BuddhaSasana Home Page
KINH NGHIỆM NỘI QUÁN
Joseph Goldstein Phần IV TỐI THỨ 26 Những Yếu Tố Chứng Ngộ Đ
Nhân tố giải thoát thứ nhất là chánh niệm. Chánh niệm là phẩm chất lưu
ý, ý thức được sự kiện xãy ra chung quanh mà tâm không bị xao lãng. Đức
Phật đã nói Ngài biết không có nhân tố nào hùng mạnh như chánh niệm để rèn
luyện tâm thiện và giãm bớt tâm bất thiện. Chẵng có gì đặt biệt ta phải
làm để loại trừ tầng lớp tâm bất thiện hay để tạo nên tâm thiện ngoại trừ
ý thức được chúng từng giây phút. Tâm ý thức chính nó là sức mạnh thanh
lọc. Trong một buổi thuyết giảng lớn, Đức Phật nói về rèn luyện Tứ Niệm Xứ,
con đường đi đến giải thoát. Giác Biết còn được gọi rất nhiều tên khác
nhau trong mỗi trường phái Phập giáo, nhưng không phải cái tên là quan
trọng. Nó là sự phát triển của thức tỉnh, của lưu ý, của chánh niệm, đó
mới là con đường. Có bốn nơi chốn áp dụng chánh niệm. Đầu tiên là chánh niệm trong thân:
hơi thở, những cảm giác, tư thế và di chuyển của thân. Lưu ý và nhạy cảm
đến tất cả hình thức thay đổi của thân hiện hữu nầy. Chánh niệm thứ hai là thọ, phẩm chất dể chịu, khó chịu, hoặc trung tính
trổi lên từng giây phút trong thức. Trong mỗi đối tượng đều có một cảm
giác tương ứng trổi lên đối kháng lại. Khi những cảm giác nầy trở nên rỏ
rệt, phẩm chất ưa thích, không ưa thích nổi bật hẳn lên, chúng trở thành
đối tượng để hành thiền. Cảm thọ rất quan trọng bởi vì nó là nhân tố điều
kiện hóa khiến cho ta dính mắc chấp thủ hoặc lên án. Bởi vì cảm giác dể
chịu đó khiến ta tham muốn và đi tìm đối tượng đó. Bởi vì cảm giác không
vừa ý khiến tâm lên án, có ác cảm và ghét bỏ. Áp dụng chánh niệm thứ nhì
trong Tứ Niệm Xứ là là lưu tâm những cảm thọ nầy lúc chúng xuất hiện và
biến đi, không bị động tâm đến cái dể chịu mà cũng không lên án cái khó
chịu. Thứ ba là chánh niệm về tâm. Lưu ý tất cả tầng lớp tâm thức đồng phát
ra một loạt. Khi tâm sân nổi lên, để ý đến tâm sân; khi có dục cảm nổi
lên, để ý đến tâm dục đó, hay là tâm sợ hải. Để ý đến thức uẩn như nó đang
bị nhuộm mầu bằng tất cả những yếu tố khác nhau, không nắm bắt hay ác cảm,
không phán xét, không lượng định hay phê bình. Sân hận chẵng có cái tôi
trong đó, nó chỉ là trạng thái tâm, thức bị ô nhiễm ngay thời điểm đó.
Ngồi lại và quan sát chúng đến và đi. Quan sát với thái độ không chọn lựa
thì chẵng có trạng thái thức ô nhiễm nào có đủ sức mạnh làm rối loạn tâm.
Mọi sự kiện tâm thức là phần biểu diển thoáng qua nhanh. Chẵng có gì để
làm hảnh diện hay buồn bực. Chỉ đơn giản chánh niệm, ý thức. Cái cuối cùng trong tứ niệm xứ là chánh niệm về Pháp, biết được chơn
pháp, lưu ý đến ba đặt tính hiện hữu khổ, không, vô ngã, và của Tứ Diệu
Đế. Thấy được khổ, và nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ, và chứng
ngộ niết bàn. Chánh niệm nội quán như chúng nổi lên, chánh niệm trong
Pháp. Có rất nhiều phương pháp trong Minh sát tuệ, có thể tập trung chánh
niệm trên một hay hơn nửa ở bốn nơi chốn chú niệm nầy. Quan sát một trong
bốn nơi chốn sẽ đem tâm lại đến trạng thái thấy biết trong sáng và quân
bình. Tùy thuộc vào tính tình, cá nhân, quá trình kiến thức, và điều kiện,
phương pháp có thể thay đổi khác nhau để khế hợp với căn cơ từng người.
Nhưng đừng cho phương pháp nào hay hơn phương pháp nào, tất cả đều là
phương tiện thôi, không nên dính mắc vào; quan trọng là chánh niệm cái cần
được rèn luyện. Chi thứ hai của giác ngộ được gọi là trạch pháp hay tham cứu Pháp. Nó
là đặc tính tâm tra xét, đào sâu, phân tích biến trình thân tâm, không
phải với tư tưởng, không phải với kiến thức, trình độ khái niệm, nhưng với
lặng yên và tâm bình an. Tham cứu với trực giác, chứng nghiệm toàn bộ quá
trình biến chuyển làm việc của thân và tâm như thế nào. Nó là nhân tố trí
tuệ, ánh sáng trong tâm soi thấu được mọi sự việc đang xãy ra. Khi tham
cứu được trao dồi, ta sẽ thấy ra rằng mọi vật trong thân, sự cấu trúc của
hàng tỷ tế bào hỗn hợp lại, và tâm, nhiều tầng lớp, trạng thái thức, đều
luôn trong tình trạng biến chuyển, đổi dời. Không có gì gọi là thường còn,
xuất hiện và biến mất một cách liên tục. Cả hai, thức và đối tượng, sinh
diệt vô cùng tận. Không có gì dừng trụ một chổ, chẵng nơi nào gọi là an
toàn. Mọi vật đều liên tục biến chuyển. Qua nhân tố tham cứu nầy, chứng
nghiệm vô thường ăn sâu vào cốt tủy ta và cùng với sự thấu đáo triệt để.
Ta cảm nhận được tầng lớp vô thường sâu thẳm nhất rằng tâm là một hiện
tượng trôi chảy không dừng, tư tưởng, hình ảnh, xúc cảm, tính tình; rằng
thân nầy là sự tổng hợp của các động tác, của xúc giác, không là một khối
rắn đặc, chẵng có gì luyến tiếc mà phải bám víu. Với chứng nghiệm vô
thường nầy sẽ đưa đến một trực giác hiểu biết sâu thẳm rằng không có một
biến chuyển trong thân tâm nầy sẽ mang lại một hạnh phúc lâu dài. Làm sao
mà có sự toại nguyện vững chắc, hay hoàn toàn bởi vì nó luôn trong tình
trạng chết đi. Giống như ta cố đi tìm hạnh phúc và an toàn trong một cái
bong bóng nước. Đụng tới là vở ra, biến mất. Phút giây tạm bợ biến hoại đi
rồi cái kế tiếp lại diển ra như vậy. Nổi bất an lúc nào cũng hằng hữu. Đi
cùng với bản chất vô thường và bất toại nguyện là vô ngã. Không nơi nào
trong thân và tâm được tìm ra thực thể thường còn cái thể hiện cho bản ngã
hay cái tôi. Chẵng có ai đàng sau biến trình qui định nầy để thể hiện lên
một bản ngã thường còn. "Khi thấy, chỉ có thấy mà thôi; khi nghe, chỉ nghe mà thôi; khi cảm
thọ, chỉ thuần cảm thọ mà thôi; khi suy tưởng, chỉ thuần suy tưởng." Chỉ
là một biến trình chuyển động. Thấy nghe ngửi nếm xúc chạm và tư tưởng.
Toàn thể vủ trụ chúng ta xuất hiện là do qua biến trình sáu căn nầy. Hiện
tượng rổng lặng vẩn trôi lăn. Không ngã, không tôi. Khi yếu tố tham cứu
được đào luyện, tất cả những đặt điểm nầy sẽ được chứng nghiệm trực tiếp
trong các tầng lớp sâu thẳm. Trí tuệ sẽ bừng sáng trong tâm. Một trong những hổ trợ phụ tạo phương tiện nhân tố trí tuệ trưởng thành
được kể đến là vệ sinh cá nhân. Thân sạch, quần áo sạch, môi trường chung
quanh sạch. Lấy cây đèn dầu làm thí dụ. Nếu bóng chụp, tim đèn, và dầu đều
dơ, ánh đèn phát ra sẽ không tỏ sáng. Nhưng nếu bóng chụp được lau chùi,
tim và dầu được sạch sẽ, ánh sáng ngọn đèn tất nhiên là rạng rở. Củng vậy,
thị nhản tâm thức của ta trở nên trong sáng dể dàng hơn nếu được đáp ứng
như những điều kiện trên. Yếu tố chứng ngộ thứ ba là tinh tấn, động lực cố gắng. Không cố gắng
tin tấn thì chẵng có gì sẽ xãy ra. Khi ta muốn thành tựu bất kỳ việc gì
trong đời, nếu muốn tiền bạc, một nghề nghiệp thích hợp, phải có một sự cố
gắng nhất định nào để đạt được kết quả. Việc ta đang làm bây giờ là nung
đúc ra một lợi ích cao tột nhất. Quyết tâm và nhiệt năng phải được đặt vào
trong đó. Đức Phật chỉ vạch ra con đường; mỗi chúng ta phải bước đi cho
chính mình. Không ai có thể chứng ngộ dùm ai. Tam độc tham sân si có mặt
trong tâm, không ai cập nhật chúng vào, cũng không ai có thể lấy đem đi.
Ta phải tự thanh lọc cho bản thân. Nghị lực phải được khơi động trong mỗi
người để chúng ta đi trên con đường thanh lọc. Nghị lực là nhân tố mạnh
mẻ. Khi nó được trao dồi và phát triển, nó sẽ vượt qua dã dượi, hôn trầm
và tâm biếng nhác. Bấc cứ khi nào có vấn đề khó khăn, gút mắc nào trên
đường tu tập, dùng hết năng lực để khắc phục để đánh thức toàn bộ hệ thống
tâm não. Nó là sự hổ trợ to lớn, là một phần thiết yếu trong con đường đưa
đến giải thoát. Chi giác ngộ thứ tư là phỉ lạc. Phỉ lạc có nghĩa là vui thú tột độ
trong đối tượng. Nó đã được diển tả như rất thú vị, an trú trong trạng
thái vui sướng thích thú đang xãy ra. Nó được so sánh như một người đi
trong bải sa mạc nhiều ngày, nóng mệt mỏi, dơ bẩn và khác nước. Ở một
khoảng không xa, anh ta thấy một hồ nước trong veo. Sự hoan lạc trong tâm
để sử dụng nước đó, sự phấn khởi anh cảm nhận, đó giống như nhân tố chứng
ngộ của hỷ lạc. Hỷ lạc là tính rộng lớn trong tâm sinh ra buông xả, không
bám víu, cố thủ hay bị lôi cuốn đồng hóa. Một cách để tăng trưởng nhân tố nầy là phản ảnh mười đức tính toàn diện
của một vị Phật. 1. Bố thí toàn hảo. Bố thí được động năng do muốn giảm thiểu khổ đau
cho mọi chúng sanh. Đức Phật đã không dừng ở bố thí người nghèo, mà cả
luôn kẻ giầu sang. Bố thí rộng khắp. Trong chứng ngộ Phật thừa, tất cả những phẩm chất cao cả nầy phải được
đưa đến trạng thái toàn hảo. Ta có thể làm cho các nhân tố nầy lớn mạnh
trong tâm khi quán tưởng đến Đức Phật và phản ảnh rằng ta cũng đang rèn
luyện và tăng trưởng những phẩm chất giống như Ngài vậy. Trong mọi hành
động bố thí, mỗi hành động nhẩn nại, tính ngay thật, và của tất cả bản
chất cao cả khác, là ta đang dự phần, thể nhập tương ưng theo phẩm chất
cao cả, toàn diện của chư Phật. Sự phản ảnh trên sự phát triển chính thân
ta, những hành động thiện tự thân, sẽ đem lại niềm an lạc trong tâm. Suy
nghĩ về Pháp: Phản ảnh trên Tứ Diệu Đế, trong thực tướng của vô thường,
hay vô ngã - tất cả những tính chất hiện hữu vô thời gian, đây là chơn lý
cho mọi người ở mọi thời điểm. Phản ảnh về chơn lý của Pháp, bằng chính
kinh nghiệm của ta về Pháp và sự lôi cuốn mời đón của Pháp "nếm đi rồi sẽ
biết," hơn là "anh phải tin." Sự mang ơn đối với Pháp đem lại niềm vui lớn
cho tâm và tăng trưởng nhân tố hỷ lạc. Vui sướng tràn ngập khi khám phá ra
chơn lý của Pháp tạo ra trạng thái tâm nhẹ nhàng, bay bổng. Chi thứ năm chứng ngộ là khing an. Thí dụ được cho trong cách nầy là
như một người từ ngoài trời nắng đi vào trong bóng mát của một tàng cây
to. Sự mát rượi mà người đó cảm nhận được thì giống như nhân tố thanh tịnh
nầy, khi tất cả những đam mê được lắng dịu, kết quả là một sự điềm tỉnh từ
trong tâm phát ra, không bị thiêu đốt với tham dục và nóng giận. Chi thứ sáu chứng ngộ là định. Định đây có nghĩa là khả năng tập trung
tâm ở một điểm trên đối tượng, giữ vững đối tượng mà không bị chao động.
Nếu tâm không có định thì sẽ rất cạn cợt, trôi từ đối tượng nầy sang đối
tượng khác. Định tăng thêm sức mạnh và khả năng xuyên thấu cho tâm. Có hai
loại định. Một là được phát triển do tập trung trên bất cứ một đối tượng
nào, và phát triển định đến điểm thâm nhập vào đối tượng(là một). Cách
định một điểm nầy trở thành cơ bản trong nhiều huyền bí tâm linh (như mở
được thần thông chẵng hạn). Phần định khác là, cách dùng để phát triển tuệ
nội quán, được gọi là tập trung tức khắc, bất kỳ lúc nào. Đó là cái tâm
tập trung một điểm trên những đối tượng đang thay đổi. Cách thiền định
nầy, cùng áp dụng với các nhân tố chứng ngộ khác, sẽ đưa đến giải thoát. Chi cuối cùng chứng đắc là xả bỏ, tâm điềm tỉnh. Khi sự việc xãy ra
thuận lợi, tâm không có sự phấn chấn mang dại. Khi sự việc xãy ra bất như
ý, tâm cũng không phản ứng với phiền não, buồn rầu. Tâm bình thản là tâm
vô tư đến tất cả mọi hiện tượng, đối xử với mọi hoàn cảnh đồng đều nhau.
Lấy thí dụ tâm xả là mặt trời chiếu rọi trên quả đất. Mặt trời đã không
chọn một đối tượng nào nhất định để soi sáng. Nó chiếu rọi mọi thứ một
cách đồng đều. Nhân tố tâm bình thản là chấp nhận và tính chất dể tiếp thu
đến mọi đối tượng. Một lối phản ảnh để rèn luyện yếu tố tâm xả, đặc biệt
là khi phải đối xử với người khác, là nhớ lại rằng tất cả chúng sanh đều
là con cháu, người thừa hưởng, chính nghiệp quá khứ của họ. Vậy khi ta
thấy chúng sanh sống trong hạnh phúc dạt dào, ta có thể biết ơn và tìm sự
hoan hỷ trong hạnh phúc của họ, nhưng với tâm bình thản, biết được rằng họ
được ngày hôm nay là do nhân đời trước họ tạo ra. Hay khi ta thấy chúng
sanh đau khổ, ta có lòng từ và cố gắng xoa dịu nổi khổ đau, nhưng với tâm
vô tư, biết được rằng đây là nghiệp đang báo ứng với người đó. Tâm bình
thản thì không phải là cái tâm lãnh đạm, thờ ơ, nhưng là tâm quân bình cao
tột. Trong thiền, khi tâm bắt đầu ý thức trên các tầng lớp vi tế, biến
trình thay đổi liên tục, yếu tố tâm xả giữ mọi thứ trong tư thế thăng
bằng. Đây là bảy đặc tính chứng đắt mà ta phải thực tập cho đến thành tựu. Ba
phần trong đó là nhân tố khơi động, và ba phần khác là lắng dịu tâm. Trí
tuệ, năng lực và phỉ lạc là động năng khơi tâm dậy; chúng làm cho tâm tỉnh
giác và ý thức. Khinh an, định và xả làm tâm lắng dịu lại và giữ tâm yên
một chổ. Chúng phải được nhịp nhàng hòa hợp với nhau: Nếu có khơi động
nhiều quá, tâm trở nên trạo cử; nếu quá yên tỉnh, nó sẽ buồn ngủ. Nhân tố
chánh niệm là yếu tố rất quan trọng bởi nó không chỉ phục vụ để đánh thức
và tăng sức mạnh những nhân tố khác, nó cũng giữ chúng trong tư thế quân
bình nửa. Sự tiến hóa của tâm đi theo con đường nầy khiến cho người đó có sự
khích lệ to lớn, tràn ngập. Thiết tưởng một cái tâm được trưởng thành tròn
đủ với chánh niệm, trí tuệ, năng lượng, hĩ lạc, điềm tỉnh, tập trung và
quân bình, nó là một cái tâm sáng lạng và tràn đầy hạnh phúc. Đó là việc
ta đang làm. Không chỉ những nhân tố chứng ngộ đem lại hạnh phúc trong
hiện đời, mà còn đưa đến niết bàn, đến chứng ngộ, đến giải thoát. Đôi khi từ ngày nầy sang ngày khác, ta rất dể quên là đang làm cái gì
trong lúc đương đầu với sự thao thức, đau đớn và tâm lạc lỏng. Nhưng cái
đang xãy ra một cách tinh tế từ lúc nầy qua lúc khác, phát triển không
ngừng, chắc chắn tuyệt đối, một cách có qui tắc, là sự lớn mạnh tăng
trưởng của thất giác chi. Đó là công việc to lớn đang trên đà hoàn tất. Nó
là sự tiến hóa cao thượng nhất của tâm. Hỏi: Chứng ngộ là cái từ từ cần thời gian hay nó đến bất thần
như một tia chớp?
Đáp: Cả hai. chứng ngộ thì luôn luôn bất thần trong một cảm quan
trực giác hiểu thấu. Nó không phải là cái gì bạn có thể nghĩ ra. Nó xuất
phát ra từ cái tâm yên lặng, một trực giác, và bất thần, cái hiểu không từ
ngữ. Trực giác hiểu thấu nầy không đến một cách ngẫu nhiên. Phải có một
tâm thức quân bình chắc chắn nào cái đã được rèn luyện làm cho sự hiểu
biết bất chợt đó bùng vở ra.
Hỏi: Và rồi từ sự hiểu biết đó con người nương theo mà hành động
tùy thuộc? Bây giờ tôi hiểu được chút đỉnh, nhưng hình như tôi không hành
động như vậy.
Thực ra năng lực ý thức có phần tăng thêm, cái nầy làm thay đổi cách
bạn hành xử. Ý thức rất là có năng lực. Một khi bạn đã có được một tia
chớp lóe lên chỉ nhìn những gì đang xãy ra, rất là khó để bị lạc vào con
đường củ, kể cả lúc ta đang bị lôi kéo vào thói quen một lần nửa. Nó giống
như tiếng nói nho nhỏ vang vọng từ phía sau, "Anh đang làm gì đây?" Một
chút ý thức được nuôi dưởng đó hoạt động một cách hùng mạnh. Và dần dà sự
hiểu biết hội nhập một cách hoàn toàn hơn vào trong sinh hoạt thường nhật
của ta. Hỏi: Tôi có câu hỏi về hạnh phúc vô thường. Đây là những người
trên thế gian yêu mến Chúa một cách đầy nhiệt huyết và hình như họ luôn
phát ra một sự hỷ lạc.
Việc nầy nên được hiểu theo hai chiều hướng: thứ nhất, mọi trạng thái
tâm thì vô thường; đó là, hạnh phúc thì không phải luôn trong tâm bởi vì
tâm chính nó xuất hiện và biến đi từng phút giây. Vậy nên trong ý nghĩa cơ
bản, trên tầng lớp hiện diện của tâm lúc đó, nó là vô thường. Không có gì
vững bền, không gì cố định. Trong ý nghĩa thứ hai, có những người trao dồi
tình thương của Chúa, huân tập nhập thể với Chúa, sự nhận thấy được Chúa
qua sự phát triển của thiền định. Họ có thể thụ hưởng một thời gian dài
hạnh phúc. Mặc dầu nó đang trong giai đoạn, trạng thái đang tiếp. Nhưng nó
cũng, tính theo tính chất thời gian, là vô thường thôi. Miễn là điều kiện
còn đó, tình yêu đó cho Chúa, hay nếu định còn được nuôi dưỡng, vậy nó còn
mang lại thiện nghiệp ứng báo. Nhưng nếu còn vô minh ngủ ngầm trong tâm,
sự hỷ lạc đó chỉ có thể tiếp tục miễn là phải có điều kiện định đàng sau
đè nén vô minh, nhưng rồi một lần nửa tâm sẽ trở lại trạng thái ô nhiễm
tham, sân, si. Qua sức mạnh của tâm định, những nhơ bẩn có thể tạm thời
được đè nén, và trong thời gian tâm định còn tác dụng mọi việc đều tốt
đẹp, hạnh phúc. Nhưng ngay sau khi tâm ra khỏi trạng thái định, những nhân
tố xấu bị đè nén trước kia trong tâm bắt đầu hoạt động trở lại. Đó là tại
sau nó rất quan trọng để nhổ tận gốc rể những dơ bẩn qua Minh sát để chúng
không còn xuất hiện trong tâm nửa. Hỏi: Với lòng từ bi bao la, tại sao Đức Phật không ở lại cứu độ
chúng sanh?
Đức Phật là hiện thân của Pháp; Ngài không là một phần riêng biệt từ
những tác dụng của Pháp. Nếu có tái sanh, già bệnh chết không thể tránh
được sẽ theo sau. Có chứng đắc hay không chứng đắc, đây vẩn là một phần
bản chất tự nhiên của con người. Nhưng cái hằng chơn chính nó thì không có
thời gian, và đã được hướng dẩn kỷ càng để hiểu biết con đường, ta không
cần dựa vào ai ngoài chính bản thân. Hỏi: Tôi thấy tình yêu thì không phải một trong những yếu tố
chứng ngộ. Có nguy hiểm gì nếu con người vẩn giữ tình cảm chai lì và lạnh
lùng?
Rất là quan trọng để hiểu nhiều ý nghĩa khác nhau trong ý nghĩa tình
yêu. Mức độ thứ nhất là loại chúng ta đã thảo luận trước kia, tình yêu
thương mãi. Ta yêu thương người nào và muốn được đền đáp lại cái gì. Loại
thứ hai là mong cho vạn sự tốt lành đến với mọi chúng sinh. Đó là loại
tình yêu không điều kiện, không biên giới. nhưng nó vẩn còn nằm trong khái
niệm, khái niệm đàn ông, đàn bà và chúng sanh. Những khái niệm nầy không
mang tính chất thực tế tối hậu. Cái tuyệt đối của ta là là những
nguyên tố hợp lại xuất hiện và biến đi từng giây phút. Có loại tình yêu
thứ ba cao thượng hơn cả tâm từ rộng khắp. Tình yêu nầy là sự hội nhập tự
nhiên xuất phát từ cái đã phá tan được những chướng ngại về khái niệm bản
ngã. Không "ta," không "người." Nó là tình yêu được sinh ra từ trí tuệ và
ở mức độ nầy, "tình yêu" và "chơn không" đều giống nhau. Hoàn toàn không
có khái niệm gì "tôi đang yêu." Nó được giải thoát từ những ý nghĩ về cái
tôi, bản ngã. Khi bạn cảm nghiệm được tình yêu tối thượng, bạn biểu hiện
mọi mức độ trạng thái khác cũng như vậy. Nhìn chung quanh những vị thầy
tinh chuyên bạn biết. Họ lúc nào cũng tràn đầy tình thương và ánh từ bi,
nhưng không với những ý tưởng họ nên là như vậy; nó là sự biểu hiện tự
nhiên của Pháp. -ooOoo- TỐI THỨ 29 Đường Lối Phật Giáo Đ Thời gian trôi qua con người thực hành càng ít đi, họ bắt đầu nhầm lẩn
chấp vào ngôn từ thay vì chứng nghiệm. Các hệ phái Phật giáo khác nhau
xuất hiện, tranh luận về tư tưởng.. Như thể cố gắng để giải thích mặt
trăng trong một buổi tối trăng tròn một người giơ ngón tay chỉ mặt trăng,
và lầm chấp ngón tay đang chỉ thay vì mặt trăng. Ta không nên nhầm lẩn
giửa ngón tay và mặt trăng, không nhầm lẩn ngôn từ chỉ ra chân lý và sự
chứng nghiệm chính nó. Khi Pháp được truyền bá đến Trung Hoa, nó đã phát triển theo lối riêng
biệt, với sự hội nhập giửa Phật giáo và Lão giáo. Một thánh nhân có chiều
hướng ảnh hưởng và biểu tượng của Thiền tông là Tổ thứ sáu, Ngài Huệ Năng.
Ngài mù chữ và không thể đọc Kinh điển được, nhưng tâm Ngài trong sạch và
thấu suốt đến độ chỉ cần nghe một câu trong king Kim Cang là Ngài đã chứng
ngộ. Người ta hay luôn đọc Kinh văn đến Ngài để Ngài có thể giải thích
nguồn cội chơn nghĩa. Ngài cho một sự giải thích rỏ ràng cái khác nhau trong mỗi trường phái,
các Thừa trong Phật giáo ý nghĩa như thế nào. Đức Phật giảng giáo lý trong ba Thừa, và Tối Thượng Thừa. Để cố gắng
hiểu những cái nầy, các ngươi nên tự xem xét nội tâm chính các ngươi và
hành động biệt lập từ những sự vật và hiện tượng. Sự khác biệt của bốn
Thừa nầy không nằm trong Pháp chính nó, nhưng nằm trong tâm phân biệt của
mỗi người. Thấy, nghe và tuyên đọc Kinh cú là Tiểu Thừa. Biết được Pháp và
ý nghĩa thâm sâu là Trung Thừa. Áp dụng giáo Pháp và hành tập là Đại Thừa.
Hiểu thấu đáo tất cả các Pháp, thấm nhuần chúng một cách hoàn toàn, giải
thoát từ tất cả những trói buột, và không gì cố hữu chấp dính, là Tối
Thượng Thừa. Trong tất cả mọi truyền thống, là Ấn Độ, Miến Điện, Trung Hoa, Nhật,
Tây Tạng, Hay Hoa Kỳ, có những người chấp dính vào ngôn từ, tụng đọc kinh
văn. Đó là hạng Tiểu Thừa. Lúc ta áp dụng văn tự vào hành tập, lúc ta
chứng nghiệm được Pháp, ta tiến triển xuyên qua thứ lớp các Thừa cho đến
khi ta không còn bị dính mắc đến việc gì, không còn tư hữu đến tài sản,
sống trong Phật Pháp một cách tròn đầy, từng phút từng giây. Đây là Pháp
Tối Thượng Thừa, sự hành tập đi đến toàn giác. Pháp Tối Thượng Thừa nầy
không bị quản thúc trong một truyền thống nào. Nó được nằm trong sự phát
triển hiểu thấu giáo Pháp của mỗi người chúng ta. Như nhiều thể hiện khác nhau của Pháp được phơi bày theo dòng lịch sử,
các vị Thiền Sư danh tiếng sử dụng rất nhiều phương tiện thiện xảo để
hướng dẩn ta nhìn lại chính tâm mình, chứng nghiệm được Pháp trong bản
thân. Một vài từ ngữ cổ xưa quen thuộc, đã trở thành những khái niệm tinh
xảo, được sử dụng theo lối tân thời để đưa người thấy chơn lý trong hiện
tại. Thông hiểu phương tiện dùng khác nhau, lấy thí dụ trong chữ "Phật," là
một hổ trợ to lớn để hiểu được các truyền thống xử dụng ngôn từ theo lối
khác nhau. Đầu tiên, chữ Phật qui cho một nhân vật lịch sử, Ngài Sỹ Đạt Đa
Gôtama, người chứng ngộ toàn giác. Nhưng nó cũng có nghĩa là tâm không bợn
nhơ, tâm Phật, tánh giác. Cái tâm không vướng mắc tham sân si. Sau khi Đức Phật nhập diệt, khoảng 300 năm, vẩn còn chưa có hình ảnh,
biểu tượng gì của Đức Phật. Con người lấy trọng tâm tu tập làm biểu tượng
của Đức Phật., không cần phải thể hiện ra bên ngoài. Khi phần hành tập
càng yếu dần và biến mất đi, con người bắt đầu đưa Đức Phật ra ngoài khỏi
trọng tâm tu tập-nghi thức, hình ảnh, biểu tượng bắt đầu xuất hiện thay
thế cho cốt lủy Phật giáo là tu tập để giải thoát. Lúc khái niệm, biểu
tượng, hình tượng, thể thức (Phật giáo) được đưa ra ngoài nhiều(nói mà
không làm), những vị thầy giỏi làm nổi bật lại ý nghĩa khác của Phật. Có
câu nói "Gặp Phật giết Phật." Cú sốc nặng đến những người dâng hương, cúng
dường trước biểu tượng Đức Phật. Nếu bạn có khái niệm trong tâm về Phật
ngoài tâm, giết nó, buông xả ý niệm đó. Có nhiều cuộc đối thoại về nhận
diện được Phật tánh tự thân, trở thành Phật trong một đời, nhìn vào trong
Phật tâm của mình, và lối sống mới lại được tiếp hơi, từ nơi đó hành tập
lại được phục hưng. Đức Phật không ngừng nhắc nhở mọi người rằng chứng nghiệm chơn lý đến
từ tự tâm. Có câu chuyện về một vị Tăng bị mê say bởi được diện kiến Đức
Phật Rồi vị đó ngồi thật gần Đức Phật, sử dụng cơ hội quí báo nầy mà chiêm
ngưỡng tướng hảo trang ngiêm của Ngài. Sau đó, Đức Phật đã từ bi quở trách
vị Tăng. Ngài dạy rằng ông ta có thể nhìn thân sắc trang nghiêm nầy đến cả
trăm năm, nhưng vẩn sẽ không thấy Phật đâu cả. Người nào đạt được Pháp, đó
chính là thấy Phật. Phật tự thân. Nó là sự chứng nghiệm chơn lý. Luôn trở
về sống với hiện tại, để kinh nghiệm, trải qua sự việc ngay bây giờ. Một lần nửa từ Ngài Huệ Năng: Ta nên tìm Phật bên trong nền tảng tâm thức. Không nên tìm nó ngoài
tự thân. Người bị giam giử trong vô minh tại cội nguồn tự tâm, đó là
phàm nhân. Người được chứng ngộ tại cội nguồn tự tâm, đó là Phật. Không phải Đức Phật nhân vật lịch sử, nhưng Phật giải thoát từ nhơ bẩn,
tâm trong sạch. Đó là Phật mà chúng ta phải thành. Một tư tưởng thường bị lần lẫn trong các truyền thống là khái niệm về
Bồ-Tát. Chữ "Bồ-Tát" có hai ý nghĩa riêng. Trong một lý giải đặc biệt, nó
ám chỉ đến một chúng sanh có lời thệ nguyện giác ngộ cao tột, như Ngài Sỹ
Đạt Đa trong quá trình lâu dài để đạt được chứng ngộ toàn giác. Một nghĩa
khác của Bồ-Tát, ngầm chỉ tất cả những năng lực thanh lọc trong tâm. Trong
truyền thống Đại Thừa Tây Tạng, có nguyên một đền thờ các vị Bồ-Tát, nhân
cách hoá, hiện thân của những tiềm năng tâm. Ngài Văn Thù Sư Lợi là Bồ-Tát
tượng trưng cho trí tuệ. Ngài Quán Thế Âm tượng trưng cho từ bi: những thể
hiện năng lực thanh lọc trong tâm. Mỗi giây phút có trí tuệ, ta trở thành
Văn Thù Sư Lợi, mỗi giây phút có từ bi, ta trở thành Ngài Quán thế Âm. Nếu
ta hiểu được ý nghĩa Bồ-Tát như thế nầy, Thệ nguyện Bồ-Tát đưa ta đến đến
một ý nghĩa sâu rộng hơn. Trong một ý, nó là lời phát nguyện hiến dâng bản thân nầy đến chứng ngộ
cao tột Phật giác. Ngài Sỹ Đạt Đa đã thệ nguyện như vậy trong rất nhiều
tiền kiếp, trong lúc một Đức Phật còn hiện tiền, Ngài đã có khả năng giác
ngộ; nhưng được động viên bởi vị Phật hiện tiền đó, có tát động mạnh bởi
lòng từ vì sự đau khổ của chúng sanh, Ngài đình lại sự chứng đắt riêng để
đi đến toàn chân, phẩm chất toàn giác của một vị Phật. Mặc dù tâm tự do,
giải thoát trong một chúng sanh đã chứng đắt và Phật thì giống nhau, nhưng
quyền năng sâu thẳm bi và trí của một vị Phật thì to lớn hơn nhiều do bởi
bao nhiêu kiếp phát nguyện tu tập không thể đếm được. Một ý nghĩa khác trong thệ nguyện Bồ-Tát được diển giải rỏ ràng do Ngài
Huệ Năng: Ta thệ nguyện cứu độ vô lượng chúng sanh. Đó có nghĩa là gì? Nó không
có nghĩa là tôi, Huệ Năng, sẽ độ thoát tất cả chúng sanh. Và chúng sanh
trong tâm là ai? Chúng là những tâm lường gạc, bịp bợm, tâm yêu mỵ, và
những tâm thức khác. Tất cả những cái nầy là chúng sanh. Mỗi chúng sanh
như vậy phải được cứu độ bằng phương tiện của cội nguồn tự tâm phát ra. Lời thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh có thể được hiểu trong hành tập
như là cứu độ chúng sanh từ bên trong chúng ta; giải thoát tâm tham, sân,
si. Mỗi cái tâm như vậy là một chúng sinh, xuất hiện rồi biến đi. Và ta
thệ nguyện giải thoát chúng sanh, giải thoát biến trình tâm thức nầy từ
những tính chất ô nhiểm, không tinh khiết nầy. Một cái khác biệt trong các hệ truyền thừa là ý niệm cảnh giới khổ và
niết bàn. Một hệ truyền thừa nói về Niết bàn như là cái gì ngoài diển biến
thân tâm nầy; một hệ phái khác nói niết bàn và cảnh khổ là một. Làm sao để
hóa giải hai sự phát biểu tương phản nầy. Một cách để hiểu thấu là nếu bạn
tưởng tượng một cơn bão, gió xoáy mạnh với tốc độ cao. Chính giửa cơn gió
lốc là một chổ an tỉnh và lặng yên, trọng tâm của cơn bão. Theo một cách,
nhìn từ trong trọng tâm của cơn bão thì rất là khác xa luồn gió. Mọi vật
đều lặng yên, rất là khác biệt từ luồng gió xoáy xãy ra chung quanh. Từ
một cái nhìn khác, một người có thể thấy gió và trọng tâm là từng phần của
một tổng thể, có thể giải thích là một. Cũng giống như vậy, cảnh giới khổ
và niết bàn thì rất khác xa; sự diển biến liên tục và tỉnh lặng. Từ quan
điểm khác, chúng hợp lại trở thành một tổng thể, theo nghĩa là một. Trong
sự chứng nghiệm Pháp, ngôn từ trở nên rỏ ràng. Miễn là ta còn chấp trong
lý thuyết và khái niệm ngôn từ là phương tiện thiện xảo được sử dụng trong
hệ phái khác nhau, ta sẽ thấy nó đưa đến những chơn lý trái biệt, trở
thành mâu thuẩn. Thật ra, chúng là nhiều ngón tay, chỉ cùng một mặt trăng. Có một cách hướng dẩn rất hiệu năng để chỉ ra chơn lý diển tả rất mạch
lạc về tâm thức từ kinh điển Mật tông cao cấp. Cố gắng chứng nghiệm từ ngữ
hơn là suy tưởng về chúng: Thật ra không có nhị nguyên, đa nguyên thì càng sai. Cho đến khi nhị
nguyên được vượt qua và ngay tại đó chợt nhận thức được rằng không
có chứng đắc. Tổng thể của cảnh giới khổ và niết bàn không tách rời nhau,
là tâm ta. Vướng nợ vào sự tin tưởng thế giới trần tục nầy là thật có nhân
loại lại còn lẩn quẩn trong cảnh khổ, nhưng ta có tự do chấp nhận hay
khước từ... Cho nên, thực tập Pháp, thoát khỏi mọi ràng buộc, nắm vững cội
nguồn giáo lý nầy. Mặc dù là một tâm, nó cũng không hiện hữu. Khi một người tìm tâm mình trong bản chất thật chơn, họ sẽ thấy ra khá
dể hiểu, mặc dù không thể thấy được. Trong trạng thái toàn chơn của nó,
tâm lột trần, tinh khiết, không bị tạo ra từ những thứ gì, hoàn toàn trống
không, trong sáng, rỗng, không nhị nguyên, trong suốt, không thời gian,
không pha trộn, không bị ngăn trở, không mầu sắc, không thể nhận dạng là
một đơn thể mà là một tổng thể của vạn hữu, nhưng không phải được sáng tạo
từ vạn hữu, hoặc một ai, nó vượt trên tất cả những khác biệt. Nhất tâm một cách xác thực là của tánh không và chẵng dựa trên nền tảng
nào, vả lại tâm người đó rổng rang như bầu trời. Để biết cái nầy thật hay
không, hảy nhìn vào chính trong tâm mình. Chỉ là tính chất thay đổi liên
tục, không ổn định như không khí trong bầu trời, dáng vẻ đối tượng không
có năng lực để quyến rủ và câu thúc. Để biết cái nầy thật hay không, hảy
nhìn vào chính tâm mình. Vả lại, tất cả hình dáng chỉ là khái niệm riêng
của họ, tự diển đạt trong tâm, giống như sự phản chiếu được thấy trong
gương. Để biết cái nầy thật hay không, hảy nhìn và chính tâm mình. TrổI
lên từ trong chính chúng và tự nhiên như mây trên trời, tất cả những biến
đổi, xuất hiện bên ngoài sẽ tan biến vào trong nơi tương ứng riêng của
chúng. Để biết cái nầy thật hay không, hảy nhìn vào chính tâm mình. Pháp, là không nơi nào khác ngoại trừ tâm, Không có nơi nào khác để
hành thiền là chính tự tâm. Pháp, không nơi nào khác ngoại trừ tâm, không
có nơi nào khác của chơn lý để tuân thủ giới luật của một lời thệ nguyện.
Pháp, không nơi nào ngoài tự tâm, không có Pháp ở nơi nào khác, nhờ đó
giải thoát có thể chứng ngộ. Nhân tâm thì trong suốt, tính chất rổng rang, nó có thể so sánh với bầu
trời không mây. Nó là trạng thái tâm thức vượt qua tất cả những nhị nguyên
đem lại sự giải thoát. Lần nửa và một lần nửa, hảy nhìn vào chính tâm
mình. Khi Pháp được hiểu một cách sâu sắc, nó trở nên rỏ ràng rằng cội nguồn
của tất cả phương tiện hành tập đưa đến giải thoát thì giống nhau; đó là,
phát triển một cái tâm không dính mắc vào bất cứ những gì. Không ưu tiên.
Không phân biệt. Không phán xét. Không trói buột. Không lên án. Phần hành
thì giống nhau dẩu cho nó được diển đạt qua ngôn từ của Tổ thứ sáu Trung
Hoa hay các Tổ Ấn Độ, hoặc Ngài Sỹ Đạt Đa. Ngài Tilopa, một thánh nhân vỉ đại của Ấn Độ và là một biểu tượng
truyền cảm cho các dòng thừa ở Tây Tạng, đã dạy tâm quân bình giống như
vậy, đây được gọi là Đại Thủ Ấn, đến học trò Naropa. Đại Thủ Ấn vượt ra khỏi giới hạn của từ ngữ và biểu tượng, nhưng với
con, nầy Naropa, trung trực và thành tín, cái nầy phải được nói. Cái
rỗng không chẵng cần đến tín nhiệm. Đại Thủ Ấn dựa trên cái không. Không
cần cố gắng, nhưng nằm trong thư giản và tự nhiên, rồi người sẽ phá vở
cái ách ràng buột, và được giải thoát. Nếu với tâm, vậy người nên quan
sát tâm, ai hủy diệt được những phân biệt là người đó tiến vào Phật
tánh. Những án mây lơ lững trên bầu trời không cắm rể, không nhà, không ý
tưởng phân biệt trôi lơ lững qua tâm. Khi tự tâm được thấy ra, sự phân
biệt chấm dứt. Trong khoảng không, hình thể và mầu sắc được hình thành, nhưng khoảng
không không bị nhuộm mầu trắng hoặc đen. Từ tự tâm mọi vật được hiện ra.
Đức hạnh hay thói xấu đều không làm nhiểm tự tâm đó được. Không cần thiết làm gì với thân ngoài thư giản. Câm miệng và giử yên
lặng. Để tâm không và không nghĩ gì. Như ống tre rổng, để thân nghĩ ngơi
thoải mái. Không cho, cũng không lấy, để tâm nghĩ ngơi. Đại thủ ấn thì
giống như là một cái tâm không dính mắc vào gì. Thực hành như vậy,
khoảng một thời gian, con sẽ đến được Phật tánh ... Người bỏ được khao khát và dính mắc đến cái này cái nọ nhận được chơn
giáo nghĩa đã diển bày trong Kinh văn. ... Thoạt đầu thiền giả cảm nhận tâm mình thì đổ nhào như thác nước;
nhưng vào giửa thì như sông Hằng, chảy chậm rải và nhẹ nhàng. Để cuối
cùng nó là một biển lớn nơi ánh sáng của mẹ và con hợp lại thành một. "Người bỏ được ham muốn, và không còn trói buột đến cái nầy cái nọ,
nhận thức được chơn liểu nghĩa đã được diển bày trong Kinh văn." "phát
triển một cái tâm không ràng buột ." Rời bỏ chấp thủ, xa lìa dính mắc: con
đường đi đến giải thoát. Theo truyền thống Pháp tiến triển bên Nhật từ dòng Tổ Huệ Năng và các
Tổ khác đã sản sinh ra rất nhiều văn phú tuyệt vời và diển bày rỏ ràng con
đường đạo, thường thì rất khôi hài. Một câu chuyện miêu tả chơn lý không
dính mắc hay trói buột, được trình bày cụ thể rất có Thiền vị: Một giáo sư đại học đến thăm một Thiền Sư, hỏi rất nhiều câu về thiền
đạo. Vị Thiền Sư mời ông uống trà và rót trà vào ly của khách và cứ tiếp
tục rót mải. Vị giáo sư nhìn trà tràn lan và la lên rằng ly nước đã đầy
không còn rót thêm được nửa. "Cũng giống như ly trà nầy," Vị thiền Sư
trả lời, "đầu óc ông đầy những quan điểm, tư kiến, làm sao có chổ để mà
hiểu những cái mới. Cảm nhận được chơn lý, trước tiên ông phải đổ ly
nước của ông đi." Miển là còn kẹt trong quan điểm, tư tưởng, ta không bao giờ chứng
nghiệm được chơn lý. "Đừng đi tìm chơn lý. Chỉ dừng sự bám víu vào tư
tưởng." Buông xả được định kiến, trong một cái tâm yên lặng, toàn chơn của
Pháp sẽ hiển lộ. Mỗi chúng ta nên đổ ly nước của mình đi, vứt bỏ đi tất cả
những gì dính mắc, tồn tại trong tâm. Có cái rỏ ràng, thanh cao trong những diển tả khác nhau về Pháp. Chúng
ta rất là may mắn không lớn lên từ một xả hội điều kiện hóa cố định bởi
bất cứ phong tục tập quán riêng biệt nào, nếu ta chỉ rộng mở, ta sẽ nghe
và biết ơn tất cả. Mọi phương tiện đều đưa đến một chơn lý, đến chứng
nghiệm chơn Pháp trong tự mỗi chúng ta. Đức Phật đã khuyên răng, "Chẵng tin vào gì do bởi các con được dạy như
vậy, hay do bởi phong tục truyền thống, hay các con chính bản thân tưởng
tượng ra. Đừng tin vào lời vị thầy chỉ vì kính trọng người đó. Nhưng bất
cứ con đường nào, qua tra cứu tận tường, con thấy nó đưa đến hạnh phúc và
an lành cho mọi chúng sanh, vậy con nên theo đường đó như tuần tự quỉ đạo
của mặt trăng ngôi sao." Hỏi: Tôi có hơi bối rối về việc không khởi ý kiến. Theo tôi, có
quá nhiều chọn lựa trong thế gian nầy.
Đáp: Phải dùng mức độ phân biệt và hiểu cái gì ưu tiên cần thiết
khi đúng thời cơ. Nên hiểu rằng đó chỉ là mực độ khái niệm trong tâm thức,
không phải là bước tối hậu thực tại. Xử dụng đầu óc tính toán mà không bị
dính mắc vào nó. Như đã được giải thích trong Áo Nghĩa Thư, làm mà không
dính mắc đến kết quả của sự làm. Cũng giống như vậy, tâm ta có thể tự do
không bị ràng buột đến sự phân biệt vào những cần thiết, hơn nửa, phải
dùng chúng để ứng đối với đời sống thế tục.
Hỏi: Vậy còn mọi sinh hoạt, như tập du già, tài chí, nắn bình
đất, dệt vải, hay bất cứ cái gì, như là một phần của rèn luyện tâm linh?
Mọi thứ đều có thể khi nó được làm với ý thức, với trong sáng, không
tham ái, không nắm giữ, cả trọn thế gian, 10,000 hỷ lạc và 10,000 đau khổ
tất cả đều ở đó để được cảm nhận ra. Những sinh hoạt chính nó chẵng là dấu
hiệu của chiều sâu hay cạn. Dấu hiệu là tính chất của tâm được thể hiện
trong sinh hoạt thường nhật. Một Tài Chí Sư đã có thể phù hợp tuyệt đối
với Pháp. Tâm lặng yên hoàn toàn. Một người khác làm việc cật lực với sức
lao động, nhưng vẫn với cái tâm yên lặng tuyệt đối. Có rất nhiều thí dụ
tuyệt đẹp trong mọi sinh hoạt dùng để biểu hiện tâm toàn hảo. Mọi thứ đều
trở nên có thể khi tâm được tự do. Hỏi: Có một ý niệm rằng trước tiên bạn phải đi qua giai đoạn
Tiểu Thừa rồi Đại Thừa rồi Kim Cang Thừa, từ một thừa nầy đến thừa khác
với nhiều sự việc khác nhau xãy ra trong mỗi.
Theo lối nầy bạn muốn ám chỉ, Tiểu Thừa, Đại Thừa, Kim Cang Thừa là
những giai đoạn trên con đường tiến đến giác ngộ. Bất cứ con đường nào một
người đang theo, những giai đoạn nầy sẽ có mặt ở đó. Bạn có thể đang tu
tập theo truyền thống Miến Điện, Nhật Bản hay Tây Tạng, và bất cứ truyền
thống nào bạn cũng phải trải qua các Thừa đó. Rối rắm sẽ nổi lên bởi vì
những danh từ đó qui nghĩa tùy theo sự khác biệt truyền thống lịch sử. Con
người bị nhầm lẫn qua từng giai đoạn trên với những biểu hiện tập quán
lịch sử khác biệt Phật pháp của từng quốc gia. Vì lý do nầy, tư tưởng khái
niệm thì không được hữu dụng cho lắm. Có rất nhiều chặng dọc theo con
đường phải được chứng nghiệm qua. Dán nhản, đặt tên cho mỗi giai đoạn
trạng thái chỉ là bề ngoài, và rất dể bị hiểu lầm. Chỉ như thị, những gì
đang hiện diện. Chơn Pháp đang mở rộng trong mỗi người. Ta trải qua rất
nhiều kinh nghiệm. Thực chứng, hơn là ý tưởng phân loại đặt tên cho chúng,
là cái rất hệ trọng. Hỏi: Có rất nhiều truyền thống thiền tập khác nhau trong mỗi
quốc gia. Chúng cũng chỉ là phương tiện khác nhau trên con đường?
Chánh niệm có thể được phát triển trên bất cứ đối tượng nào. Bạn có thể
tu dưỡng chánh niệm trên tư tưởng, trên thân, trên đối tượng bên ngoài,
bên trong, trên tất cả hay một sự kết hợp nào. Kỷ thuật và phương pháp là
những cách thức khác nhau để tăng trưởng chánh niệm. Giác biết là cốt lũy
của mọi hành tập, nó làm quân bình tâm để có thể đưa đến chứng ngộ. Mọi
vật đều vô thường và Nội quán có thể được phát triển trên bất cứ đối tượng
nào. Bạn có thể kinh nghiệm được giác ngộ trong khi suy tư, giữa cơn đau,
trong lúc ăn, kinh hành, bất cứ lúc nào, vì nó đến từ một cái tâm quân
bình thuần nhất, không phải khư khư nắm giữ một vài đối tượng riêng biệt. Hỏi: Vài vị thầy nói về sự nguy hiểm của siêu linh thuật trong
tu dưỡng tâm linh. Đó có nghĩa là gì?
Pháp thuật cũng có thể được phát triển. Nhưng nó không phải là trí tuệ.
Pháp thuật và trí tuệ là hai sự kiện khác hẳn. Nó cũng có thể nguy hiểm
tập luyện những siêu năng nầy trước khi được chứng đắc cao bởi vì chúng
chỉ làm tăng thêm ý niệm cái tôi, tự ngã, và bị xử dụng một cách mánh
khóe, bất chánh. Phép mầu có thể được xử dụng thuần thục, thiện lợi nếu
người đó đã có một nền tãng vững chắc về luân lý đạo đức và hiểu biết.
Nhưng thật ra không cần phát triển những siêu năng lực nầy. Đã có nhiều
chúng sinh giác ngộ mà đâu có siêu năng lực gì, và cũng có nhiều chúng
sanh với nhiều siêu năng lực nhưng không được giác ngộ. Nhưng cũng có
người chứng được cả hai, trí tuệ và siêu năng lực. Hỏi: Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật thường đề cập đến chứng quả A-
la-hán. Việc đó nói đến kinh nghiệm chứng đắc?
Đúng vậy, nó qui cho trạng thái đã hoàn toàn loại trừ những tham, sân,
si trong tâm, nó đến như là kết quả của kinh nghiệm niết bàn. Chứng nghiệm
đầu tiên của Niết bàn, ánh chớp lóe lên đầu tiên chơn lý tối hậu, xóa đi
một số nhơ bẩn trong tâm, những cái khác vẫn còn. Và như ta tiếp tục đi
trên con đường đó, những nhơ bẩn sâu thẳm hơn sẽ được bứng gốc. A-la-hán
là một vị đã tẩy trừ mọi bợn nhơ trong tâm. Cũng vậy, ý niệm đắc quả vị
Phật trong kiếp hiện tiền là giải thoát từ tham, sân, si. Trong sự chứng
nghiệm được chơn lý, nhất thể của Pháp được hiểu ra. Phát triển một cái
tâm không dính vào đâu. Đây là cội nguồn của mọi giáo lý. Nó trở nên đơn
giản khi ta thật sự tu tập. Hỏi: Cái gì cần thiết để phát triển một nội quán sâu sắc? Cần
phải có một cái gì đặc biệt, khác thường?
Chỉ cần đòi hỏi một việc: ý thức được những gì xãy ra trong hiện tại.
Nếu ta có một ý niệm mọi thứ phải được xãy ra như thế nầy thế nọ, ta đã
không cảm nghiệm toàn nhất trong hiện tại. Cốt lõi tu tập là chánh niệm
mọi trạng thái thay đổi của thân và tâm mà không dính mắc, không kết án,
đồng nhất thức với chúng. Đó là con đường từ khởi đầu cho đến chấm dứt.
Rồi tự nó sẽ phơi bày; ta chẵng cần làm gì để bắt nó xãy ra. Con người
không tin là nó đơn giản đến mức độ như vậy. Ta thường có suy nghĩ nó phải
là một cái gì phức tạp và phải kinh nghiệm được những trạng thái tâm thức
dị thường. Khác hơn vậy, chỉ ngồi lại và quan sát và thể nhập vào dòng
tương chuyển. Đơn giản và nhẹ nhàng. Hỏi: Tôi tưởng có những phương pháp nhấn mạnh về phục vụ cho
chúng sanh khác hơn là giải thoát cho chính mình trước?
Mọi phương pháp đều tiến triển để thấy được ảo giác thực chất của cái
tôi, để đi đến giai đoạn chấm dứt tự ngã. Cái tự nhiên và biểu hiện cội
nguồn của Pháp là từ và bi, giúp đở và chăm sóc cho chúng sanh . Việc nầy
không có liên quan gì đến các Thừa hay phương tiện hay lời thệ nguyện; nó
là sự thể hiện tự nhiên của trí tuệ. Khi ta bớt đi phần dính mắc về khái
niệm đây là "tôi" và đó là "người," ta bắt đầu kinh nghiệm được sự vạn
nhất trong chúng sanh, và từ sự hiểu thấu nầy sẽ đưa đến tình thương và
phục vụ. Hỏi: Như ta đi vào trong tu tập, câu hỏi những lối hành tập khác
nhau tan biến đi?
Một người bạn Thi sĩ, Tom Savage, đã viết một bài thơ kết thúc với
những dòng: Đại thừa, Tiểu Thừa, (Greater vehicle, lesser vehicle, -ooOoo- SÁNG THỨ 30 Tổng Kết Bạn không thể ở trên đỉnh núi hoài được. Bạn phải xuống núi một lần
nửa, vậy tạo sao phải phiền hà chỉ cái nầy?. Khi ở trên người ta biết
cái gì ở dưới rồi nhưng khi ở dưới người ta không biết cái gì ở trên. Ai
trèo lên thì người đó thấy; khi leo xuống thì người đó không thấy nửa
nhưng họ đã có thấy. Khi xuống núi rồi, nên nhớ lại những gì mình đã
thấy trên kia, khéo léo xử dụng cái đã học để hướng dẩn chính mình. Mặc
dù mình không còn thấy nửa, nhưng ít ra mình đã biết. -Mount Analogue C Có nhiều cách có thể hổ trợ tâm được quân bình và yên lặng. Một trong
những phương pháp quan trọng nhất là tọa thiền thường nhật. Ngồi hai lần
một ngày khoảng một giờ hoặc hơn sẽ tăng cường sức định và chánh niệm cái
đã được trao dồi trong tháng vừa qua. Khóa thiền rốt ráo vừa xong, tọa thiền một hay hai tiếng đồng hồ trong
ngày hình như không mấy khó khăn nửa, nhưng khi bạn trở lại đời sống
thường nhật hàng ngày, nó sẽ không dể dàng để giử đúng thời khóa. Nó cần
phải có kỷ luật và dụng công. Đặt thời khóa tọa thiền vào vị trí ưu tiên
hàng đầu trong ngày, mỗi ngày; sắp xếp các giờ sinh hoạt khác chung quanh
giờ thiền tập hơn là cố gắng chèn giờ tọa thiền giửa những sinh hoạt. Hành
tập mỗi ngày, bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm ra như có một sự ảnh hưởng thay
đổi lớn trong đời. Nó rất ích lợi nếu bạn có thể sắp xếp những giờ cố định để tọa thiền
trong ngày, thời gian nào thuận tiện nhất khi bạn không bị quấy rầy. Khi
tập thành thói quen ngồi thiền ở giờ nhất định trong ngày, bạn sẽ ít khi
bỏ dở thời khóa. Thời gian tốt nhất có thể là sáng sớm khi bạn thức dậy,
như là phương pháp đề ba, khởi động chánh niệm cho nguyên ngày hôm đó, và
một giờ trong buổi tối, là khoảng thư giản, thoải mái riêng biệt cho tâm
và thân. Hay, đã có thể bất cứ thời điểm khác thuận tiện cho mình. Thử
nghiệm đi. Cái quan trọng là giữ vững phần hành tập liên tục. Tọa thiền
thường nhật có giá trị không thể đo lường được. Cũng có những sinh hoạt khác rất tốt để hành tập, hoà hợp tất cả vào
trong đời sống bạn. Có chánh niệm trong những hoạt động cố định mỗi ngày
như là ăn uống. Ít nhất trong ngày, một lần ăn trong chánh niệm, trong yên
lặng. Nó sẽ trở thành giai đoạn phát triển ý thức trong sáng, và sẽ đánh
thức những khuynh hướng tâm cái đã được tu dưỡng trọn tháng nầy. Lập lại
bài tập chánh niệm thường xuyên, bạn sẽ có được năng lượng tập trung của
những rèn luyện vừa qua. Trong quá trình sinh hoạt thường nhật ta đi bộ rất nhiều. Biến nó thành
giờ thiền tập. Khi đi, bạn không cần phải bước chậm "giở lên, đưa tới, đạp
xuống," ngoại trừ khi đúng vào giờ kinh hành; bạn chỉ đơn giản ý thức toàn
thân di chuyển, hay sự xúc chạm của từng bước chân. Hảy thử một lần đi. Trong những giây phút căng thẳng trong ngày, quay về với hơi thở. Mở
mắt ra, không phải là cho người biết rằng ta đang hành thiền, trở về với
sự phồng-xẹp hay ra-vào, chỉ cần vài phút thôi. Tâm sẽ trở lại tập trung
và tỉnh lặng. Sau một thời gian bạn sẽ thấy chánh niệm có mặt chung quanh bạn bất cứ
những gì bạn đang làm. Pháp là cái toàn diện trong đời sống chúng ta. Nó
không phải chỉ ngồi hoặc hành cho thật rốt ráo. Pháp là tất cả, và ta nên
sống trong hòa hợp trong sự hiểu biết đó. Hạt giống của trí tuệ và từ bi đã được gieo trồng và nuôi dưỡng trở nên
lớn mạnh. Chúng sẽ ra hoa kết trái trong những thay đổi và không ngờ được.
Những lúc bạn cảm thấy như bị rắc rối, cuốn hút vào trong thế gian nầy, sẽ
có những giây phút ý thức mạnh mẻ, bạn sẽ thấy chính bạn và những lời than
vản thống thiết một cách rỏ ràng. Chỉ đơn giản và nhẹ nhàng. Với một cái
tâm yên lặng, an bình, bản chất tự nhiên của Pháp sẽ phơi bày, mở rộng ra. Có vài tưởng nhớ rất hữu ích trong sự dụng công để sống với Pháp từng
phút giây. Cái đầu tiên là nhớ lại chơn lý vô thường. Nhớ lại cả hai, cái
chết đang đe dọa chính mình và bản chất thay đổi của mọi hiện tượng trong
từng phút giây. Giữ vững chánh niệm trong dòng biến chuyển, thực chất là
mọi vật không ngừng thay đổi, và tâm sẽ được yên tĩnh và thăng bằng ở mọi
tình huống. Bạn sẽ thấy chính bạn bớt đi phần tự phán xét thân và phán xét
mọi người, giãm đi sự đóng khung cô đọng, phán xét phân tích thể loại đến
người và hoàn cảnh. Bạn sẽ kinh nghiệm khả năng sống theo cách mở rộng và
trống rỗng, ứng đối và sáng tạo đúng lúc trong mỗi phút giây mà không mang
nặng sự phóng tâm và định kiến từ quá khứ. Tưởng nhớ thứ hai là tình thương và từ bi. Khi bạn có quan hệ với cha
mẹ, bạn hữu, người xa lạ, nên biết rằng ở tầng lớp sâu thẳm nhất chẵng có
"tôi" và "người khác," không "chúng tôi" và "họ"; Chỉ có một nhất thể,
tính chất đơn nhất rỗng rang. Từ trong cái rỗng rang nầy xuất phát ra từ
bi cho mọi chúng sanh. Như ta thực hành tình thương và từ bi nhiều hơn
trong đời sống, ta tẩy xóa lần những nhân tố khổ đau trong quan hệ giữa
chúng ta với người khác. Đức Phật đã cho thí dụ tâm thanh thản rộng mở giữ ta được bình an và
thăng bằng như thế nào. Nếu bạn bỏ một muổng muối và ly nước, vị của nước
đó sẽ mặn. Nhưng nếu bạn bỏ cũng bao nhiêu đó muối vào trong một cái hồ
nước, vị nước sẽ không ảnh hưởng gì cả. Cũng giống như vậy, khi tâm bị
căng thẳng và đông cứng, bất cứ yếu tố tâm bất thiện nào cũng trở nên mạnh
và có sức năng khuấy động. Khi tâm được rộng mở thêng thang, kể cả những
tiêu cực lớn mạnh cũng không ảnh hưởng gì đến tâm. Tâm từ có tính chất
diệu mềm và che chở, làm cho thâm nhập khắp cùng đời sống chúng ta. Tưởng nhớ thứ ba là sự khiêm tốn hay tính vô hình, vô hình cái bản ngã.
Không cần phải có một thân phận gì trong xã hội nầy như ông, bà hướng dẩn
tâm linh, như một người đặt biệt nào. Trang Tử đã viết: Ai trong Đạo Người đó không bương chải kiếm tiền Cổ nhân đã nói, cho nên: Bạn sẽ khám phá ra rằng càng vô tàng tính (không bản ngã), đời sống
càng trở nên đơn giản và dể dàng. Cũng nửa, từ Trang Tử: Nếu một người vượt qua sông Làm trống đi thuyền của mình, đi xuyên suốt qua cuộc đời trong lối mở
rộng, rổng rang và thương yêu, và "không ai sẽ chống đối bạn, không ai sẽ
tìm để hại bạn." Nhiều người đặt câu hỏi làm thế nào để quảng bá Pháp đến người khác.
Một trong những tính chất quan trọng để phát triển trong chia sẽ Pháp ở
mọi trình độ là học hạnh lắng nghe một cách thiện xảo, nhạy cảm đến môi
trường và đến người khác. Trong cái tâm yên lặng đó, khi ta thật sự chú
tâm, phương thức truyền thông trở nên rỏ ràng. Đừng bám vào bất cứ một
diển giải khái niệm riêng biệt nào về Pháp, hay lối định kiến gì. Đừng bám
giữ vào những gì. Thỉng thoảng cái được đề cập đến là một câu chuyện bình
thường, có liên hệ trong một cách đơn giản và dể hiểu. Có một năng khiếu
thiện xảo được bao gồm trong cách học hạnh lắng nghe. Mở rộng và chấp nhận
mọi quan điểm người khác. Dể tiếp thu và rổng lặng của bản thân nới rộng
thêm khả năng hiểu thấu và chia sẽ. Nghĩa thường của Minh Sát Tuệ là thấy sự việc rỏ ràng, không những chỉ
thân và tâm ta thôi, dỉ nhiên đó là cơ bản rồi, mà còn thấy mọi vật rỏ
ràng, mọi người, mối quan hệ, tình huống. Đường lối là sống mà không có
tham, sân, si; sống với ý thức, với tỉnh giác, và bình thản, và với tình
thương. Chính chúng ta là chơn lý mở rộng, và một tháng thiền tập rốt ráo,
hay cả đời hành tập, thì chỉ là mới chập chững trrong một công việc vĩ đại
đi đến thấu hiểu chơn lý. Kiến thức vĩ đại bao gồm có nhiều; kiến thức nhỏ thì giới hạn. Lời nói
chân chánh thì động viên; lời nói chơi là tán gẩu ... Khi ta tỉnh thức,các
căn đều rộng mở. Ta bị lôi cuốn vào sinh hoạt thường nhật và tâm bị rối
loạn. Đôi lúc ta lưởng lự, lắm khi ta nham hiểm, và thỉng thoảng còn mờ
ám. Một chúc sợ hải tạo ra nổi bất an, và sợ hải lớn tạo ra khiếp đảm. Lời
nói ta phóng ra như là những mủi tên, giống như là ta biết rỏ cái gì đúng
sai. Ta bám víu vào quan điểm riêng của mình, như thể là mọi việc đều dựa
trên nguyên tắc đó. Và hơn nửa ý kiến ta là vô thường: như mùa thu và mùa
đông, chúng từ từ đi qua. Ta bị cuốn hút vào dòng đời và không thể hồi
đầu. Ta bị kẹt trong những vấn đề phức tạp, khó khăn như ngỏ thoát nước
lâu đời bị bế tắc; ta tiến đến gần cái chết mà không bao giờ tìm lại tuổi
xuân. Mừng rở và giận hờn, sầu khổ và hạnh phúc, hy vọng và sợ hải, do dự
và cương quyết, khiêm tốn và cố ý, nhiệt tâm và thái độ xấc xược, giống
như âm thanh nhạc đến từ khí cụ kèn không lưởi gà, hay nấm mọc lên từ đất
đen ẩm ướt, luôn xuất hiện trước ta ngày và đêm. Không ai biết chúng đến
do đâu. Đừng lo lắng về chúng! Để chúng tự nhiên! Làm sao ta có thể hiểu
được tất cả trong một ngày? -ooOoo- [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Một Hướng Dẫn Đơn Giản, Trực Tiếp Về Pháp Hành Thiền Phật Giáo
Chánh Trực dịch
2. Giới luật toàn hảo. Hoàn toàn không hại đến một chúng sinh.
3. Xa lìa.
4. Năng lực.
5. Trí tuệ.
6. Tâm nhẩn nại, bền chí. Nhẩn nại là đức hạnh cao quí trên con đường
tâm linh.
7. Lòng từ mẩn.
8. Chơn thật.
9. Cương quyết.
10. Xả bỏ.
không thành vấn đề!
Mọi Thừa cũng sẻ bị kéo đi
Vào phí tổn người chủ Thừa đó phải trả.
no matter!
All vehicles will be towed away
At owner's expense.)
Hành động không trở ngại
Không tổn hại chúng sanh
Bằng hành động chính mình
Mà không thấy có mình
Mới là "từ bi," là "hiền lành"
Ai trong Đạo
Hành động không trở ngại
Không bị phiền nhiểu với thích thú riêng
Và không thất vọng
Như những người khác.
Cũng không xu khiến nghèo mà trong sạch
Người đó đi đường riêng
Mà không dựa trên một ai
Và không hảnh diện chính mình
Bởi đã đi riêng một mình.
Khi người đó tách rời khỏi đám đông
Cũng không phàn nàn ai theo đám đông
Chức vị và ban thưởng
Chẵng lôi cuốn được;
Nhục nhã và xấu hổ
Không làm nhục chí
Ông luôn không bao giờ tìm
Cái đúng và cái sai
Luôn quyết định "được" hay là "không."
"Ai trong Đạo
Tâm vô danh
Đức hạnh toàn hảo
Không làm ra gì cả
"không bản ngã"
Là "chơn ngã"
Và người vĩ đại nhất
Là người không tôi."
Và thuyền không người đụng vào thuyền ông ta,
Kể cả ông có tâm nóng giận tệ hại
Ông cũng không giận dử mấy.
Nhưng nếu thấy một người trên thuyền kia,
Ông sẽ la to để người đó lái tránh thuyền đi
Nếu lớn tiếng mà chưa được nghe, ông sẽ tiếp tục la lần nửa,
Rồi la nửa và bắt đầu chửi bới.
Tất cả nguyên nhân chỉ vì có người trên chiếc thuyền kia.
Nhưng nếu không một ai trên thuyền kia,
Ông ta chắc chắn sẽ không mắng giận.
Nếu có thể làm trống đi thuyền của mình
Băng qua sông của thế gian,
Không ai chống đối bạn,
Chẵng ai tìm để hại bạn.
last updated: 05-05-2003