ngờ. Thật là tốt để nhìn ra nghi hoặc là gì
bởi vì nó có thể là một cản trở không thể vượt qua được trên đường hành
tập và cũng có thể ta sẽ đầu hàng. Một lần nửa, phương pháp hữu hiệu nhất
và theo cách thấu suốt được trong đối trị với hồ nghi là nhìn nó, đối diện
với nó, biết được nó đang có mặt. Khi nghi ngờ hiện diện, lưu ý nghiêm túc
đến tâm trạng hồ nghi đó mà không bị đồng hoá chúng là tôi hay ta. Trạng
thái đó không có một cái thể, không tôi và của tôi. Nó chỉ là suy tưởng,
một trạng thái tâm. Nếu ta có thể nhận dạng và không bị đồng hóa, nghi
hoặc đến, ta ngồi lại và để ý, "nghi hoặc, nghi hoặc," tự động nó sẽ đi
thôi. Một cách khác để đối trị với nghi ngờ là có một sự hiểu biết đúng về
cái gì ta đang làm, trọn vẹn con đường minh sát tuệ là gì. Ta không cần
những đức tin mù quán. Hiểu được giáo Pháp một cách minh mẩn có thể là một
sự trợ giúp to lớn để giải quyết vấn đề nghi hoặc nầy lúc chúng có mặt.
Vậy khi tâm nghi kỵ đến bạn có thể phân biệt rỏ ràng từ kinh nghiệm bản
thân, từ chíng sự hiểu biết của mình. Thường ta có khuynh hướng lên án những chướng ngại nầy khi chúng đến.
Tâm lên án kết tội chính bản thân nó là nhân tố ác cảm. Mỗi khi tâm khởi
niệm lên án, tác động đó chỉ làm tăng sức mạnh kẻ thù mà thôi. Đây không
phải là cách. Không phán xét, không định mức. Chướng ngại đến, chỉ đơn
thuần quan sát. Chánh niệm là năng lực kềm tỏa không cho chúng không quấy
động lên. Chúng có thể liên tiếp trổi dậy, nhưng chúng không làm quấy rầy
đến tâm bởi vì tâm không có phản ứng lại chúng. Nếu cứ để chướng ngại lộng hành một cách mạnh mẽ trong tâm hoài, cơ hội
phát triển tuệ nội quán rất là khó. Trong vài ngày đầu, tâm như con ngựa
hoang dại, đã có rất nhiều phóng dật, nghi ngờ, và tham ái, cho đến khi
tâm bắt đầu thuần thục lại. Những khó khăng ban đầu ta tạm vượt qua nhưng
chưa phải là chặng cuối. Giặc thù sẽ trổi lên nửa lúc tâm bắt đầu xuyên
thấu vào trong các tần lớp bị điều kiện hoá sâu thẳm hơn. Nhưng lúc nầy
tâm đã được tăng trưởng một ít, ta cũng đã có chúc tự tin vào khả năng để
đối phó với những trạng thái tâm nầy, nhận thức được chúng đến rồi đi, nổi
dậy và biến mất. Hiểu biết rằng chướng ngại là vô thường cho ta một cái
tâm quân bình vững chắt. Xin cứ giữ phần tin tấn và luôn luôn nhận thức;
cái tâm mà đã vượt qua được những giông bão to lớn trong tư thế quân bình
và dể kiểm soát thì hầu như không gì lay chuyển được nó. Hỏi: Tôi nên làm gì khi bị căng thẳng từ dụng công quá mức?
Đáp: Khi bạn bị căng thẳng hay thúc ép quá sức, hảy đi ra ngoài
ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên, cây cối bầu trời. Chung quanh đây thật
là hữu tình, trải rộng bao la. Nên ra ngoài bước thong thả vài vòng, nhưng
vẩn với ý thức mình đang làm gì. Chỉ trong chốc lác, cảnh vật sẽ làm dịu
lại cái tâm căng thẳng. Đức Phật thường hay đề nghị ta nên tiếp xúc với
thiên nhiên. Do sự cô tịch của thiên nhiên, sẽ làm tâm bớt đi giao động
nặng nề. Hỏi: Có khi tôi không nhận nhận ra tiến trình hơi thở. Tôi phải
làm gì?
Khi tâm trở nên tỉnh lặng, hơi thở cũng nhẹ ra. Nếu bạn mất ý thức hơi
thở một cách hoàn toàn, chuyển ý thức sang cảm thọ thân, tư thế thân, hay
chỉ ý thức rằng mình đang biết, mặc dầu hình như nó không chú tâm vào một
đối tượng nhất định nào. Khi tâm định tiến triển một cách tốt đẹp, đôi khi
bạn mất luôn cả cảm giác thân. Giữ chánh niệm về việc đó. Nó cũng là vô
thường, rồi hơi thở sẽ trở lại. Hỏi: Nó như thế nào khi ta nhận ra sự sợ hải và cố suy diển nó
đến từ đâu?
Bạn có thể làm vậy, nhưng sẽ là một biến trình không dừng nghĩ. Phân
tích nguyên nhân có nghĩa là còn kẹt trong đó. Nó sẽ đáo đi trở lại, và
mỗi lần như vậy bạn sẽ phải phân tích nguyên nhân mới. Khi tuệ nội quán
được trưởng thành bạn có thể nhận ra nổi sợ hải và để nó đi. Ta không cần
phải suy diển nguyên nhân. Vấn đề của ta là buông xả chúng đi. Trạng thái
thiền, một phương pháp rất cơ bản để đối diện những tiêu cực nầy là thấy
được, nhận dạng, không đồng hóa, và xả bỏ chúng. Thật là đơn giản. Chỉ cần
chánh niệm, ý thức được những gì đang xãy ra. Hỏi: Tôi thường hay bị đồng hóa với chướng ngại. Có phương tiện
thù thắng nào để chửa chứng bệnh nầy?
Người Tây Tạng dùng một hình ảnh tôi thấy rất là hay. Họ so sánh tâm
như là bầu trời quang đản, trùm khắp, không một án mây. Mọi hiện tượng của
thân và tâm thì đang xãy ra trong bầu trời quang đãng nầy. Hiện tượng
không phải là bầu trời. Bầu trời tự nó đã trong veo không bị ảnh hưởng bất
cứ việc gì đang xãy ra. Nắng, mưa, mây, gió đến và đi, bầu trời vẫn trong
lặng. Ví tâm mình như bầu trời rộng mở trong sáng, để mọi thứ tự nhiên đến
rồi đi. như vậy tâm sẽ được quân bình, thư thả, và luôn quán sát sự hằng
chuyển. -ooOoo- SÁNG THỨ 10 Hướng Dẩn: Thức M
Thỉnh thoảng trong lúc tọa thiền bạn có thể chuyển sự chú tâm vào thức
biết. Hơi thở ra vào, phồng xẹp, chỉ là diển trình của sắc uẩn. Cái nhận
ra biến trình mới đúng là tâm. Khi bạn yên lặng và tập trung, chuyển hướng
chánh niệm đến giác "biết." Đừng gạn lọc để cố tìm nó hay chỉ điểm nó ở
đâu trong thân. Chỉ đơn giản nhẹ nhàn biết rằng có một tiến trình nhận
thức đang xãy ra. Một trong những yếu tố chứng ngộ là nghiên cứu về Pháp, có nghĩa là
khảo sát bản chất tâm, cái tâm tìm tòi tỉ mỉ những yếu tố danh sắc làm
việc như thế nào. Đừng ngại sử dụng tâm theo cách nầy để điều tra. Nhưng
không phải với phân tích bằng từ ngữ, với tư tưởng hay khái niệm. Gắng bắt
được cảm giác, diển trình thức đang xãy ra cùng lúc với đối tượng. Kinh
nghiệm nầy đem đến giải thoát từ sự đồng hoá với người quan sát. Tuệ giác
nội quán đến từ nhận dạng ra rằng quan sát mà không có người quan sát, có
chứng kiến mà không có nhân chứng. -ooOoo- TỐI THỨ MƯỜI Chiến sĩ T Sách Sỹ Đạt Đa bởi tác giả Hermann hesse, diển tả một cách đẹp
đẽ sự nổi bật của một chiến sĩ nhưng nội dung quyển sách thì hoàn toàn
khác biệt hơn Carlos và Don Juan. Sỹ Đạt Đa đã nói rằng qua quá trình huân
tập, Ngài đạt được ba thần thông: Ngài có thể suy nghĩ, Ngài có thể nhẫn
nại, Ngài có thể buông xả. Ba phẩm chất của tâm, ba đặt tính của một người
chiến sĩ. Khả năng suy nghĩ trong câu nầy có nghĩa là sự rỏ ràng, trong
sáng, không bị rối ren hay nhầm lẫn về những gì đang xãy ra. Trong sáng về
phương diện có liên quan đến bản thân-ý thức được các tư thế, hơi thở, sự
tác động lẫn nhau các yếu tố vật thể trong thân, trở nên nhạy cảm bao
nhiêu thì đủ cho miếng ăn, giấc ngủ. Tạo quân bình tất cả những năng lượng
thân, ăn uống ngủ nghĩ có mực độ. Rỏ ràng trong phương có diện liên quan
đến tâm-xúc cảm, tư tưởng, và các tần lớp tâm thức khác. Không bị cuốn hút
vào sự quay cuồn của tâm, trụ vào nơi rỏ ràng, trong sáng, tỉnh lặng trong
dòng tương chuyển của chúng. Một khía cạnh khác của Ngài Sỹ Đạt Đa trong quyền năng suy tưởng là sự
dũng cảm: không bị khóa chặt vào định kiến của vạn hữu ra sao. Đủ đảm lược
để mở rộng lòng tiếp thu những sự kiện có thể khác nhau xãy ra. Sỹ Đạt Đa
đã không tin một cách mù quán. Ngài đã không tin cha mẹ, thầy bạn, kể cả
Đức Phật. Ngài muốn tìm ra chân lý cho bản thân mình, và cái dũng làm được
việc đó đưa Ngài đến một kinh nghiệm rộng mở; đi vào rừng ba năm và tu
hạnh đầu đà; có mối quan hệ tình cảm đậm đà với Kamala, một cô gái làng
chơi trong giới thượng lưu; một doanh nhân trong ngành thương mãi. Ngài
lúc nào cũng mở rộng và đủ can đảm để thử qua mọi thứ và chấp nhận những
hậu quả, không rụt rè bẻn lẻn bằng cách có những tư tưởng phân biệt hạn
hẹp. Sức mạnh của tư duy là sự rỏ ràng trong sáng và dũng cảm-để thử
nghiệm, để nghiên cứu, thăm dò thấu đáo những gì đang xãy ra. Cái dũng của người chiến sĩ bao gồm cả hai, bắt buộc và rèn luyện trong
thiền tập. Nó đòi hỏi cái dũng ngồi đối diện với cơn đau, không trốn tránh
hay che giấu ngụy trang gì cả; chỉ ngồi đó và đối diện nó một cách tuyệt
đối và vượt qua được nổi sợ hải của ta. Nó đòi hỏi sự dũng cảm để đào sâu
và nhờ sự thăm dò đó mà ta khám phá ra được những yếu tố sâu thẳm nhất của
danh và sắc. Có thể nói ở mức ban đầu, ta hay bị rối loạn lung lay do bởi
đã sống quen với tiện nghi thuận lợi, nay, tất cả đều ngược trở lại. Nó
đòi hỏi rất nhiều dũng cảm để buông bỏ các thứ mà trước kia ta nắm giữ do
vì sự an toàn bản thân. Buông xả, để kinh nghiệm được dòng chuyển biến của
vô thường. Nó đòi hỏi dũng cảm để trực diện nền tãng cơ bản của vạn hữu,
trạng thái bấp bên, giả có của danh sắc nầy. Để đối diện với thực tế rằng
mỗi sát na cái gì được gọi là "ta" thì đang biến hoại, tan rả dần; không
có một chổ đứng thực thụ nào. Nó đòi hỏi cái dũng để đối diện với sự chết.
Chứng nghiệm sự chết đi của khái niệm bản ngã; cảm nhận được cái chết từng
giây phút qua đi trong lúc ta còn sống cần phải có sự dũng cảm và tính
không sợ hãi của một chiến sĩ toàn diện. Ngài Sỹ Đạt Đa đã có thể tư duy, nhẩn nại và buông xả. Nhẩn nại có nghĩa là chịu đựng và yên lặng. Có nghĩa là không bị lôi
cuốn vào hành động ái dục. Nếu ta không có khả năng chịu đựng, mỗi ái dục
trổi lên trong tâm sẽ thúc đẩy ta hành động, nghiệp tạo thêm nghiệp và vì
vậy mà ta cứ lẩn quẩn trong vòng thèm khác. Đôi khi nhẩn nại bị diển giải
sai lầm là thụ động, không làm gì cả. Không phải tất cả là như vậy. Ngài
TrangTử đã viết, Cái thụ động của một minh nhân là không phải không làm gì. Nó không
phải học mà được. Nó không bị lay chuyển bởi bất cứ cái gì. Minh nhân
yên lặng bởi vì vị ấy không bị lay chuyển, cũng không phải vì vị ấy muốn
yên lặng. Nước vẫn yên lặng như tờ. . . tỉnh lặng một cách tuyệt đối.
Nếu nước hồ đã thật trong, thật lặng yên, tâm linh con người đâu cần
muốn gì hơn nữa. Trái tim của một minh nhân thì thật là tỉnh lặng, nó là
mặt gương của trời và đất, mặt gương của vạn vật. Tánh không, sự đứng
lặng, yên tỉnh. . . Lặng yên, thụ động-đây là vị trí của trời và đất.
Đây là sự toàn hảo trong đạo. Minh nhân tìm đây là nơi tịnh dưỡng. An
trú, mọi vật đều rỗng lặng. Nhẩn nại có nghĩa là tâm lặng yên, không có một móng khởi nào. Nếu ta
cứ bận rộn ê a với giáo lý nầy, giáo lý nọ, nó sẽ là một chướng ngại, ngăn
cản ta nhận thức rỏ ràng, không nhận ra sức năng và thấu triệt là từ sự
lặng yên phát khởI ra, từ cái dừng được những cuộc đối thoại trong đầu.
Bao nhiêu lải nhảy trong đầu còn tiếp tục, là bấy nhiêu ta còn bị cầm tù
trong văn tự, quản thúc ta từ sự mở rộng quan hệ trực tiếp đến thế giới
chung quanh-một thế giới thật khác biệt từ những định kiến đưa ta đến
nhiều phóng tưởng. Dừng được cuộc đối thoại từ bên trong đó mới đúng là
hạnh nhẩn nại và lắng nghe. Tiếng vọng trong tâm Ngài Sỹ Đạt Đa, dẩn đường chỉ lối Ngài rời cha
Ngài trở thành một khất sĩ khổ hạnh, và rồi từ rừng sâu đi vào thế giới
đời sống trần tục và tình yêu. Nhưng dần dà tính chất lắng nghe đó trở nên
chán chường do bởi sa đọa nhiều vào ái dục. Ngài bị lôi kéo vào tham ái và
Ngài đã không thể nghe những âm vọng đó nữa. Thất chí, Ngài lết mình đến
cạnh dòng sông, vừa kịp lúc, trước khi gieo mình quyên sinh, Ngài bổng
nhiên nghe được tiếng vọng từ dòng sông, từ tâm Ngài, tiếng sóng "ầm" rền
vang. Và Ngài ở cạnh dòng sông rất nhiều năm, học hạnh lắng nghe và nhẩn
nại. Sỹ Đạt Đa đã nghe được. Bây giờ Ngài lắng nghe một cách chăm chú,
hoàn toàn thâm nhập, hoàn toàn rỗng suốt. Thấm nhuần mọi thứ. Ngài đã có
cảm giác rằng bây giờ Ngài hoàn toàn học được nghệ thuật lắng nghe. Ngài
đã từng nghe những chuyện nầy trước kia, nhiều tiếng vọng khác nhau từ
dòng sông. Nhưng ngày hôm nay chúng nói lên những âm hưởng khác biệt.
Ngài đã không thể phân biệt được sự khác nhau, âm vọng vui từ âm vọng
buồn, âm vọng trẻ thơ xuất phát từ người lớn. Tất cả chúng thuộc về lẩn
nhau. Tiếng than vãn của những ai đang khao khát, tiếng cười của ngườI
trí, tiếng khóc phẩn nộ, và tiếng rên của kẻ sắp chết. Những âm vọng đó
được bện và cài lẩn vào nhau, ôm quyện vào nhau theo hàng ngàn cách. Tãt
cả âm vọng đó, tất cả những mục tiêu, những ao ước, những đau khổ, những
khoái cảm, tất cả những thiện và ác, cùng tất cả với thế giới, cùng tất
cả những cao trào biến sự và dòng nhạc cuộc đời. Khi Ngài Sỹ Đạt Đa lắng
nghe một cách chăm chú đến dòng sông, đến bản nhạc của hàng ngàn giọng
điệu, khi Ngài đã không lắng nghe đến tiếng khóc hay tiếng cười, đã
không bị mà mắt đến một âm vọng đặt thù nào, tất cả đều thấm vào thân
Ngài, nghe tất cả, sự hợp nhất-rồi bản nhạc hùng vĩ của một ngàn âm vọng
được tóm gọn lại trong một chữ-toàn bích. Năng lực thứ ba của Ngài là buông xả. Buông xả đây có nghĩa là từ bỏ,
rời xa. Nó có nghĩa là nghị lực, cố gắng, và sức mạnh. Sức mạnh và an nhàn
của tâm đến từ sự rời bỏ. Thông thường con người nghĩ rằng rời bỏ là gánh
nặng, là nguồn gốc của khổ, mà không biết cái vui trong tri túc giản tiện,
không bị trở ngại bởi chiếm hữu cái không cần thiết và tâm ham muốn không
ngừng. Không cần phải có một siêu nhân nào hổ trợ để hành tập buông xả;
năng lực cần thiết phải có là phải vượt qua được tính trì trệ, lười biếng
và các tập nghiệp thói quen củ. Khi cố gắng nầy được nẩy sanh, ta kinh
nghiệm được một cái tâm rộng lớn và nhàn hạ đến từ sự buông bỏ những dính
mắc. Nhẩn nại có nghĩa là đơn giản. Một trong những cái vui học tập ở Ấn Độ
là đời sống cơ bản đơn thuần mộc mạc, mặc dù đã có rất nhiều khó khăn
trong vấn đề sức khỏe, chế độ ăn uống và sắp xếp chổ ở. Nó đã không bị làm
vướng bận bởi quá nhiều vật chất cái trở thành vật nặng trên vai như ở Hoa
Kỳ đây. Khách du lịch đi ngang qua đã ngạc nhiên tại sao chúng tôi có thể
rời xa nhiều tiện nghi-điện, nước nóng sẳng có, mà không hiểu được sự
thanh thản của một đời sống mộc mạc. Từ lối sống đơn thuần mộc mạc đó,
không cần thiết phải có hay chiếm hữu nhiều, tự tại và bình yên sẽ đến với
ta. Buông xả, rời bỏ, ta có thể thử nghiệm đức tính đó trong cuộc sống qua
hạnh bố thí, qua sự thành lập trong ta một nền tãng giới luật cơ bản, qua
thực hành ly xả vật chất thế gian cái trói buột ta. Rời bỏ xãy ra trong mọi
vị trí, không những trong quan hệ giữa người và người, mà cả luôn vật
chất. Có một thành ngữ trong Đạo "nhịn ở tâm" cái diển đạt sự toàn chỉnh
của tâm ly xả bên trong. Ngài TrangTử đã viết, Mục tiêu của ly xả là sự hợp nhất bên trong. Nghĩa là lắng nghe mà
không phải bằng tai; nghe, nhưng không phải bằng sự thông cảm; nghe bằng
tâm linh, với tất cả sự hiện diện. Tai lắng nghe chỉ là một việc. Lắng
nghe với thông cảm lại là một việc khác. Nhưng lắng nghe bằng tất cả tâm
linh thì sự lắng nghe đó không bị giới hạn đến bất cứ một căn nào, nhĩ
căn hay thức căn. Do đó nó đòi hỏi các căn đều trống không. Và khi các
căn đều lắng dịu rồi, toàn bộ tâm tư sẽ có mặt để lắng nghe. Rồi sau đó
một sự nắm bắt trực tiếp ngay tại đó trước các người, rằng có thể các
người chưa bao giờ được nghe với tai hoặc được hiểu với tâm. Ly xả làm
rỗng đi các căn, giải thoát các người từ những bố cục hạn định và từ
những thiên kiến. Tâm ly xả sanh ra sự hợp nhất và tự do. Ngài Sỹ Đạt Đa đã có thể tư duy. Ngài đã có thể nhẩn nại. Ngài đã có
thể buông xả. Đây là những đặc tính của người chiến sĩ, được phát triển để
đi đến sự hiểu biết hoàn toàn chính thân mình. Khi ngồi, khi đi, khi bạn ý
thức một cách toàn diện trong ngày, đây là giá trị được sống tỉnh thức. Hỏi: Don Juan nói về sức mạnh cá nhân. việc nấy có quan hệ gì
đến hành tập?
Đáp: Sức mạnh của tâm là năng lực. Không phải năng lực mở rộng
chính nó rồi tự do sách động muốn làm gì thì làm, mà là năng lực nội quán
xuyên thấu, năng lực của sự hiểu biết thấu đáo. Don Juan đã nói rằng mặc
dầu một người đã được nghe những bí mật sâu xa nhất của vũ trụ, nhưng vũ
trụ đó vẫn là từ ngữ rỗng cho đến khi nào có đủ năng lực cá nhân. Năng lực
nầy có nghĩa là sức mạnh, vững chải, khả năng xuyên thấu sâu xa vào trong
những gì đang xãy ra. Nó tiến triển lúc tâm trở nên định tỉnh. Từ năng lực
xuyên thấu nầy đưa đến trí tuệ minh sát; với sức mạnh của tâm chỉ cần một
chữ thôi là mở toan được rất nhiều tần lớp sâu kín. Trong khóa thiền, sự
hành tập liên tục là phương tiện để phát triển sức mạnh cá nhân nầy.
Hỏi: Có một dấu hiệu rỏ ràng nào trên bước đường tu tập để phân
biệt trực giác minh sát và suy tưởng?
Trực giác đến từ một cái tâm yên lặng; suy tưởng là khái niệm. Có một
sự khác biệt vô vàng. Đó là tại sao mà sự phát triển nội quán không đến từ
sự suy nghĩ cái nầy cái nọ, nó đến từ một cái tâm yên lặng trong sự thấy
biết rỏ ràng. Toàn bộ tiến triển của Minh sát và hiểu biết thấu đáo đến
trong những lúc tâm được tỉnh lặng. Rồi một cách bất ngờ, "ồ, sự việc là
như vậy!" Trong Lời Thiền của Ngài Hoàng Bá, nói về nội chiếu như là sự
bất thần,trực hiểu mà không qua từ ngữ suy diển. Trực giác đó có một tính
chất nhất định riêng biệt vì nó không phải là sản phẩm của suy đoán hay
tưởng tượng nhưng mà là một sự nhận biết rỏ ràngmọi sự vật như là. Hỏi: Trong hành tập, xử dụng tâm để đào sâu, tìm tòi có quan hệ
thế nào đến tâm thuần giác mà không chọn lựa?
Rất nhiều phương pháp phát triển tuệ nội quán xử dụng ý thức hướng về
đối tượng. Ta có thể hướng sự chú tâm đến nhiều khía cạnh khác nhau trong
diển trình, như là tư thế thân,cảm giác thân, tư tưởng, là cách tiến sâu
vào những phạm vi riêng biệt. Nhưng kể cả việc hướng tâm, một khi nó đã
trụ vào nơi đó rồi, thì thật ra đâu còn sự chọn lựa nửa. Lúc đó chỉ cần
ngồi lại nhìn những gì đang xãy ra, không xét đoán, không chấp thủ hay lên
án. Lắm khi con người rất là rụt rè trong phạm trù hành tập của họ, luôn
luôn tìm những điều lệ, cách thức làm sao để thực tập, sợ hãi khi lầm lổi.
Tuệ Minh Sát đến từ chánh niệm, kể cả ta ý thức được những sự việc đang
xãy ra hay không, trí tuệ vẩn từ đó mà ra. Không có cách nào để gọi là
chánh niệm sai lệch. Rèn luyện tâm, rèn luyện tính chất đào sâu nầy. Quán
sát thật sâu sắc tư tưởng đến từ chổ không nơi chốn và chết đi vào trong
cũng nơi đó. Hay tìm hiểu sâu sắc vào cơn đau, đi vào trong nó. Rèn luyện
tâm với sự vô úy, không suy nghĩ lung tung, nhưng với cái tâm ý thức yên
lặng. Tâm có thể trở thành mềm dẻo. Nếu bạn nhồi nắn một cục đất sét trước
khi làm một cái bình, nó trở nên mềm dẽo và dễ dàng uốn nắn. Khi ý thức và
định được phát triển, tâm cũng có khả năng linh động làm việc. Khảo sát
mọi chiều hướng tiến trình của thân tâm nầy. Khi tôi vẩn còn ở bên Ấn Độ,
tôi sống trên tần lầu thứ nhì. Tôi quen đi lên xuống cầu thang nhiều lần
trong một ngày, mỗi khi như vậy, tôi khảo sát cách tự động máy móc của
từng bước đi lên xuống, đầu gối làm việc thế nào, sức nặng của thân chuyển
đổi. Nó là cả một tiến trình thật là lý thú. Trong mọi sinh hoạt cũng cần
nên có sự thích thú như thế trong đó. Nhìn, tìm tòi sự thể xãy ra như thế
nào. Và những lần kia chỉ ngồi lại không làm gì cã, thuần biết mà không
chọn lựa, nhìn ngắm vạn pháp tự phơi bày. Hỏi: Toàn diện biến trình thân tâm bắt đầu như thế nào?
Có một câu chuyện một anh kia bị trúng một mủi tên độc. Bạn anh gọi
được một lương y và muốn rút mủi tên đi để trị thương. Nhưng anh ta nói,
"Không, đừng lấy nó ra, tôi cần phải biết ai bắn mủi tên nầy, anh ta đến
từ đâu và mủi tên làm bằng loại cây gì." Anh ta chắc chắn sẽ chết trước
khi có được những câu trả lời. Cũng giống như vậy, Đức Phật nói rằng suy
đoán tâm lý về nguồn gốc của thế gian, của vủ trụ nầy, xuất phát từ đâu,
thì cũng giống như người trúng tên độc kia. Ta tự đặt mình vào một phạm
trù khó khăn; tình trạng khó khăn là một chúng sanh, một thân và tâm đầy
dẩy những tham, sân, si và đau đớn. Công việc là nhổ mủi tên đó ra, giải
thoát tâm từ những tối đen ám chướng phiền não, giải thoát thân ta từ
những khổ đau tật bệnh già chết. Những câu hỏi thích đáng là những câu hỏi
có thể ứng dụng vào cái ta đang kinh nghiệm bây giờ. Hỏi: Tham lam nổi lên từ đâu?
Khi ta thấy một cái gì vừa ý, ta muốn nắm giữ, mà không hiểu sự vô
thường của nó. Ngay lúc ta có chánh niệm trở lại, chú tâm vào những gì
đang xãy ra, thấy được mọi sự việc đến rồi đi, chấp thủ và tham ái giảm
xuống. Chẵng có gì phải nắm giữ cả. Chỉ là những bong bóng nước. Và kinh
nghiệm về vô thường, phá tan đi sự kiên cố sai lầm của mọi vật, đem tớI sự
buông xả, trạng thái không dính mắc. Những cái nầy đến từ sự đơn thuần ý
thức, một cách hoàn chỉnh. Nó là nguồn cảm hứng để trở thành một chiến sỉ. Không có ai làm việc đó
cho ta. Mỗi chúng ta phải tự bước đi. Cảnh tỉnh, từng phút giây, chú tâm
vào những gì đang xãy ra một cách toàn vẹn. Chẵng có gì huyền bí cả, nó
rất là đơn giản, trực tiếp và thẳng thắn; Nhưng phải hành tập. Thiền là
như vậy đó. -ooOoo- SÁNG THỨ 11 Trò Chơi Tập Trung N Sẽ có những chuyện xãy ra. Hơi thở trở nên thất thường, nhanh hay chậm,
sâu hay nặng nề. Cứ trụ với hơi thở. Đếm từ một đến mười. Rồi bắt đầu trở
lại nữa. Có thể rằng năm phút sau đó, tâm bắt đầu có phóng tưởng, "Thật là
ngu muội, tôi sẽ không ngồi đây một tiếng đồng hồ mà đếm số." Giữ vững
phương pháp đếm. Và nếu, do bởi suy tư đó mà sự đếm bị giáng đoạn, bắt đầu
lại từ một. Có thể rằng đau nhức và căng thẳng sẽ nổi dậy trong thân. Đừng
quan tâm đến chúng. Cứ tiếp tục từ một đến mười. Đây là phương pháp đặt
biệt để củng cố hiệu năng tập trung tâm ở một điểm, huấn luyện tâm trụ vào
một đối tượng. Nếu bạn cảm thấy trò chơi nầy hữu dụng trong phần hành của
bạn, thỉnh thoảng bạn có thể phối hợp nó trong những giờ tọa thiền. -ooOoo- TỐI THỨ 12 BA RƯỜNG CỘT CỦA PHÁP H
Đôi khi trong Anh Ngữ tiếng Ba-la-mật được dịch một cách lỏng lẻo là
công đức. Nhưng đó rất dể bị hiểu lầm như là thâu thập những ngôi sao vàng
cho mỗi thiện pháp ta tạo nên. Khác hơn vậy, Ba-la-mật là sức mạnh thanh
lọc trong tâm. Khi những nhân tố không tham, không sân, không si được tích
lũy nhiều, Ba-la-mật trở nên sinh động mạnh mẽ và mang lại kết quả nhiều
hạnh phúc, từ hạnh phúc của dục giới cho đến hạnh phúc chứng đắc quả vị
cao nhất. Không có gì xãy ra một cách ngẩu nhiên, phải có một nguyên nhân. Có hai loại Ba-la-mật: Hành động trong sạch và Trí tuệ trong sạch. Sức
năng thanh lọc hành động trở thành cái nhân hạnh phúc của chung quanh,
những hoàn cảnh thoải mái dể chịu, các quan hệ thuận thảo, và cơ hội để
được nghe giáo pháp. Lấy thí dụ hiện trạng của buổi thiền tập nầy không
phải vô cớ mà xãy ra. Nó được hình thành do những sức mạnh thanh lọc trong
mỗi chúng ta tập trung lại. Cái khác của Ba-la-mật là trí tuệ trong sạch, được phát triển bởi thực
hành chánh kiến, tạo cơ hội cho sự tăng trưởng trí tuệ nội quán. Cả hai
thứ Ba-la-mật, hai sức mạnh thanh lọc nầy, phải được triển khai để cho
chúng ta có cơ hội mà hành tập giáo pháp, và từ đó đưa đến trí tuệ hiểu
biết. Có ba rường cột của Pháp, ba lãnh vực hành động, cái được trau dồi và
tăng năng lực cho Ba-la-mật. Đầu tiên là bố thí. Bố thí là sự biểu hiện
hành động quảng đại, nhân tố tâm vị tha. Tâm không vị kỷ có nghĩa là buông
xả, không nắm giữ, không chấp thủ, không dính mắc. Mỗi khi ta chia sớt vật
gì, cho ra cái gì, hành động đó tăng trưởng thêm uy lực của nhân tố thiện,
cho đến khi nó trở thành sức mạnh to lớn trong tâm. Đức Phật dạy rằng nếu
ta thật sự biết, như Ngài đã đã biết, lợi quả của sự bố thí, ta sẽ không
để một bửa thọ thực nào đi qua mà không có sự bố thí chia sẽ. Kết quả của hạnh nghiệp bố thí là sự phong phú và mối quan hệ hài hoà
sâu sắc với người chung quanh. Chia sẽ những gì ta có là hành động tốt đẹp
trong quan hệ với người, và tình bằng hữu được nâng cao bởi tính chất bố
thí. Một cách đặt biệt hơn nữa, trau dồi bản năng vị tha trở thành một sức
mạnh trên con đường giải thoát. Cái trói buột chân ta ở cỏi ta bà nầy là
tham muốn và luyến ái cái được thể hiện từ trong tâm. Như ta hành tập hạnh
bố là ta đang học cách buông xả tham ái. Có ba hạng người bố thí. Hạng thứ nhất là bố thí ti tiện. Họ chỉ cho ra
sau khi lưởng lự nhiều lần, những thứ còn sót lại, cái bần cùng nhất họ
có. Họ nghĩ, "Ta có nên cho hay không? Cho cái nầy thì nhiều quá không?"
Và cuối cùng chỉ là một phần của hiện vật muốn bố thí đó cái mà thật sự họ
cũng không cần nó. Hạng thứ nhì là người bố thí thân thiện. Họ là những người, nếu có,
những vật gì của họ, đang sử dụng, sẽ bố thí ngay. Họ chia sẽ những gì họ
đang có mà ít có đắn đo, cân nhắc lợi hại nhiều, với một vòng tay mở rộng
hơn. Bố thí cao nhất là những người cúng dường cái tốt nhất, trong tất cả
những gì họ có. Họ chia sẽ một cách tự phát mà không gò bó và trong ngay
giây phút đó mà không cần đắn đo, suy nghĩ hay khởi ý. Bố thí đã trở thành
một tác động tự nhiên. Khi tâm thật sự không tham luyến gì thì họ chia sẻ
những gì quí giá nhất trong mỗi cơ hội với một tấm lòng quảng đại và
thương cảm. Lại có một số người bố thí thì thật là khó khăn; nhân tố tham trong tâm
còn quá mạnh và quyến luyến còn nặng nề. Và những người khác, với lòng bao
dung, họ bố thí môt cách dể dàng. Nhưng đây không phải là vấn đề. Từ bất
cứ thời điểm nào ta khởi sự, ta đơn giản bắt đầu tu dưỡng hạnh nầy. Mỗi
hành động bố thí là mỗi động năng tiêu trừ đi nhân tố ích kỷ. Mở rộng vòng
tay chia sẻ là lối sống hoàn thiện trong thế gian nầy, và qua quá trình tu
tập tất cả chúng ta có thể trở thành đại thí chủ, bố thí Ba-la-mật. Có hai đặc tính nội thức liên quan đến hành động bố thí. Một là "thức
thúc giục": cái tâm luôn cân nhắc và tính toán trước khi hành động; phải
có tác ý, muốn làm, thì mới được. Cái khác thì được gọi là "tâm tự nhiên"
phản ứng bộc khởi liền tức thời. Khi một hành động cá biệt nào được huân
tập nhiều, hành động đó trở thành tự nhiên, tác ý không còn nữa. Vừa đúng
lúc, một cách tức thời, ý thức nầy tự hoạt động. Qua quá trình, ta phát
triển đặc tính thức tự nhiên nầy nơi mà bố thí trở thành bản chất tự nhiên
của tâm. Trong Túc Sanh Truyện kể lại rằng một thời tiền kiếp của Đức Phật ( khi
Ngài vẫn còn được gọi là "Bồ-tát," nghĩa là một chúng sanh đang hành tập
để đi đến chứng ngộ toàn bích), Ngài đi đến đỉnh một vực thẩm thấy một cọp
mẹ và hai cọp nhỏ. Cọp mẹ bị bệnh và không đủ sửa để nuôi con. Động lòng
từ bi thương cho cọp mẹ và bầy con, không vì chính bản thân mình, Ngài
gieo mình xuống núi làm thức ăn cho cọp mẹ để cọp mẹ có đầy đủ sinh lực
tạo sửa nuôi con. Thật là một món quà đại bố thí. Hiện giờ ta không đến được đỉnh cao của vô ngã đó, nhưng câu chuyện chỉ
cho ta phương hướng: rèn luyện lòng từ thiện, vị tha và thương cảm mọi
chúng sanh. Trong rất nhiều bài thuyết giãng, Đức Phật khuyến khích mọi
người hành tập lòng quảng đại cho đến khi nó trở thành một thái độ tự
nhiên. Bố thí là một đại Ba-la-mật; nó được liệt kê hành đầu trong những
đặc tính toàn hảo của Đức Phật. Và khi nó được trau dồi nó trở thành cái
nhân của hạnh phúc vô biên trong đời sống chúng ta. Rường cột thứ hai của giáo pháp, hay lảnh vực thanh lọc hành động, là
giữ giới. Cho nhân loại trên thế gian, cho những chủ nhân gia đình, đây có
nghĩa là thọ nhận và tuân thủ theo năm giới răn cơ bản: không sát sanh,
không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu cái che
phủ tâm và làm cho mờ tối đi. Chúng sanh nào cũng muốn sống hạnh phúc; ai cũng muốn thoát khỏi khổ
đau. Giữ gìn đời sống trong sạch, không phạm giới làm cho tâm vơi bớt sầu
muộn và nhẹ nhàng hơn. Ta cảm thấy dể chịu khi đem một con kiến từ trong
nhà bỏ ra ngoài hơn là giết hại nó. Phải có một sự tôn trọng sinh mạng đến
tất cả mọi loài. Không trộm cắp nghĩa là không lấy những gì mà chưa được cho. Tà hạnh có thể được hiểu một cách dể dàng nhất là giữ mình trong sạch
từ những hành động ố dục cái có thể đem lại đau khổ và tổn hại cho người
khác. Đừng tạo sóng gió, nó sẽ không làm yên ổn cho chính bản thân ta. Không nói dối nghĩa là không những chỉ nói thật thôi, mà còn tránh xa
những chuyện phù phiếm vô tích sự. Ta lãng phí rất nhiều thì giờ trong
những chuyện vô nghĩa nhảm nhí. Chuyện đến trong óc là ta nói mà chẵng so
đo nó có hữu ích không. Gìn giữ khẩu nghiệp rất hữu ích trong việc tạo lập
tâm quân bình. Không sử dụng lời nói nặng nề, thô kệt. Lời nói của chúng
ta nên được nhẹ nhàng, trao chuốc sự hài hòa và hợp nhất giữa người và
người. Khi đi trên con đường giác ngộ, tiến đến tự do và tâm trong sáng, nó
thật không tốt để sử dụng các chất độc làm mê mờ tâm trí. Thường thì, cũng
thế, vô ý thiếu thận trọng, sử dụng cẩu thả các chất say, sẽ làm giãm đi
lòng kiên nghị để giữ những giới khác. Sự quan trọng và giá trị của giới luật được đặt để trên nhiều mực độ.
Giới luật là bộ áo giáp cho ta, phòng vệ chống lại những hành nghiệp bất
thiện. Tất cả những hành động nầy ta cố giữ không cho phạm xuất phát từ
những động cơ của các chướng nghiệp tham sân si, và cũng sẽ là sản phẩm
duyên nghiệp cho sự đau khổ mai sau. Trong lúc chánh niệm vẩn còn trên đà
phát triển và lúc chưa đủ hiệu năng hóa giải chướng nghiệp, giải pháp hành
theo ngủ giới sẽ dùng như là một phương tiện nhắc nhở nếu như ta sắp sửa
tòng phạm một hành động bất chánh. Lấy thí dụ, ta sắp sửa giết một con
muổi, tay ta chuyẩn bị đập chết nó, vừa ngay lúc đó sức mạnh của giới luật
sẽ ngăn ta sát sanh và biến tác dụng nầy thành động cơ trưởng dưởng chánh
niệm mạnh mẻ hơn. Những hành tác bất thiện ngay trong giây phút đó gây nên một sự nặng nề
và đen tối trong tâm. Mỗi hành vi thiện, mỗi sự kềm chế từ những chướng
nghiệp xấu, tạo nên sự thư thái và trong sáng ở tâm. Nếu như bạn quan sát
một cách thận trọng tâm bị bận rộn suốt ngày trong những hoạt động khác
nhau, bạn sẽ thấy ra rằng bất cứ một móng niệm nào trong tâm cũng đều xuất
phát ra từ tham, sân, si, tạo nên một sự mê mờ, chậm chạp. Tuân thủ những
giới luật có tính chất đạo đức tâm linh nầy là một qui tắc để sống giữ cho
tâm được an lành bớt đi phiền muộn cuộc đời, để cho tâm tự rộng mở, trong
sáng một cách tự nhiên. Ở tần lớp hiểu biết nầy, giới luật không còn được
coi như là những điều răn nhưng được hành theo bởi chúng có tác dụng tốt
trên phẩm chất của đời sống. Chẵng có gì cho là bắt buột hay đòi hỏi quá
đáng cả bởi vì nếu huân tập lâu dần, chúng trở thành biểu hiện tự nhiên
của tâm. Hơn nữa, giới luật còn có ý nghĩa sâu sắc hơn trên con đường tâm linh.
Chúng giải thoát tâm từ ân hận và lo âu. Ăn năng những hành động tội lỗi
trong quá khứ thì chẵng giúp được gì, và luôn làm tâm bất an. Bằng cách
tạo lập ra phương châm cơ bản thanh lọc thân, khẩu, ý trong hiện tại, tâm
sẽ trở nên tỉnh lặng và an trụ dể dàng hơn. Không có định, tuệ nội quán
không thể có được. Và vì vậy nền tãng đạo đức ngủ giới trở thành cái cơ
bản để trưởng dưởng phát triển tâm linh. Lãnh vực thứ ba thanh lọc hành động là thiền. Thiền được chia làm hai
hướng chính. Thứ nhất phát triển tâm định, khả năng tâm có thể giữ yên một
chổ bám sát vào đối tượng mà không bị rung động hay xao lãng. Khi tâm được
tập trung nó có một khả năng xuyên thấu rất mạnh. Cái tâm mà bị tán loạn
quá thì không thể thấy được bản chất thật sự của danh và sắc. Ở mức độ tâm
tập trung nhất định nào đó khi tâm có đủ năng lực, tự nhiên sẽ phát sinh
ra trí tuệ. Nhưng tâm định riêng thì chưa đủ. Năng lực dồi dào của định và
tuệ phải được sử dụng trong công việc hiểu biết , đây là lãnh vực
thứ hai trong thiền: triển khai tuệ Minh sát. Đó có nghĩa là thấy rỏ ràng
tiến trình của sự vật, bản chất của muôn Pháp. Tất cả đều vô thường và
luân chuyển, đến rồi đi từng giây phút. Thức, đối tượng, tất cả những
trạng thái tâm, thân: mọi hiện tượng đều có phần trong dòng luân chuyển
của vô thường. Khi tâm được rỏ ràng trong sáng nó kinh nghiệm được sự thay
đổi không dừng nghỉ ở tần lớp thật vi tế: từng sát na một như vậy ta được
sinh ra và chết đi. Chẵng có gì cần phải luyến ái, cố thủ. Không có trạng
thái danh sắc, không có hoàn cảnh nào ngoài thân ta phải được nắm bắt, bởi
vì nó thay đổi ngay trong lúc đó. Sự phát triển Minh sát tuệ có nghĩa là
đang cảm nghiệm được dòng trôi chuyển vô thường trong tự thân để ta bắt
đầu buông xả, không cố chấp bám víu một cách tuyệt vọng những hiện tượng
danh và sắc nầy. Kinh nghiệm được vô thường đưa ta đến sự hiểu biết tính chất thường
hằng bất toại nguyện trong tiến trình danh sắc: bất toại nguyện về mặc nó
không thể cho được hạnh phúc lâu dài. Nếu ta nghĩ rằng sắc thân nầy sẽ là
mục tiêu tối hậu của bình an hạnh phúc vui sướng vĩnh cữu, vậy là ta không
thấy sự tan hoại không thể tránh được đang xãy ra. Ngay tại phút giây nầy
là ta đang đi đến cái già, bệnh hoạn, suy tàn dần rồi chết; những người
quá quyến luyến vào thân nầy sẽ trải qua đau khổ to lớn. Tính chất thường
còn trong mọi vật nên được hiểu rằng như thường luôn sanh diệt. Tất cả
những yếu tố vật chất, những yếu tố tâm, đang xuất hiện và biến mất. Đặc thù thứ ba, những gì hiện hữu được thấy rỏ ràng trong sự phát triển
nội quán, trong dòng lưu chuyển của mọi hiện tượng, không có cái được đệ
danh như là "tôi," hay "bản ngã," "cái tôi," hay "của tôi." Tất cả chỉ là
hiện tượng khách quan đang diển hành, sau bức màn nhung, tất cả đều trống
rỗng, không bản ngã. Chẵng có một thực thể nào phía sau ai là người đang
trải qua. Người kinh nghiệm, người biết, là chính tự thân một phần của sự
diển biến đó. Như tuệ Minh sát được tu dưởng qua thực hành chánh niệm, ba
đặt tính hiện hữu, khổ, không, vô ngã, sẽ được hiển lộ ra. Giả sử bạn có một hồ nước đầy những rong rêu. Tu niệm ngũ giới thì
giống như đi xuống nước và rẻ rong qua một bên vốc một bụm nước trong để
uống. Rong vẩn còn đó, và khi bạn lấy tay lên, một lần nữa rong bồi trở
lại và bao phủ hồ nước. Trong những lúc ta có nhân cách đạo đức, thì tâm
thật là trong sạch, nhưng vừa lúc tâm xao lãng đi, sự nhơ bẩn lại trở lại.
Nếu bạn dựng hàng rào trong hồ cản rong về một bên, nước bên kia được giữ
sạch để uống miễn là hàng rào lúc nào cũng còn đó. Nhưng do vì rong vẩn
còn một bên và nếu vì lý do gì hàng rào bị dời đi, rong sẽ bồi trở lại đầy
hồ. Tương tự như sức mạnh tâm định. Nó đè nén tất cả những dơ bẩn, nhưng
chỉ là thế thôi. Trí tuệ nội quán thì khác. Ta đi xuống hồ và nhổ tận gốc
rong lên: bạn nhổ từng gốc rong cho đến khi nguyên cái hồ được sạch. Khi
được nhổ tận gốc như vậy, chúng không thể trở lại. Tuệ Minh Sát là một
biến trình thanh lọc: khi tất cả những tiêu cực trong tâm được lưu ý, khảo
sát, và cuối cùng bứng tận rể lên, chúng không trở lại nữa. Trí tuệ là điểm cao nhất trong con đường tâm linh, bắt đầu với hành tập
hạnh bố thí, trì giới, và phát triển thiền định. Từ cơ bản thanh lọc đó
hình thành tuệ nội quán xuyên thấu vào trong bản chất của danh và sắc.
Bằng cách sống tỉnh thức hoàn toàn từng giây phút, ta sẽ thấy được những
tập khí lâu đời trong tâm bắt đầu trồi lên. Tư tưởng và xúc cảm, những ác
chướng tham ái và mong muốn, những thèm khát dục vọng, những tình cảm,
những năng lực, những tự tin và hồ hởi, mọi thứ chất chứa trong tâm bắt
đầu xuất hiện trên màng ảnh ý thức. Và qua thực hành chánh niệm, không bám
níu, không lên án, không đồng hóa với bất cứ những gì, tâm trở nên nhẹ
nhỏm hơn và tự do hơn. Đức Phật đã cho thấy tiềm lực các lãnh vực khác nhau trong Ba-la-mật,
Ngài nói rằng năng lực thanh lọc trong bố thí thì được tích lủy nhiều thêm
do bởi sự trong sạch của người nhận. Nhưng nếu muốn có một năng lực dồi
dào hơn, kể cả bố thí cúng dường Đức Phật, Tăng Đoàn, những Tăng, Ni đã
chứng ngộ, là tu tập hạnh từ bi với một cái tâm định tỉnh. Và nó sẽ có
hiệu lực vô song, kể cả tôi luyện tâm từ, là thấy được vô thường trong mọi
hiện tượng một cách rỏ ràng, bởi vì nó minh sát xuyên thấu vào vô thường,
là nguồn cơn của giải thoát. Hỏi: Có thời gian tôi thấy mình bố thí nhiều quá; đến độ tôi bị
túng quẩn đi. Ông có thể nói một chút về bản chất bố thí khi nó đưa đến
tâm trạng như là hối tiếc?
Đáp: Chúng ta đang ở trong nhiều cấp bật khác nhau. Ta không được
như các hàng Bồ-Tát có thể cho mạng sống mình nuôi dưởng bầy cọp. Đôi khi
có những động lực bất thần thúc đẩy ta làm như vậy rồi sau đó lại hối hận.
Đó không phải là thiện xão. Ta phải nhạy cảm mức độ bố thí của ta là đang
ở đâu và trưởng dưởng lòng bố thí ở mức độ đó. Lòng vị tha lớn dần. Như ta
càng tu tập hạnh bố thí, tâm vị tha càng trở nên tự nhiên hơn và ứng xử
không toan tính. Và khi nó được phát triển với quân bình như thế, sẽ có
một sự hài hòa, hợp nhất và rồi không có gì hối tiếc sau đó. Hỏi: Giới luật là kim chỉ nam ở một mức độ nhất định, nhưng có
thể nguy hiểm không nếu bám víu vào chúng? Có thể không chúng là chướng
ngại bởi vì chúng vẫn là khái niệm? Vài hành động xuất phát từ tâm bi đi
ngược với giới luật như nói dối để cứu mạng ngườI nào, như vậy là phạm
giới?. Chuyện gì xãy ra khi giới luật và trực kiến có mâu thuẩn?
Phạm vi thanh lọc hành động đa số được hiểu theo nghĩa là các nhân tố
tâm thức đang được trưởng dưởng, chính nó không là hành động. Nếu ta hành
động xuất phát từ lòng bi mẫn, đó là thiện. Nhưng thường thì ta không tỉnh
giác để nhận ra từng nhân tố cái được bao gồm trong mỗi hành động. Cho đến
khi ta tiến đến mực độ nhạy cảm thật sự là ý thức được mọi khía cạnh cơ
năng hành động của ta, lúc đó ta có thể biết quyết định làm việc đó là
tinh xảo hay không, những giới luật nầy đáp ứng như là một nguyên tắc
hướng dẫn hữu ích. Có lần một vị sư đến trước Đức Phật và thưa rằng ông ta
không thể nhớ hơn 200 giới luật dành cho Chư Tăng, đừng nói chi là giữ
giới. Đức Phật đã nói rằng: "Con có thể nhớ một giới chứ?" Vị Tăng nói đã
có thể. Đức phật nói, "chánh niệm. Mọi thứ đều xuất phát ra từ đó." Nếu
bạn thật là chánh niệm, một cách tự động, nó sẽ đưa đến một hành động chơn
chánh, đầy đủ ý nghĩa. Hỏi: Tôi thấy có mâu thuẩn giửa cái đại bố thí và sự an toàn bản
thân trong thế gian.
Tăng trưởng đại bố thí đâu cần phải bước ra ngoài thế gian và vất bỏ hết
mọi thứ. Đúng nghĩa của nó là cho ra với cái tâm rộng mở, đúng thời điểm
và hoàn cảnh. Ta vẩn còn có trách nhiệm đối với bản thân, cần phải có
những tài sản tối thiểu để hộ thân tiếp tục tu hành cho đến khi đạt được
đạo quả. Cấp bật bố thí phần nhiều còn tùy thuộc vào sự tiến triển riêng
biệt của tâm. Không nên có một tư tưởng ta sẽ bố thí như thế nào mớI đúng,
và rồi phải cố theo kịp với sự suy nghĩ đó. Đơn giản. Trong những giây
phút hiện tại, đừng bỏ lở những cơ hội bố thí để trưởng dưởng tâm vị tha.
Không có gì phức tạp, tự nó sẽ hiển bày. Khi nó đến một điểm bạn sẵng sàng
lao mình xuống vực để nuôi bầy cọp, tự nhiên bạn sẽ làm. Hỏi: Tôi có một chút mơ hồ về nói dối. Theo lẻ là ta phải nói
đúng ngay vào thời điểm, trường hợp đó, nhưng lại lặng thinh. Đó cũng có
thể là biểu hiện khác của nói dối không?
Sự việc đã có thể là thật, nhận thức đúng, nhưng chắc chắn sẽ không đem
lại lợi ích cho người đó, cũng có thể là không đúng thời điểm để họ nên
nghe. Ta nên nói thật khi nào có lợi ích. Thật là đẹp và an lành để trú
ngụ trong một cái tâm yên tỉnh. Nhưng đó cần phải tập trung năng lực chánh
niệm thật nhiều- từ ngàn xưa huân tập, ta đã có khuynh hướng nói nhiều.
Ngôn từ đã tuôn trào ra trước khi ta ý thức được mình muốn nói cái gì. Nó
rất là máy móc. Nhưng khi chánh niệm được trau dồi bén nhạy hơn, ta bắt
đầu ý thức được ta dự định nói những gì-tâm muốn nói một chuyện gì và ta
chánh niệm về nó. Lâu dần, ta có thể thấy được cả hai thành thật và lợi
ích, thờI điểm nào nên được áp dụng đem vào đời sống để cho có lợi nhất. -ooOoo- TỐI THỨ 13 Thánh John, Thánh Francis de Sales T Không phải là tôi không có ý định viết vài lời cho bạn, một cách
thành tâm tôi chúc mọi sự tốt lành đến bạn; nhưng bởi vì đối với tôi, đã
quá đủ những gì cần nói để có thể tạo lập một ảnh hưởng đến những gì cần
thiết, và nếu đó là cái ta đang muốn (nếu quả vậy, cái cần thiết) không
phải là chữ viết hay ngôn từ - một lối sống thật bình thường là đã quá
đủ - chỉ yên lặng và làm việc. Nói chuyện sẽ làm xao động, lặng yên làm
việc sẽ tập trung được tư tưởng và tăng thêm sức mạnh tâm linh. Cho nên
ngay khi người đó hiểu được cái gì muốn chuyển đạt đến vì sự lợi ích của
họ, chẳng cần thiết phải nghe hay tranh luận xa hơn nữa; nhưng đặt họ ở
vị trí hành tập đứng đắng nhất, những gì họ đã thâu thập được với lặng
yên và chú tâm. Không phải là chuyện dể khi ta khởi sự làm, huấn luyện và thanh lọc
tâm. Nó đòi hỏi một sự nhẩn nại triệt để, và bền chí. Nó không tự xãy ra
chính nó. Nhưng với sự bền chí, nhẹ nhàng nó sẽ xãy ra. Thánh Francis de sales đã viết: Nếu tâm đi lạc lối hay bị chi phối, nhẹ nhàng đem nó về với đề mục .
. . Và dù là bạn không làm gì trong một giờ đó nhưng chỉ một việc đem
tâm về; rồi nó lại xao lãng, cứ đem nó về. Bạn đang sử dụng một giờ đúng
giá trị và lợi ích. Đừng bị nản lòng bởi những tâm thức miên man đó. Mỗi lần ý thức được
tâm đi lệt hướng, đon giản đem nó về với hơi thở hay cảm giác. Không cần
biết là xãy ra bao nhiêu lần. Mỗi lần tâm lạc lối được mang trở về, một
giờ chánh niệm đó thật là đày đủ ý nghĩa. Hãy thư giản với chính mình. Hãy
nhẩn nại. Mặc dù nó không thể hiện rỏ ràng với bạn ngay lúc đó, nhưng đang
có một sự thay đổi lớn trong nội thức. Giống như trái cây chín trên cành.
Khi ánh mặt trời chiếu rọi, trái bắt đầu chín, ngày qua ngày, mặc dù diển
trình đang xãy ra không thể nhận được, nhưng trái đang chín. Giống như
vậy, sự thay đổi và chín mùi trong tâm ta cũng đang xãy ra. Và như Thánh
John đã nói, nó từ trong yên lặng và tác động thầm ra ngoài để đem đến sự
chuyển hóa toàn hảo nhất. -ooOoo- TỐI THỨ 14 Tứ Diệu
C
Có nhiều chúng sanh khắp thế gian nầy đang tuyệt vọng, nằm trong bàn tay
của kẻ hung tàn, trong tay những người chỉ muốn làm tổn hại họ. Rất nhiều
quốc gia bây giờ tù nhân đang bị tra tấn. Bạo động chiến tranh. Người anh,
người em, cùng một xúc cảm như ta, những gương mặt mất đi tự tin, không
thể làm được gì để cứu vản. Ta ở trong hoàn cảnh giống như vậy đã bao lần
rồi, và bao nhiêu lần nửa ta sẽ có mặt ở đó, bơ vơ lạc lõng trong tương
lai? Chỉ một vòng quay nhỏ của bánh xe nghiệp và ta một lần nửa là những
người đó. Kiếp nhân sinh nầy, tấm thân nầy, quá nhiều đau khổ ngấm ngầm
như vậy. Bao nhiêu lần ta đã trải qua rồi, vậy còn tiếp tục bao nhiêu lần
nữa? Nguyên tố vật chất của thân được gọi là Tứ Đại. Chúng được gọi là Đại
bởi vì sức tàn phá của chúng. Những nguyên tố tứ đại tạo nên sắc thân nầy
cũng là từ sự tạo thành của đất và mặt trời, hành tinh và những ngôi sao.
Được cảm nghiệm qua bằng sắc thân xương thịt nầy, đi theo định luật tự
nhiên của chúng, qui nhiệm cho sự hình thành và tàn hoại của trọn vẹn hệ
thống mặt trời và dãy ngân hà cũng chính là những nguyên tố tứ đại nầy.
Năng lực sanh trụ hoại diệt của những nguyên tố nầy thì không thể nghĩ
bàn. Trong khoảng một thời gian nguyên tố nầy còn đang sanh và trụ, vẩn còn
trong tư thế thăng bằng, cho nên chưa có gì xãy ra. Vì mê muội, ta quên
đi, không ý thức được sức mạnh tàn hại thường còn của chúng, cho đến khi,
theo bản chất tự nhiên của chúng, đến thời điểm hoại diệt, chúng bắt đầu
mất quân bình, kết quả là sự mục rã, tan hoại của thân, nhức nhối khôn tả
và cuối cùng đưa đến cái chết. Ta giống như những đứa trẻ nô đùa trong nhà lửa đang cháy. Vui thích
với đồ chơi, thụ hưởng trong chốc lác, đầu óc thơ ngây hoàn toàn không ý
thức được lửa vô thường cháy dữ dội chung quanh. Nhưng rất may các đấng
thiêng liêng đã nhân từ gởi thông điệp báo nguy, chỉ điểm ra sự khổ đau
huyền ảo và tạm bợ về mọi mặt: Bộ bạn chưa bao giờ thấy những ông lão bà cụ 70, 80, 90 tuổi, yếu đuối,
lưng còng như bánh xe, nghĩ thở dốc trên đôi nạn, lê từng bước chập chạp,
tàn tật, thời niên thiếu đã qua, răng rụng, tóc còn le ngoe vài sợi bạc
phếu, hoặc rụng sạch, và ý nghĩ đó có bao giờ đến với bạn, rằng bạn, cũng
vậy, phải chịu số phận tàn hoại ấy? Rằng bạn cũng vậy, không thể trốn
thoát sự già? Bộ bạn chưa bao giờ thấy trên thế gian nầy đàn ông, đàn bà bệnh hoạn,
khổ sở và bi thảm hơn nửa là khi thấy chính họ, dằm mình trong sự dơ bẩn
của chính mình, đưa lên đở xuống bởi những Y Tá, và ý nghĩ có bao giờ đến
với bạn rằng bạn, cũng vậy, không tránh khỏi bện hoạn? Rằng bạn, cũng vậy,
không thể trốn thoát được cái bệnh? Bộ bạn chưa bao giờ thấy xác người trên thế gian nầy, một, hai, hoặc ba
ngày sau khi chết, sình chướng lên, xám xịt,và đầy những hôi thối, mục rữa
và ý nghĩ có bao giờ đến với bạn, rằng bạn, cũng vậy, không tránh khỏi cái
chết? Rằng bạn, cũng vậy, không thể trốn thoát được tử thần? Ta cũng không khác, bị lệ thuộc vào bản chất vô thường như vậy. Cái
chết không phải dành riêng cho một ai, mà cho tất cả. Nó là đoạn cuối của
mỗi người. Không ai có thể trốn thoát được sự thật nầy. Có nhiều đau khổ tâm. Trầm uất. Tuyệt vọng. Lo âu. Giận dử. Thù hằn. Sợ
hãi. Thèm khát. Thương tiếc. Bao lâu nữa ta còn kẹt dính trong vòng lẩn
quẩn sinh tử luân hồi, bị thúc dục, bị lôi cuốn bởi vô minh và ái dục? Sự
phiền não kéo dài lê thê, mỗi sáng thức dậy sống với điều lập lại của ngày
hôm qua, mầu sắc, âm thanh mùi,vị, cảm giác và tư tưởng, một lần nửa, lại
một lần nửa. Không thể nhận ra cảnh giới khổ nầy được bắt đầu từ khi nào. Mầm sống
đầu tiên của chúng sanh chưa được khám phá ra, bị ngăn che bởi vô minh và
bị gài bẫy bởi tham dục, những cái nầy đang thúc đạy ta quanh vòng lẩn
quẩn sinh tử luân hồi. Bạn nghĩ cái nào nhiều hơn? biển nước mắt, khóc
than không biết bao lần rồi, rơi lệ trên đoạn đường dài, thúc đẩy quanh
vòng lẫn quẫn sinh tử luân hồi, luôn gặp những cái bất toại nguyện, mong
ước thì bị chia ly, nước mắt khổ đau nầy - hay nước của bốn đại dương cái
nào nhiều hơn? Kể từ lâu, bạn đã khổ đau với cái chết của cha, mẹ, con
cái, anh chị em, và lúc bạn thật sự đang đau khổ, trên đoạn đường dài bạn
đã rơi lệ nhiều hơn nước bốn biển. Và, quả vậy, từ lâu bạn đã chịu khổ,
chịu dày vò ray rức, chịu rủi ro bất hạnh, và tràn đầy không biết bao là
những nấm mồ chôn bạn. Quá đủ để nhàm chán tất cả những gì đang có, quá đủ
để ngoảnh mặt đi với tất cả và tìm đường giải thoát thân ta từ những cái
đó. Như những đứa trẻ đùa nghịch với đồ chơi trong nhà lửa, ta không thích
nhìn đến sự thống khổ trong đời ta. Ta bỏ những người già, bệnh trong viện
dưỡng lão để không nghe nỗi đau đớn, tiếng rên xiết, than van của họ. Ta
không cho những người ăn xin xuất hiện trong xả hội để ta không thấy cảnh
tượng nghèo khổ. Ta mặc đồ, trang điểm cho xác chết giống như họ đi dự
buổi tiệc liên hoan vậy, không bao giờ dám giáp mặt với thần chết một cách
thật sự. Đế thứ nhất Đức Phật giác ngộ là Khổ Đế. Chẵng gì tốt để giả vờ
rằng nó không hiện hữu. Bất kể ta làm thế nào để che đậy nó, thân nầy cũng
sẽ già cổi đi, bệnh hoạn. Nó đang đi đến cái chết. Bất kể bao nhiêu lần ta
giải trí để xao lãng, đánh lừa, quên nó đi, vẩn còn đó sân hận, ác tâm,
thất vọng, lo âu và căng thẳng. Ta bị thiêu đốt với sân hận, bị thiêu đốt
với tham dục. Đó là Chân Đế thứ nhất, Khổ Đế. Đức Phật đã không dừng ở đó. Ngài chỉ ta khổ đế và cũng giải thích
nguyên nhân. Cái gì trói buột ta trong vòng sầu khổ nầy? Đức Phật đã thấy
rằng sự trói buột nầy là chính tâm ta. Nó là sự dính mắc. Ta đang xoay vần
trong bánh xe phiền não do vì chấp vào nó, ta bám níu là vì vô minh. Có bốn sự dính mắc to lớn kềm thúc ta trong vòng lẫn quẫn. Đầu tiên là
dính mắc vào cảm giác khoái lạc. Ta luôn đi tìm những âm thanh bùi tai,
cảnh dể nhìn, hương thơm ngát, vị ngọt ngào, và khoái cảm về thân. Ta đi
tìm không dừng nghỉ chỉ để khoái cảm trong một giây phút ngắn. Ta bị thu
hút vào chúng giống như là chúng sẽ là cách giải quyết được vấn đề, chấm
dứt được khổ đau trong ta. Ta sống và mong đợi hai tuần nghỉ hè, tìm quan
hệ mới, vài đối tượng lạ để làm "chủ": chờ đợi với sự mong mỏi những hạnh
phúc mới thì luôn không ở trong tầm tay. Có câu chuyện về Mulla Nazruddin, một pháp sư Hồi nổi tiếng. Một ngày
nọ ông đi đến chợ và thấy một đống ớt đỏ bán đại hạ giá. Ông mua về nhà và
bắt đầu ăn. Một lúc sau một học trò của ông đến và thấy Mulla đầy nước mắt
chảy dòng xuống má, miệng lưởi ông ta cay xé. "Mulla, Mulla,tại sao thầy
cứ ăn hoài vậy?" Như lúc ông ta lấy một trái khác để ăn, Nazruđin đã trả
lời, "ta đang chờ tìm một trái ớt ngọt." Cái dính mắc to lớn thứ nhì là tư kiến và quan điểm riêng. Ta có quá
nhiều ý kiến về sự việc, và còn là định kiến nửa. Dính mắc vào quan điểm
riêng thì thật là một thằng thúc. Nó giữ ta lại từ nhận chân sự kiện như
thị; nó gạn lọc thực tế qua cặp mắt kính mầu theo sự bị điều kiện hóa đặt
thù từng cá nhân. Một vị Thiền Sư Thái nổi tiếng khi được hỏi chướng ngại
lớn nhất học trò Ngài có là gì, Ngài trả lời, "ý kiến, quan điểm về mọi
việc. Về bản thân họ, về hành tập, Về giáo lý Đức Phật. Tâm họ đầy những ý
kiến về mọi việc. Họ quá thông minh để lắng nghe người khác nói. Giống như
nước trong một cái ly. Chỉ sau khi nước được đổ đi rồi thì cái ly mới dùng
lại được. Bạn phải đổ trút bỏ hết đi những ý kiến trong tâm, rồi bạn sẽ
thấy." Trong Tín Tâm Minh, Tổ thứ ba Thiền tông Ngài Tăng Xáng, đã nói "đừng
đi tìm chân lý. Chỉ dừng cái tư kiến mình là đủ." Nếu ta buông xả được sự
trói buột nầy, trọn vẹn Phật Pháp sẽ được phơi bày ra. Mọi việc thì ngay
tại đó. Ta phải xả bỏ những tư tưởng cố định về sự việc, đừng phải là như
ý mình. Cởi bỏ đi những ràng buột về ý tưởng. Đây là sự dính mắc to tát
thứ hai giữ ta lẫn quẫn trong thế giới ta bà nầy, trong sự quay vòng của
phiền não. Cái dính mắc thứ ba là cầu nguyện, thờ phượng nhưng thiếu chánh kiến:
suy nghĩ rằng nếu đốt được cây nhan hay đèn cầy đặt trên bàn thờ thì mọi
việc đều sẽ qua. Hầu như tất cả mọi người đều làm vậy trong mọi cuộc hành
lể, hy vọng rằng khi đốt nhan đèn trên bàn thờ, cúng dường ngủ phẩm, đọc
một vài câu thần chú, là sẽ chấm dứt được đau khổ. Thật là sai lầm. Kể cả
những hành giả mà bị dính mắc vào sự tu tập của mình, tự cho mình là đúng,
hay bất cứ những đức tin thờ cúng theo chủ nghĩa duy vật, tất cả chỉ là sự
trói buột mà thôi, càng tăng thêm sự dính mắc. Cái ràng buột thứ tư và là cái vi tế nhất, cái bị điều kiện hoá sâu
thẳm nhất, là tin vào cái ta, tôi, của tôi, bản ngã. Tin tưởng rằng có một
thực thể trường cữu trong danh sắc nầy, cái đang kinh nghiệm mọi thứ. Do
bởi sự tin tưởng nầy, để thỏa mãn cái tôi, bản ngã, ta lăn xã vào tất cả
những hành động bất thiện, mọi nghiệp chướng tham, sân, si, chỉ để thỏa
mãn cái ta nầy, mặc dầu thật sự nó không có ở đó. Ta bị kẹt trong khái
niệm về bản ngã nhiều đến nỗi mỗi hành động ta làm đều là chung quanh vì
tự kỷ cá nhân, cột gút sự dính mắc mình càng chặt chẻ hơn vào nổi thống
khổ vĩ đại nầy. Chân đế thứ hai Đức Phật chứng ngộ là nguyên nhân của sự khổ: nổi khao
khát. Khao khát cho cảm giác khoái lạc, cho ý kiến quan điểm mình là hay,
tốt, tin tưởng rằng chỉ cần hành lể theo nghi thức, cầu nguyện, là sẽ giảm
nhẹ đi khổ đau, và trói buột nặng nề về khái niệm bản ngã, cái tôi. Chẵng
ai bảo ta nắm lấy những thứ đó. Không có một cái lực bên ngoài nào trừ ta,
chính ta trói buột ta trong bánh xe sinh tử luân hồi. Nó chỉ là sự dính
mắc từ trong tâm ta. Có một cái bẫy khỉ được dùng ở Á Châu. Trái dừa được cột bằng một sợi
dây vào một cái cây hay cọc đóng dưới đất. Người ta khoét một cái lổ nhỏ
vừa đủ cho con khỉ thọc tay không vào nhưng không rút ra được khi nó nắm
tay lại. Bên trong để mồi nhử ngon ngọt, khi con khỉ ngửi thấy thức ăn
ngọt, thò tay vào bên trong bốc lấy thức ăn nhưng không thể nào rút tay ra
được bởi vì nắm tay đã đầy thức ăn. Khi người thợ săn đến, con khỉ trở nên
điên cuồng nhưng không thể nào thoát ra được. chẵng có gì để trói giữ con
khỉ cả, ngoại trừ hấp lực dính mắc. Chỉ cần mở bàn tay buông thức ăn ra là
con khỉ có thể trốn thoát. Nhưng lực tham trong tâm quá to lớn đi nên rất
hiếm có những con khỉ thoát được. Nó là sự thèm khát dính mắc trong tâm,
là cái bẫy của chính ta. Ta chỉ cần mở rộng tay, buông bỏ đi cái tự ngã
thân nầy, tự nhiên sẽ được giải thoát. Chân Đế thứ ba Đức Phật chứng nghiệm là diệt Đế, chấm dứt sự khổ. Niết
bàn là trạng thái vượt ra khỏi danh sắc bình thường nầy, không lệ thuộc
vào cái thường hằng thống khổ. Giải thoát. Bình an. Tỉnh lặng. Điềm đạm.
Xã bỏ. Đặt một gánh nặng trên vai xuống. Có hai loại niết bàn. Thứ nhất là niết bàn hiện tại, thoát khỏi những
nhiễm ô, tham sân si, dập tắt được những lửa tâm thiêu đốt từng phút giây.
Mỗi phút giây tự do không ràng buột từ những nhiễm ô là mỗi phút giây tỉnh
lặng và bình an. Nghĩa thứ hai của niết bàn là trạng thái vượt khỏi, không
lệ thuộc tiến trình thân tâm, sự chất dứt những đè nặng khổ đau. Lửa đã
được dập tắt. Lấy thí dụ những người sống ở sa mạc cằn cổi. Thiếu thức ăn, nước uống,
và không chổ trú thân từ cái nắng sa mạc nóng bỏng. Bởi vì họ chỉ biết có
bao nhiêu đó, họ bằng lòng thỏa mản nơi họ ở. nhưng rồi có một người trong
họ du hành đến một vùng mát mẻ và giàu có tài nguyên, nơi có thức ăn, nước
uống và chổ ở, và anh nhận ra hoàn cảnh bần cùng thống khổ nơi anh sống
hồi xưa. Câu chuyện được so sánh với sự bình an, tỉnh lặng của niết bàn,
sự biến chuyển không dừng nghĩ của danh và sắc, sinh trụ hoại diệt bất tận
nầy là một nổi thống khổ nặng nề trên vai. Chân lý thứ ba là sự kinh
nghiệm được Đức Phật chỉ ra khi Ngài nói chẵng có sự chứng ngộ nào cao quí
hơn là sự bình yên. Đức Phật cũng hướng dẫn ta con đường đi đến chứng ngộ nầy. Nó không
phải là một giáo lý mật truyền được để dành cho một số người. Đạo đế, đế
thứ tư Đức Phật dạy là Bát Chánh Đạo, làm thế nào để trút bỏ gánh nặng. Nó không phải là con đường khổ nghiệt. Nó không dính líu gì về sự hành
hạ thân xác. Nó không đòi hỏi phải rời bỏ tất cả và tìm một hang động hẻo
lánh để sống. Nó không phải cả hai hành xác và nuông chiều thân trong cảm
giác khoái lạc cái trói buột ta. Nó là trung đạo. Tỉnh giác, ý thức. Nhận
thức được sự việc đang xãy ra như thế nào. Chánh niệm và quân bình. Không
bám níu. Không lên án. Không bị đồng hóa với những việc như là tôi hay bản
thân tôi. Từng thời điểm, từng giây phút gội rửa tâm từ ô nhiểm. Chơn lý
đau khổ phải được nhận ra. Chơn lý nguyên nhân đau khổ phải được hiểu.
Chơn lý diệt khổ phải được kinh nghiệm. Và cách duy nhất chấm dứt khổ là
hành tập cho tự thân. Sự thành đạo của Đức Phật chỉ giải quyết được vấn đề
của Ngài, không phải cho ta, ngoại trừ hướng dẫn lại con đường Ngài đã đi
qua. Không có một công thức nhiệm mầu nào sẽ giải tỏa ta từ phiền não. Mỗi
chúng ta phải tự mình thanh lọc để gở rối những dính mắc trong tâm. -ooOoo- [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Hướng Dẫn Đơn Giản, Trực Tiếp Về Pháp Hành Thiền Phật Giáo
Chánh Trực dịch
Và bên trong là một diễm nữ đáng yêu,
Nét đẹp yêu kiều hơn cả chúa tiên và trường bất diệt,
Gương mặt nàng như đóa hoa đào nở rộ.
Sương xuân sẽ bao phủ điện đông,
Gió thu thổi từ lâu đài tây,
Và sau ba mươi năm đã trôi qua,
Nàng sẽ trông giống như một xác mía khô.
last updated: 05-05-2003