|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 2
Tại sao phải Thiền
Ðịnh?
Từ những người sơ
cơ cho đến cả những thiền sinh thâm niên vẫn thường có một câu hỏi
cho chính mình về lý tưởng của đời sống thiền định, hay nói rõ
hơn là hầu hết vẫn chưa có một chọn lựa thật sự nghiêm túc cho
nếp sống của mình. Ðể trả lời cho câu hỏi đồng thời cũng là
niềm trăn trở này, vấn đề ở đây đòi hỏi ở chúng ta một hiểu
biết về giá trị thật sự và mục đích của thiền định.
Pháp môn thiền định phải được thực hiện với
lý tưởng là phơi mở những gì vẫn bị khép kín, làm trung hòa tất cả
những xung động và khám phá những gì từ lâu bị chôn vùi. Ðó chính là
lý do của nếp sống thiền định. Chúng ta tu tập thiền định
để phơi mở, làm trung hòa (tự giữ thăng bằng) và khám phá mọi sự.
Mở ra những gì bị khép kín
Trước hết, cái gì ở chúng ta vẫn bị khép kín? Ðó chính là cái bản
chất thật sự của thế giới tâm vật lý trong mỗi người trước cái
nhìn của trí tuệ thiền định. Chúng ta đã tiêu pha quá nhiều thời
giờ cho những vọng niệm vớ vẫn, thay vì cẩn trọng ngắm nhìn từng
vận động của các cảm thức, nói rõ hơn, là của sáu giác quan tâm sinh
lý. Chính vì nội tâm chúng ta luôn bị phóng tán nên xem như cánh cửa
nội quán bị đóng kín. Nhưng bằng vào sự tỉnh thức và chuyên nhất của nội
tâm xuyên qua trợ lực của thiền định, chúng ta sẽ có thể tận dụng
mọi thời gian một cách hiệu quả cho những cảm nghiệm quý giá
về cảnh giới nội tại của mình.
Ngay bây giờ thì chúng ta bắt đầu với tấm thân sinh lý này đã. Bằng
một cách nhìn tỉnh thức, soi rọi, ta hẳn sẽ thấy được rằng mọi vận
động sinh lý của hình hài này, chẳng hạn các nhịp huyết áp cùng
những giao động thần kinh, không hề diễn hoạt thong thả, tự do, thoải mái
nhẹ nhàng tí nào. Chúng luôn đi qua với rất nhiều kích xúc, áp lực. Nói
gọn là những khốn bức thường trực. Có vô số những cơn đau đớn lớn
nhỏ, dưới nhiều trạng thái, mà ta có thể cảm nhận và học cách
xử lý chúng như là đối với những cơn đau cụ thể góp phần quan
trọng cho trí tuệ thiền định. Ðó chính là một trong những cánh
cửa đầu tiên mà chúng ta cần phải mở ra.
Về những cảm giác mà chúng ta vẫn gọi là những đau nhức hay những
cơn khó chịu của sinh lý, ở đây ta có thể tạm thời kể chung vào
hai dạng thức: những đau đớn cụ thể dễ thấy là có phương hại nguy
hiểm cho cơ thể, chẳng hạn như một vết bỏng lửa. Nhưng đó là
thứ khổ cảm quá rõ rệt bởi chúng luôn đi sau một sự cố mang ý nghĩa
tín hiệu mà ta có thể tạm lấy ví dụ là một tàn lửa rồi sau đó là
vết phỏng như đã nói ở trên. Sự tri nhận về những đau đớn đó dù
gì cũng đem lại cho ta đôi chút kinh nghiệm nội quán. Nhưng cái đau đớn
sâu sắc của sinh lý mà đồng thời cũng là đề mục ghi nhận quan
trọng của thiền định trong trường hợp này lại là thứ khổ cảm khác,
tế vi hơn nhiều.
Ta có thể gọi tên chúng là những đau đớn sinh lý nội tại. Ðó
chính là những xung áp, dao động, căng thẳng thường trực mà cũng hết
sức nhỏ nhen luôn xảy ra trong từng phút giây ở mỗi tế bào cùng vi
mạch thần kinh nhưng với một nội tâm loạn động thì ta không thể nhận
biết. Có chịu ngồi yên lại tập trung, huy động toàn bộ khả năng nội
quán thì ta sẽ lập tức nhận diện được chúng. Ðây chính là ngưỡng cửa
bước vào thế giới cảm quan của chúng ta và chính dạng thức khổ cảm
tế vi này mới là đối tượng căn bản thiền định. Ðồng thời ta cũng
phải can đảm hiểu rằng sự khám phá chúng luôn song hành với sự đối
diện chịu đựng chúng. Bởi ở đây, có để ý tới chúng, ta mới
cảm nghiệm được chúng, mà điều này cũng có nghĩa là ta phải chấp
nhận chúng.
Trong công phu này, một vấn đề khác chắc chắn sẽ đến với hành
giả là có cần phải phân biệt dạng thức của từng khổ cảm mà mình vừa
phát hiện, và nếu đó là điều cần thiết thì ta phải làm sao?
Ta có thể xem kinh nghiệm sau đây là lời hướng dẫn: lập tức ghi nhận
một khổ cảm xuất hiện trong oai nghi hiện tại rồi thay đổi ngay tư
thế khác, có thể là Ðứng sang Ngồi, từ Nằm qua Ði, để xem có nó
vì vậy mà chấm dứt hay không. Nếu nhờ vậy mà khổ cảm đó biến mất
thì thôi, ta sẽ dừng lại trong tư thế thích ứng lúc đó. Còn như nó vẫn
tiếp tục kéo dài thì tốt nhất ta nên chuyển đổi oai nguy khác.
Ðể phơi mở và nhận diện cái khổ cảm sinh lý nội tại phát
xuất từ công phu khai phá nó, quả là vô cùng quan trọng. Nó đến và
đi thật bất ngờ, trong mọi oai nguy (tư thế thiền định), cũng như
luôn có vô vàn biến tướng để tiếp tục có mặt thường trực. Vậy
ta phải xử lý nội tâm bản thân mình thế nào khi nó vừa tự lộ
diện? Khổ một nỗi là ở trình độ tâm lực sơ đẳng, thường có một
phải ứng rất tự nhiên là đề kháng, chống chọi. Bởi điều căn
bản là đâu có ai dễ dàng cam tâm đón nhận một đau đớn nào đâu! Mà thái
độ tâm lý đó lại chính là một trở lực, chướng ngại cho công phu khai
mở của chúng ta.
Có rất nhiều hình thức đối kháng tâm lý. Ở đây trước
hết ta phải nói với tâm lý mặc cảm. Khi tự cảm thấy mình có vẻ bất
lực và yếu đuối trước các khổ cảm trong giờ thiền định, ta sẽ dễ
dàng có cảm giác tự ti rồi có thể buồn tủi rằng mình vô duyên,
thiếu thiếu phước chi chi đó. Cuộc tu của chúng ta từ đó rất có khả
năng bị lui sụt.
Hình thái đối kháng thứ hai là sự sợ hãi. Chúng ta thường có khuynh
hướng e sợ những cơn đau đớn, dù ít nhiều. Chỉ riêng chừng đó tình
trạng tâm lý cũng quá đủ để công phu khai mở của chúng ta bị ngăn
ngại rồi. Bởi ta đâu còn nữa cái can đảm nhìn ngắm những gì đang xảy ra
cho mình. Việc cần thiết ở đây là ta tiếp tục ghi nhận rõ tâm
thái đối kháng đó của mình bằng cách nhìn thẳng vào sự sợ hãi rồi nhẹ
nhàng tháo mở nó. Ðôi lúc chỉ riêng nỗi âu lo, sợ đau vớ vẫn thôi
cũng đã là một chướng ngại cho hành giả ngay trước khi những cơn đau khổ
cảm kia chính thức xuất hiện. Suy cho cùng, ta cứ bằng mọi cách chạy
trốn những cơn đau. Ta có thể gọi đây là một thứ hội chứng tâm
lý mà sau đây tôi sẽ kể lại cho các bạn một kinh nghiệm bản thân
để minh họa vấn đề tế nhị này:
- Có lần, tôi sang tu thiền tại Anh Quốc. Sáng sáng, tôi lại đi dùng
điểm tâm và lần nào cũng như lần nào, tôi cứ chọn món ăn căn bản
cho mình là một ít thịt hộp, bánh mì nướng, trái cây với trà. Ngày đầu
tiên, suất ăn của tôi gồm tí thịt hộp, hai miếng bánh mì nướng, một
miếng trái cây nào đó với một tách trà. Và hôm nào cũng thế, tôi
luôn dùng hết suất ăn của mình nhưng lúc nào cũng bỏ lại một miếng
bánh mì nướng, dù luôn lấy đủ hai miếng. Cả một tuần lễ liên tục như
vậy trôi qua, tôi vẫn cứ tiếp tục ăn một trong hai miếng bánh mì
nướng mà mình đã cố ý lấy. Bất chợt nhận ra điều này, một chút
cảm giác tạm gọi là sự lo ngại nảy ra trong đầu tôi: "Chứ phải mình
ăn luôn miếng bánh mì thứ hai có đúng hơn không, cứ kể như mình
còn đói vậy!"
Tôi muốn gọi đó là hội chứng tự kỷ ám thị tiêu cực và phải
nhận rằng chúng ta vẫn thường xuyên có nó trong mình: "Tôi đang đọc
sách nhưng nhức đầu quá, tôi đành xếp lại thôi! Tối nay tôi phải đi
nghỉ sớm vì thế nào ngày mai tôi cũng bị mệt nhiều! ...".
Những âu lo kiểu này luôn là những rào cản cho trí tuệ về thực
tại, và càng không giúp ta thoát được nỗi sợ hãi kia.
Ngoài hai tâm thái đối kháng trên đây, còn có một hình thái tâm lý
đối kháng khác càng khó ghi nhận hơn nhiều, đó là trạng thái vô tâm,
hờ hững, thậm chí vô trách nhiệm đối với thực tại. Nói chung đây chính
là một thái độ tâm lý bỏ ngõ nên sự ghi nhận thực tại, nếu có,
cũng chỉ một cách máy móc, thiếu sinh động và dĩ nhiên chẳng gắn bó
với thực tại, cũng cần có thể nói là lệch lạc với thực tại nữa là
khác. Tâm thái này tất nhiên là nguy hiểm cho thiền định nội quán.
Về lý tưởng khai mở thực tại như đã vừa trình bày, chúng ta coi
như đã tạm thời lướt qua những gì là trở lực cho lý tưởng đó của
thiền định, đây là các tâm thái đối kháng để có thể dễ dàng
nhận diện và đồng thời hãy xem chúng như là những người khách không
tốt thôi, để rồi ta lại hướng về một thái độ tâm lý khác khả
dĩ là nguồn sức mạnh cho công cuộc phơi mở thực tại để công phu
thiền định này của chúng ta ngày một thăng tiến: đó chính là thái
độ trực diện và đơn giản hoá mọi sự. Chẳng hạn thay vì ghi nhận
thực tại bằng cả một chuỗi ý niệm có vẻ quan trọng là
"Lưng tôi đang đau" thì ta chỉ nên lặng lẽ và đơn giản nhận
biết đó là một cảm thọ đang xảy đến một cách khách quan, đừng
để bất cứ một nhận xét nào khác can dự vào. Giữa hai cách xử lý
thực tại này thật ra có một sự khác biệt rất rõ ràng: một bên là bằng
những ý niệm có khả năng tham dự của ngã chấp chủ quan, còn một bên
là chánh niệm khách quan với trợ lực của sự tỉnh thức.
Ðừng để xảy ra một cuộc "nội chiến căng thẳng, ồn ào"
nào trong nội tâm mình qua sự tác động của các tâm thái đối kháng không
cần thiết. Hãy can đảm và tỉnh thức nhận diện cũng như đơn giản
hóa các tình huống thực tại một cách khách quan, không để sự tri nhận
phải thông qua một trung gian nào hết. Ðó chính là tất cả những gì cần
thiết thực sự cho lý tưởng thứ nhất của thiền định: phơi mở
những gì khép kín.
Làm trung hòa thăng bằng các phản ứng xung động
Thế nào là những phản ứng xung động trong trường hợp này? Ở nội
tâm chúng ta luôn có sự hiện diện của chúng: đó là sự song hành,
hội ngộ giữa thương và ghét, buồn với vui, đại khái những cảm giác tương
phản nhau. Chúng làm nên những chao đảo, mất thăng bằng cho thế giới nội
tâm mỗi người, và công việc của người tu tập thiền định chính
là giàn xếp chúng một cách tỉnh thức. Một chánh niệm thường trực sẽ
là trợ thủ đắc lực cho chúng ta trong công phu này. Chánh niệm ở đây là
một sự tri nhận vô tư, không chọn lựa, vô phân biệt đối với thực
tại - như mặt trời, mặt trăng, không hề có một chọn lựa trong sự
phát quang soi rọi của chúng.
Nhưng chúng ta làm sao lại có lại cái tỉnh thức tinh xác đó trong từng
chuỗi cảm nghiệm liên tục về thực tại mà mình vẫn phải từng phút
kinh nghiệm qua? Vấn đề rất đơn giản: hãy xem tất cả như một du khảo
hay tham quan.
Trong cuộc đi đó, ta có thể sẽ đi qua nhiều miền đất lạ với
những núi rừng, biển cả, sa mạc... ở mọi nơi, hãy sống hết mình
với từng địa điểm: đang ở núi hãy quên đi biển cả, đang ở rừng
thì tạm thời đừng nhớ tới sa mạc... Như vậy, chúng ta có thể thưởng
lãm trọn vẹn và thú vị với từng nơi chốn đi qua trong hành trình của
mình. Công phu trung hòa xung động tâm lý cũng là một cuộc đi. Ta từng
bước ra sức nội quán thực tại mà mình được cảm nghiệm trong mỗi
phút giây hiện hữu. Hãy tạm thời coi như không có gì ngoài từng giây
phút nếm trải, nhìn ngắm thực tại bởi lý tưởng của thiền định
luôn nằm trong mục đích thấu thị khách quan cái "đang là".
Có một câu hát đã được ra đời lâu lắm rồi nhưng tôi vẫn muốn nhắc
lại ở đây vì thấy cần thiết: "...Có người bảo cuộc sống là kỳ lạ
và tôi chỉ muốn biết nó mà không hề muốn so sánh cái nào với cái
nào". Vấn đề nằm hết ở đó. Tôi nhắc lại, trong từng phút nội
quán thực tại hãy quên đi mọi thứ ngoài ra mọi buồn vui, khoái cảm
xác thịt hay niềm vui tâm lý... Tất cả chỉ là một phần của cuộc hành
trình tham quán nội tại. Nhưng nắm bắt từng đơn tử, tế bào thực tại
kiểu đó có chắc chắn khả dĩ mở ra cho ta một cánh cửa trí tuệ
về bản chất như nhiên của các pháp không?
Hãy nhớ rằng tinh thần của thiền định không hề là một sự chấp
thủ hay chối bỏ một cách tiêu cực, vô nghĩa, mà là một đối diện tích
cực, tỉnh thức trong từng chớp mắt hiện hữu. Và sự trung hòa hay thái độ
thăng bằng ở đây là nhắm hết vào thực tại: không nắm bắt, bám víu ngu
xuẩn mà cũng không hững hờ buông xuôi. Ở đây, người hành giả từng
phút thẩm thấu mỗi mỗi giai điệu giao hòa, những tiết tấu cộng
hưởng của mỗi phút giây thực tại. Cũng có thể xem công phu thiền
định ở đây là một thính giác thẩm âm tuyệt vời bởi vì chu trình vận
động của các thực tại luôn là một cuộc hợp xướng, hòa tấu vô cùng kỳ
thú. Ta chỉ việc im lặng, tỉnh táo, rồi thư thả lắng nghe. Hãy tận hưởng
từng phút giây thực tại bằng tất cả những an hòa, bình đạm của nội tâm.
Ở đây hoàn toàn không nên có những xung đột, đối kháng, giằng xé,
đôi co căng thẳng nào hết...
Và dù sao đi nữa, để đạt tới niềm tịnh lạc nội tại như trên,
một nổ lực năng động cũng là cần thiết. Ta nổ lực làm gì? Ðó là sự
cố gắng phải để tập trung tâm ý. Nội tâm ta luôn có khuynh hướng
khuếch tán, loạn động nên điều hành được nó chính là điều
tối trọng. Hãy lấy những tiêu chuẩn tâm lý của một người tập đi xe
đạp mà hiểu và thực hiện công phu như vậy. So ra, cuộc tu thiền
định đâu có khác gì hình ảnh đó.
Khám phá những gì bị giấu kín
Ðối tượng của công phu hay lý tưởng thứ ba này trong thiền định
cũng vẫn là thực tại và sự cảm nghiệm về nó. Ðó là sự thật vẫn
bị chôn vùi, giấu kín từ bấy lâu nay qua hình thức ngụy trang của các khái
niệm tập quán. Chúng ta luôn có khuynh hướng đánh rơi thực tại vào hố
thẳm nguy hiểm này, và một trong những tâm điểm của thiền định
là giúp ta thắng được nó để có thể trực tiếp đối diện
thực tại. Giữa thực tại và cái khái niệm tập quán luôn là một vùng
tối. Có ai đó đưa tay lên rồi hỏi ta "Ðây là cái gì?" thì
thường khi câu trả lời của ta sẽ bật ra theo thói quen rằng "Ðó là bàn
tay" dù chưa thật sự nhìn kỹ bàn tay đó ra sao, có cần nắm gì hay
không. Chúng ta gọi đó là bàn tay và cứ vậy cái khái niệm tập quán
lại tiếp tục được nuôi dưỡng.
Nghe một tiếng còi ré lên ngoài đường, ta chỉ đơn giản hình như
tuân theo một quán tính tâm lý đã có sẳn để qui định đó là
tiếng còi của loại xe nào. Nhưng đó có phải là cái mà ta thực sự nghe
được hay không? Chỉ có âm thanh thôi, thưa bạn, đừng gán ghép thêm vào nó
một ý niệm định trị, định danh, định hướng, định hình phân
biệt và giả lập nào hết. Ðừng đánh tráo sự cảm nghiệm trực
tiếp và đơn giản đối với bản chất thực tại bằng một khái niệm tập
quán. Chẳng hạn sau một giờ tọa thiền, lưng và gối của bạn bị đau
nhức. Bạn có thể lập tức ghi nhận rằng "Lưng hay gối của tôi bị đau
nhức" nhưng cái thực tại mà bạn cảm nghiệm được thì chỉ có cái
đau nhức, cảm giác bất an, bất ổn của sinh lý thôi - còn "lưng, gối,
tôi, của tôi" kia là các khái niệm tập quán không cần thiết,
thậm chí nguy hiểm. Bởi thật ra đâu có cái gì trong thực tại là lưng,
gối, cơ bắp...
Tại sao nãy giờ tôi đã nhấn mạnh vấn đề này đến thế? Bởi
vì nó rất quan trọng, sự khu biệt tinh xác được cái cảm nghiệm
thật sự với cái khái niệm tập quán sẽ cho ta biết được hướng đi
của thiền định. Những định danh của chúng ta về mọi vật luôn
giống nhau ở điểm là không có giấu hiệu thay đổi, bởi có thể cả
đời mình chúng ta vẫn cứ gọi một sự vật nào đó bằng một hay vài cái
tên gọi nhất định. Chính sự gắn bó mật thiết giữa các khái niệm
tập quán đối với mọi sự vật qua lối định danh đó sẽ không những gieo
mầm kín đáo cho một vọng tưởng về cái trường tồn (không vô
thường) mà còn có nguy cơ đưa tới một cái Ngã, ngã sở (Tôi, của tôi)
nữa. Và từ đó cái đau đớn hay khoái cảm sẽ không còn được cảm
nghiệm trực tiếp và trung thực nữa, nó sẽ kết bè với một
chuỗi ảo tưởng của khái niệm tập quán: "Lưng tôi bị đau; tôi
nghe khoan khoái cả người..."!
Trong khi đó, nếu bằng một sự ghi nhận như thật ta sẽ thấy mọi thứ
đổi thay một cách nhất định trong thực tại mà ta cảm nghiệm được.
Không có cái gì giữ nguyên được bản chất vận động của mình trong hai giây
đồng hồ cả. Do đó còn bám chắc khái niệm tập quán thì coi như ta vẫn
bị lún sâu trong thế giới ảo tưởng. Thiền định dạy ta tìm ra những
gì bị giấu kín. Mọi thực tại phải được tri nhận trực tiếp thay vì
theo thói quen, ta luôn đồng nhất với cái tôi thông qua một khái niệm tập
quán về hình thức ngoại tại của nó.
Trước hết, thiền định khuyên ta hãy nhìn mọi sự và vạn vật
là luôn thay đổi. Tất cả đều trôi đi trên một dòng chảy liên tục.
Hiểu được đặc tính vô thường của vạn vật theo kiến thức học
hỏi cũng là đáng quí nhưng đó vẫn chưa là thứ trí tuệ sâu sắc bởi
trí tuệ đó chỉ mới từ bên ngoài đưa vào. Thiền định là một quá
trình phơi mở bản chất vô thường của vạn vật và nâng cao trí tuệ cho
ngày một sâu sắc hơn. Tất cả mọi hình danh, sắc tướng thuộc tâm vật
lý thực ra chỉ là từng đơn tử trong một thấy được đặc tính vô
thường trong mỗi thực tại cũng có nghĩa là ta đã thấu thị được bản
chất bất toàn trong mọi hiện tượng để từ đó chấm dứt các ảo
giác mỹ cảm về chúng. Sự bất toàn ở đây còn chỉ cho những đau khổ tâm
sinh lý cho nên cộng thêm trí tuệ về sự vô thường, ta sẽ nhận ra
được cả cái cốt lõi trong sự giác ngộ của Ðức Phật là trí tuệ về
lý vô ngã: không có một cái tôi hay chủ thể, chủ quyền nào
hằng tạo trong qui trình vận động liên tục của các pháp. Ðến đây
thì ta đã tự thăng hoa cuộc tu thiền định của mình bằng một bước đi
tự khái niệm tập quán sang trí tuệ thực nghiệm. Ta đã bỏ lại
toàn bộ những ảo tưởng ngã chấp và tham đắm mù quáng trong các thực tại
để sống tỉnh thức với chính thực tại mà mình vẫn cảm nghiệm trong
mỗi phút giây hiện tại với một thái độ bất cầu, vô chấp.
Nổ lực và cứu cánh
Làm sao có thể thực hiện trọn vẹn tất cả những gì đã trình
bày từ đầu chương này? Cứ xem đây là một câu hỏi cần thiết. Ở
đây, chúng ta có hai nguồn động lực chính yếu cho toàn bộ công phu tu
tập thiền định: Một nổ lực đúng mức và một mục đích hay cứu cánh
chín chắn. Một nổ lực hướng tâm vào thực tại để nội quán. Theo sau hai
tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ là Thất Giác Chi (tỉnh lặng, trí tuệ, bình
đạm...) kể cả lòng từ bi. Chẳng hạn khi chúng ta ngồi lại và lắng tâm
theo dõi hơi thở ra vào ở mũi hoặc ở vùng bụng để chiêm ngắm thực tại
thì coi như tất cả giác quan của chúng ta lúc này tạm thời dành hết cho
đối tượng tri nhận đó và lập tức một chánh niệm được xây dựng
để ta có thể ghi nhận mọi vận động của nó, đồng thời một trí
tuệ sâu sắc về thực tại cũng xuất hiện.
Tất cả những điều này rất cần được thực hiện bằng một tâm thái
nhẹ nhàng, trong sáng, thư thái và nếu được, thì tại một trú xứ lý
tưởng cho không khí trầm tư. Nếu ta tu thiền trong một tâm trạng khiên
cưỡng, thiếu tự nguyện thì chánh niệm lúc đó sẽ bị thay thế
bằng thái độ nhẫn tâm, vô trách nhiệm. Chánh niệm không hề có
sắc thái tiêu cực đó, và đối với thiền sinh sơ cơ thường bị mắc phải
lầm lẫn này. Ta có thể học lại tư thái tu tập thiền định qua
phong cách uống trà của người Nhật Bản: từ bước chân đầu tiên để đi
vào trà thất rồi đến từng động tác ngồi xuống, bày xếp trà cụ, pha
chế, mời mọc, thưởng thức... Tất cả đều được diễn ra trong lặng
lẽ, khoan hòa, điềm đạm tự nguyện và thú vị.
Người ta có thể dành ra một ngày hoặc một buổi cho nghi thức uống trà
đó, sao chúng ta lại không thể có nổi một phong cách tu thiền chỉ với
vài động tác đơn giản, trong khi việc đó lại vô cùng quan trọng,
nhiều ý nghĩa và cần thiết cho mình?
J. G.
Hướng dẫn thực tập
Khái niệm tập quán
và kinh nghiệm thực chứng
Một trong những bước đi yêu cầu của thiền định
chính là khả năng vượt thoát khái niệm tập quán để thành tựu một
trí tuệ thực nghiệm. Ðể bắt đầu một buổi thiền định, ta chỉ
đơn giản dành ra chút thời gian ngồi yên lại, hai tai xếp lên nhau. Nhưng
cái cảm nghiệm theo sau những thao tác đó là gì chứ? Có thể rằng ta
sẽ lưu tâm đến sự xúc chạm nhau của các ngón tay, hoặc một ý tượng
hời hợtvề cái gọi là đôi bàn tay đang yên vị trên bắp chân mình,
hay là một sự tỉnh thức ghi nhận những cảm giác tế nhị như hơi ấm hoặc
sự tiếp xúc. Khi ta có một trực cảm tỉnh thức về các cảm giác thực
tại thì liệu khái niệm định danh về tay chân kia có còn tiếp
tục hiện diện nữa hay không? Hãy cố gắng thực tập bài học này
với đôi mắt nhắm lại chối từ tất cả ngoại cảnh bằng một ít thời gian thẩm
nghiệm, khu biệt các hình thái cảm nghiệm .
Hãy thử khách quan kiểm tra chính mình trong đôi phút. Bạn có tỉnh
thức trong mỗi bước kinh hành của mình hay không? Bạn có gọi tên và
bận tâm đến hình thức vận động của đôi chân mình như là một ảo
tượng? Bạn cảm nhận được cái gì trong từng bước chân? Trong mỗi phút
giây lắng nghe, cảm nghiệm bạn có tự tạo một khái niệm ảnh tượng
nào không? Cái gì đã đưa đến các cảm nghiệm, có phải tự chúng
xuất hiện hay không?
Từ trong giờ thiền định chính thức, cho đến mỗi mỗi sinh
hoạt lớn nhỏ trong đời sống thường nhật, bạn nên tự khu biệt khách quan
cái khái niệm tập quán với cái cảm nghiệm như thật về thực tại.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |