BuddhaSasana Home Page Tìm
hiểu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT Tỳ
kheo Hộ Pháp
Ý NGHĨA ÂN
ÐỨC PHẬT Ðức Phật có 9 Ân Ðức
theo thứ tự. ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ NHẤT I- Itipi
so Bhagavà Araham
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Araham.
Araham
có 5 ý nghĩa: 1- Ðức Thế Tôn là bậc
đã xa lìa mọi phiền não. Giải thích tóm tắt 1- Araham có ý nghĩa xa lìa
mọi phiền não là thế nào? Phiền não dịch từ tiếng
Pàli Kilesa.
Kilesa =
phiền não là những bất thiện tâm sơû đồng
sanh với những bất thiện tâm làm cho thân tâm nóng nảy,
khó chịu, khổ thân, khổ tâm; phiền não còn làm cho tâm,
tâm sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ý. Phiền não có 10 loại: 1- Tham: Ðó
là tham tâm sở đồng sanh với 8 tham tâm có trạng thái
tham muốn, hài lòng say mê trong đối tượng. 2- Sân: Ðó
là sân tâm sở đồng sanh với 2 sân tâm, có trạng
thái hung dữ, tàn bạo, không hài lòng nơi đối tượng. 3- Si: Ðó là
si tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện tâm, có trạng
thái si mê không biết thật tánh của các pháp. 4- Tà kiến:
Ðó là tà kiến tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm hợp
tà kiến, có trạng thái thấy sai, chấp lầm ở đối tượng. 5- Ngã mạn:
Ðó là ngã mạn tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm không
hợp tà kiến, có trạng thái so sánh "Ta" hơn
người, bằng người, kém thua người. 6- Hoài nghi:
Ðó là hoài nghi tâm sở đồng sanh với si tâm hợp
hoài nghi, có trạng thái hoài nghi ở đối tượng. 7- Buồn chán:
Ðó là buồn chán tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm
và * sân tâm (loại tâm cần động viên), có trạng thái
không hăng hái, buông bỏ đối tượng. 8- Phóng tâm:
Ðó là phóng tâm tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện
tâm, có trạng thái không an trụ ở đối tượng. 9- Không hổ thẹn:
Ðó là không hổ thẹn tâm sở đồng sanh với 12 bất
thiện tâm, có trạng thái tự mình không biết hổ thẹn tội
lỗi, khi hành ác. 10- Không ghê sợ:
Ðó là không ghê sợ tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện
tâm, có trạng thái không biết ghê sợ tội lỗi, khi hành
ác. Ðó là 10 loại phiền
não, mỗi khi có phiền não nào phát sanh ở bất thiện tâm
nào, thì không những làm cho tâm bị ô nhiễm, nóng nảy, mà
còn làm cho thân cũng nóng nảy, khó chịu, mặt mày mất vẻ
tự nhiên, không còn tươi tính... Tính chất của phiền
não có ba loại: 1- Vìtikkamakilesa:
Là phiền não loại thô, được biểu hiện ra ở thân
hành ác, khẩu nói ác. Phiền não loại thô này có thể diệt
bằng pháp hành giới, có tác ý thiện tâm (cetanà)
giữ gìn giới cho thân và khẩu được trong sạch, thì diệt
từng thời loại phiền não này. 2- Pariyutthànakilesa:
Là phiền não loại trung phát sanh ở trong tâm, đó
là 5 pháp chướng ngại [*], làm cho tâm cảm thấy khó chịu
khổ tâm; ngăn cản mọi thiện pháp. Loại phiền não này diệt
bằng pháp hành thiền định, khi chứng đắc bậc
thiền, nhờ 5 chi thiền, có thể diệt bằng cách đè nén, chế
ngự được loại phiền não này. [*] 5 pháp chướng ngại:
tham dục, thù hận, buồn chán-buồn ngũ, phóng tâm-hối hận,
hoài nghi. 3- Anusayakilesa:
Là phiền não cực kỳ vi tế ?n tàng ngấm ngầm ở
trong tâm thức, đó là 7 pháp ngủ ngầm trong tâm [*] không hiện
rõ. Loại phiền não này diệt bằng pháp hành thiền tuệ,
khi chứng đắc Thánh Ðạo Tuệ mới có thể diệt đoạn tuyệt
được loại phiền não này. [*] 7 pháp ngủ ngầm
trong tâm: ái dục ngủ ngầm, kiếp ái ngủ ngầm, sân hận
ngủ ngầm, ngã mạn ngủ ngầm, tà kiến ngủ ngầm, hoài
nghi ngủ ngầm và vô minh ngủ ngầm. Phiền não tính rộng có
1500 loại: 10 loại phiền não kể
trên, khi chúng liên quan đến đối tượng làm nhân duyên để
phát sanh phiền não, tính rộng có 1500 loại phiền não. Cách tính như sau: 75 pháp có thể làm đối
tượng của phiền não: Tâm tính là một pháp (vì
cùng có một trạng thái biết đối tượng). Tâm sở tính
52 pháp (vì mỗi tâm sở có mỗi trạng thái riêng biệt).
Sắc pháp chỉ có 18 sắc pháp hiện hữu thật
rõ ràng; và 4 pháp trạng thái của sắc pháp. Như vậy, gồm có
(1+52+18+4) = 75 pháp có thể làm đối tượng của phiền não. 75 pháp này làm đối
tượng của phiền não ở bên trong mình, là kẻ thù bên
trong. 75 pháp này làm đối
tượng của phiền não ở bên ngoài mình, là kẻ thù bên
ngoài. Ðối tượng của phiền
não bên trong mình có 75 pháp và bên ngoài mình có 75 pháp gồm
cả thảy 150 pháp, nhân với 10 loại phiền não (tham,
sân, si, tà kiến, ngã mạn, hoài nghi, buồn chán, phóng tâm,
không hổ thẹn, không ghê sợ) (150 x 10) thành 1.500 loại
phiền não. Thật ra, 10 loại phiền
não trong bất thiện tâm mới làm cho tâm bị ô nhiễm, làm
cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân. Phiền não làm nhân
duyên trực tiếp tạo mọi ác nghiệp và làm nhân duyên gián
tiếp tạo mọi thiện nghiệp trong tam giới (do vô minh nên
tạo ác nghiệp, thiện nghiệp); để rồi cho quả của
nghiệp dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài [*]. [*] Ba giới: dục giới,
sắc giới, vô sắc giới. Bốn loài: thai sanh, noãn sanh, thấp
sanh, hoá sanh. Nghiệp
này được dẫn dắt do bởi tham ái (tanhà). Tham
ái đó là tham tâm sở (lobhacetasika).
Tham ái có tất cả 108 loại. Tham ái có 108 loại: Cách tính 108 loại tham
ái theo 6 đối tượng, 3 tính chất, 2 bên, 3 thời như sau: Ðối tượng của tham
ái có 6: 1- Sắc ái: Sắc
trần là đối tượng của tham ái. Tính chất của tham ái
có 3: 1- Dục ái:
Tham ái trong 6 cảnh trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và
pháp. 2 bên: 1- Bên trong:
Tham ái phát sanh bên trong mình. Thời gian có 3: 1- Thời quá khứ:
Tham ái phát sanh ở thời quá khứ. Như vậy, tóm lại tham
ái phát sanh do 6 đối tượng, x 3 tính chất, x 2 bên, x 3 thời
(6x3x2x3) = 108 loại tham ái là nhân
phát sanh khổ tái sanh, dẫn đến khổ già, khổ bệnh, khổ
chết... bao nhiêu nỗi khổ khác không sao kể xiết, đều do
tham ái là nhân sanh mọi khổ đế ấy. Ðức Bồ Tát Siddhattha
diệt đoạn tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền não, 108
loại tham ái không còn dư sót bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ tại dưới
đại cội Bồ Ðề vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch),
trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác độc nhất vô nhị đầu tiên
trong toàn thế giới chúng sinh. Ngoài ra, Ngài còn có khả
năng đặc biệt tận diệt được mọi tiền khiên tật
(vàsanà) [*] do tích luỹ từ vô lượng kiếp ở quá khứ.
Cho nên, Ðức Phật có mỗi hành vi cử chỉ đi, đứng, ngồi,
nằm, nói năng... không thể nào có thể chê trách được. [*] Vàsanà= tiền khiên
tật này, đối với bậc Thánh Thanh Văn không thể diệt
được, dầu là bậc Thánh Arahán. Bậc Thánh Thanh Văn Arahán
chỉ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 1.500 loại phiền
não và 108 loại tham ái mà thôi, nhưng không thể diệt được
mọi tiền khiên tật do tích luỹ từ vô lượng kiếp ở quá
khứ. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Araham với ý nghĩa xa lìa mọi phiền
não và tiền khiên tật không bao giờ phát
sanh được nữa, bất cứ lúc nào cho đến khi tịch diệt Niết
Bàn. 2- Araham có ý nghĩa diệt
đoạn tuyệt mọi kẻ thù là phiền não như thế nào? Ðức Phật dạy kẻ thù
nguy hiểm chính là 1.500 loại phiền não trong tâm của mình.
Ngài gọi phiền não là kẻ thù, là vì ở trong đời
này, kẻ thù thường tìm cơ hội làm khổ mình, sát hại
mình, không có một kẻ thù nào mong cho mình được an lạc. Cũng như vậy, phiền não
phát sanh trong bất thiện tâm làm cho mình khổ tâm, khổ
thân, nóng nảy, khó chịu, còn khiến mình tạo mọi ác nghiệp,
làm khổ chúng sinh khác, để rồi phải chịu quả khổ trong
kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai. Sự thật, chỉ có phiền
não bên trong bất thiện tâm của mình, mới trực tiếp làm
khổ mình, còn phiền não bên ngoài người khác không trực tiếp
làm khổ mình được, nếu mình không tiếp nhận. Ví dụ: người ta mắng
chửi, đánh đập mình; nếu mình có tâm nhẫn nại, không
sân hận, phiền não không sanh, thì mình không bị khổ tâm; nếu
tâm phiền não sân hận phát sanh, thì chính phiền não bên
trong mình làm cho mình khổ tâm, hoàn toàn không phải phiền
não bên ngoài của người khác làm cho mình khổ tâm. Còn phần khổ thân thuộc
về quả của nghiệp không một ai tránh khỏi, dầu là Ðức
Phật hay chư bậc Thánh Arahán. Ðức Phật và chư
bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt được tất cả 1.500 loại
phiền não rồi, nên hoàn toàn không còn khổ tâm nữa;
nhưng còn có sắc thân, vẫn còn có khổ thân cho
đến khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử
sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Khi ấy mới thật là giải
thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ. Ðức Bồ Tát Siddhattha
đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi kẻ thù là 1.500 loại
phiền não, bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ tại dưới đại cội Bồ
Ðề vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch) trở
thành bậc Chánh Ðẳng Giác độc nhất vô nhị đầu tiên
trong toàn thế giới chúng sinh. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Araham với ý nghĩa diệt đoạn tuyệt
mọi kẻ thù là phiền não không còn dư sót. 3- Araham có ý nghĩa phá
huỷ vòng luân hồi trong ba giới bốn loài như thế nào? Vòng luân hồi đó chính
là pháp "Thập Nhị Duyên Sanh" có 12 chi pháp: - Do vô minh làm
duyên, nên hành sanh.
Từ vô minh đến lão tử
gồm có 12 chi pháp. Pháp này làm duyên để sanh pháp
kia là quả; pháp quả ấy trở lại
làm duyên để sanh pháp quả khác, và
cứ như vậy duyên quả liên hoàn với nhau thành
vòng luân hồi, không có chỗ bắt đầu và cuối cùng. Như vậy,
vô minh chỉ là nhân duyên quá khứ
không phải là nhân bắt đầu, vì vô minh còn là quả
của bốn pháp trầm luân. Như Ðức Phật dạy: "Àsavasamudayà
avijjàsamudayo...".
Vòng luân hồi thập nhị
duyên sanh này phân chia thành tam luân, chuyển biến
theo chiều hướng nhất định. 1- Phiền não luân:
gồm có vô minh, lục ái và tứ thủ.
Theo vòng luân hồi thì
không thể biết được chỗ bắt đầu và chỗ cuối cùng,
nên chỉ nhận biết theo định luật nhân quả, mà nhân quả
theo pháp thập nhị duyên sanh, thì mỗi chi pháp không thuần
chỉ là nhân, là quả, mà sự thật, mỗi
chi pháp là quả của pháp trước, trở lại làm nhân
duyên của pháp sau, và cứ tiếp tục như vậy theo
định luật nhân quả liên hoàn tiếp nối với
nhau thành vòng luân chuyển không ngừng từ kiếp này sang kiếp
khác, từ vô thủy đến vô chung, trong vòng tử sanh luân hồi
trong ba giới bốn loài; thường chỉ có thể thấy rõ sự thay
đổi [*] về phần sắc thân hay gọi là sắc
uẩn mà thôi; còn phần tâm gọi là danh
uẩn có 4 uẩn (thọ, tưởng, hành, thức
uẩn) liên quan nhân duyên sanh rồi diệt, diệt
rồi sanh liên tục không ngừng từ đời này sang đời
khác do năng lực của nghiệp mà mình đã tạo, từ vô thủy
đến vô chung đối với chúng sinh còn vô minh và tham
ái.
[*] Thay đổi kiếp, qua đời, chết. Vòng luân hồi "Thập
Nhị Duyên Sanh" luân chuyển, biến đổi theo ba luân:
Phiền não luân --> Nghiệp luân --> Quả luân --> Phiền
não luân...
Biểu tượng
vòng luân hồi, vòng tam luân 1- Phiền não luân khiến
tạo nghiệp luân. Chúng sinh còn vô minh,
lục ái, tứ thuû làm nhân duyên khiến tạo nên thiện
nghiệp, bất thiện nghiệp do thân, khẩu, ý. * Phiền
não làm nhân duyên tạo thiện nghiệp.
Số chúng sinh do vô
minh không biết rõ chân lý Tứ thánh đế, không biết khổ
của ngũ uẩn, do đó, muốn hưởng sự an lạc tạm thời nên
tạo mọi thiện nghiệp như: - Dục giới thiện nghiệp
cho quả an lạc ở cõi dục giới. Sự an lạc trong cõi tam
giới này không phải là chân lý, mà chúng chỉ có tính cách
tạm thời tuỳ theo năng lực của thiện nghiệp ấy. * Phiền
não làm nhân duyên tạo bất thiện nghiệp.
Số chúng sinh do vô
minh không biết rõ bất thiện nghiệp (ác nghiệp)
cho quả khổ ở kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp ở vị lai.
Và cũng có số chúng sinh dầu nghe hiểu biết bất thiện nghiệp
cho quả khổ như vậy, nhưng vì vô minh, tham ái, có
nhiều năng lực quá, nên xui khiến tạo mọi bất thiện nghiệp
bằng thân như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm; bằng khẩu như:
nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói
lời vô ích; bằng ý như: tham lam, thù hận, tà kiến. Như vậy, gọi là Phiền
não luân khiến tạo Nghiệp luân. 2- Nghiệp luân cho quả
luân Chúng sinh còn phiền não
đã tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, thì ắt phải thọ
quả của thiện nghiệp, bất thiện nghiệp ấy. Nếu thiện nghiệp cho quả,
thì được thọ hưởng quả báu an lạc ở kiếp hiện tại
và nhiều kiếp vị lai như sau: * Quả
báu ở kiếp hiện tại:
- Mắt được nhìn thấy
những hình ảnh đáng hài lòng. * Quả
báu kiếp vị lai:
- Dục giới thiện nghiệp
cho quả tái sanh làm người, sẽ là người lục căn đầy đủ,
giàu sang phú quý... hoặc tái sanh làm chư thiên ở trong 6 cõi
trời dục giới, sẽ hưởng sự an lạc, sự sống lâu ở
cõi trời dục giới ấy cho đến hết tuổi thọ. - Sắc giới thiện nghiệp,
đó là 4 bậc thiền hữu sắc, sẽ cho quả tái sanh làm phạm
thiên trong 16 cõi trời sắc giới, tùy theo bậc thiền sở đắc
của mình, và sẽ hưởng sự an lạc vi tế hơn ở cõi dục
giới, sự sống lâu theo tuổi thọ của cõi trời sắc giới
ấy. - Vô sắc giới thiện
nghiệp, đó là 4 bậc thiền vô sắc, sẽ cho quả tái sanh
làm phạm thiên có tứ uẩn (không có sắc uẩn) trong 4
cõi trời vô sắc giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của mình,
và sẽ hưởng sự an lạc vi tế hơn ở cõi trời sắc giới,
sự sống lâu theo tuổi thọ của cõi trời vô sắc giới ấy. 3- Quả luân sanh phiền
não luân Quả luân là sự hiện hữu
của mỗi chúng sinh trong tam giới: chúng sinh có ngũ uẩn ở cõi
dục giới và cõi sắc giới, hoặc chúng sinh có tứ uẩn (không
có sắc uẩn) ở cõi vô sắc giới, hoặc chúng sinh có nhất
uẩn là sắc uẩn (không có 4 danh uẩn), ở cõi sắc giới
Vô tưởng thiên. Tất cả chúng sinh này đều chưa diệt đoạn
tuyệt được phiền não, vô minh, tham ái..., cho nên khi có
nhân duyên thì phiền não phát sanh, khiến tạo nên thiện nghiệp
hoặc bất thiện nghiệp; rồi trở lại vòng tam luân chuyển
biến không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thủy
đến vô chung trong vòng khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài. Ba luân này chuyển biến
theo định luật nhân-quả như: Phiền não luân là nhân
- Nghiệp luân là quả; Nghiệp luân là nhân
- Quả luân là quả, Quả luân là nhân - Phiền
não luân là quả và tiếp tục như vậy thành vòng tam
luân. Ðức Thế Tôn đã diệt
đoạn tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền não
rồi, nhổ tận gốc rễ của vô minh và tham
ái bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ rồi, vòng tam luân tan rã,
tách rời không còn luân chuyển được nữa, do phá hủy được
phiền não luân. Do đó: Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Araham với ý nghĩa phá huỷ vòng luân
hồi sanh tử trong ba giới bốn loài. 4- Araham có ý nghĩa không
bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo như thế nào? Nơi kín đáo là nơi không
một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không
có một ai nghi ngờ. Ðối với người còn có bất thiện
tâm, nơi kín đáo là nơi dễ hành ác do thân, khẩu, ý vì
không sợ ai chê trách. Nhưng đối với Ðức Thế Tôn là bậc
đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, bất thiện
tâm không còn nữa, nên thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng
hoàn toàn trong sạch thanh tịnh. Cho nên, dầu ở nơi kín đáo,
không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết,
không một ai nghi ngờ, thì Ðức Thế Tôn cũng không bao giờ
hành ác do thân, khẩu, ý nữa. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Araham, với ý nghĩa không bao giờ
hành điều ác ở nơi kín đáo. 5- Araham có ý nghĩa bậc
xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường như thế nào? Ðức Thế Tôn là bậc
cao thượng độc nhất vô nhị trong mười ngàn thế giới
chúng sinh. Thật vậy, trong toàn thể chúng sinh không có một
người, một Sa môn, Bà la môn, chư thiên, phạm thiên... nào
cao thượng hơn Ðức Thế Tôn về giới, định, tuệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến. Chỉ Ðức Thế Tôn mới có giới
hạnh trong sạch hoàn toàn thanh tịnh; có định
hoàn toàn thanh tịnh; có tuệ hoàn toàn thanh
tịnh; có giải thoát hoàn toàn thanh tịnh; có giải
thoát tri kiến hoàn toàn thanh tịnh. Chỉ có Ðức Thế
Tôn có đầy đủ 5 pháp: Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải
thoát tri kiến hoàn toàn thanh tịnh mà thôi. Vì vậy, Ðức Thế
Tôn là bậc cao thượng nhất trong toàn thể chúng sinh, là bậc
xứng đáng cho chúng sinh lễ bái cúng dường. Chúng sinh lễ
bái cúng dường rồi, sẽ được quả báu cao quý, được sự
tiến hoá, sự lợi ích, sự an lạc lâu dài. Như Ðức Phật
dạy: "Này chư Tỳ khưu, bậc
cao thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian để đem
lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho phần
đông chúng sinh, để tế độ chúng sinh, nhân loại, chư thiên,
phạm thiên. Bậc cao thượng độc nhất ấy là ai? Bậc cao thượng độc nhất
ấy chính là Như Lai, bậc Arahán, bậc Chánh Ðẳng Giác. "Này chư Tỳ khưu,
Như Lai là bậc cao thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế
gian để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc
lâu dài cho phần đông chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm
thiên". (Bộ
Anguttaranikàya, phần Ekakadhamma). Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Araham với ý nghĩa bậc xứng đáng thọ
nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng sinh. Ân Ðức "Araham"
có ý nghĩa vô cùng sâu sắc,
vi tế, rộng lớn, vô lượng vô biên. Qua năm ý nghĩa tóm tắt
để hiểu biết rõ một phần ý nghĩa về Ân Ðức Araham. Ðặc
biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa "bậc
xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả
chúng sinh".
Niệm Ân Ðức
Araham Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Araham"
này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có
trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn
kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi
điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Araham... Araham...
Araham...", hoặc câu Ân Ðức Araham: "Itipi
so Bhagavà Araham..., Itipi so Bhagavà Araham..., Itipi so Bhagavà
Araham...", làm đối tượng thiền định. Ðề mục niệm Ân Ðức
Phật này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc vi tế, rộng lớn vô lượng
vô biên, vì vậy, định tâm không thể an trú vào một điểm
nào nhất định được, nên chỉ có khả năng chứng đạt đến
cận định (upacàrasamàdhi), mà không thể chứng
đạt đến an định (appanàsamàdhi), nên
không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Như
vậy, cận định tâm này vẫn còn thuộc dục giới đại thiện
tâm. Do năng lực dục giới
thiện nghiệp tiến hành niệm Ân Ðức Phật này sẽ cho quả
như sau: - Kiếp hiện tại: hành
giả là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo: Phật bảo,
Pháp bảo, Tăng bảo; có trí tuệ sáng suốt, phước thiện
tăng trưởng, tránh được mọi tai hoạ, thân tâm thường an
lạc. - Kiếp vị lai:
Hành giả sau khi chết, nếu thiện nghiệp này cho quả tái
sanh làm người sẽ là người có đầy đủ tam nhân (vô
tham, vô sân, vô si) cao quý, được nhiều người quý mến,
kính trọng. * Tái sanh làm chư thiên
ở cõi trời nào trong 6 cõi trời dục giới, sẽ là một chư
thiên có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, hưởng sự
an lạc cao quý đến hết tuổi thọ ở cõi trời ấy. Dục giới thiện nghiệp
này có thể cho quả tốt lành suốt nhiều kiếp, đặc biệt
còn làm duyên lành dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị
lai nào đó. -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ NHÌ II-
"Itipi so Bhagavà Sammàsambuddho"
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Sammàsambuddho.
Sammàsambuddho =
Ðức Chánh Ðẳng Giác là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành
bậc Thánh Arahán đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh. Chân lý Tứ thánh đế 1- Khổ thánh đế:
Ðó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp trong tam giới
là pháp nên biết. Chính Ðức Phật tự mình đã biết rõ
xong rồi. 2- Nhân sanh khổ thánh
đeá (Tập thánh đế):
Ðó là tham ái là pháp nên diệt. Chính Ðức
Phật tự mình đã diệt tất cả xong rồi. 3- Diệt khổ thánh đeá
(Diệt thánh đế): Ðó là Niết Bàn là pháp
nên chứng ngộ. Chính Ðức Phật tự mình đã chứng ngộ Niết
Bàn xong rồi. 4- Pháp hành chứng ngộ
Niết Bàn, pháp diệt khổ thánh đế (Ðạo
thánh đế): Ðó là Bát Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; là pháp nên tiến
hành. Chính Ðức Phật tự mình đã tiến hành xong rồi. Ðức Thế Tôn tự mình
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, bằng trí tuệ quán xét
pháp "Thập nhị duyên sanh". Như: Avijjà
paccayà sankhàrà...
Ðức Thế Tôn đã chứng
ngộ Khổ thánh đế và Nhân
sanh Khổ thánh đế.
Và trí tuệ quán xét "Thập
nhị nhân diệt".
Như: Avijjàyatveva
asesaviràganirodhà sankhàranirodho...
Ðức Thế Tôn đã chứng
ngộ Diệt Khổ thánh đế và Pháp
hành để chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế.
Ðiều này Ðức Phật đã
khẳng định với nhóm 5 Tỳ khưu trong bài kinh Chuyển Pháp
Luân (Samyuttanikàya, Mahàvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta): "Này chư Tỳ khưu,
khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thật tánh của
Tứ thánh đế theo Tam tuệ luân (trí tuệ học, trí tuệ
hành, trí tuệ thành), thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong
sáng, thanh tịnh đã phát sanh đến với Như Lai. Này chư Tỳ khưu, khi
ấy Như Lai khẳng định tuyên bố rằng "Như Lai đã chứng
đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác vô thượng trong toàn thế
giới chúng sinh, nhân loại, vua chúa, Sa môn, Bà la môn, chư
thiên, Ma vương, phạm thiên cả thảy".
Như vậy, Ðức Thế Tôn
đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc
4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu
tiên trên toàn thế giới chúng sinh, nên có Ân Ðức Sammàsambuddho
= Chánh Ðẳng Giác. Ðức Chánh Ðẳng Giác
đặc biệt có đủ 5 pháp Neyyadhamma: là tất cả
pháp nên biết của bậc Chánh Ðẳng Giác là: 1- Sankhàra: Tất
cả pháp hành cấu tạo.
Ðức Chánh Ðẳng Giác
hoặc Ðức Toàn Giác vì có đầy đủ 5 pháp ấy, nên Ngài chế
định ra ngôn ngữ để thuyết pháp tế độ chúng sinh
[*] . [*] Chư Phật Ðộc
Giác đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
Arahán gọi là Ðộc Giác Phật; nghĩa là tự Ngài chứng ngộ
mà không thuyết pháp tế độ chúng sinh khác cũng chứng ngộ
như Ngài. Bởi vì, Ngài không chế định được ngôn ngữ
để thuyết pháp như Ðức Chánh Ðẳng Giác. Còn bậc Thánh Thanh Văn,
sở dĩ thuyết pháp tế độ chúng sinh được là do nhờ nghe
học hỏi theo lời giáo huấn của Ðức Phật. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Sammà-sambuddho = Ðức Chánh Ðẳng
Giác. Niệm Ân Ðức
Sammàsambuddho Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức
Sammàsambuddho" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch
nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc,
tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm,
tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng
trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Sammàsambuddho...,
Sammà-sambuddho..., Sammàsambuddho...", hoặc câu Ân Ðức
Sammàsambuddho: "Itipi so Bhagavà Sammà-sambuddho..., Itipi
so Bhagavà Sammàsambuddho..., Itipi so Bhagavà
Sammàsambuddho...", làm đối tượng thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ
kheo Hộ Pháp, Thiền viện Viên Không, Bà Rịa, đã gửi tặng bản
vi tính [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2546 - TL 2002
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Á-rá-hăng).
2- Ðức Thế Tôn đã diệt đoạn tuyệt mọi kẻ thù là phiền
não
3- Ðức Thế Tôn là bậc đã phá huỷ vòng luân hồi trong
ba giới bốn loài.
4- Ðức Thế Tôn là bậc không bao giờ làm điều ác ở nơi
kín đáo.
5- Ðức Thế Tôn là bậc xứng đáng thọ nhận lễ bái
cúng dường.
2- Thanh ái: Thanh trần là đối tượng của tham
ái.
3- Hương ái: Hương trần là đối tượng của
tham ái.
4- Vị ái: Vị trần là đối tượng của tham ái.
5- Xúc ái: Xúc trần là đối tượng của tham ái.
6- Pháp ái: Pháp trần là đối tượng
của tham ái.
2- Hữu ái: Tham ái trong 6 cảnh trần hợp với thường
kiến và tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, trong
cõi sắc giới, cõi vô sắc giới.
3- Phi hữu ái: Tham ái trong 6 cảnh trần hợp với
đoạn kiến.
2- Bên ngoài: Tham ái phát sanh bên ngoài người khác.
2- Thời hiện tại: Tham ái phát sanh ở thời hiện
tại.
3- Thời vị lai: Tham ái phát sanh ở thời vị lai.
- Do hành làm duyên, nên thức sanh.
- Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh
- Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.
- Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh.
- Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh.
- Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.
- Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh.
- Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.
- Do nhị hữu làm duyên, nên tái sanh sanh.
- Do tái sanh làm duyên,
nên lão tử... sanh.
(Do có sự sanh của bốn
pháp trầm luân, nên có sự sanh của vô minh).
2- Nghiệp luân: gồm có nghiệp hữu và hành.
3- Quả luân: gồm có cảnh
hữu, thức, danh sắc, lục nhập, lục xúc, lục thọ, sanh,
lão tử.
- Sắc giới thiện nghiệp cho quả an lạc ở cõi sắc giới.
- Vô sắc giới thiện nghiệp cho quả an lạc ở cõi vô sắc
giới.
- Tai được nghe những âm thanh đáng hài lòng.
- Mũi được ngửi những mùi đáng hài lòng.
- Lưỡi được nếm những vị đáng hài lòng.
- Thân được tiếp xúc êm ấm, đáng hài lòng.
- Tâm được an lạc...
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Săm-ma-săm-but-thô).
- Do vô minh làm duyên, nên hành sanh...
- Do diệt tận vô minh, tham ái không còn dư sót, nên diệt
hành...
2- Vikàra: Sắc pháp biến đổi.
3- Lakkhana: Trạng thái sanh trụ diệt của sắc
pháp.
4- Pannattidhamma: Chế định pháp: Chế định
ngôn ngữ để gọi tên thuyết giảng các pháp.
5- Nibbàna: Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh
đế.
(Bình Anson, tháng 04-2002)
updated: 11-05-2002