àm thế nào
để đưa cuộc tu của mình vào từng sinh hoạt trong mỗi phút giây đời
sống? Ðó là một câu hỏi vô cùng quan trọng. Nó đòi hỏi ở chúng ta một
sự tỉnh thức được kết hợp nhuần nhuyễn với tất cả khả năng bản thân:
Từ những vận động sinh lý, những sinh hoạt lớn nhỏ, các cảm giác tâm
sinh lý cùng tất cả các mối đối giao quan hệ,... mỗi thứ đều
là những phút giây Thiền Ðịnh cả.
Quyển sách này, thực ra là những ghi chép về các bài giảng
thiền định trong các thiền khóa, nên vấn đề trọng tâm được
đề cập ở đây chính là những bước đầu của quá trình Thiền Ðịnh
hướng nội, những chướng ngại tinh thần, những biện pháp đối đầu với
chúng cùng với những hiểu biết và trí tuệ trong Thiền Ðịnh.
Việc ứng dụng kiên quyết Thiền Ðịnh vào đời sống và từng sinh
hoạt của mình được xem như là một nửa hành trình của con đường Thiền
Ðịnh. Ðể thực hiện đúng mức con đường này, đòi hỏi ta phải có
những tư liệu kinh điển đáng tin cậy, chấp nhận những phép sống và
ứng dụng một cách sinh động Giáo lý của Ðức Phật vào đời sống thường
nhật của mình. Trong bài viết này, chúng ta sẽ bàn đến vấn đề
đó.
Cho dầu việc Thiền Ðịnh trong những giờ tĩnh tọa hay trong từng
hoạt động mang tính cách tu tập khác, chúng ta phải nhớ rằng bất cứ hình
thức tu tập nào cũng đều tuyệt nhiên không phải là những kiểu
cách, nghi thức mang tính mô phỏng, bắt chước ai hết. Dĩ nhiên trong cuộc
tu hành của mình, chúng ta phải biết tôn trọng những luật tắc, nhưng
điều đó không có nghĩa là chúng ta tu tập ở thế bị động, không
thể tự tạo cho mình những bước nhảy vọt tự tập và sáng tạo. Vấn
đề đó thực ra chỉ đòi hỏi ở chúng ta một sự can đảm đúng đắn cộng
với tâm hồn thanh thản. Don Juan cũng đã từng bảo rằng phải có một sự can
đảm của người chiến sĩ, ta mới có thể mạnh dạn dấn bước trên hành
trình tìm đến trí tuệ. Ông cố tình mô tả thế giới này như là
một miền đất huyền bí, khủng khiếp, thậm chí là một chốn ma
thiêng nước độc và khuyên chúng ta phải có một thái độ sống thích nghi
tương ứng để đủ sức hiện diện. Dầu có phải hiện diện
trong một thời gian rất ngắn ở đó, ai cũng phải luôn nghĩ đến vấn
đề thời gian.
Một đời sống tâm linh thật sự không bao giờ cho phép chúng ta hiện hữu
và hoạt động bất ý, vô tâm như một chiếc phi cơ không người lái.
Bằng mọi cách, chúng ta luôn phải có thái độ nghiêm cẩn và tinh thần
trách nhiệm trong đời sống của chính mình bằng tất cả nguồn đạo lực mà
bản thân cho phép. Cuộc tu và lý tưởng giải thoát của chúng ta phải luôn
được giàn trải trên một thái độ thức tinh liên tục và phát triển kịp
thời.
Phải nhận rằng hành trình tu tập không phải luôn dễ dàng như ý ta
muốn, mặc dù thật ra nó rất đơn giản: Ðó chỉ đơn giản là cách học
đối diện với tất cả thực tại vẫn luôn đổi thay trong từng giây phút
ngay trước mắt mình. Một thiếu phụ phương Tây sau nhiều năm tìm sang
Châu Á, bà đã quay về với tư cách và trình độ của một Thiền sư.
Một hôm trong lúc đang rửa chén sau buổi cơm chiều, bà nhìn vào mấy
chiếc đĩa rồi nói về pháp môn Thiền Ðịnh: "Có là lạ lùng
lắm không, khi người ta cứ chọn một bãi cát lún để an trí một món
đồ như là trên mặt phẳng chắc chắn?" Ðó quả là một câu nói hết
sức ý nhị. Chính khả năng mở rộng đôi mắt trong từng phút giây để
nhận diện cái bất toàn của vạn hữu là nguồn cội cho tất cả nguồn Ðạo
lực và sự tự do trong đời sống. Cái khả năng đó cho phép ta đón nhận
mọi sự, đối diện với tất cả để tìm thấy những bài học trong
tất cả thực tại mà tự chúng luôn hiển hiện. Chỉ riêng mỗi phút
giây thực tại, từng tình huống của cuộc sống đều có thể là những
vị thầy cho chúng ta, mang lại cho chúng ta những cơ hội phát triển tình
thương và trí tuệ. Thái độ sống tranh thủ này sẽ luôn giúp ích rất
nhiều cho công phu Thiền Ðịnh của mỗi người: Từ việc duy trì
thời gian Thiền Ðịnh, cho đến những khả năng phơi mở, thăng hoa, tra
vấn và nhìn ngắm. Hãy luôn tự tìm thấy cho mình những bài học qua các
câu tự vấn, điều đó chắc chắn sẽ giúp cho cuộc tu của chúng ta ngày
một nhiều ý nghĩa hơn.
Một nếp sống trọn vẹn phải luôn mang ý nghĩa hồn nhiên, chúng
ta hãy liệm xác tất cả hồi ức quá khứ cùng những toan tính trong tương
lai để sống hết mình với mọi sự đang xảy ra, những thực tại như
thật và đang hiện hữu. Một nếp sống như vậy rất có thể bị xem
là khó chấp nhận, nếu không muốn nói là đáng sợ. Bởi có lẽ ai cũng
thấy rằng một nếp sống chỉ luôn biết đối diện, thiếu đi
những hy vọng cùng kỷ niệm, thì quả là một nếp sống vô cùng
tẻ nhạt, lạnh lẽo, đơn diệu. Nhưng thật ra, cách nghĩ đó sẽ không còn
nữa ở bất cứ giây phút nào chúng ta cảm nghiệm được cái khía cạnh kỳ
thú của trí tuệ về mọi phút giây thực tại ngay trong chính bản
chất của chúng. Ðó là cả một cuộc khám phá cần thiết mà chúng ta phải
thực hiện bằng tất cả niềm vui tự nguyện ngay trong từng giờ
thiền định, từng quan hệ đối giao với thế giới chung quanh, trong
mỗi mỗi tháng ngày. Mà tất cả những thành quả vô giá vẫn trình bày
nảy giờ luôn đòi hỏi ở chúng một sự can đảm như Don Juan đã nói.
Ðến một lúc nào đó, chúng ta sẽ thấy được những dư thừa trong hình
thức Thiền Ðịnh của mình, và chúng sẽ trở nên rõ ràng hơn trong cả lúc
ta chấm dứt Thiền tọa. Chẳng hạn như những khi mới vừa thức dậy,
chúng ta có thấy được mình vẫn thường có những thói quen nào là không
thật sự cần thiết hay không? Hầu hết Thiền sinh sau các Thiền
khóa đều nhận ra rằng mình đã không còn tiếp tục giữ lại được
một nội tâm tĩnh lặng mà trước đó đã phải vất vả thật nhiều để
có được một cách chật vật. Ðối với những giá trị tinh thần thì chúng ta,
chua chát thay, lại rất dễ dàng đánh rơi tất cả. Chẳng hạn khi phải có mặt
trong dòng đời tất bật, từ sự định tâm cho đến phong thái tĩnh lặng,
kể cả khả năng chánh niệm của chúng ta thường có khuynh hướng bị
thất thoát. Những khi đó, tất cả công phu Thiền Ðịnh, chỉ còn là một
mớ ký ức. Bởi thế, đối với những thiền sinh Tây phương, những
người vốn đã từng lăn lộn với nhịp sống máy móc, khi họ đến trình
pháp thì các vị Thiền sư Châu Á thường chỉ khuyên họ một câu thật
đơn giản: "Tốt nhất hãy bỏ đi mọi thứ!".
Trí tuệ Thiền Dịnh không hề võ trang cho chúng ta một kiến
thức tư biện hay một sức mạnh tâm linh huyền hoặc nào đó. Bởi
điều rõ ràng là khi có một sự cố, một thực tại hiển hiện, nó
có thể bỏ mặc chúng ta tự đối diện bằng những cảm nghiệm. Càng
va chạm, tiếp xúc với đời sống thực tế, chúng ta sẽ càng có
nhiều dịp để nhận ra điều này. Ðặc biệt đối với những
Thiền sinh sau khi đã trải qua một thời gian dài của các Thiền khóa
gắt gao, nghiêm khắc thì họ càng thấm thía hơn, để rồi sau đó
thường thì người ta bỏ cuộc.
Hành trình đối đầu thực tại với tất cả những chát chua của Trí tuệ
Thiền Ðịnh như vậy luôn đòi hỏi ở chúng ta rất nhiều nghị lực:
Kiên gan bền chí liên tục cho đến khi nào Trí tuệ Thiền Ðịnh
đem lại cho ta những Thiền Lạc và sự tĩnh lặng của nội tâm thay vì những
vật vã nặng nề. Bởi vì thực ra cái cay đắng không hề là thuộc tính
duy nhất và sau cùng của Trí Tuệ Thiền Ðịnh. Nó còn đưa ta vào một
cảnh giới khác sâu xa hơn, trong sáng và ổn định. Cho đến khi nào sự
phơi mở tâm hồn và đối đầu với thực tại còn là những đắng chát cho
chúng ta, thì như vậy cũng có nghĩa là trong tự đáy lòng chúng ta vẫn còn
có những cái Tôi, của Tôi, những sợ hãi và tổn thương tâm lý. Mà tất
cả những cái này đều được khai sinh từ những hình thái hết sức sâu
kín và tế vi của tham dục. Mặc dù để chấm dứt chúng, dĩ nhiên không
phải là việc dễ dàng, nhưng trong những nỗ lực Thiền Ðịnh của
bản thân, chúng ta hy vọng sẽ có đủ khả năng tỉnh thức để nhận
diện chúng, bắt đầu cho mình những trình độ thấu thị trong sáng hơn,
một khả năng nhìn ngắm mọi sự vô thường một cách dễ dàng hơn.
Thường thì những khái niệm bi quan về đời sống vẫn cứ hiển
hiện ngay trong giờ phút Thiền Ðịnh của chúng ta bởi chúng ta càng
tỉnh thức nhìn ngắm thì chúng càng trở nên hiển hiện rõ ràng hơn.
Và đó chỉ mới nói riêng về những nổi khổ đau ngoại tại của tha nhân.
Còn đối với riêng bản thân chúng ta thì chúng lại càng cụ thể hơn
nhiều. Chẳng hạn như ngay trong những giây phút quan sát đầu tiên thông
qua Trí tuệ Thiền Ðịnh, những tập tính (những hình thái ý thức
mang tính tập quán) sẽ tự hiển lộ cho chúng ta ngắm nhìn chúng một cách
trọn vẹn. Chúng là những âu lo, ham muốn cùng biết bao khía cạnh tâm
lý phức tạp khác mà chúng ta đã cố tình chối bỏ, vẫn cứ luôn chực chờ
để trở lại với chúng ta khi có cơ hội. Ðại khái, chúng cứ như là
những chiếc áo cũ mà mình vẫn thích mặc. Chúng ta phải nhìn nhận rằng
việc chấm dứt các tập tính không cần thiết để tiếp thu những
trình độ tâm linh khác cao cấp hơn, quả là một điều vô cùng khó khăn.
Tuy nhiên, ta cũng phải hiểu thêm rằng đây chính là cơ hội, thậm chí
một lợi khí để chúng ta ứng dụng pháp môn Thiền Ðịnh. Cuộc tu của
chúng ta rất cần đến những hiểu biết và cảm thông thay vì là
những thành kiến, để chúng ta có thể nhìn ngắm vạn sự với một
tình thuơng và khả năng tỉnh thức. Bởi yêu cầu cao nhất của lý tưởng
Phật giáo chính là một sự giải thoát, một sự chính xác cần được khám phá
và thể hiện mà chúng ta phải luôn học cách thực hiện bằng tất
cả chính mình. Nhưng hãy nhớ rằng con đường đó không chỉ đơn giản được
thăng hoa qua số lượng thời gian của các Thiền khóa hoặc một hình thức
Thiền Ðịnh thiếu nội dung. Nó phải là một cuộc dấn thân và đối
diện với tất cả những tập tính vớ vẩn, những âu lo ngu ngơ, những nghi
hoặc nông nổi mà chúng ta cần phải biế vận dụng Chánh niệm một cách
đúng mức để loại trừ tất cả trong đời sống Thiền Ðịnh của mình.
Lần đó, có một vị sư mới tu mà cũng là một tân Thiền sinh tìm
đến gặp Ngài Thiền sư Achaan Chaa (một Thiền sư người Thái trứ
danh) rồi thưa với Ngài đủ thứ chuyện, từ đời sống bản thân cho
đến các bè bạn đồng tu trong tự viện, mà đáng kể nhất là vị
này đã có một nhận xét trực tiếp về Ngài:
- Con thấy hình như Ngài chẳng giúp được gì cho con cả. Con chẳng biết
phải làm sao với những lời hướng dẫn của Ngài. Bữa nay, Ngài nói thế
này, hôm sau Ngài lại nói thế khác. Con nghĩ rằng một người như Ngài,
vẫn được xem là một Thiền sư sở hữu được một trí tuệ khác
người, mà tại sao lúc nào cũng tự mâu thuẫn với mình như vậy?
Ngài Achaan Chaa bật cười rồi giải thích:
- Những hướng dẫn Thiền định của tôi chỉ luôn có một ý nghĩa là
giúp người khác ổn định tâm hồn của mình. Tôi vẫn xem các Thiền sinh ở
đây là những người khách bộ hành đang từng bước dò bước trên những con
đường đầy những sương mù mà tôi là một hướng dẫn viên có chút ít kinh
nghiệm về con đường đó. Tôi thấy ai trong đoàn sắp lạc bước qua
bên phải hoặc bên trái một cách nguy hiểm thì tôi lập tức lên tiếng
cảnh báo. Tất cả chỉ có vậy thôi.
Vấn đề cơ bản của thiền Ðịnh là ổn định hóa thân tâm. Một khi
nhận ra được rằng mình đang ở vào một trường hợp thiếu ổn định nào
đó do sự tác động của các phiền não, đặt biệt là một ham muốn,
thì lập tức buông bỏ nó đi để quay lại chính mình, nhìn ngắm mmọi
thực tại đang diễn ra bằng tất cả sự ổn định nhất. Hãy để mọi sự
trôi qua một cách đơn giản, có gì là rắc rối đâu! Một thái độ tỉnh thức
trong mỗi tình huống đều có thể là một cơ hội để nuôi
dưỡng sự quân bình của nội tâm. Tâm thái quân bình hay ổn định này chính
là trọng điểm của giáo lý Ðức Phật. Trình độ tâm linh này sẽ
dể hiểu hơn nếu ở đây ta gọi nó bằng một cụm hợp từ mà xưa
nay vẫn không xa lạ gì đối với Phật giáo đồ, đó chính là "con đường
Trung Ðạo".
Có một vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta đừng bao giờ
nghĩ đến việc rủ rê hay đồng hóa bất cứ ai đó đi theo con đường
của mình một cách nông nổi bởi điều đó đôi khi bị phản tác dụng: Thay
vì tiếp dẫn được người nhưng rồi chúng ta lại bị chính họ níu
kéo. Không ít những Phật tử đã rơi vào tình trạng đó để rồi đánh
mất chính mình. Ðiều này xem ra giống như việc chúng ta đội trên
đầu mình chiếc bè gỗ thay vì sử dụng nó như một phương tiện đi
lại. Mục đích của Thiền Ðịnh không hề có lý tưởng rủ rê,
đồng hóa hay hứa hẹn một điều gì đó với ai mà chính nếp sống
Thiền Ðịnh, bản thân nó đã là những lời thuyết giáo. Nói gọn
lại, tu tập Thiền Ðịnh là dứt bỏ mọi thứ.
Một nữ Thiền sinh sau khi trở về với gia đình từ tự viện Naropa,
đã có những rắc rối với người thân trong nhà về vấn đề tư tưởng.
Bởi vì gia đình cô ấy vốn là những con chiên Gia Tô giáo chính thống nên
họ đã xem cô ngoài tình máu mủ, là một người xa lạ. Sau một thời gian
đấu tranh với gia đình và tự giải quyết bản thân, cô đã tự chọn ra
một hướng giải quyết thật tuyệt vời để có thể dung hòa với
mọi người trong gia đình, đồng thời giàn xếp mọi tình huống có
liên quan đến vấn đề tư tưởng mà bấy lâu nay đôi bên vẩn khổ
tâm, với tư cách của một người thầy mà chỉ có mỗi một mình cô
biết. Cô đã viết những dòng chữ sau đây như là những lời nhắn gởi
cho tất cả mọi người: "Gia đình chằng ưa gì tôi khi tôi là một
Phật tử, nhưng họ lại vô cùng yêu mến tôi khi tôi là một vị
Phật." Ðúng ra thì chúng ta cũng chẳng cần gì đến cái danh xưng
Phật tử cả, bởi vấn đề duy nhất quan trọng là chúng ta tự biết
khám phá ra một nếp sống hết mình cho tình thương, hiểu biết
và sự thanh thản trong tâm hồn mình, thì điều đó cũng có nghĩa là một
vị Phật đang hiển hiện trong chính tâm hồn chúng ta rồi đó.
Có dịp được đọc trực tiếp các kinh điển nguyên thủy, chúng
ta mới thấy rằng Ðức Phật ngoài những trường hợp hết sức cần thiết,
Ngài thường trình bày giáo lý của mình đơn giản và ngắn gọn mà
nội dung tất yếu dĩ nhiên phải là cô đọng. Lần đó có một vị du sĩ
tìm đến yết kiến Ðức Phật nhưng ông lại gặp Ngài ngay trên
đường khất thực. Vị du sĩ thưa rõ với Ðức Phật mục đích tầm đạo giải
thoát của mình, người mà theo ông, vẫn thường được nghe tôn xưng là một
bậc A-La-Hán Ðạo sư của các vị La Hán khác. Vì đang trong giờ khất thực
(cùng nhiều lý do khác không thể nói hết ở đây), nên Ðức
Phật từ chối cuộc nói chuyện và hẹn ông một dịp khác. Do một tiền
duyên quá khứ, vị du sĩ một mực cầu thỉnh Ðức Phật hãy nói cho ông một
lời thuyết giáo nào đó thật ngắn gọn cũng được. Sau ba lần năn nỉ
của ông, Ðức Phật vẫn với bình bát trên tay, nói với ông một bài kệ
thật ngắn gọn:
"Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là
nếm, đụng chỉ là đụng và suy nghĩ chỉ là suy nghĩ."
Vừa dứt lời, Ðức Phật lặng lẽ tiếp tục con đường khất thực của
mình. Tương truyền rằng, sau khi Ðức Phật đã ra đi không bao lâu, vị du
sĩ nọ đã tìm vào một gốc cây gần đó để trầm tư về những câu
nói ngắn gọn của Ngài khi nảy. Trong thoáng chốc, ông đã trở thành một
bậc A-La-Hán.
Nội dung của Phật giáo là như vậy đó, như thật và đơn giản, khởi
điểm và đích đến nếu cần, chỉ trong một câu nói!
Chân lý vốn luôn đơn giản nhưng chúng ta thường có thói quen làm rắc
rối mọi sự. Tất cả cảm nghiệm của đời sống thực ra chỉ là từng
phút giây tung hứng các ngoại cảnh thực tại mà thôi. Ðó là những sắc,
thinh, khí, vị xúc và tư tưởng. Chỉ đơn giản có vậy. Trong toàn bộ các
cảm nghiệm cùng những đối tượng của chúng hoàn toàn không có một cái
Tôi, cái người nào cả - để chúng ta có thể chán ghét hoặc chấp
thủ. Có thấy được như vậy, nội tâm chúng ta mới được tự do. Hãy tu tập
Thiền Ðịnh bằng một tinh thần đơn giản hóa vạn sự để chúng ta có
thể cắt đứt tất cả những ảo giác chằng chịt phức loạn và nhìn thấy
các pháp một cách rõ ràng và trực tiếp.
Có tất cả bốn hình thức sống đơn giản để giúp ta hiểu biết
và tu tập các pháp một cách như thật và giản dị.
Trước hết là sự đơn giản về sinh lý. Chẳng hạn như trong tư
thế ngồi, dù là để thiền định về bất cứ một đề mục
nào đó thì trước hết ta cũng cần phải tự giàn xếp cho mình được
yên tĩnh, tỉnh táo hơn. Khi nhận ra cảm giác bức xúc ở một bộ phận nào đó
trên cơ thể thì hãy tìm cách giải quyết nó ngay: Ta có thể tạm
thời lưu tâm đến đôi vai, hơi thở, cổ, lưng hoặc các cơ bắp. Trong khi
đang tĩnh tọa như vậy ta hãy tự theo dõi tất cả những cảm giác sinh
lý nào xuất hiện ở nội thân mình, đưa nó vào sự kiểm soát của
khả năng tỉnh thức và thăng bằng của nội tâm. Cứ thế trong mọi hoạt
động lớn nhỏ ta cũng đều luôn tỉnh thức như vậy, tức luôn chú ý
đến mỗi tình trạng sinh lý của mình. Sự tỉnh thức đối với tấm
thân sinh lý cũng giống như một tấm gương giúp ta có thể nhìn thấy
rõ ràng phản ảnh của những gì cần được lưu tâm và cần được bỏ quên.
Sự đơn giản hóa và lưu tâm đến đời sống sinh lý của mình cũng là
những bài học cần thiết, đồng thời là điều kiện đảm bảo
phần nào tình trạng sức khỏe của mỗi người để công phu Thiền
Ðịnh của chúng ta có được có được nhiều hiệu quả hơn. Nói một
cách khác, vấn đề ở đây là hành giả phải luôn biết trân trọng
một cách hợp lý hình hài của mình và lưu tâm đến những gì nó đòi
hỏi, nhưng không vì thế mà đáp ứng những đòi hỏi có phương hại cho
sức khỏe.
Ở đây ta có thể nhắc lại hình ảnh ví dụ vẫn được kinh điển
dùng để diễn tả một tình trạng sinh lý quân bình. Ðó là một cây
đàn mà người biết chơi không bao giờ để dây nó quá chùng hoặc quá
căng. Chúng ta cứ thử nghiệm ở chính mình xem: Với môt sức khỏe tốt thì
mọi khả năng nội tâm sẽ dễ dàng phát triển hơn. Ðồng thời, đối
với các tân Thiền sinh, khi nhận thấy nội tâm mình đã vì tình trạng sinh
lý thế nào đó, mà lại xao lãng tâm điểm chú niệm thì phải
lập tức tỉnh thức nhận diện ngay thực tại này và quay về với nội tại
bằng tất cả khả năng ổn định hóa tâm sinh lý.
Phép đơn giản hóa cuộc tu trong trường hợp thứ hai, chính là sự giàn
xếp các nếp sinh hoạt, nói cụ thể hơn, là hướng hành động. Con
đường này được thực hiện bằng tất cả sự chú niệm. Chỉ có thế
thôi. Ở đây, vấn đề cốt lõi là sự nghiêm trì năm học giới mà
ta đã có dịp biết tới. Ðó là một nếp sống cẩn trọng để
tránh mọi xúc phạm hay bức hại đối với thế giới chung quanh mình bằng
tất cả tình thương. Ta phải học được cách tỉnh thức kịp thời khi nội
tâm mình đang phơi mở hay khép kín để nó luôn được trải rộng. Cũng
giống như một đóa hoa, tân hồn chúng ta luôn có những thời điểm phơi
mở hoặc khép chặt, với một số điều kiện nhất định nào đó. Ta hãy
luôn đặt biệt lưu tâm đến nhưng phút giây này, bởi với những tuần
hoàn bất trắc của nội tâm, vấn đề nghiêm trì ngũ giới chắc chắn không
dễ dàng lắm đâu.
Phép sống đơn giản thứ ba là một sinh phong tự tại, thanh thản. Phép sống
này rất quan trọng nhất là khi ta hiểu được rằng những bận rộn, ràng
buộc, tạp loạn trong đời sống luôn là những trở lực cho niềm tịnh lạc
của chúng ta. Càng ít rối ren tâm lý, đặc biệt là các ham muốn, thì
cuộc sống của chúng ta lại hạnh phúc hơn. Và chính nếp sống đơn giản
mà nhiều ý nghĩa này đã là sinh phong căn bản cho các du sĩ tăng ni
nói chung. Còn đối với hàng tu sĩ tại gia thì nếp sống đơn giản như
vừa nói trên đây không có nghĩa là vất hết các công việc thực sự,
nhưng ta vẩn có thể thực hiện một kiểu sống đơn giản thích hợp
bằng cách loại bỏ những suy nghĩ không thật sự cần thiết với một cái
nhìn ngắm trung thực của bản thân. Nhưng cẩn thận đấy, chúng ta luôn rất dễ
dàng trở thành những cổ máy. Ðừng nắm giữ một cách nông nổi bất cứ thứ
gì trên đời: Bởi kể cả tấm thân này còn không là của chúng ta nữa mà!
Dùng nó như một phương tiện, xử lý và nhìn ngắm nó một cách cẩn
trọng để cuộc sống của chúng ta có nhiều nội dung hơn.
Phép sống đơn giản thứ tư là sự đơn giản từ nội tại, tức một tâm hồn
dung dị, vô tư. Tư tưởng của chúng ta, từ những lập trường kiến giải
hay các suy nghĩ bình thường nhất, cũng đều luôn thay đổi như thời
tiết hay thủy triều. Ðiều mà Trí tuệ Thiền định đòi hỏi
ở chúng ta chính là thái độ đối diện với những thực tại vô thường
đó một cách giản đơn và thông minh. Như đã nói, qui luật vận động và
tồn tại của các pháp luôn vô cùng đơn giản. Mọi thứ luôn đổi thay.
Hành động và tư tưởng hôm nay của mỗi người sẽ tạo ra những thói quen
và điều kiện cho các hành động cùng tư tưởng, nói gọn là hình
thức hiện hữu của chúng ta mai sau. Hôm nay chúng ta có những tác động
thế nào đó đối với thế giới chung quanh thì trong tương lai ta sẽ
nhận lại những hậu quả phản ứng tương xứng. Ðó chính là qui luật
Nghiệp báo: Gieo giống nào thì thu hoạch quả nấy. Sức mạnh của các ham
muốn luôn cho ra những đau khổ đối xứng.
Thiền sư Achaan Chaa thường hỏi các học trò:
- Bữa nay có thấy mình bị chút gì là đau khổ không?
Nếu các thiền sinh trả lời rằng "không có" thì Ngài mỉm
cười. Còn nếu họ thưa là có ít hay nhiều, thì Ngài nói ngay:
- Vậy là bị các ham muốn tấn công rồi đấy! Rồi Ngài lại cũng mỉm cười.
Lòng ham muốn cứ như ánh đèn tín hiệu vậy, nó giúp ta biết được
những đau khổ như là cái giá phải trả. Nhờ nó, ta có thể học được
khả năng dứt bỏ tất cả.
Sống đơn giản, chỉ là biết nhìn thẳng vào những gì đang xảy ra
trước mắt mình. Một vị Thiền sư kia lúc đang hấp hối, đã nhắc nhở
học trò của mình:
- Ðừng để cái cổ của mình, phải gánh lấy cái đầu ngộ nhận và trong
từng giây phút nên lưu tâm đến mỗi bước chân một cách cẩn thận!
Câu nói của Thiền sư đó đã nói hết những gì cần nói, cần nghe
và cần thực hiện. Chúng ta có thể xem cuộc tu của mình là một quá
trình làm thăng hoa các cảm xúc. Nội dung trọng điểm của các học
giới có thể được gọi là thái độ cảm xúc của mình với môi trường
sống chung quanh: Tôn trọng và yêu thương tất cả mọi loài. Thiền
Ðịnh cũng là một nếp sống cảm xúc: Chú hướng và điều chỉnh nội
tâm để lắng nghe cái mà Kabir vẫn gọi là "âm vang từ những
kiềng chân trong từng nhịp đi của các côn trùng". Còn trí tuệ,
nếu cần cũng là những cảm xúc về từng vận động và sự vô thường
liên tục của chính mỗi kinh nghiệm tự bản thân. Tình thương và trí
tuệ chỉ đến từ sự u mặc cùng với một khả năng mẫn cảm của tinh
tế của nội tâm bởi vạn sự, vạn vật trên đời đều có thể dạy
cho ta học lắm điều hay nếu ta tự có được khả năng cảm nhận
từng thứ. Trong mỗi phút giây đi qua, vạn pháp luôn sinh diễn nối đuôi
nhau dưới sự điều hành của các quy luật vận động. Mỗi khoảnh khắc
là một bài học cho ta về định lý vô thường, vô ngã của vạn
pháp. Chỉ cần biết ngồi lại lắng nghe, ta có thể học hỏi được
lắm điều từ những ba động nhỏ nhiệm, tinh tế của thân tâm trong
hình thức các dòng tư tưởng và cảm xúc. Từng vận động, đổi thay của nội
tâm là từng lời mặc khải cho thiền định.
Ta sẽ tìm thấy khuôn mặt thật của đời sống thông qua những công phu khám
phá từng khía cạnh của nó trong từng ngày. Trí tuệ nội quán có thể
được thăng hoa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mọi tình huống tốt xấu
đều khả dĩ góp phần làm sâu sắc trí tuệ cũng như những cảm nhận
tuyệt vời của ta về thực tại.
Một điều hết sức tự nhiên là trên hành trình phơi mở nội tâm,
trước thế giới quanh mình, ta sẽ phải vượt qua rất nhiều rào chắn
chướng ngại. Chúng có thể là những hoài nghi, ác cảm, ham muốn, lười
biếng, hướng ngoại, phóng tán... hay nói gọn hơn thì chính là những
khát vọng và âu lo, toan tính luôn là những ma chướng nguy hiểm cho
ý hướng phơi trải trí tuệ nhưng ta cũng nên nhớ rằng chính các
chướng ngại đó lại đồng thời là phương tiện tối ưu để ta tìm
thấy sự tự do.
Ở đây chúng ta có thể lấy tâm trạng sợ hãi làm hình ảnh ví dụ.
Thoạt đầu mới xuất hiện, nó lập tức ngăn trở khả năng lý trí của
ta. Ta bị đồng hóa với đối tượng bằng một sự quên mình không cưỡng nổi.
Mà trong đời sống, chúng ta thường có lắm cái để sợ: cái ám ảnh
đến từ ngay bên trong nội tâm hay đến từ ngoài cảnh, một tình huống
bất trắc nào đó chẳng hạn. Và chúng ta có một thói quen là cố gắng làm
ngơ để lãng quên nó đi. Nhưng càng cố quên thì cũng có nghĩa là ta
vẫn cứ nhớ tới nó và cảm nghiệm của chúng ta đối với thực tại lúc này
càng tệ hại thêm, thiển cận và nông nổi, bối rối. Nhưng bên cạnh
đó, chính lòng sợ hãi lại là dấu hiệu của một tâm thái trưởng thành.
Nó đưa ta tới một không gian khác mới mẻ hơn, bằng cách nằm giữa để
làm cái trạm trung chuyển cho những gì ta đã biết với cái chưa được
biết. Nó vén cho ta thấy được những thứ quan trọng hơn so với những
gì mà ta vẫn thường cảm nghiệm. Trong cuộc sống này, lẽ tương đối luôn
là một quy luật lạ lùng như vậy đấy: cái khó và cái thiêng không thể
tách rời nhau.
Ðể khám phá được chân lý thì vấn đề là luôn đòi hỏi ở
chúng ta cái can đảm lột trần, phơi mở tất cả khía cạnh sai biệt của
đời sống. Lòng sợ hãi chính là một cơ hội để ta thực hiện
điều đó. Khi bắt đầu một công phu nào đó, ta cứ thường e sợ mắc phải
lỗi lầm nhưng rồi thì sau cùng thì ta sẽ hiểu được rằng tất cả
những gì là vĩ đại, là thành công đều bắt đầu từ lầm lỗi. Ðây
là vấn đề tối trọng mà ta phải ghi nhớ như một bài học xương
máu. Chính một thiền sư lừng danh cũng đã từng tuyên bố: "Ðời sống
là những chuỗi dài của những lỗi lầm".
Chẳng thua gì lòng sợ hãi, những cố chấp và thành kiến cũng là
chướng ngại cho công phu phơi mở nội tâm. Một chi phái Thiền tông khác
đã đặc biệt đề nghị người tu thiền phải biết thơ ngây, một
tâm trạng tâm lý thật hồn nhiên như tinh thần anh nhi trong Ðạo Ðức Kinh
của Lão tử. Chính thái độ vô tư này mới là một liệu pháp hiệu quả
và cần thiết để ta vượt thoát được ngục tù sở tri chướng, một
căn bệnh trầm kha nguy hiểm.
Có lần một số các bà tín nữ Triều Tiên đến viếng một
thiền viện tại Mỹ và mang theo thức ăn cùng bông hoa để cúng
Phật. Có lẽ do không có hoa tươi nên các bà đã mua các nhánh hoa bằng
nhựa. Tất cả đều được đem cắm lên bàn Phật ngay trước mặt đoàn
người hành hương, nhưng rồi sau khi phái đoàn vừa rời khỏi thiền
viện thì các thiền sinh Mỹ đã đem vất hết mấy cành hoa bằng nhựa
đó. Vị thiền sư viện chủ thấy thế đã bảo họ nhặt chúng lên
và đem vào chưng lại ngay ngắn trên bàn Phật. Ngài nói với các thiền
sinh người Mỹ rằng thật ra mấy nhánh hoa kia không phải bằng nhựa mà chính
nội tâm của họ bằng nhựa thì đúng hơn. Bởi theo Ngài thì các thiền
sinh chỉ biết nghĩ tới cái đẹp thông thường mà quên đi tấm lòng tín
thành trong sạch đã được gửi gắm trên các cành hoa bằng nhựa ấy.
Chúng ta ai cũng có thể dễ dàng bị vướng kẹt trong những toan tính,
đề án, phương hướng này nọ của chính mình để từ đó, tầm
nhìn của mỗi người về thực tại càng chật hẹp, tù túng hơn. Chúng ta
không thể nào có được cái nhìn bao quát và trọn vẹn cái toàn cảnh
của một bức tranh khi chỉ biết dán mắt vào một chi tiết nhỏ trên đó.
Chuyện xưa kể rằng có một con chồn rất khôn ngoan kia đã tự
biết đào những chiếc hố để bẫy mồi. Nó thích thú với mấy cái
hố đó lắm, vì chúng là công trình sáng kiến của nó. Thế rồi một
hôm tình cờ có người thợ săn vào rừng làm hố bẫy thú và anh ta đã gài
bẫy ngay trên một cái hố của chú chồn kia. Như thường lệ, chồn vẫn tới
thăm bẫy của mình và lần này thì nó lâm nạn ở chính cái bẩy mà mình đã
đào. Nó đau đớn giãy giụa và đúng ra có thể phá tung cái bẫy tai ác
kia nhưng vì cứ nghĩ tiếc công trình của mình nên phút cuối nó đã bị
người thợ săn tóm lấy. Chúng ta thường khi cũng giống con chồn tinh khôn này
vậy: luôn dễ dàng trở thành nạn nhân cho chính cái thông minh của mình!
Quả là vô ích và buồn cười nếu chúng ta chỉ biết nhắm mắt tuân
theo những lề thói, định kiến đã tự sẳn trong đời sống để rồi
buông xuôi, phó thác tất cả tâm tư, tình cảm của mình theo khuôn thước đó
như một cái máy. Ta phải học được cách thấu suốt và từ bỏ chúng, một
nếp đời tẻ nhạt và chết cứng, bởi mục tiêu của đời sống phải luôn
là một cái nhìn quán triệt và sinh động, tươi tắn, bén nhạy.
Chúng ta rất cần tới khả năng bén nhạy bởi vì có những lúc chính nó
giúp ta quan sát tường tận mọi chi tiết trong từng cảm nghiệm
về thực tại; rồi cũng chính nó đem lại cho ta cái nhìn phơi mở và tỉnh
thức mọi sự. Có lần đó, một đàn thiên nga bay ngang qua thiền thất
của đại sư Suzuki. Nhìn chúng, đại sư nhắc nhở các môn đệ:
- Người ta thường đánh bắt các loài chim trời để về nuôi trong
nhà mình. Mấy con thiên nga này đẹp quá nên ai cũng thích bắt nuôi chúng.
Các ngươi phải tu tập thế nào để thấy được mình với đàn thiên
nga kia là một, bởi trong đời sống, chỉ nhìn thôi vẫn chưa đủ,ta còn phải
biết cảm nhận nữa. Hãy lặng nhìn các loài chim bay đi rồi lắng nghe
tiếng hót, tiếng kêu của chúng bằng một tâm hồn vô phân biệt. Có
thấy chúng với mình chỉ là một thì chúng ta sẽ thấy không cần thiết
để bắt giữ chúng lại, bởi chính mỗi người đã là vạn vật, là toàn
bộ thế giới rồi...
Có buông tay xả bỏ những gì mình vẫn ôm ấp thì chúng ta mới có thể
nhìn thấy các pháp đúng với các bản chất của chúng. Thật ra trong tự bản
chất, không có cái gì là đơn giản hay phức tạp cả mà vấn đề chỉ nằm
ở cách nhìn của chúng ta, trong khi chúng ta lại thường xuyên thiếu tỉnh
thức và chánh niệm. Cái đẹp nhất trên đời này vốn nằm trong chính nội
tâm mỗi người và nó là cái gì đó thật đơn giản. Chúng ta không
thể tìm thấy cái đẹp với một thái độ cưỡng cầu, gán ép, áp đặt
hoặc đi xông xáo lùng sục một cách nông nổi. Trong khi đó, với môt tâm hồn
thật sự bình lặng thì cái gì quanh ta cũng đều là những thứ tuyệt
vời cả, thậm chí đó chỉ là những sự vật thông thường nhất: một bóng nắng
xiên khoai trong chiều tà, một nụ cười nồng ấm, một phong thái mời trà
của ai đó.
Ta sẽ bổng nhiên thấy được nét đẹp tinh khôi và sung mãn của đời sống,
cái gì cũng mới lạ và độc đáo, mỗi khoảnh khắc là một cuộc đời. Rồi
từ đấy ta cũng thấy luôn mỗi mỗi phút giây biến hoại của vạn
hữu. Tất cả khía cạnh sinh diệt của chúng đối với ta lúc này chỉ là
một vòng tuần hoàn hết sức tự nhiên không cần minh chứng nữa.
Trình độ cảm nghiệm thực tại luôn phản ảnh chính xác khả năng tỉnh
thức của chúng ta. Càng bị đa đoan và thiếu độ lượng thì khả năng cảm
nhận của ta càng hạn chế. Rất nhiều học thuật của Á Châu đã
đặt nền tảng trên quan điểm này. Chẳng hạn đối với các nhà danh
họa chuyên vẽ tranh sơn thủy của Trung Hoa. Ðể có được một bức tranh
ra hồn thì họ trước hết phải bỏ ra một thời gian dài tĩnh mặc
để chuẩn bị tư tưởng. Một khi tâm trí các vị đã thật sự hòa nhập
được với đề tài của bức tranh mình muốn vẽ rồi, thì đây chính là
lúc họ bắt tay vào mài mực, cầm cọ và phóng bút với tất cả tâm
hồn.
Ðem được tinh thần trên đây vào đời sống thường nhật quả là tuyệt
vời nhưng ta dĩ nhiên phải thực hiện sao cho hợp lý và thực tế.
Ðể làm được điều đó, ta có thể tạm thời vận dụng một vài
phương pháp tương đối quan trọng sau đây mà ý nghĩa đặc biệt
của chúng là nhắm tới sự tỉnh thức thường trực.
Phương pháp đầu tiên là cố tập luyện tư thế tọa thiền
tức khả năng ngồi lâu, ngồi yên và vững chãi. Ðây là một trong những công
phu quan trọng nhất mà ta có thể thực hiện mỗi ngày. Khả năng
này không chỉ là một thao tác trui rèn nghị lực thiền định mà còn là
một phần nhân cách tối yếu cho người hành giả. Nó cho ta cái thời gian
để im lặng, lắng nghe chính mình và nối kết các giá trị tâm linh
khác của bản thân. Thế giới này, theo một cách nói đặc biệt, chẳng
cần phải thêm cái gì nữa. Cái nó cần chính là sự cắt giảm, sự bớt đi: sự
bớt đi những tham đắm, sự bớt đi những âu lo, hiềm khích, kiêu ngạo.
Từng phút giây tọa thiền là từng thời gian để hành giả gội rửa
nội tâm khỏi khỏi các niềm thống hối trong sự tĩnh lặng, phơi mở chính
lòng mình ra để hiểu biết, đón nhận và tìm thấy sự bằng an cho
tâm hồn. Với một sự khổ luyện đúng mức, tư thế tọa thiền sẽ
giúp ta dễ dàng kiểm soát các hoạt động của mình trong đời sống thường
nhật. Và hãy ngồi với một tinh thần sống vô ngã, chúng ta có thể giao
hòa với tất cả thực tại đi qua lòng mình và như vậy công phu tọa
thiền của chúng ta sẽ là một tặng phẩm cho tất cả tha nhân có ý
nghĩa chân thành nhất.
Hãy cố gắng tọa thiền mỗi ngày hai lần. Quy định này sẽ là
một thời khóa rất tốt để ta sống trọn vẹn với mọi thời gian.
Buổi tọa thiền ban sáng sẽ đem lại cho ta một nhịp dộ sinh hoạt thăng
bằng cũng như khả năng tỉnh thức thường trực trong suốt một ngày. Còn buổi
tọa thiền ban chiều sẽ giúp ta buông thả hết tất cả những gì
nặng nề còn bị tồn đọng sau một ngày cực lòng đối diện với
đời sống, đồng thời cũng giúp ta ổn định được thân tâm cho trở nên yên
tỉnh, thư thái hơn. Nếu khả năng cho phép, hành giả hãy thử ngồi
thiền hai giờ đồng hồ trong một ngày. Còn như không được vậy, thử bắt
đầu thực hiện mỗi buổi tọa thiền khoảng nửa giờ cũng được.
Nói chung, cuộc sống thiền định luôn đòi hỏi chúng ta phải tự biết
đưa ra cho mình một nền nếp căn bản để sống và nương theo đó
như một cẩm nang để cuộc tu khỏi phải rơi vào tình trạng nửa vời!
Chính vì việc tọa thiền là một công phu mang tính trường kỳ và
thực dụng nên ta không thể có một quan niệm cứng nhắc và máy móc
về nó, chẳng hạn một quy định vô lối nào đó. Ta cũng hiểu rằng ai
cũng luôn dễ dàng mắc phải một hay nhiều trở lực trong từng ngày của
đời sống thiền định: một cơn buồn ngủ hay tình trạng bù đầu bởi quá
nhiều bận rộn vẫn luôn đợi sẳn phía trước. Ðầu ngày hay cuối ngày bất
luận, ta dễ dàng bị tình trạng rối tung đầu óc và căng thẳng sinh lý cho
những lo toan vướng vít. Trong tình trạng đó, nếu chỉ xem việc tọa
thiền là một thao tác của thời khóa biểu thì ta sẽ không tài nào xử
lý, giàn xếp nổi nội tâm của mình - đặc biệt là trong một thời
gian dài và phải đối đầu với quá nhiều phức tạp. Công phu tọa
thiền không phải là cái hình thức ép buộc trong từng thiền khóa ngắn
hạn. Nó là cái thời gian để ta thư giản sinh lý và quân bình, ổn
định tâm lý. Bất cứ khi nào cần tới sự tập trung để giàn xếp
nội tâm thì thiền định luôn là liệu pháp cần thiết, và nếu
với một tình trạng sinh lý bất ổn hay một nội tâm rối bời thì dù có
vận dụng một tư thế tọa thiền nào cũng đều là vô hiệu
cả. Ngược lại, trong tình trạng tâm sinh lý bình ổn, chỉ với sự lắng
nghe hơi thở và đón bắt từng cảm nhận của sinh lý ta có thể khám
phá thực tại và tìm thấy mối tương quan thật sự của mọi vận động thân
tâm.
Việc tọa thiền lạ lùng lắm. Có lúc ta thấy nó thật dễ dàng
nhưng cũng có khi lại gây cho ta không ít khó chịu, phiền phức. Chẳng hạn
mới bắt chân vào để ngồi thì dường như bao nhiêu chuyện trên đời
cứ đổ xô về như thác lũ. Trong trường hợp đó, hãy giàn xếp nội
tâm mình đã, đừng nản lòng hay tỏ ra bất lực rồi phí mất một ngày.
Nếu tình trạng này xảy ra vào lúc ta sắp đi ngủ thì cũng vẫn cố gắng
giải quyết nó bằng cách ngồi ngay xuống bên chân giường hoặc một chỗ
thích hợp nào đó trong tối thiểu năm phút. Ðừng bao giờ tự cho phép
mình an lòng, thỏa mãn đã ngồi đủ thời gian tọa thiền trong thời
khóa của một ngày. Ðôi khi ta chỉ cần một hai phút là đã quá đủ rồi,
miễn sao thân tâm được ổn định là được. Ðiều vừa nhắc tới trên
đây là một nhắc nhở quan trọng cho tất cả hành giả.
Ðể việc tọa thiền được thực hiện thuận lợi, việc
cần thiết là ta phải có được một không gian riêng tư thật thích hợp mà
ở đây có thể là một căn phòng hay một góc giường ngủ. Tốt nhất nên
có một tọa cụ hay một chiếc ghế thoải mái để ngồi. Và
nếu cảm thấy cần thiết, ta cũng nên an vị trước mặt mình một pho
tượng hoặc bức ảnh Phật hoặc bất cứ môt thứ trang trí nào đó khả dĩ khơi
gợi cho mình những tư tưởng tích cực. Bên cạnh đó, việc có thêm đôi
ba quyển kinh tâm đắc nhất để đọc lúc cần thiết cũng là một
điều hay, chẳng hạn như giúp ta ôn tập kiến thức Phật pháp và
tiếp sức cho tinh thần thiền định.
Bên cạnh tư thế thiền tọa, tư thế kinh hành cũng thường
trực của hành giả. Trước giờ tọa thiền nên dành ra chút thời gian
để đi kinh hành để ổn định tâm sinh lý, đó là chưa kể
đến những giờ kinh hành đặc biệt trong một ngày. Chúng ta thường mất
nhiều thì giờ cho những vọng tâm ảo tưởng. Có thể nói 90% những
ý nghĩ thường nhật của mỗi người là vô ích, phí phạm, và như vậy
ta chỉ còn lại rất ít những tư tưởng có ý nghĩa. Người hành giả phải
tự biết đình chỉ những gì không thật sự cần thiết. Trong lúc kinh
hành, ta chỉ cần biết "Ði là Ði", cảm nhận nó một cách hết
mình. Thiền định trong tư thế kinh hành rất dễ thực hiện, ở bất
cứ nơi đâu-lúc nào-làm gì, ta cũng có thể tu tập.
Ta đã thiền định trong tư thế ngồi và đi thì cũng có nghĩa là
trong từng bữa ăn, ta vẫn có thể thiền định. Ta ăn uống trong sự tỉnh
thức qua từng thao tác lớn nhỏ trên bàn ăn, tỉnh thức khi ngồi trước những
món ăn quen miệng. Hãy cố gắng ăn uống trong im lặng, một cách thong thả
chậm rãi và chánh niệm. Và nói thật gọi là hãy ăn từng trái táo
với một sự cẩn trọng, chuyên chú mà ta vẫn vận dụng như ta đang đối
diện với toàn bộ đời sống.
Trọng tâm của sự chuyên chú này là trọn vẹn cái đang hiện hữu
và để từ đó ta nắm bắt được bản chất của thực tại xuyên qua từng
vận động của thân tâm. Ở đây vấn đề không phải ở chỗ phân
biệt Ðúng với Sai, mà chỉ đơn giản là một cái nhìn trong sáng và thậm
chí khôi hài nữa là khác. Lần đó, thiền sư Soen-Sa-Nim (Triều Tiên)
vừa ăn sáng vừa đọc kinh (tại trung tâm thiền định Providence, Rhode
Island, Hoa kỳ) như thường lệ và điều này tình cờ đã làm một
thiền sinh thắc mắc khi vẫn thường nghe thấy nhắc nhở rằng làm gì thì
biết nấy, trong khi thiền sư lại cùng lúc làm hai việc: vừa ăn vừa
đọc. Vị thiền sinh bèn đến hỏi, ngài thiền sư trông lên và
mĩm cười:
- Ta vẫn làm đúng như những gì đã dạy cho các con là làm gì biết
nấy. Ta vừa ăn vừa đọc kinh và cũng tự biết mình vừa đọc kinh
vừa ăn!
Chánh niệm có một vai trò rất quan trọng trong đời sống, nó giúp ta
nối kết mối tương giao với mọi người qua sự phát hiện ở họ
những giá trị đức tính. Một hôm, tôn giả Ananda đã thưa với Ðức Phật:
- Bạch Thế Tôn, theo con, một nửa đời sống phạm hạnh được thiết
lập trên tình pháp hữu.
Và Ðức Phật đã trả lời:
- Không phải chỉ là một nữa đâu, Ananda, ta nói rằng toàn bộ đời sống
phạm hạnh được thiết lập trên đạo tình pháp hữu với nhau thông qua sự
khéo tu tập và một đạo lộ toàn thiện.
Thái độ sống hội nhập và san sẻ với tha nhân là một vấn đề vô cùng
quan trọng. Làm sao chúng ta có thể chối bỏ tất cả tương giao trong
đời sống, nhất là trong thế giới hôm nay, một thế giới luôn vang
động những thông điệp kêu gọi về vô vàn vấn đề mà ta không
thể làm ngơ? Một trong những quyền thiêng liêng của tất cả Tăng ni
Phật giáo là được sống với tư cách một thành viên của giáo hội. Trong khi
đó, dù cũng là những Phật giáo đồ nhưng hàng cư sĩ tại gia không có
được cái tạm gọi là ân sủng đặc biệt này. Chính nhờ ý thức
rằng mình đang góp mặt trong một cộng đồng, dù chỉ với những quan hệ
mang ý nghĩa tinh thần, đạo tâm và đạo lực của chúng ta sẽ được cũng
cố. Ý thức đó sẽ được trợ lực cho chúng ta rất nhiều, nhất là những
khi trong cuộc tu có vấn đề. Tóm lại hình ảnh của cộng đồng sẽ luôn
tiếp sức cho chúng ta trong từng bước tu hành.
Từ những vấn đề trên, ta có thể nghĩ tới một hình thức tu tập
mang tính biện pháp cho những lúc cần thiết, đó chính là tọa
thiền tập thể. Nếu không tìm thấy một thiền đường nào, thì
ta vẫn có thể ngồi thiền một mình trong một tập thể Phật giáo đồ
trong giờ phút thích hợp, kể cả trường hợp đó không là những thiền
sinh. Càng gần gũi nhiều với những tâm hồn hướng nội, có chiều sâu
tâm linh thì hành giả càng được tiếp sức một cách hiệu quả.
Và cũng với tinh thần đó, mỗi năm ta nên dành thời gian tham dự các
thiền khóa để có cơ hội được sống yên lặng và nâng cao công phu
thiền định. Phải nói rằng các thiền khóa luôn có ý nghĩa quan
trọng đối với hành giả. Qua đó, ta sẽ có điều kiện sống
tiếp cận, hòa mình với thiên nhiên hơn. Bất luận ở thiền viện hay
nhà riêng, nếp sống im lặng ở thiên nhiên, núi rừng hay đại dương, sẽ
nuôi dưỡng khả năng thiền định của hành giả ngày một tăng tiến
hơn. Cho nên không phải do tình cờ mà hôm nay đột nhiên có rất nhiều
trung tâm thiền định ồ ạt mọc lên khắp nơi trên thế giới. Ðó
là những trú xứ cho ta đi tìm sự yên lặng mà nếp sống yên lặng có giá
trị như thế nào đối với thiền định thì tất cả chúng ta đã rõ.
Trong khi có nhiều người vẫn còn đang cật lực mày mò những hang hốc của
ý thức, mỏi mắt ngóng đợi từng bước tiến của trình độ thiền
định thì ta hãy hiểu rằng chỉ cần sự yên lặng lắng nghe là đã quá
đủ. Chính nó là toàn bộ đời sống thiền định của chúng ta. Chắc chắn
sẽ có lúc chúng ta sẽ nhận ra cái mình cần nhất đời chỉ là một không gian
thật tĩnh lặng để thiền định, để thoát khỏi cái vòng quay lẩn
quẩn của những bận rộn gia đình, những quan hệ vớ vẫn với xã hội, cộng
đồng, tập thể chung quanh. Tức là trong đời sống hướng nội, chúng ta
mỗi lúc chỉ sống hết mình với một vấn đề, một cảnh giới. Nói
vậy cũng gần như là chúng ta luôn phải có một sự khu biệt nếu không
muốn nói là chọn lựa thật kỹ lưỡng con đường mình phải đi, thậm chí
đó là sự chọn lựa tối thiểu giữa các oai nghi (tư thế) thiền
định rồi đằng sau đó là những cẩn trọng cần thiết trong mọi sinh
hoạt và quan hệ thường nhật. Mà để làm được điều này ta
thường chỉ nhận được sự tiếp sức từ các thiền khóa, thời gian
lý tưởng để sống thinh lặng. Từ đó chúng ta mới có thể cầm lấy
chánh niệm bước vào tất cả những ngõ ngách của đời sống một cách an
toàn và ý nghĩa hơn.
Ngoài ra, nếp sống đó còn giúp ta từng bước khám phá đời mình và
thấy được những gì cần được lưu tâm, ý thức. Những cái đó bao gồm
tất cả công việc, vận động sinh lý, quan hệ đối giao và cả khả
năng vị tha, hào sảng của bản thân. Hãy nhớ lại điều chúng ta đã
biết, là tất cả nghịch cảnh khách quan hay nội tại đều luôn có
thể mang ý nghĩa nuôi lớn đời sống tâm linh của mỗi người. Có
điều là ta phải luôn biết đón nhận, xử lý và vận dụng chúng
bằng tất cả sức mạnh của chánh niệm một cách đúng mức, hợp lý y cứ
trên tầm vóc thực tế của chính mình. Tự nhiên, mọi hoạt động lớn
nhỏ của ta từ lúc này sẽ được điều hành và thăng bằng với sự trợ
lực của các giá trị nội tâm như điềm tĩnh, trong sáng, tập trung và
thoải mái. Tuy nhiên ta cũng phải biết rằng nếp sống hướng nội như
trên vừa trình bày không hề không có nghĩa là cắt đứt một cách vô lối
tất cả sinh phong dung dị của một người bình thường. Cho đến cả những
hành giả thâm niên có nhiều sở đạt cũng phải cần tới một trí nhớ tối
thiểu về những dữ kiện mang ý nghĩa nối kết với đời
thường mà mình đã đánh mất một cách tai hại. Chính điều này giúp ta
hạn chế những cách ngăn, giữa đời sống nội tâm với đời sống thực
tế. Cứ mỗi hoạt động đều có thể dạy ta học được những
quy luật của vạn hữu. Chẳng hạn ta có thể học hỏi về từng ước
vọng của bản thân, những kinh nghiệm nếm trải đời sống qua chính
gia đình hoặc bằng cách theo dõi hơi thở và các cảm giác sinh lý. Sự tự
do không giới tuyến và một tình thương vô bờ mà Ðức Phật đã có
được thật ra không phải là điều bất khả đối với chúng ta. Ðôi ba năm
sống thiền hết mình trong những trú xứ thích hợp, chúng ta sẽ ít
nhiều cảm nhận được hai giá trị đó. Ðiều phải nhớ là trong mọi
lúc, đối với chúng ta chỉ có một vấn đề thôi đó là "tại đây và
bây giờ". Chánh niệm sẽ luôn dẫn ta đến không gian và thời gian
đó thôi, những gì luôn vô thường, biến đổi một cách tất định.
Một khía cạnh khác có ý nghĩa giúp ta phơi mở tâm hồn một cách
trọn vẹn đó là sự hàm dưỡng một trái tim hào phóng, độ lượng. Hãy
nghĩ nhiều về tha nhân, từ gần tới xa và bắt đầu học cách ban
phát những gì mình có. Khi lòng hào sảng đã thành ra một phản ứng tâm
lý tự nhiên thì coi như hành giả đã sở hữu được nó rồi. Chúng ta có
thể tự tìm lấy những cơ hội giúp đỡ người khác bằng tất cả khả năng
một cách hợp lý, có thể là của cải hoặc công sức. Hãy luôn đặc
biệt chú ý nội tâm chính mình khi nó bắt đầu có những dấu hiệu
chùn bước hay e ngại trong mối quan hệ mang tính hy sinh này để ta kịp
thời tu chỉnh một cách thích ứng. Dần rồi theo thời gian, hành giả sẽ có
được niềm vui tế nhị trong thái độ sống hào sảng của mình, và
chính điều này sẽ khơi mở, tác động tích cực đến cuộc tu của
chúng ta qua rất nhiều khía cạnh đạo lực khác.
Một căn bản khác cũng là tối yếu cho đời sống thiền định là sự
nghiêm trì ngũ giới, một quy cách sinh hoạt có ý thức. Chỉ riêng công phu
giữ mình theo năm học giới này cũng là phần đóng góp quan trọng cho
khả năng chánh niệm thường nhật. Nghi thức thọ trì ngũ giới rất đơn
giản: có thể là sự phát nguyện trước một ông thầy hay chỉ riêng một
mình tự lập tâm cũng được (Phần vấn đề ngũ giới đã được nhắc tới
trong bài "Tự do trong tự chế" ở trước).
Theo nghi thức truyền thống thì người muốn chấp trì ngũ giới phải
đọc bằng miệng từng câu thệ nguyện cho mỗi điều. Chẳng
hạn như ở điều thứ nhất: "Tôi xin thọ trì học giới bất
sát". Các học giới còn lại cũng thế. Chúng ta hãy học cách
sinh hoạt theo tinh thần của ngũ giới. Vi phạm học giới nào ta cũng tự
biết là mình đã bị lấm nhơ học giới đó rồi phát thệ trở lại
(Xem ở bài vừa nêu). Mỗi học giới là một lời khuyên răn cho ta không
xúc phạm tới chúng sanh khác và nhắc nhở ta một thái độ sống mẫn cảm, độ
lượng hơn. Sức mạnh của năm học giới rất lớn. Nếu toàn thể nhân
loại giữ được giới bất sát và giới không vọng ngữ thì chắc chắn một
phần lớn tình hình toàn cầu sẽ được sửa đổi tốt đẹp nhơn nhiều.
Hãy sống theo tinh thần ngũ giới. Chính điều này là một chuẩn bị
hết sức quan trọng cho đời sống tâm linh. Vi phạm các học giới
cũng có nghĩa là ta đã tự gây trở ngại cho việc tu tập thiền định
của mình. Vì vi phạm học giới nào cũng là một sự xúc phạm đối với tha
nhân, mà đã như vậy thì làm sao ta có thể sống với một tâm hồn thanh
thản, bình yên. Có giữ được ngũ giới một cách sống trong sạch ta mới có
được sự giao hòa nhất định với thế giới xung quanh. Cứ mỗi học
giới bị vi phạm là một ánh đèn tín hiệu báo cho ta biết về tình
trạng nội tâm của mình. Nếu tự biết xét mình một cách nghiêm cẩn, ta
sẽ biết được mình đã bị cái gì tác động xấu và cũng biết cả
cách tự sửa một cách chính xác. Nói gọn lại, hãy trân quý ngũ giới
như một phương tiện tuyệt hảo để sửa đổi bản thân và hoán
chuyển thế giới.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích rao giảng hay trao đổi sở tri của
mình với người khàc. Ðiều đó dĩ nhiên rất tốt nếu đề tài có
nội dung quan hệ giáo lý nhưng vấn đề còn đòi hỏi ta phải
biết chú ý lưu tâm đến hoàn cảnh thực tế nữa. Không phải ở
đâu ta cũng có thể đàm đạo tùy thích. Thật ra chúng ta nào cần
thiết phải khuyến dụ hay kêu gọi đức tin của người khác. Thay vào
đó, ta chỉ nên thích nghi với điều kiện chung quanh và như vậy là ta
đã tạo được cơ hội cho người khác chấp nhận mình. Nói vậy có nghĩa là
chỉ nên nói với ai thật trong lòng muốn lắng nghe ta nói. Ta hãy là một
"Ðức Phật", không nên dừng lại ở vai trò một "người Phật
giáo". Hãy để thái độ sống của mình nói lên Phật pháp tốt hơn là
nói bằng ngôn ngữ chữ nghĩa. Bởi nên nhớ rằng con người ta không chỉ quan
hệ với nhau qua ngôn ngữ mà còn qua sự cảm nhận lặng lẽ từ tâm hồn nữa.
Thiên hạ sẽ học hỏi ở chúng ta những gì chúng ta sống chớ không phải qua
những gì chúng ta nói.
Một hôm có vài thiền sinh đến hỏi một vị đại sư người Tây Tạng
lừng danh rằng họ phải làm sao để có thể hướng dẫn con cái mình
có được một đời sống tâm linh sâu sắc. Vị Lạt Ma này đã trả lời
rằngmỗi người có một duyên nghiệp riêng, các bậc cha mẹ không
thể cưỡng cầu trong việc bắt buộc con mình phải đi theo một hướng
sống nào đó một cách hoàn toàn như ý được. Tuy nhiên tấm gương sống
tình thương và trong sáng của cha mẹ sẽ ít nhiều tác động đến đời
sống tinh thần của con cái. Chúng ta có thể bảo ban lũ trẻ phải biết
thương người nhưng trong khi đó chúng ta lại không làm đúng được những
gì mình vẫn nói thì những lời khuyên răn kia không thể có hiệu quả.
Nói chung, hãy học cách đưa hết tâm tư, ngôn ngữ và hành động của
mình vào thành một, rồi cứ thế phát triển các đức tánh như tình
thương và sự tỉnh thức cho tới khi tất cả những thứ đó trở thành một
nếp sống căn bản thì mọi chuyện trên đời sẽ là những cơ hội
tốt cho ta tu tập: từ tiếng khóc của trẻ con đến những cơn đau nhức
trong giờ tọa thiền hoặc thậm chí đến việc sinh ly tử biệt
cũng thế.
Trong một chuyến sang thăm Hoa Kỳ, đại sư Kalu Rinpoche đã đến một
trại nuôi động vật thủy tộc ở Boston. Người ta để ý thấy cứ
mỗi lần đi ngang qua một chiếc lồng kính thì vị Lạt Ma trứ danh này
đều lấy tay chạm nhẹ vào đó rồi miệng cứ thầm thì câu thần chú
Mật tông: "Án Ma Ni Bát Mê Hồng". Khi được hỏi lý do, Ngài đã
trả lời:
- Tôi chạm tay vào lòng kính và chú tâm cầu nguyện cho các chúng sanh
bị nhốt trong đó được tự do.
Thật là ý nghĩa nếu trong mọi quan hệ đối giao ta đều
có được thái độ bao dung trước tất cả vạn loài. Hãy biết nghĩ về
người bằng trọn vẹn trái tim độ lượng của mình và thật lòng mong mỏi
cho tất cả luôn bình an, chẳng hạn một sự tự do.
Sự cô đơn luôn làm cho cuộc tu của chúng ta trở nên vất vả hơn, nó sẽ
là những hành trang quan trọng cho cuộc hành trình đó. Ta có thể sống
qua các thiền khóa dưới sự hướng dẫn của những thiền sư nhưng rồi
ở đoạn cuối của hành trình này ta vẫn chỉ còn lại một mình để ta làm
thầy cho chính ta và từ giai đoạn tự tu này ta mới có thể khám phá
được cái Phật pháp giải thoát ở chính bản thân mình.
Một vị sư người phương Tây trước khi trở về Mỹ, đã đến nói
chuyện với một vị đại đức già người Anh, vị này vốn là một người
đã từng có nhiều chuyến đi qua lại giữa Châu Âu và Châu Á. Nhà sư
trẻ kia muốn xin được đôi lời nhắc nhở để chuẩn bị cho ngày tháng tu
hành ở phương Tây sau này của mình. Vị đại đức người Anh chỉ nói mấy
câu ngắn gọn:
- Tôi chỉ có thể khuyên sư một điều thôi: Khi đang có mặt tại
một trạm xe buýt, hãy thấy rằng chiếc xe buýt không hề có dính
líu tới mình. Dù có là người đứng đợi xe, sư cũng đừng để mình
phải bận tâm, cực lòng vì nó. Lúc nào cũng có một chuyến xe buýt cho
sư mà!
Không có gì để cho ta phải học tốc, cấp tập, vội vã. Ta phải
biết sống trọn vẹn với từng giây phút thực tại để khám phá
chính mình. Qua nếp sống này, đời sống của ta sẽ được hoán chuyển
tốt đẹp hơn. Và để thực hiện được như vậy, ta phải tự có cái
khả năng đối diện cấp thời mà điều này xem ra không đơn giản tí
nào.
Tỉnh thức, mẫn cảm, can đảm và sáng suốt là những giá trị tinh thần tự
chứng, không thể có được từ một sức mạnh ngoại tại nào cả. Chúng
được thành tựu từ bên trong nội tâm mỗi người, thông qua từng vận
động của bản thân từ ngữ ngôn đến hoạt động. Những pháp tánh đó là
nguồn năng lực chuyển hóa nội dung chúng ta, là những nguồn năng lực
không gì có thể thay đổi được, bởi chúng lúc này đã là bản chất
thật sự của chúng ta rồi.
J. K.