BuddhaSasana Home Page Tìm
hiểu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT Tỳ
kheo Hộ Pháp
ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ BA III- Itipi
so Bhagavà vijjàcaranasampanno
Ðức Thế Tôn có ân đức
Vijjàcaranasampanno = Ðức Minh Hạnh Túc. Ðức Minh Hạnh Túc là bậc
có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng. Tam Minh 1- Túc mạng minh: Là
trí tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ
một kiếp, hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp,
hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp... Ðối với Ðức
Phật Toàn Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không
có giới hạn. (Còn đối với
Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác có giới hạn).
Túc mạng minh biết rõ
tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng
dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba la mật, thọ
lạc, thọ khổ, tuổi thọ... đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi
tiết. 2- Thiên nhãn minh: Là
trí tuệ thấy rõ biết rõ như mắt của chư thiên, phạm
thiên, có khả năng thấy rõ biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị
lai của tất cả chúng sinh.
Thiên nhãn minh có hai loại: a) Tử sanh minh: Là
trí tuệ biết rõ sự tử, sự tái sanh của tất cả chúng
sinh. Ðức Thế Tôn có Tử
sanh minh này biết rõ chúng sinh sau khi chết rồi do nghiệp
nào cho quả tái sanh ở cảnh giới nào. b) Vị lai kiến minh:
Là trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của chúng sinh. Chư Phật dùng Vị
lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp
vị lai xa xăm; còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất
nữa sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc Ðộc Giác
Phật, bậc Thánh Thanh Văn... 3- Lậu tận minh: Là
trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ
diệt đoạn tuyệt được 4 pháp phiền não trầm luân không
còn dư sót; đồng thời Ðức Thế Tôn tận diệt được tất
cả mọi tiền khiên tật (vàsanà) do tích luỹ từ vô lượng
kiếp trong quá khứ. Bát Minh 1- Túc mạng minh. Ðó là Tam minh, Bát minh. 15 Ðức Hạnh Cao Thượng 1- Có giới
đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh. Ðó là 15 đức hạnh cao
thượng. Ðức Thế Tôn có trọn
đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng hợp với
trí đại bi để tế độ chúng sinh, có hữu duyên nên tế độ,
cứu vớt chúng sinh ấy giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử
sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Vijjàcarana-sampanno = Ðức Minh Hạnh
Túc. Niệm Ân Ðức
Vijjàcaranasampanno Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Vijjàcaranasampanno"
này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có
trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn
kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi
điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Vijjàcaranasampanno...,
Vijjàcaranasampanno..., Vijjàcaranasampanno...", hoặc
câu Ân Ðức Vijjàcaranasampanno: "Itipi so Bhagavà
Vijjàcaranasampanno..., Itipi so Bhagavà Vijjàcaranasampanno..., Itipi
so Bhagavà Vijjà-caranasampanno...", làm đối tượng
thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ TƯ IV- Itipi
so Bhagavà Sugato
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Sugato = Ðức Thánh Thiện. Sugato có 4 ý nghĩa: 1- Ngự theo Thánh Ðạo. Giải thích: 1- Sugato có ý nghĩa ngự
theo Thánh Ðạo như thế nào? Ðức Thế Tôn ngự (hành)
theo Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh là: - Chánh kiến:
Trí tuệ thấy chân chính, đó là trí tuệ thiền tuệ chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế. - Chánh tư duy: Tư
duy chân chính, đó là tư duy thoát khỏi ngũ trần, tư duy không
thù oán, tư duy không hại chúng sinh. - Chánh ngữ:
Lời nói chân chính, đó là không nói dối, không nói lời
đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời
vô ích. - Chánh nghiệp:
Hành nghiệp chân chính, đó là không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm. - Chánh mạng:
Nuôi mạng chân chính, đó là không sống theo tà mạng do
hành ác. - Chánh tinh tấn:
Tinh tấn chân chính là: * Tinh tấn ngăn ác
pháp phát sanh. - Chánh niệm:
Niệm chân chính, đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm,
niệm pháp. - Chánh định:
Ðịnh chân chính, đó là định tâm trong đệ nhất thiền,
đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, đệ ngũ
thiền siêu tam giới có Niết Bàn làm đối tượng. Thánh Ðạo hợp đủ 8
chánh này đồng sanh trong Thánh Ðạo tâm, Thánh Quả tâm, có
Niết Bàn làm đối tượng. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự theo Thánh Ðạo. 2- Sugato có ý nghĩa ngự
đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối như thế nào? Ðức Thế Tôn là bậc
đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn bằng trí tuệ thiền tuệ
siêu tam giới, đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ, 4 Thánh Quả Tuệ,
nên Ngài có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết Bàn
an lạc tuyệt đối. Về sau, Ðức Thế Tôn
thuyết pháp tế độ các hàng đệ tử cũng chứng ngộ Niết
Bàn bằng Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ, nhưng những bậc
Thánh Thanh Văn này không có Ân Ðức Sugato như Ðức Thế
Tôn, vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn. Do đó, chỉ có Ðức Thế
Tôn mới có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến
Niết Bàn an lạc tuyệt đối. 3- Sugato có ý nghĩa ngự
đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào? Ðức Bồ Tát đạo sĩ Sumedha,
tiền thân của Ðức Thế Tôn, đã phát nguyện sẽ trở
thành bậc Chánh Ðẳng Giác, được Ðức Phật Dìpankara
thọ ký còn 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, sẽ trở
thành bậc Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama. Từ
đó, Ðức Bồ Tát trở thành cố định tiếp tục bồi bổ
pháp hạnh ba la mật: 10 bậc thường, 10 bậc trung và 10 bậc
thượng gồm đủ 30 pháp hạnh ba la mật suốt 4 a tăng kỳ và
100 ngàn đại kiếp bất thoái chí. Ðến kiếp chót, Ðức Bồ
Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng đi xuất gia đã trở
thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích
cao thượng bất thoái chí. 4- Sugato có ý nghĩa thuyết
pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh như thế nào?
Ðức Thế Tôn tuỳ thời
thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho
chúng sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Ðức Thế Tôn
không thuyết pháp. Ðức Thế Tôn biết rõ
6 trường hợp; trường hợp nào nên thuyết giảng và trường
hợp nào không nên thuyết giảng như sau: 1- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích,
người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết
giảng pháp ấy. 2- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích,
người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp
ấy. 3- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dầu
người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp
ấy. 4- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người
nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng
pháp ấy. 5- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích,
người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi,
đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy. 6- Ðức Thế Tôn biết
rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích,
người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi, đúng lúc
sẽ thuyết giảng pháp ấy. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân
lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh. Ân Ðức Sugato có 4 ý
nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa đức Sugato
thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh. Niệm Ân Ðức
Sugato Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Sugato"
này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có
trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn
kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi
điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Sugato...,
Sugato..., Sugato...", hoặc câu Ân Ðức Sugato:
"Itipi so Bhagavà Sugato..., Itipi so Bhagavà Sugato..., Itipi so
Bhagavà Sugato...", làm đối tượng thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ NĂM V- Itipi
so Bhagavà Lokavidù
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Lokavidù = Ðức Thông Suốt Tam Giới. Ý nghĩa Loka Loka:
Thế giới đó là các pháp có sự sanh, sự diệt, sự thành,
sự hoại,... nhất là ngũ uẩn chấp thủ của mình, gọi là
thế giới. Thế giới có 3 loại: 1- Chúng sinh thế giới
(sattaloka). Ðức Thế Tôn có hai loại
trí tuệ đặc biệt mà Chư Phật Ðộc Giác và bậc Thánh
Thanh Văn không có là: - Trí tuệ thấy rõ biết
rõ căn cơ cao thấp của mỗi chúng sinh.
Cho nên, Ðức Thế Tôn
có khả năng thông suốt cả ba thế giới. 1- Thế nào gọi là
chúng sinh thế giới? Chúng sinh thế giới: * Về nơi sanh có 4 loại: - Thai sanh:
Chúng sinh sanh từ bụng mẹ như: loài người, trâu, bò... * Về uẩn có 3 loại: - Chúng sinh có ngũ
uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và
thức uẩn ở cõi dục giới và cõi sắc giới. Ðức Thế Tôn biết rõ
tất cả mọi loài chúng sinh có căn cơ cao hoặc thấp; có phiền
não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi
chúng sinh; có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp
chủ [*] già dặn hoặc còn non nớt... [*] 5 pháp chủ: tín pháp chủ, tấn pháp chủ,
niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ. Chúng sinh có khả năng
chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, hoặc
kiếp vị lai trở thành Toàn Giác Phật, hoặc Ðộc Giác Phật,
hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào... Chúng sinh không có khả
năng chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại
bởi do nguyên nhân nào... Ðức Thế Tôn thông suốt
tất cả các loài chúng sinh không còn dư sót. 2- Thế nào gọi là cõi
thế giới? Cõi thế giới là nơi tạm
trú của tất cả các loài chúng sinh hiện hữu tuỳ theo thiện
nghiệp, ác nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng sinh. Tam giới Tam giới là một thế giới
nhỏ, gồm có 31 cõi: - Dục giới có 11 cõi. * 11
cõi dục giới.
- 4
cõi ác giới:
* Cõi Ðịa ngục:
có tuổi thọ không nhất định. - 7
cõi thiện dục giới:
* Cõi Người: có
tuổi thọ không nhất định.
* 16
cõi sắc giới phạm thiên.
- Ðệ
nhất thiền hữu sắc có 3 cõi:
* Cõi Phạm chúng thiên:
có tuổi thọ 1/3 a tăng kỳ kiếp trụ. (Vivattatthàyì
asankheyyakappa = a tăng kỳ kiếp trụ của trái đất.) - Ðệ
nhị thiền hữu sắc có 3 cõi:
* Cõi Thiểu quang thiên:
có tuổi thọ 2 đại kiếp. (Ðại kiếp = trải qua 4 a tăng kỳ:
thành - trụ - hoại - không của kiếp trái đất.) * Cõi Vô lượng quang
thiên: có tuổi thọ 4 đại kiếp. - Ðệ
tam thiền sắc giới có 3 cõi:
* Cõi Thiểu tịnh
thiên: có tuổi thọ 16 đại kiếp. - Ðệ
tứ thiền sắc giới có 7 cõi:
* Cõi Quảng quả
thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp. - Cõi Vô phiền
thiên: có tuổi thọ 1.000 đại kiếp. * 4 cõi vô sắc giới phạm
thiên. - Không vô biên xứ
thiên: có tuổi thọ 20.000 đại kiếp. 1 thế giới có tam giới,
gồm có 31 cõi. Ðức Thế Tôn không những
thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô lượng thế
giới (ananta-cakkavàla).
3- Thế nào gọi là pháp
hành thế giới? Pháp hành thế giới đó
là ngũ uẩn chấp thủ do nhân duyên cấu tạo, nên có sự
sanh, sự diệt. Chúng sinh thế giới và
cõi thế giới thuộc về thế giới do Chế định pháp (Pannattidhamma),
còn pháp hành thế giới thuộc về Chân
nghĩa pháp (Paramatthadhamma).
Ðức Thế Tôn thông suốt
pháp hành thế giới có nhiều loại như sau: - Thế giới có 1
pháp: tất cả chúng sinh được tồn tại do nhờ nhân (àhàra).
- Thế giới có 2
pháp: danh pháp và sắc
pháp.
- Thế giới có 3 thọ:
thọ khổ, thọ lạc, thọ
xả.
- Thế giới có 4 pháp
dẫn đến quả: vật thực dẫn cho sanh mạng được
tồn tại; xúc dẫn đến thọ; tác ý
dẫn cho quả tâm; tâm dẫn cho tâm sở nương nhờ
và sắc pháp phát sanh từ nghiệp. - Thế giới có 5 uẩn:
sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. - Thế giới có
6 xứ bên trong: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và có 6
xứ bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp... Ðức Thế Tôn thông suốt
cả vô lượng thế giới, bắt nguồn từ thế giới ngũ
uẩn của mình. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Lokavidù = Ðức Thông Suốt Thế Giới. Niệm Ân Ðức
Lokavidù Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Lokavidù"
này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có
trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn
kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi
điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Lokavidù...,
Lokavidù..., Lokavidù...", hoặc câu Ân Ðức
Lokavidù: "Itipi so Bhagavà Lokavidù..., Itipi so Bhagavà
Lokavidù..., Itipi so Bhagavà Lokavidù...", làm đối
tượng thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ SÁU VI- Itipi
so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi
Ðức Thế Tôn có ân đức
Anuttaro purisa-dammasàrathi = Ðức Vô Thượng giáo
hoá chúng sinh. Ðức Thế Tôn giáo hoá
các loại chúng sinh như: súc sanh, nhân loại, dạ xoa, chư thiên,
phạm thiên trở thành bậc Thiện trí. a) Giáo hoá loài súc sanh Ðức Thế Tôn giáo hoá
các loài súc sanh như rồng chúa Apalàla, rồng
chúa Cùlodara, rồng chúa Mahodara... trở
thành rồng hiền lành. Voi chúa Nàlàgiri rất hung
dữ trong cơn say, chạy đến hại Ðức Thế Tôn, Ngài rải
tâm từ đến voi chúa, ngay tức khắc voi chúa tính lại, bò
đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Ðức Phật, Ngài giáo
hoá voi chúa này trở thành voi hiền lành, biết quy y Tam bảo,
thọ trì ngũ giới. Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền
lành dễ thương, Ðức Thế Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapàla.
b) Giáo hoá người ác trở
thành bậc Thánh nhân Kẻ cướp sát nhân cắt
ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ có biệt danh
Angulimàla. Y có võ nghệ cao cường, một mình ở trong
rừng, từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng, không
một ai thoát chết. Một hôm, Ðức Thế Tôn
một mình đi vào rừng, nơi trú ẩn của Angulimàla, để giáo
hoá y. Y thức tính, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành
Tỳ khưu nơi Ðức Phật. Về sau không lâu Tỳ khưu Angulimàla
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu
Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Ðạo
- Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng... c) Giáo hoá Dạ xoa ác trở
thành bậc Thánh nhân Tích dạ xoa Àlavaka
ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực
kỳ nguy hiểm. Ðức Thế Tôn đến ngự trên bảo tọa trong
lâu đài của dạ xoa Àlavaka, y bực tức dùng mọi phép mầu
để xua đuổi Ðức Thế Tôn ra khỏi cung điện của y. Nhưng
y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Ðức Thế Tôn được. Cuối cùng, y có những
câu hỏi mà quên câu trả lời, y đã hỏi nhiều Sa môn, Bà
la môn mà không một ai có thể trả lời đúng được. Nay y
đem những câu hỏi ấy đặt điều kiện hỏi Ðức Thế
Tôn. Ðức Thế Tôn đã giải
đáp đúng ý nghĩa những câu hỏi, dạ xoa Àlavaka vô cùng
hoan hỉ liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh
Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh thứ nhất
trong Phật giáo. d) Giáo hoá phạm thiên
tà kiến trở thành chánh kiến Phạm thiên Baka
ở cung trời sắc giới Quang âm thiên phát sanh thường kiến
mê lầm. Ðức Thế Tôn từ chùa Jetavana, hiện lên cõi trời
sắc giới để tế đ? phạm thiên Baka từ bỏ tà kiến trở
lại chánh kiến... Ðức Thế Tôn giáo hoá
tế độ chúng sinh hữu duyên nên tế độ. Nghĩa là, những
chúng sinh ấy tiền kiếp có liên quan với Ngài, hoặc tiền
kiếp đã từng gieo duyên lành nơi chư Phật trong quá khứ, hoặc
đã từng tạo ba la mật, gieo phước duyên trong giáo pháp của
chư Phật ấy. Nay kiếp hiện tại, có duyên lành được Ðức
Thế Tôn quan tâm đến, để giáo hoá tế độ chúng sinh ấy.
(Không có nghĩa Ðức Thế
Tôn gặp chúng sinh nào cũng giáo hoá tế độ chúng sinh ấy
được cả thảy).
Ðức Thế Tôn giáo hoá
những chúng sinh mà không có một ai có thể giáo hoá tế độ
được, không có một vị nào sánh được như Ngài. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Anuttaro purisa-dammasàrathi =
Ðức Vô Thượng giáo hoá chúng sinh. Riêng Ân Ðức Phật Anuttaro
purisadamma-sàrathi: trong bộ Thanh Tịnh Ðạo, phần
giảng dạy Ân Ðức Phật, Ân Ðức Phật này phân chia làm
hai Ân Ðức riêng biệt. - Anuttaro =
Ðức Vô Thượng. Giải thích: - Ân Ðức Anuttaro = Ðức
Vô Thượng như thế nào? * Ðức Thế Tôn có giới
đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế
giới hơn Ngài. Cũng như vậy, * Có định đức
trong sạch thanh tịnh... * Có tuệ đức
trong sạch thanh tịnh... * Có giải thoát đức
trong sạch thanh tịnh... * Có giải thoát tri
kiến đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong
toàn thế giới hơn Ngài. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Anuttaro = Ðức Vô Thượng. - Ân
Ðức Purisadammasàrathi: Ðức giáo hoá chúng sinh như thế nào?
Ðức Thế Tôn giáo hoá
các loài chúng sinh có duyên lành, mà không có một ai trong
toàn thế giới chúng sinh có khả năng giáo hoá tế độ chúng
sinh như Ngài được. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Purisa-dammasàrathi = Ðức giáo hoá
chúng sinh. Niệm Ân Ðức
Anuttaro purisadammasàrathi Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Anuttaro
purisadamma -sàrathi", này sẽ phát sanh đức tin trong sạch
nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc,
tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm,
tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng
trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Anuttaro
purisadammasàrathi..., Anuttaro purisadammasàrathi..., Anuttaro
purisa-dammasàrathi...", hoặc câu Ân Ðức
Anuttaro purisadammasàrathi: là "Itipi so Bhagavà Anuttaro
purisadammasàrathi..., Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi...,
Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi...", làm
đối tượng thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ
kheo Hộ Pháp, Thiền viện Viên Không, Bà Rịa, đã gửi tặng bản
vi tính [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2546 - TL 2002
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Vít-xà-chá-rá-ná-săm-băn-nô).
2- Thiên nhãn minh.
3- Lậu tận minh.
4- Thiền tuệ minh: Trí tuệ thiền tuệ
tam giới thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp sắc pháp, và trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới chứng
đắc Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ và Niết Bàn.
5- Hoá tâm minh: Trí tuệ có khả năng hoá thân
khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định.
Như trường hợp Ðức Phật thuyết tạng Vi Diệu Pháp vào
hạ thứ bảy tại cung Tam thập tam thiên suốt ba tháng. Mỗi
ngày đến giờ đi khất thực, Ðức Phật hoá thân khác như
Ðức Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Ðức Phật thật
đi khất thực ở Bắc câu lưu châu. Khi độ ngọ xong trở
lại cung trời thay thế Ðức Phật hoá thân, chỉ có một số
ít chư thiên, phạm thiên bậc cao có nhiều oai lực mới biết
được.
6- Thần thông minh: Trí tuệ có khả năng
biến hoá nhiều phép thần thông khác nhau do năng lực thiền
định, như một người hoá thành nhiều người, tàng hình
không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên
hư không...
7- Thiên nhĩ minh: Là trí tuệ như tai của chư
thiên có khả năng nghe được nhiều thứ tiếng người, tiếng
súc sanh, tiếng chư thiên gần xa do năng lực thiền định.
8- Tha tâm minh: Là trí tuệ có khả năng biết đến
tâm của người khác, chúng sinh khác đang nghĩ gì, thiện
tâm hoặc bất thiện tâm.
2- Thu thúc lục căn thanh tịnh: thu thúc khi thấy
bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi,
tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh.
3- Biết tri túc trong vật thực: nhận vật thực
vừa đủ thọ thực, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4-5 miếng
cơm nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không
dùng no quá.
4- Tinh tấn tính thức: ngày, đêm tinh tấn hành
phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh;
canh đầu: ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa:
(22 giờ khuya) nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng
bên phải, có trí nhớ trí tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy
lúc cuối canh giữa; canh chót: (2 giờ sáng) hành
đạo, đi kinh hành... Gọi là tinh tấn luôn luôn tính thức.
5- Ðức tin: có đức tin không lay chuyển.
6- Trí nhớ: thường có trí nhớ.
7- Hổ thẹn: biết tự mình hổ thẹn, không làm
mọi tội ác.
8- Ghê sợ: biết ghê sợ, không làm mọi tội
ác.
9- Ða văn túc trí: học nhiều hiểu rộng tất cả
các pháp.
10- Tinh tấn: có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ.
11- Trí tuệ: có trí tuệ hiểu biết rõ tất cả
các pháp.
12- Ðệ nhất thiền: có đệ nhất thiền hữu sắc
và vô sắc.
13- Ðệ nhị thiền: có đệ nhị thiền hữu sắc
và vô sắc.
14- Ðệ tam thiền: có đệ tam thiền
hữu sắc và vô sắc.
15- Ðệ tứ thiền: có đệ tứ thiền hữu sắc
và vô sắc.
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Sú-gá-tô)
2- Ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
3- Ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.
4- Thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.
* Tinh tấn diệt ác pháp đã sanh.
* Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
* Tinh tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã sanh.
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Lô-ká-vn-đu).
2- Cõi thế giới (okàsaloka).
3- Pháp hành thế giới (sankhàraloka).
- Trí tuệ thấy rõ biết
rõ phiền não ngấm ngầm, thiện nghiệp, ác nghiệp của mỗi
chúng sinh.
- Noãn sanh: Chúng sinh sanh từ trứng như: gà, vịt,
chim...
- Thấp sanh: Chúng sinh sanh từ nơi ẩm thấp như:
con dòi, con trùn,...
- Hoá sanh: Chúng sinh sanh hiện hữu ngay tức thì
như: chư thiên, phạm thiên, loài ngạ quỷ, atula, chúng sinh địa
ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này...
- Chúng sinh có tứ uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn và thức uẩn (không có sắc uẩn) ? cõi vô sắc giới.
- Chúng sinh có nhất uẩn: sắc uẩn (không có 4
danh uẩn) ? cõi sắc giới Vô tưởng thiên. V.v...
- Sắc giới có 16 cõi.
- Vô sắc giới có 4 cõi.
* Cõi Atula: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Ngạ quỷ: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Súc sanh: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Tứ đại thiên vương: có tuổi thọ 500 tuổi trời,
bằng 9 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời
này bằng 50 năm cõi người).
* Cõi Tam thập tam thiên: có tuổi thọ 1.000 tuổi trời,
bằng 36 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi
trời này bằng 100 năm cõi người).
* Cõi Dạ ma thiên: có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng
144 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời
này bằng 200 năm cõi người).
* Cõi Ðâu xuất đà thiên: có tuổi thọ 4.000 tuổi
trời, bằng 576 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm
ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).
* Cõi Hoá lạc thiên: có tuổi thọ 8.000 tuổi trời,
bằng 2.304 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở
cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
* Cõi Tha hoá tự tại thiên: có tuổi thọ 16.000 tuổi
trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người. (Bởi
1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).
* Cõi Phạm phụ thiên: có tuổi thọ 1/2 a tăng kỳ kiếp
trụ.
* Cõi Ðại phạm thiên: có tuổi thọ 1 a tăng kỳ kiếp
trụ.
* Cõi Quang âm thiên: có tuổi thọ 8 đại kiếp.
* Cõi Vô lượng tịnh thiên: có tuổi thọ 32 đại kiếp.
* Cõi Biến tịnh thiên: có tuổi thọ 64 đại kiếp.
* Cõi Vô tưởng thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp.
* Cõi Phước sanh thiên: có 5 cõi dành riêng cho bậc
Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:
- Cõi Vô nhiệt thiên: có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
- Cõi Thiện hiện thiên: có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
- Cõi Thiện kiến thiên: có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
- Cõi Sắc cứu cánh thiên: có tuổi thọ 16.000 đại
kiếp.
- Thức vô biên xứ thiên: có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
- Vô sở hữu xứ thiên: có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: có tuổi thọ
84.000 đại kiếp.
1 tiểu thế giới có 31.000 cõi.
1 trung thế giới gồm có 31 triệu cõi.
1 đại thế giới gồm có 31 triệu triệu cõi hay 31.000 tỉ
cõi.
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô Phá-gá-voa
Á-nút-tá-rô pú-rn-sá-đăm-má-sa-rá-thí).
- Purisadammasàrathi = Ðức giáo hoá chúng sinh.
(Bình Anson, tháng 04-2002)
updated: 11-05-2002