BuddhaSasana Home Page Tìm
hiểu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT Tỳ
kheo Hộ Pháp
ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ BẢY VII- Itipi
so Bhagavà Satthàdevamanussànam
Ðức Thế Tôn có ân đức
Satthàdevamanussànam = Ðức Thiên Nhân Sư. Ðức Thế Tôn là bậc
Tôn Sư giáo huấn tất cả chúng sinh những pháp đem lại sự
lợi ích, sự an lạc kiếp hiện tại; những pháp đem lại sự
lợi ích, sự an lạc trong kiếp vị lai; và những pháp hành
đem lại sự an lạc cao thượng Niết Bàn, tuỳ theo căn duyên
trí tuệ của mỗi chúng sinh. A) Sự Lợi Ích An Lạc
Kiếp Hiện Tại Ðức Thế Tôn giáo huấn
chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích,
sự an lạc trong kiếp hiện tại ( Anguttaranikàya-Atthakanipàta,
kinh Dìghajànusutta.) 4 pháp là: 1- Biết siêng năng cần
mẫn trong nghề nghiệp. Giải thích : 1- Biết siêng năng cần
mẫn trong nghề nghiệp như thế nào? Trong cuộc sống mỗi người
nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm
khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn
người [*] . Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp
ấy, có trí tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để
tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình. [*] Tránh 5 nghề: Nghề
buôn bán vũ khí; nghề buôn bán người hoặc súc vật; nghề
buôn bán rượu và các chất say; nghề buôn bán các loại
thuốc độc sát hại chúng sinh; nghề sát sanh các loài thú
để bán thịt. 2- Biết giữ gìn của cải
tài sản như thế nào? Của cải tài sản được
tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn của mình, trong nghề
nghiệp một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ: "Ta
nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh
không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm
cướp chiếm đoạt... giữ gìn của cải tài sản không bị hư
mất".
3- Có bạn lành, bạn tốt
là bậc Thiện trí như thế nào? Muốn được lợi ích,
tiến hoá, an lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận
với bậc Thiện trí làm bạn thân thiết, để học hỏi những
thiện pháp, ác pháp; để biết thiện pháp nên hành, ác pháp
nên tránh xa; để noi gương tốt của bậc Thiện trí. Bậc Thiện trí là người
có đức tin chơn chánh; có giới trọn đủ; có đa văn túc
trí, học nhiều hiểu rộng; thường hoan hỉ trong sự bố thí;
có trí tuệ sáng suốt hiểu biết các pháp. Nhờ gần gũi, thân cận
bạn lành bạn tốt là bậc Thiện trí, nên mình mới có cơ hội
học tập, để có đủ đức tin, có giới, học nhiều hiểu
rộng, hoan hỉ trong sự bố thí, có trí tuệ hiểu biết các
pháp. 4- Biết sử dụng của cải
có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình như thế nào? Nhờ sống gần gũi, thân
cận với bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí, nên học hỏi
hiểu biết được con đường làm cho phát triển của cải,
và con đường làm của cải suy đồi [*] . [*] Con đường làm
của cải suy đồi: kết bạn với người ác, ăn chơi đàng
điếm, uống rượu, chơi cờ bạc. Con đường làm cho phát
triển của cải: kết bạn với bậc Thiện trí, không ăn
chơi đàng điếm; không uống rượu, không chơi cờ bạc.
Biết sử dụng của cải
có chừng mực trong cuộc sống là: - Không nên phung phí của
cải quá mức. Nên nghĩ rằng:
"Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém
hơn phần thu".
Trong cuộc sống phần
thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi, thì tiền bạc
của cải có phần dư dật, để dành lúc bịnh hoạn ốm
đau, lúc tuổi cao tác lớn không tạo ra của cải được, nhờ
có dư của cải tiền bạc thì cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, phần chi tiền
bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của
cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu
khổ cực. Biết sử dụng của cải
có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình là lúc nào cũng "phần
thu hơn phần chi".
Ðó là 4 pháp thực hành
đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp
hiện tại. B) Sự Lợi Ích An Lạc
Những Kiếp Vị Lai Ðức Thế Tôn giáo huấn
chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích,
sự tiến hoá, sự an lạc những kiếp vị lai. 4 pháp là: 1- Có đức tin trọn đủ. Giải thích 1- Có đức tin trọn đủ
như thế nào? Người Phật tử có đức
tin trong sạch nơi 9 Ân Ðức Phật, 6 Ân Ðức Pháp, 9 Ân Ðức
Tăng; tin nghiệp và quả của nghiệp trọn đủ. Có đức tin trong sạch
trọn đủ, nơi 9 Ân Ðức Phật rằng: Ðức Thế Tôn, - là bậc Arahán xứng đáng
thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm
thiên, nhân loại. - là bậc tự mình chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4
Thánh Quả đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh, trở
thành bậc Chánh Ðẳng Giác, - là bậc có trọn đủ
Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng, - là bậc Thánh Thiện
giáo huấn sự thật chân lý đem lại sự lợi ích thật sự
cho chúng sinh. - là bậc Thông Suốt
toàn thế giới. - là bậc Vô Thượng Giáo
Hoá chúng sinh. - là bậc Thiên Nhơn Sư. - là Ðức Phật tự
mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, rồi giáo huấn chúng
sinh có duyên lành cũng chứng ngộ như Ngài. - là bậc Cao Thượng nhất
trong toàn thế giới chúng sinh, do Ngài tự mình chứng đắc
thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Và có đức tin trong sạch
trọn đủ 6 Ân Ðức Pháp của Ðức Phật, 9 Ân Ðức Tăng, bậc
Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật; và có đức tin trong
sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp. Tin rằng: "nghiệp
thiện cho quả an lạc; nghiệp ác cho quả khổ". Ngoài
ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an lạc hoặc cho quả
khổ cho mình. 2- Có giới trong sạch
và trọn đủ như thế nào? Người Phật tử là bậc
Xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới hạnh
trong sạch và trọn đủ theo phẩm hạnh của mình. - Người cận sự Nam -
Nữ có ngũ giới; bát giới... trong sạch và trọn đủ. 3- Sự bố thí trọn đủ
như thế nào?
Người Phật tử có tâm
từ, tâm bi tế độ, hoan hỉ trong sự bố thí tuỳ theo khả
năng của mình, có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước
khi bố thí; hoan hỉ đang khi bố thí; hoan hỉ sau khi đã bố
thí xong. Người Phật tử không
nên có tâm bỏn xẻn keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết
của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí nhiều
tuỳ theo khả năng, tuỳ theo người thọ thí. Người thí chủ
nên có sự suy tư đúng đắn rằng: được làm phước thiện
bố thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc
không phải là phước thiện (là quả của phước thiện) thuộc
về của chung
cho mọi người, nếu ta không biết sử dụng đem làm phước
bố thí, qua thời gian, của cải ấy cũng bị hư mất, không
tồn tại lâu dài được; nếu ta biết sử dụng của cải
ấy đem bố thí, để biến thành phước thiện chắc chắn
thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an lạc nhiều kiếp,
có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện
bố thí chỉ có con người ở cõi Nam Thiện Bộ Châu (trái đất
chúng ta đang sống) này mà thôi; các chúng sinh ở cõi khác
khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố
thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy.
4- Có trí tuệ trọn đủ
như thế nào? Người Phật tử nên có
trí tuệ hợp trong mọi thiện pháp. Khi bố thí, thí chủ nên
có đại thiện tâm hợp với trí tuệ đang khi bố thí. Cũng
như vậy, hành giả nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ
khi giữ giới, khi tiến hành thiền định, tiến hành thiền
tuệ. Thật ra, trí tuệ để
cho trọn đủ là trí tuệ thiền tuệ trong tam giới
thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc
pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến
sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế. Trí tuệ gọi là trọn
đủ chính là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó
là 4 Thánh Ðạo tuệ, đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo tâm và 4
Thánh Quả tuệ đồng sanh trong 4 Thánh Quả tâm, có Niết Bàn
làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh nhân. Ðó là 4 pháp thực hành
sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài
cho kiếp hiện tại, lẫn nhiều kiếp vị lai. C) Sự Lợi Ích An Lạc
Cao Thượng Niết Bàn Ðức Thế Tôn có hai loại
trí tuệ đặc biệt. - Trí tuệ thấy rõ
biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng sinh.
Hai loại trí tuệ đặc
biệt này chỉ có nơi Ðức Phật Toàn Giác mà thôi, còn các
bậc Thánh Thanh Văn hoàn toàn không thể có (2 loại trí tuệ
này). Cho nên, mỗi khi Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ
chúng sinh nào, Ngài quán xét căn duyên của chúng sinh ấy.
Chúng sinh nào đã từng tạo ba la mật nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá khứ thọ ký rồi.
Nay kiếp hiện tại này gặp Ðức Phật, Ngài thuyết pháp
giáo huấn hợp với căn cơ và duyên lành của chúng sinh ấy.
Sau khi lắng nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp xong, có số chúng
sinh liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập
Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
Nhập Lưu. * Có số chứng đắc đến
Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh Nhất Lai. * Có số chứng đắc đến
Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh
Bất Lai. * Có số chứng đắc đến
Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
Arahán. Sự chứng đắc Thánh Ðạo
- Thánh Quả này tuỳ theo 5 pháp chủ và ba la mật, nhất là
trí tuệ ba la mật của mỗi chúng sinh. Bốn bậc Thánh nhân này
đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an lạc cao thượng
Niết Bàn. Ðức Thế Tôn thuyết
pháp tế độ chúng sinh không những nhân loại, chư thiên, phạm
thiên được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu
dài, mà còn có loài súc sanh cũng được sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài nữa. Như tích Mandukadevaputta
(Chư Thiên Ếch - Khuddkanikàya, bộ Vimànavatthu chuyện
Mandukadevaputta.), tóm lược như sau: -- Một thuở nọ Ðức
Thế Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarà thuyết pháp tế độ dân
chúng Campà, một con ếch nhảy lên bờ hồ nằm nghe giọng
nói của Ðức Thế Tôn, với đức tin trong sạch nơi Ngài. Khi ấy, một người
chăn bò đứng đằng sau lắng nghe pháp, tay cầm cây nhọn vô
ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm nghe
giọng nói của Ðức Thế Tôn với đức tin trong sạch, con
ếch chết ngay khi ấy. Sau khi chết, do thiện nghiệp ấy liền
hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên trong một lâu
đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có chư thiên nữ hầu hạ.
Vị thiên nam quán xét rằng: "Ta
từ đâu đến hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên
này?".
Vị thiên nam nhớ lại
tiền kiếp mình là loài ếch sống dưới hồ Gaggarà, lên bờ
nằm lắng nghe giọng Ðức Phật thuyết pháp, với đức tin
trong sạch; kiếp ếch ấy chết rồi, do nhờ thiện nghiệp
ấy được hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời này. Thấy rõ
Ðức Thế Tôn đang còn thuyết pháp tại gần bờ hồ
Gaggarà, vị thiên nam ếch quyết định hiện xuống hầu Ðức
Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng chư thiên nữ, có
hào quang sáng ngời đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ðức
Thế Tôn. Ðức Thế Tôn biết rõ,
nhưng muốn cho các hàng đệ tử thấy rõ quả báu nghe pháp,
nên Ngài hỏi: "Ko me vandàti
padàni, "Này thiên nam, ngươi
là ai mà có thân hình xinh đẹp, hào quang sáng ngời toả ra
khắp mọi hướng, có nhiều oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu
hạ đến đây đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Như Lai vậy?". Chư thiên ếch bạch: "Mandùko’ham
pure asim,
"Kính bạch Ðức
Thế Tôn, con là Manduka, mới kiếp trước đây, là con ếch
nhỏ sanh và sống ở trong nước tại hồ này, con nhảy lên
hồ đang nghe pháp của Ngài, chính tại nơi đây người
chăn bò đứng nghe pháp vô ý cắm cây đụng đầu con, làm
cho con chết. Kính bạch Ðức Thế
Tôn! Chỉ một khoảnh khắc, do nhờ đức tin trong sạch nơi
giọng thuyết pháp của Ðức Thế Tôn, sau khi chết, do nhờ
thiện nghiệp ấy liền hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời,
như Ngài nhìn thấy, con có thân hình xinh đẹp, hào quang
sáng ngời toả khắp mọi nơi,con hưởng sự an lạc, có nhiều
oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu hạ. Kính bạch Ðức Phật
Gotama! Những chúng sinh nào có thời gian lâu dài được nghe
pháp của Ngài, những chúng sinh ấy chóng được chứng đắc
Thánh Ðạo - Thánh Quả và đạt đến Niết Bàn pháp giải
thoát khổ". Sau đó, Ðức Thế Tôn
quán xét thấy các hàng đệ tử có đức tin trong sạch, nên
Ngài thuyết pháp tế độ, vị thiên nam Manduka cùng với
84.000 chúng sinh gồm có chư thiên và nhân loại đều chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo
- Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Vị thiên nam Manduka cùng
chư thiên nữ cung kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn và chư Ðại
Ðức Tăng xin phép trở về cõi trời. Ðức Thế Tôn là bậc
Tôn Sư không những dạy dỗ các bậc Xuất gia cũng như các
hàng tại gia những pháp hành để chứng đạt đến pháp cao
thượng, siêu tam giới pháp: 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, an lạc tuyệt đối, mà còn dạy dỗ những pháp hành để
đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại và những kiếp vị
lai, tuỳ theo căn duyên lành của mỗi chúng sinh. Ví dụ: Ðức Phật dạy
dỗ hàng tại gia phải biết chọn cho mình nghề nghiệp lương
thiện, biết cách sử dụng của cải, biết nuôi mạng chơn
chánh để đem lại sự an lạc trong kiếp sống hiện tại; dạy
dỗ các bậc Xuất gia: Sa di, Tỳ khưu, chỉ dẫn từng li, từng
tí; nào là mặc y, đi khất thực, thọ dụng vật thực đàng
hoàng, chỗ ở sạch sẽ, dùng thuốc khi bệnh hoạn ốm đau;
thậm chí còn chỉ dẫn khi tiểu tiện, đại tiện... Ðức Thế
Tôn, bậc Tôn Sư dạy dỗ từ việc nhỏ cho đến việc lớn
giải thoát khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài. Niệm Ân Ðức
Satthàdevamanussànam Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Satthà-
devamanussànam" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch
nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc,
tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm,
tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng
trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Satthàdevamanussànam...,
Satthà-devamanussànam..., Satthàdevamanussànam...", hoặc
câu Ân Ðức Satthàdevamanussànam: "Itipi so Bhagavà
Satthàdevamanussànam..., Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam...,
Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam...", làm đối
tượng thiền đ?nh... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ 8 VIII-
Itipi so Bhagavà Buddho
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Buddho = Ðức Phật. Buddho
nghĩa là đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán
đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh; rồi Ngài thuyết
pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành; cũng chứng ngộ chân
lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu
Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất
Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả; Arahán Thánh Ðạo -
Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi
chúng sinh. Do đó, Ðức Thế Tôn
có Ân Ðức Buddho = Ðức Phật. Ân Ðức
"Sammàsambuddho" và Ân Ðức "Buddho" khác nhau
như thế nào? - Ân Ðức Sammàsambuddho
nghĩa là tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế,
chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh
Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh. Ân Ðức Sammàsambuddho
có 2 loại trí tuệ đặc biệt là: - Trí tuệ chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế đầu tiên.
- Ân Ðức Buddho
nghĩa là không chỉ tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc
Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, mà còn
thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập
Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất
Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả: Arahán Thánh Ðạo -
Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi
chúng sinh. Ân Ðức Buddho có
2 loại trí tuệ đặc biệt là: * Trí tuệ của Bậc
Toàn Giác (Sabbannutanàna),
Ðối với Ðức Phật
có trọn đủ các loại trí tuệ: - 4 tuệ phân tích (patisambhidànàna).
thành tựu cùng lúc với
Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả. Niệm Ân Ðức Buddho Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Buddho" này
sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí
tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn
kính nơi Ðức Thế Tôn có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi
điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Buddho...,
Buddho..., Buddho...", hoặc câu Ân Ðức Buddho:
là "Itipi so Bhagavà Buddho..., Itipi so Bhagavà Buddho...,
Itipi so Bhagavà Buddho...", làm đối tượng thiền định... (Phần còn lại giống như
Ân Ðức Araham). -ooOoo- ÂN ÐỨC PHẬT
THỨ CHÍN IX- Itipi
so Bhagavà
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức
Bhagavà.
Ân Ðức Bhagavà =
Ðức Thế Tôn vô cùng cao thượng nhất trong toàn thế giới
chúng sinh. Ân đức này, không phải phụ vương, mẫu hậu của
Ngài đ?t tên, cũng không phải chư thiên, phạm thiên nào suy
tôn Ngài. Sự thật, Ân Ðức
Bhagavà này là kết quả qua một quá trình tiến triển
tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời kỳ của Ðức
Chánh Ðẳng Giác Bồ Tát. Ví dụ: Trường hợp Ðức
Phật Gotama trong thời đại chúng ta. Tiền thân của Ðức Phật
Gotama là Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, nghĩa là trí
tuệ có năng lực hơn cả đức tin và tinh
tấn, đã tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời
kỳ. 1- Thời kỳ phát nguyện
trong tâm: Ðức Bồ Tát
có trí tuệ ưu việt phát nguyện trong tâm, đồng thời tạo
30 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường,
10 pháp hạnh ba la mật bậc trung, 10 pháp hạnh ba la mật bậc
thượng suốt thời gian 7 a tăng kỳ (A tăng kỳ âm từ Pàli:
asankheyya nghĩa là trải qua vô số kiếp trái đất). 2- Thời kỳ phát nguyện
bằng lời: Ðức Bồ Tát
có trí tuệ ưu việt đã trải qua 7 a tăng kỳ tạo 30 pháp hạnh
ba la mật, có đủ năng lực phát nguyện bằng lời cho tất cả
chúng sinh nghe biết nguyện vọng của mình, phát nguyện sẽ
trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, để tế
độ chúng sinh, đồng thời tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba la
mật thêm suốt 9 a tăng kỳ nữa. Qua 2 thời kỳ này vẫn
còn là Ðức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta),
nghĩa là có thể thay đổi nguyện vọng của mình, trở thành
Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác. 3- Thời
kỳ được Ðức Phật thọ ký: Ðức Bồ Tát có
trí tuệ ưu việt sau khi đã trải qua 2 thời kỳ: phát nguyện
trong tâm và bằng lời, có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện
tâm bất thối chí, Ðức Bồ Tát có duyên lành đến hầu Ðức
Phật. Trường hợp vị đạo
sĩ Sumedha (tiến thân của Ðức Phật Gotama) đến hầu Ðức
Phật Dìpankara. Ðức Phật Dìpankara có Phật nhãn thông suốt
vị lai, biết rõ nguyện vọng của vị đạo sĩ Bồ Tát
Sumedha sẽ thành tựu được như ý, nên Ðức Phật Dìpankara
thọ ký vị đạo sĩ rằng: "Trong thời vị lai,
còn 4 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất [*]
nữa, vị đạo sĩ Bồ Tát Sumedha này sẽ trở thành bậc
Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama".
[*] Ðại kiếp trái đất
dịch từ danh từ Pàli "kappa": thời gian kiếp trái đất
trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không. Ngài đương nhiên trở
thành Ðức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta),
bất thoái chí, tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba la mật trải
qua 24 Ðức Phật thọ ký, Ðức Phật thọ ký cuối cùng là
Ðức Phật Kassapa.
Ðức Bồ Tát kiếp chót
là Thái tử Siddhattha xuất gia hành đạo tại đại
cội Bồ Ðề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch).
Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh
Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên
trong toàn thế giới chúng sinh. Ðồng thời trở thành bậc
Chánh Ðẳng Giác nên có Ân Ðức Bhagavà = Ðức
Thế Tôn. Ân đức Bhagavà có 6 đức
chính: Issariya, Dhamma, Yasa,
Siri, Kàma, Payatta.
1- Thế nào gọi Issariya:
Tự chủ? Ðức Thế Tôn có tâm tự
chủ các pháp tam giới và siêu tam giới. - Tâm tự chủ
pháp tam giới: như Ðức Thế Tôn hóa phép thần
thông song hành (yamakapatihàriya) có 2 luồng nước và lửa
phát xuất từ kim thân của Ngài; một luồng nước phát ra
từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi
bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi
bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái ;
cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai... - Tâm tự chủ
pháp siêu tam giới: Ðức Phật thuyết pháp xong, các
hàng đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỉ "Sàdhu
- sàdhu" trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi
ấy, Ðức Thế Tôn có thể nhập Arahán Thánh Quả định để
hưởng sự an lạc Niết Bàn. Ðó gọi là Issariya
= tự chủ. 2- Thế nào gọi là
Dhamma: Chánh
pháp?
Ðức Thế Tôn đã chứng
đắc 9 siêu tam giới pháp đó là 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh
Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh,
diệt đoạn tuyệt tất cả 1.500 loại phiền não, 108 loại
tham ái, và tất cả mọi tiền khiên tật do tích lũy vô lượng
kiếp quá khứ. Ðó gọi là Dhamma
= Chánh pháp. 3- Thế nào gọi là Yasa:
Tiếng tốt lành?
Ân đức của Ðức Thế
Tôn được lan truyền khắp tất cả mọi chúng sinh, khắp mọi
nơi từ cõi người cho đến cõi long vương, đến chư thiên
ở 6 cõi trời dục giới, đến chư phạm thiên ở 15 cõi trời
sắc giới (trừ cõi Vô tưởng thiên). Và thậm chí ngay
cả chư phạm thiên ở cõi vô sắc giới cũng niệm tưởng đến
Ân Ðức Phật. Ðó gọi là Yasa =
Tiếng tốt lành. 4- Thế nào gọi là Siri:
Hạnh phúc? Kim thân của Ðức Thế
Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của bậc
thượng nhân, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim thân của
Ngài. Nên nhân loại, chư thiên, phạm thiên đến hầu đảnh
lễ cúng dường đến Ðức Thế Tôn, lúc nào cũng cảm thấy
hạnh phúc an lạc phát sanh hỉ lạc. Cho nên, những chúng sinh
đến hầu Ðức Thế Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa
đủ. Ðó gọi là Siri
- Hạnh phúc. 5- Thế nào gọi là
Kàma: Nguyện
ước thành tựu?
Ðức Thế Tôn khi còn
là Ðức Bồ Tát Sumedha có nguyện ước: - "Buddho
bodheyyam". Như Lai
tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế trở thành Ðức
Phật rồi, sẽ giáo hóa chúng sinh cùng chứng ngộ chân lý
Tứ thánh đế để trở thành bậc Thánh nhân (tự giác -
giác tha).
Ðiều ước nguyện ấy
đã thành tựu. - "Mutto
moceyyam". Như Lai
tự mình giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài rồi, sẽ giáo huấn chúng sinh cũng được giải thoát
cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài (tự độ
- độ tha).
Ðiều nguyện ước ấy
đã thành tựu. - "Tinno
tareyyam". Như Lai
tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết Bàn
an lạc rồi, sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ
luân hồi đạt đến Niết Bàn an lạc (tự đáo - đáo tha).
Ðiều nguyện ước ấy
đã thành tựu. Ðó gọi là Kàma
= nguyện ước thành tựu. 6- Thế nào gọi là
Payatta: Tinh
tấn không ngừng?
Hằng ngày Ðức Thế
Tôn có sự tinh tấn không ngừng hành 5 phận sự gọi là Buddhakicca
= phận sự của Ðức Phật (Bộ Chú giải
Anguttaranikàya, phần Ekakanipata...) Năm phận sự
của Ðức Phật. 1- Phận sự buổi sáng
trước khi độ ngọ (pure-bhattakicca).
Giải thích: a) Phận sự buổi sáng
trước khi độ ngọ như thế nào? Mỗi buổi sáng đến giờ
đi khất thực, đôi khi Ðức Phật ngự đi khất thực một mình
để tế độ chúng sinh nào đó; đôi khi Ðức Phật cùng với
chư Tỳ khưu Tăng ngự đi vào xóm, thành để khất thực. Khi
Ðức Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh Ðức Phật
thuyết pháp; có số xin quy y Tam bảo thọ trì ngũ giới... có
số xin Ðức Phật cho phép xuất gia xong, Ðức Phật ngự trở
về chùa. b) Phận sự sau khi độ
ngọ như thế nào? Khi Ðức Phật ngự trở
về chùa, rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy
chư Tỳ khưu: "Bhikkhave appamàdena
sampàdetha. "Này chư Tỳ khưu!
Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ
thánh đế, bằng pháp không dễ duôi, tiến hành Tứ niệm xứ. - Ðức Phật xuất
hiện trên thế gian là một điều khó.
Ðó là những điều khó
mà Ðức Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ
nên dễ duôi! Ðức Phật ngự vào cốc
Gandhakuti, còn chư Tỳ khưu mỗi vị, mỗi nơi để tiến hành
thiền định, hoặc tiến hành thiền tuệ. c) Phận sự canh đầu đêm
như thế nào? Canh đầu: Ðức
Phật giáo huấn chư Tỳ khưu, có số hỏi pháp, luật; có số
xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ; có số
nghe pháp. Qua hết canh đầu, chư Tỳ khưu đảnh lễ Ðức Phật
trở về chỗ ở của mình. d) Phận sự canh giữa đêm
như thế nào? Canh giữa: Ðức
Phật cho phép chư thiên, phạm thiên trong 10.000 thế giới đến
hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi
pháp. Ðức Phật giảng giải những câu hỏi của chư thiên,
phạm thiên xong, hết canh giữa, chư thiên, phạm thiên đảnh
lễ Ðức Phật trở về cảnh giới của mình. e) Phận sự canh chót đêm
như thế nào? Ðức Phật phân chia canh
chót làm ba giai đoạn: - Giai đoạn đầu: Ðức
Phật đi kinh hành. Mỗi ngày mỗi đêm Ðức
Thế Tôn hành trọn đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho
đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn. Ân Ðức Bhagavà
còn nhiều ý nghĩa khác. Ðức Thế Tôn là bậc
có trọn đủ các pháp của bậc Tôn Sư. Do đó, Ngài có Ân Ðức
Bhagavà = Ðức Thế Tôn. Niệm Ân Ðức
Bhagavà Người Phật tử thường
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức
Bhagavà" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức
Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng
tâm tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi
mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng. Hành giả tiến hành đề
mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Bhagavà...,
Bhagavà..., Bhagavà...," hoặc câu Ân Ðức Bhagavà: "Itipi
so Bhagavà..., Itipi so Bhagavà..., Itipi so
Bhagavà...", làm đối tượng thiền định. Ðề mục
Ân Ðức Phật này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc vi tế, rộng
lớn vô lượng vô biên, vì vậy định tâm không thể an trú
vào một điểm nào nhất định, nên chỉ có khả năng chứng
đạt đến cận định, mà không thể chứng đạt đến an định,
nên không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào.
Như vậy, cận định tâm vẫn còn thuộc dục giới đại thiện
tâm. (Phần còn lại giống
Ân Ðức Araham). * * * Ðề mục niệm 9 Ân Ðức
Phật là một đề mục thiền định vô cùng sâu sắc, vi tế,
rộng lớn, vô lượng vô biên, vô tận. Do đó, định tâm
không thể an trú một đ?i tượng nào nhất định để đạt
đến an định, nên không thể chứng đắc các bậc thiền
hữu sắc, mà chỉ có thể đạt đến cận định mà
thôi. Tiến hành niệm Ân Ðức
Phật này, hành giả tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Ðức
Phật, có lòng tôn kính sâu sắc nơi Ðức Phật, phát sanh hỉ
lạc, thân tâm an tịnh, làm vắng lặng phiền não; có trí tuệ
sáng suốt, phước thiện tăng trưởng, đặc biệt có thể
tránh khỏi những điều rủi ro tai hại đến sanh mạng, cuộc
sống thường được an lạc. Hành giả thường niệm
Ân Ðức Phật có cảm tưởng như gần gũi với Ðức Phật,
nên tâm luôn luôn có sự hổ thẹn và ghê sợ mọi
tội lỗi, nên giữ gìn giới hạnh trong sạch dễ dàng. Hành
giả có giới hạnh trong sạch, có định tâm thường niệm
tưởng đến Ân Ðức Phật, sau khi chết hy vọng chắc chắn
sẽ tái sanh nơi cõi thiện giới. - Nếu tái sanh làm người
sẽ là người có trí tuệ, có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng
mộ, ở địa vị cao quý. - Nếu tái sanh làm chư
thiên, sẽ là một thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực,
hào quang sáng ngời, hưởng sự an lạc đặc biệt hơn các chư
thiên khác. Hơn thế nữa, tái sanh
kiếp nào, nếu gặp Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ðức Phật
sẽ dễ dàng phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam bảo, lắng
nghe chánh pháp, thực hành theo chánh pháp, dễ dàng chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả
và Niết Bàn, giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi
trong ba giới bốn loài. -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ
kheo Hộ Pháp, Thiền viện Viên Không, Bà Rịa, đã gửi tặng bản
vi tính [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
PL 2546 - TL 2002
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa xặt-tha-đê-voá-má-nút-sa-năng).
2- Biết giữ gìn của cải tài sản.
3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí.
4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng
của mình.
- Không nên hà tiện quá mức.
2- Có giới hạnh trong sạch và trọn đủ.
3- Có sự bố thí trọn đủ.
4- Có trí tuệ trọn đủ.
- Bậc Sa di có 10 Sa di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt,
75 điều học, 14 pháp hành...
- Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể đầy đủ
có 91.805.036.000 điều giới.
- Trí tuệ thấy rõ biết
rõ phiền não ngủ ngầm của mỗi chúng sinh.
iddhiyà yasasà jalam.
Abhikkantena vannena,
sabbà obhàsayam disà".
udake vàrigocaro
Tava dhammam sunantassa,
avadhi vacchapàlako..."
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa
Bút-thô).
- Trí tuệ thành (pativedhanàna).
* Trí tuệ giáo hóa chúng sinh (desanànàna).
- 6 tuệ cá biệt (asàdhàrananàna).
- 10 tuệ lực (dasabalanàna)...
(Cách
đọc: Í-tí-pí-xô
phá-gá-voa).
2- Phận sự sau khi độ ngọ (pacchàbhattakicca).
3- Phận sự canh đầu đêm (pathamayàma).
4- Phận sự canh giữa đêm (majjhimayàma).
5- Phận sự canh chót đêm (pacchimayàma).
Dullabho Buddhuppàdo lokasmim.
Dullabho manussattapatilàbho.
Dullabhà khanasampatti.
Dullabhà pabbajjà
Dullabham saddhammassavanam".
- Ðược sanh làm người là một điều khó.
- Có được cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một
điều khó.
- Ðược xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều
khó.
- Ðược nghe chánh pháp
là một điều khó".
- Giai đoạn giữa: Ðức Phật ngự vào cốc Gandhakuti
nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ trí tuệ biết
mình thức dậy.
- Giai đoạn chót: Ðức Phật nhập đại bi định, khi
xả định quán xét chúng sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật
nhãn tuệ, xem xét chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với
Ngài, đã từng tạo ba la mật từ chư Phật quá khứ đến
kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả, Ngài ngự
đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay xa; ở thế
giới này hay thế giới khác.
(Bình Anson, tháng 04-2002)
updated: 11-05-2002