TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 39
APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KÝ SỰ
Tập Một
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
1767. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, trong khi đang đứng ở ngoài trời, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1768. Bậc Đại Ẩn Sĩ giống như là con sư tử đang đi lang thang ở trong rừng, tợ như con cọp chúa không có sự sợ hãi, tợ như giống voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi.
1769. Tôi đã cầm lấy bông hoa sereyya và đã ném lên không trung. Do nhờ năng lực của đức Phật, (các bông hoa ấy) quây quần ở khắp nơi.
1770. Bậc Đại Hùng, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã chú nguyện. Các mái che bằng bông hoa ở xung quanh đã rải rắc ở đấng Nhân Ngưu.
1771. Kế đó, tấm màn bằng bông hoa ấy, có các cuống hoa ở phía trong và các vành hoa bên ngoài, đã trở thành mái che trong bảy ngày và sau đó đã biến mất.
1772. Và sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, tôi đã làm cho tâm tịnh tín ở đức Phật, bậc Thiện Thệ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1773. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1774. (Trước đây) mười lăm ngàn kiếp, hai mươi lăm vị (cùng) tên Cittamālā ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1775. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sereyyaka[1] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sereyyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
1776. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Kukkuṭa. Ở trung tâm của ngọn núi ấy có vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật sinh sống.
1777. Có năm ngàn người học trò luôn luôn vây quanh tôi. Các vị ấy đã là những người (ngủ) thức dậy trước (tôi) và được tự tin vào các chú thuật.
1778. “Hỡi người thầy của chúng con, đức Phật đã hiện khởi ở trên thế gian, xin thầy biết rõ về điều ấy. Đấng Chiến Thắng cao quý có ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ, có vầng hào quang tợ như mặt trời chiếu sáng.”
1779. Sau khi lắng nghe lời nói của những người học trò, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật đã rời khu ẩn cư và hỏi những người học trò phương hướng về khu vực mà đấng Đại Hùng bậc Lãnh Đạo Thế Gian cư ngụ.
1780. Tôi đã lễ bái phương hướng ấy (hướng đến) đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tôi đã tôn vinh đức Như Lai ấy.
1781. “Này các đệ tử, hãy đến. Chúng ta sẽ đi và sẽ diện kiến đức Như Lai. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, chúng ta sẽ lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.”
1782. Tôi đã ra đi một mình và tôi đã lâm bệnh. Trong khi bị hành hạ bởi căn bệnh, tôi đã đi đến nhà nghỉ chân để nằm nghỉ.
1783. Sau khi triệu tập tất cả những người học trò lại, tôi đã hỏi họ về đức Như Lai: “Đức độ của đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc có sự Giác Ngộ tuyệt đối, là như thế nào?”
1784. Được tôi hỏi, các vị ấy đã trả lời theo như đã nhìn thấy. Các vị đã mô tả đức Phật tối thượng ấy một cách kính trọng như Ngài đang ở trước mặt của tôi.
1785. Sau khi lắng nghe lời nói của họ, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng các bông hoa, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1786. Sau khi hỏa táng thi thể của tôi, các vị ấy đã đi đến gặp đức Phật. Họ đã chắp tay lên và đã đảnh lễ bậc Đạo Sư.
1787. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng các bông hoa dành cho đức Thiện Thệ bậc Đại Ẩn Sĩ, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1788. (Trước đây) bốn mươi bốn ngàn kiếp, mười sáu vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Aggisama đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1789. (Trước đây) hai mươi ngàn kiếp, ba mươi tám vị lãnh chúa (cùng) tên Ghatāsana đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
1790. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphathūpiya[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphathūpiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
1791. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, có ba mươi hai hảo tướng dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đang đi ra khỏi khu rừng bao la.
1792. Có ý muốn dâng tặng vật hiến cúng, tôi đây đã chuẩn bị món cơm sữa ở trong cái đĩa kim loại vô cùng quý giá rồi đã đem dâng tặng bậc có năng lực.
1793. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã khéo léo bước lên con đường kinh hành ở bầu trời trên không trung.
1794. Và sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, sau khi đặt chiếc đĩa kim loại xuống tôi đã đảnh lễ (đức Phật) Vipassī.
1795. “Bạch đấng Toàn Tri, Ngài là vị Trời ở (thế gian có cả) chư Thiên cùng nhân loại. Bạch đấng Đại Hiền Trí, vì lòng thương tưởng xin Ngài hãy thọ nhận.”
1796. Biết được ý định của tôi, đức Thế Tôn, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đạo Sư, bậc Đại Hiền Trí ở trên đời đã thọ nhận.
1797. Kể từ khi tôi đã cúng dường vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món cơm sữa.
1798. Trước đây bốn mươi mốt kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Buddha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1799. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pāyāsadāyaka[3] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pāyāsadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
1800. Sau khi ngồi xuống ở nơi cao quý của tòa lâu đài, tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Vipassī, bậc Toàn Tri, người tiêu diệt sự tăm tối, tợ như cây kakudha đang chói sáng.
1801. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian (đang) đi ở không xa tòa lâu đài. Hào quang của Ngài tỏa ra tợ như ánh sáng của mặt trời.
1802. Và tôi đã cầm lấy nước thơm rồi đã rải rắc vào đức Phật tối thượng. Với sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1803. (Kể từ khi) tôi đã rải rắc nước thơm trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1804. Trước đây ba mươi mốt kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sugandha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1805. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhodakiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhodakiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
1806. Trong khi trấn an dân chúng, tôi đã giải thích về điềm báo hiệu khi vị Vipassī đang đản sanh rằng: “Đức Phật sẽ hiện khởi ở thế gian.
1807. Và vị nào trong khi đản sanh mười ngàn thế giới đã rúng động, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1808. Và vị nào trong khi đản sanh đã có nguồn ánh sáng bao la, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1809. Và vị nào trong khi đản sanh các dòng sông đã ngưng chảy, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1810. Và vị nào trong khi đản sanh ngọn lửa ở địa ngục Avīci đã không bốc cháy, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1811. Và vị nào trong khi đản sanh bầy chim đã không bay lượn, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1812. Và vị nào trong khi đản sanh làn gió ngưng thổi, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1813. Và vị nào trong khi đản sanh tất cả châu báu đã rực sáng, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1814. Và vị nào trong khi đản sanh đã có việc bước đi bảy bước chân, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1815. Và ngay khi được sanh ra, bậc Toàn Giác đã chiếu sáng tất cả các phương, Ngài đã thốt lên lời nói hùng tráng; điều này là thông lệ của chư Phật.”
1816. Sau khi làm cho dân chúng động tâm, tôi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, tôi đã ra đi, mặt hướng phía đông.
1817. (Kể từ khi) tôi đã ca ngợi đức Phật trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ca ngợi.
1818. Trước đây 90 kiếp, (tôi đã là) vị tên Sammukhāthavika, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1819. Trước đây 89 kiếp, (tôi đã là) vị tên Paṭhavidundubhī, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1920. Trước đây 88 kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Obhāsa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1821. Trước đây 87 kiếp, (tôi đã là) vị tên Saritacchedana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1822. Trước đây 86 kiếp, (tôi đã là) vị tên Agginibbāpana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1823. Trước đây 85 kiếp, (tôi đã là) vị tên Gatipacchedana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1824. Trước đây 84 kiếp, (tôi đã là) vị vua tên Vātasama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1825. Trước đây 83 kiếp, (tôi đã là) vị tên Ratanapajjala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1826. Trước đây 82 kiếp, (tôi đã là) vị tên Padavikkamana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1827. Trước đây 81 kiếp, (tôi đã là) vị vua tên Vilokana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1828. Trước đây 80 kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Girisāra, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1829. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sammukhāthavika[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sammukhāthavika là phần thứ năm.
--ooOoo--
1830. Tôi đã là vị Bà-la-môn ở thành phố Dhaññavatī về (khoa) tướng mạo, về truyền thống gồm cả văn tự và nghi thức.
1831. Là người thông suốt ba tập Vệ-đà, tôi được rành rẽ về điềm báo hiệu, biết về từ ngữ, về văn phạm, và tôi đã chỉ dạy các học trò về chú thuật.
1832. Có ý muốn dâng tặng vật hiến cúng trong khi đoàn tụ với cha mẹ, tôi đã đặt năm bó sen xanh ở trên chiếc ghế nhỏ.
1833. Khi ấy, đức Thế Tôn Vipassī, đấng Nhân Ngưu, dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đi đến, trong lúc làm cho tất cả các phương rực sáng.
1834. Sau khi sắp xếp chỗ ngồi, tôi đã thỉnh mời bậc Đại Hiền Trí. Sau khi trải ra (các) bông hoa ấy, tôi đã rước (đức Phật) đến ngôi nhà của mình.
1835. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng đến đức Phật phần vật thực đã có sẵn ở trong nhà của tôi.
1836. Biết được thời điểm Ngài đã thọ thực xong, tôi đã dâng cúng bó bông hoa. Đấng Toàn Tri, sau khi nói lời tùy hỷ, đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
1837. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
1838. Vào kiếp kế liền trước đây, tôi đã là đức vua Varadassana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1839. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kusumāsaniya[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kusumāsaniya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
1840. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, tôi sống tại khu ẩn cư ở không xa núi Hi-mã-lạp.
1841. Tôi có vật cúng dường đến ngọn lửa, có các bông sen trắng và trái cây. Sau khi đặt vào trong chiếc giỏ, tôi đã treo lên ở ngọn cây.
1842. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, có ý định tiếp độ tôi, trong khi khất thực Ngài đã đi đến gần tôi.
1843. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng trái cây đến đức Phật. Tôi đã là nguồn sanh lên niềm hạnh phúc, là sự đưa đến an lạc trong thời hiện tại cho chính tôi.
1844. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở trên không trung đã nói lên lời kệ này:
1845. “Do sự dâng cúng trái cây này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
1846. Do nhờ nhân tố trong sạch ấy, tôi đã thọ hưởng sự thành đạt. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
1847. Trước đây bảy trăm kiếp, tôi đã là đức vua Sumaṅgala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1848. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phaladāyaka[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phaladāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
1849. Tôi sống trong vùng đồi núi tại núi Hi-mã-lạp. Sau khi nhìn thấy bãi cát đang chói sáng, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng rằng:
1850. “Về trí tuệ, không có gì so sánh, không có gì đối địch với bậc Đạo Sư. Sau khi biết rõ tất cả các pháp, Ngài đã giải thoát nhờ vào trí tuệ.
1851. Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Không có gì sánh bằng trí tuệ của Ngài cho dầu là trí tuệ hạng nhất.”
1852. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín ở trí tuệ (đức Phật), tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp. Trong những kiếp còn lại, điều tốt lành đã được tôi thực hiện.
1853. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ.
1854. Trước đây bảy mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị độc nhất tên Pulinapupphiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1855. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ñāṇasaññaka[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ñāṇasaññaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
1856. Bậc Toàn Giác Vipassī có màu da vàng chói, bậc xứng đáng sự cúng dường, dẫn đầu các vị Thinh Văn, đã rời khỏi tu viện.
1857. Sau khi nhìn thấy đức Phật tối thượng, đấng Toàn Tri, bậc tiêu diệt sự tăm tối, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường bông hoa có hương thơm.
1858. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã đảnh lễ đức Như Lai lần nữa.
1859. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1860. Trước đây bốn mươi mốt kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Caraṇa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1861. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhapupphiya[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhapupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
1862. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên Gotama được che phủ bởi nhiều loại cây cối khác nhau, là nơi trú ngụ của các nhóm chúng sanh vĩ đại.
1863. Và có khu ẩn cư đã được tạo nên ở trung tâm của ngọn núi ấy. Được vây quanh bởi những học trò của mình, tôi sống tại khu ẩn cư.
1864. “Này các nhóm học trò của ta, hãy mang lại cho ta hoa sen hồng. Chúng ta sẽ thực hiện việc cúng dường đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.”
1865. Các vị ấy đã đáp lại rằng: “Xin vâng,” rồi đã mang lại hoa sen hồng cho tôi. Tại nơi ấy, sau khi xác định đối tượng, tôi đã dâng lên đức Phật.
1866. Khi ấy, tôi đã triệu tập các người học trò lại và đã giáo huấn điều tốt đẹp: “Các ngươi chớ xao lãng, không xao lãng là nguồn đem lại sự an lạc.”
1867. Sau khi đã giáo huấn như vậy cho những người học trò có sự chấp nhận lời dạy bảo ấy, được gắn bó với đức tính không xao lãng, tôi đã mệnh chung vào khi ấy.
1868. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1869. (Trước đây) 51 kiếp, tôi đã là đức vua Jaluttama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padumapūjaka[9] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padumapūjaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị Sereyyaka, vị có ngôi bảo tháp bằng bông hoa, vị (dâng cúng) cơm sữa, vị (rắc) nước thơm, vị ca ngợi, vị có chỗ ngồi, vị (dâng cúng) trái cây, vị suy tưởng, bông hoa có hương thơm, vị có hoa sen hồng; (tổng cộng) có 105 câu kệ đã được thuật lại bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.
Phẩm Sereyyaka là phẩm thứ mười ba.
--ooOoo--
1870. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu thuyết giảng về vị thế Bất Tử đến tập thể dân chúng đông đảo.
1871. Sau khi lắng nghe lời nói của Ngài, tôi đã bật thốt lên lời. Khi ấy, tôi đã chắp tay lên và có sự chăm chú.
1872. “Giống như biển cả là đứng đầu trong số các nguồn nước, núi đá Neru là cao quý trong số các ngọn núi, tương tợ y như thế những người nào vận hành năng lực của tâm những người ấy không đạt được một phần trí tuệ của đức Phật.”
1873. Sau khi qui định đường lối trong Giáo Pháp, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ, đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
1874. “Người nào đã ca ngợi trí tuệ về đức Phật, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, người ấy sẽ không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1875. (Người ấy) sẽ thiêu đốt các phiền não, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh, sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, với tên là Sobhita.”
1876. (Trước đây) năm mươi ngàn kiếp, bảy vị (cùng) tên Yasuggata đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1877. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tam minh đã được thành tựu, tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
1878. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sobhita đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sobhita là phần thứ nhất.
--ooOoo--
1879. Ở bờ sông Vitatthā, cây pilakkha đã được kết trái. Trong khi tìm kiếm giống cây ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1880. Sau khi nhìn thấy cây ketaka đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã cắt ở cuống hoa và đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.
1881. “Bạch đức Phật tối thượng, bạch bậc Đại Hiền Trí, với trí tuệ nào Ngài đã đạt được vị thế trường tồn Bất Tử, con xin cúng dường trí tuệ ấy.”
1882. Sau khi cúng dường trí tuệ, tôi đã nhìn thấy cây pilakkha, tôi đã được chứng đạt tuệ ấy; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1883. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1884. Trước đây mười ba kiếp, mười hai vị (cùng) tên Phaluggata đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1885. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sudassana đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sudassana là phần thứ nhì.
--ooOoo--
1886. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Và tôi đã có thức ăn là bông hoa, tương tợ như vậy có y phục là bông hoa.
1887. Và đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã đi ra ở phía trên chóp đỉnh của khu rừng, tợ như chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
1888. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Tâm của Ngài khéo được thanh tịnh. Ngài có khuôn mặt và ánh mắt an tịnh, có khuôn mặt và các giác quan trong sáng.”
1889. Bậc Trí Tuệ có tuệ bao la đã từ bầu trời bước xuống. Ngài đã trải ra tấm y hai lớp rồi đã ngồi vào tư thế kiết già.
1890. Tôi đã cầm lấy trầm hương hòa tan rồi đã đi đến gần đấng Chiến Thắng. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
1891. Sau khi đảnh lễ đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
1892. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trầm hương (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1893. Trước đây một ngàn bốn trăm kiếp, ba vị (cùng) tên Rohita ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1894. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Candanapūjaka[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Candanapūjaka là phần thứ ba.
(Tụng phẩm thứ tám).
--ooOoo--
1895. Là vị giảng huấn, gắn bó với sự hiến cúng, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật tên Sunanda đã cúng hiến cho lễ hiến cúng.
1896. Khi ấy, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, bậc Cao Cả, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ, trong lúc thương tưởng dân chúng đã đi kinh hành ở trên không trung.
1897. Sau khi đã đi kinh hành, bậc Toàn Giác, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, vị không còn mầm mống tái sanh, đã lan tỏa bằng tâm từ ái đến các chúng sanh một cách không giới hạn.
1898. Sau khi đã cắt các bông hoa ở cuống, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật đã triệu tập lại tất cả các học trò rồi đã thảy (các bông hoa) lên không trung.
1899. Khi ấy, do nhờ năng lực của đức Phật, mái che của các bông hoa đã trải khắp cả thành phố và đã không biến mất trong bảy ngày.
1900. Do nhờ nhân tố trong sạch ấy, tôi đã thọ hưởng sự thành đạt. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi đã vượt qua sự ràng buộc ở thế gian.
1901. (Trước đây) 1100 kiếp, ba mươi lăm vị Sát-đế-lỵ có (cùng) tên Ambaraṃsa đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphachadaniya[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphachadaniya là phần thứ tư.
--ooOoo--
1902. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Vasabha. Ở chân ngọn núi ấy có khu ẩn cư đã được tạo lập.
1903. Khi ấy, là vị Bà-la-môn tôi đã chỉ dạy ba ngàn học trò. Sau khi triệu tập những người học trò ấy lại, tôi đã ngồi xuống ở một bên.
1904. Sau khi ngồi xuống ở một bên, là vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật, trong lúc tầm cầu về sự hiểu biết của đức Phật, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở trí tuệ (của Ngài).
1905. Tại nơi ấy, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, tôi đã ngồi xuống ở tấm thảm bằng lá. Sau khi xếp vào tư thế kiết già, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1906. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ.
1907. (Trước đây) hai mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Siridhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1908. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Rahosaññaka[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Rahosaññaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
1909. (Đức Phật) ngồi ở trong vùng đồi núi tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng, khiến cho tất cả các phương rực sáng tợ như vì sao osadhī.
1910. Đã có ba người thanh niên khéo được học tập về nghề nghiệp của mình cầm lấy túi vật dụng đi theo tôi ở phía sau.
1911. Có bảy bông hoa đã bị rụng xuống ở trong cái giỏ vì sức nóng. Tôi đã cầm lấy các bông hoa ấy và đã dâng lên (hướng tâm đến) trí tuệ của đức Vessabhū.
1912. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1913. Trước đây hai mươi chín kiếp, (tôi đã là) vị tên Vipulābha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1914. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Campakapupphiya[13] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Campakapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
1915. Tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian, bậc có lậu hoặc đã được đoạn tận, vị đã đạt năng lực, đang ngồi ở nơi khoảnh rừng rộng, được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu.
1916. “Một trăm ngàn vị có ba minh, có sáu thắng trí, có đại thần lực quây quanh bậc Toàn Giác, ai là người nhìn thấy mà không tịnh tín?
1917. Ở (thế gian) gồm cả chư Thiên, người có sự tương đương về trí tuệ không tìm thấy, ai là người nhìn thấy bậc Toàn Giác có trí tuệ vô biên mà không tịnh tín?
1918. Và người ta không thể làm tổn hại Pháp Thân đang chiếu sáng (giống như) toàn bộ hầm mỏ châu ngọc, ai là người nhìn thấy (Ngài) mà không tịnh tín?”
1919. Với ba lời kệ này, vị Nārada Saragacchiya đã ngợi ca về đấng Toàn Giác bậc không bị đánh bại Padumuttara.
1920. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm và do sự ngợi ca đức Phật, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1921. Trước đây ba ngàn kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumitta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1922. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Atthasandassaka[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Atthasandassaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
1923. Tên của tôi là Nārada, mọi người biết tôi là (dòng dõi) Kesava. Trong khi tìm hiểu về điều thiện và bất thiện, tôi đã đi đến gần bên đức Phật.
1924. Trong khi an ủi chúng sanh, bậc Đại Hiền Trí Atthadassī, đấng Bi Mẫn có tâm từ ái, bậc Hữu Nhãn ấy thuyết giảng Giáo Pháp.
1925. Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã chắp tay ở đầu. Sau khi đảnh lễ bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía đông.
1926. (Trước đây) một ngàn bảy trăm kiếp, tôi đã là đức vua chúa tể trái đất, là đấng Chuyển Luân Vương tên Amittatāpana có oai lực lớn lao.
1927. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapasādaniya[15] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapasādaniya là phần thứ tám.
--ooOoo--
1928. Lúc bấy giờ, tôi đã là vua của loài thú, là con sư tử đã được sanh ra cao quý. Trong khi tìm kiếm chỗ hiểm trở ở ngọn núi, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1929. “Vị này ắt hẳn là đấng Đại Hùng, người giúp cho đám đông dân chúng được (giải thoát) Niết Bàn. Hay là ta nên hầu cận vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu?”
1930. Sau khi bẻ gãy nhánh cây sālā, tôi đã mang lại bông hoa còn lớp vỏ bọc. Tôi đã đi đến gần bậc Toàn Giác và đã dâng cúng bông hoa tối thượng.
1931. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
1932. Và trước đây vào kiếp thứ chín, ba vị vua tên Virocana đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1933. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sālapupphadāyaka[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sālapupphadāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
1934. Lúc bấy giờ, tôi đã là kẻ đồ tể, là kẻ giết hại các sanh mạng khác. Tôi nằm ngủ ở sườn núi không xa bậc Đạo Sư Sikhī.
1935. Tôi nhìn thấy đức Phật, bậc Lãnh Đạo cao cả của thế gian vào ban đêm và ban ngày. Nhưng vật xứng đáng để dâng cúng đến đấng Chúa Tể của loài người thì tôi không có.
1936. Tôi đã cầm lấy trái cây piyāla và đã đi đến gần đức Phật. Đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã thọ nhận.
1937. Kế từ đó về sau tôi đã theo phục vụ đấng Hướng Đạo. Với sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1938. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
1939. Trước đây mười lăm kiếp, ba vị (tên) Piyālī đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1940. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piyālaphaladāyaka[17] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piyālaphaladāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị Sobhita, vị Sudassana, (vị dâng cúng) trầm hương, (vị dâng cúng) mái che bằng bông hoa, vị suy tưởng về nơi thanh vắng, vị có bông hoa campaka, cùng với vị chỉ dạy về mục đích, vị có một lần tịnh tín, vị dâng cúng bông hoa sālā, và vị dâng cúng trái cây là thứ mười; (tổng cộng) có bảy mươi hai câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Sobhita là phẩm thứ mười bốn.
--ooOoo--
1941. Khi đức Thế Tôn, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī viên tịch đã Niết Bàn, tôi đã cho thực hiện chiếc lọng che ở thượng tầng và đã dâng lên ở ngôi bảo tháp.
1942. Tôi đã nhiều lần đi đến và đã lễ bái ngôi bảo tháp của bậc Đạo Sư. Tôi đã thực hiện mái che bằng bông hoa và tôi đã đặt ở phía trên chiếc lọng che.
1943. Tôi đã cai quản Thiên quốc (trước đây) một ngàn bảy trăm kiếp, tôi không đi đến bản thể loài người; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.
1944. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Atichattiya[18] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Atichattiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
1945. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Nhân Ngưu Dhammadassī đã Niết Bàn, tôi đã dựng lên cột cờ ở ngôi bảo tháp của đức Phật tối thượng.
1946. Sau khi tạo lập cái cầu thang, tôi đã bước lên ngôi bảo tháp tối thượng. Tôi đã cầm lấy bông hoa nhài và đã dâng lên ở ngôi bảo tháp.
1947. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.
1948. Trước đây chín mươi bốn kiếp, mười sáu vị vua (cùng) tên Thūpasikkhara đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1949. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Thambhāropaka[19] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Thambhāropaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
1950. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian bậc Tối Thượng Nhân Piyadassī đã Niết Bàn, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã thực hiện viền rào bằng ngọc trai.
1951. Sau khi cho rải quanh với các viên ngọc ma-ni, tôi đã thực hiện viền rào tuyệt hảo. Sau khi thực hiện lễ hội ở viền rào, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1952. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có các người cầm giữ những viên ngọc ma-ni ở trên không trung; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
1953. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, ba mươi hai vị vua (cùng) tên Maṇippabhā đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1954. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vedikāraka[20] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vedikāraka là phần thứ ba.
--ooOoo--
1955. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Toàn Giác, sau khi phát cháy như là khối lửa, đã viên tịch Niết Bàn.
1956. Và khi bậc Đại Hùng đã Niết Bàn, đã có ngôi bảo tháp rộng rãi. Người người túc trực ngày và đêm ở gian nhà xá-lợi cao quý tối thượng.
1957. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã thực hiện vòng rào chắn bằng gỗ trầm hương. Và khi ấy, có làn khói phù hợp với ngôi bảo tháp được nhìn thấy.
1958. Trong khi được sanh lên ở cõi hữu, dầu ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi không nhìn thấy tôi có sự thua kém; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
1959. Trước đây mười lăm kiếp, đã có tám vị (vua), tất cả các vị ấy có (cùng) tên Samatta, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1960. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saparivāriya[21] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saparivāriya là phần thứ tư.
--ooOoo--
1961. Khi đức Thế Tôn Siddhattha, đấng Bảo Hộ Thế Gian, vị thọ nhận các vật hiến cúng đã Niết Bàn, đã có lễ hội ở ngôi đại bảo tháp.
1962. Trong khi lễ hội dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha đang được tiến hành, tôi đã cầm lấy bông hoa ummā và đã dâng lên ngôi bảo tháp.
1963. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bảo tháp.
1964. Và trước đây vào kiếp thứ chín, tám mươi lăm vị vua (cùng) tên Somadeva đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1965. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ummāpupphiya[22] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ummāpupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
1966. Tôi đã thực hiện vòng rào chắn ở cội Bồ Đề của bậc Hiền Trí Anomadassī. Tôi đã dâng cúng khối vôi bột và đã làm công việc tô trét.
1967. Sau khi nhìn thấy hành động đã được thực hiện khéo léo ấy, đấng Tối Thượng Nhân Anomadassī, bậc Đạo Sư, đứng ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:
1968. “Do việc làm về vôi bột này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) sẽ thọ hưởng sự thành đạt và sẽ chấm dứt khổ đau.”
1969. Tôi có vẻ mặt tịnh tín, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
1970. Trước đây tròn đủ một trăm kiếp không thiếu hụt, (tôi đã là) đức vua tên Sabbaghana, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1971. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Anulepadāyaka[23] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Anulepadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
1972. Bậc Hữu Nhãn vượt qua con sông nhỏ rồi đi vào khu rừng. Tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác Siddhattha có ba mươi hai hảo tướng ấy.
1973. Tôi đã cầm lấy cuốc xẻng và cái giỏ rồi đã san bằng con đường ấy. Tôi đã đảnh lễ bậc Đạo Sư và đã làm cho tâm của mình được tịnh tín.
1974. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng đường đi.
1975. (Trước đây) năm mươi bảy kiếp, tôi đã là vị thống lãnh dân chúng độc nhất với tên Suppabuddha; vị lãnh đạo ấy là chúa tể loài người.
1976. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maggadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maggadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
1977. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ đóng xe thuyền khéo được học tập về nghề mộc. Tôi đã thực hiện tấm ván bằng gỗ trầm hương và đã dâng cúng đến đấng quyến thuộc của thế gian.
1978. Cung điện bằng vàng khéo được hóa hiện ra này chói sáng. Phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển của cõi trời được sẵn sàng.
1979. Các tòa lâu đài luôn cả các kiệu khiêng được sanh lên theo như ước muốn, châu báu của tôi không bị suy suyển; điều này là quả báu của tấm ván gỗ.
1980. (Kể từ khi) tôi đã dâng tấm ván gỗ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm ván gỗ.
1981. Trước đây năm mươi bảy kiếp, bốn vị (cùng) tên Nimmita đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1982. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phalakadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phalakadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
1983. Đấng Tự Chủ bậc không bị đánh bại tên Sumedha, trong khi thực hành hạnh độc cư, đã đi sâu vào khu rừng lớn.
1984. Sau khi nhìn thấy cây salala đã được trổ hoa, tôi đã buộc thành vòng hoa đội đầu. Tôi đã dâng lên đức Phật bằng cách đặt ở trước mặt đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1985. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1986. (Trước đây) một ngàn chín trăm kiếp, mười sáu vị (cùng) tên Nimmita đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1987. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vaṭaṃsakiya[24] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vaṭaṃsakiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
1988. Tôi đã dâng cúng chiếc ghế bành có mái che ở phía trên đến đức Thế Tôn Sumedha, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
1989. Lúc bấy giờ, chiếc ghế bành ấy có đầy đủ bảy loại châu báu luôn luôn sanh lên cho tôi, đúng theo ý định của tôi.
1990. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc ghế bành trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc ghế bành.
1991. (Trước đây) hai chục ngàn kiếp, ba người (cùng) tên Suvaṇṇābha (đã là) các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1992. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pallaṅkadāyaka[25] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pallaṅkadāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Chiếc lọng che, cây cột (đèn), viền rào quanh, vị có nhóm tùy tùng, vị liên quan đến bông hoa umma, vị tô trét, vị dâng cúng đường đi, vị dâng cúng tấm ván gỗ, vị có vòng hoa đội đầu, vị dâng cúng chiếc ghế bành; (tổng cộng) có năm mươi sáu câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Chatta là phẩm thứ mười lăm.
--ooOoo--
1993. (Tôi đã nhìn thấy đức Thế Tôn Sikhī) tợ như mặt trăng không bị bợn nhơ, tinh khiết, trong sạch, không bị loạn động, đã đoạn tận sự vui thích ở hiện hữu, đã vượt qua sự ái luyến ở đời.
1994. Là bậc đã vượt qua, cao quý trong số các đấng đang tiếp độ, Ngài đang giúp cho dân chúng thành tựu Niết Bàn. Ngài đang tham thiền ở trong khu rừng, có sự chăm chú, vô cùng định tĩnh.
1995. Sau khi buộc lại các bông hoa bandhujīvaka bằng sợi chỉ, tôi đã dâng lên đức Phật đấng quyến thuộc của thế gian Sikhī.
1996. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1997. Trước đây vào kiếp thứ bảy, tôi đã là vị chúa tể của loài người có danh vọng vĩ đại tên Samantacakkhu, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1998. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bandhujīvaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bandhujīvaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
1999. Là người bị bận rộn trong việc quán xuyến công việc của người khác, tôi đã làm điều lầm lỗi. Bị xâm chiếm bởi nỗi lo sợ và hốt hoảng, tôi đã trốn chạy đến cuối khu rừng.
2000. Sau khi nhìn thấy giống cây đã được trổ hoa, dính thành từng chùm, khéo léo phô bày, tôi đã ngắt lấy bông hoa màu nâu đỏ và đã rải rắc ở cội cây Bồ Đề.
2001. Sau khi quét dọn cội cây Bồ Đề là giống cây pāṭalī tối thượng ấy, tôi đã xếp chân vào tư thế kiết già và ngồi xuống ở gốc cội cây Bồ Đề.
2002. Trong khi tìm kiếm con đường (tôi) đã đi qua, bọn họ đã đến gần chỗ tôi. Và ở tại nơi ấy, sau khi nhìn thấy bọn họ, tôi đã quan sát cội cây Bồ Đề tối thượng.
2003. Và với tâm ý trong sạch, tôi đã đảnh lễ cội cây Bồ Đề. Tôi đã bị rơi xuống ở hẻm núi đáng kinh sợ có độ sâu bằng nhiều cây thốt nốt.
2004. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội Bồ Đề.
2005. Và trước đây vào kiếp thứ ba, tôi đã là đức vua Susaññata, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2006. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tambapupphiya[26] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tambapupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2007. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian đang đi ra tợ như mặt trời đang mọc, như là mặt trời có tia sáng màu vàng, như là mặt trăng vào ngày rằm.
2008. Đã có tất cả sáu mươi tám ngàn vị Lậu Tận (A-la-hán) đã tháp tùng bậc Toàn Giác, vị Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu.
2009. Với tâm ý trong sạch tôi đã quét dọn con đường ấy, và trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian đang đi ra, tôi đã trương lên lá cờ ở tại nơi ấy.
2010. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên ngọn cờ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng ngọn cờ.
2011. Trước đây vào kiếp thứ tư, tôi đã là vị vua có sức mạnh vĩ đại, được thành tựu về mọi phương diện, được nổi danh là Sudhaja.
2012. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vīthisammajjaka[27] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vīthisammajjaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2013. Trong khi là vị Thiên tử, tôi đã cúng dường đến đấng Lãnh Đạo Sikhī. Tôi đã cầm lấy bông hoa kakkāru và đã dâng lên đức Phật.
2014. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2015. Và trước đây vào kiếp thứ chín, tôi đã là đức vua Sattuttama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2016. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kakkārupūjaka[28] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kakkārupūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2017. Trong khi là vị Thiên tử, tôi đã cúng dường đến đấng Lãnh Đạo Sikhī. Tôi đã cầm lấy bông hoa mandārava và đã dâng lên đức Phật.
2018. Trong bảy ngày, đã có tràng hoa của cõi trời là chiếc lọng che cho đức Như Lai. Tất cả dân chúng đã tụ hội lại và đã lễ bái đức Như Lai.
2019. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2020. Và trước đây vào kiếp thứ mười, tôi đã là đức vua Jutindhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2021. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mandāravapūjaka[29] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mandāravapūjaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2022. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Kukkuṭa. Bảy vị Phật Độc Giác ấy cư ngụ ở chân ngọn núi ấy.
2023. Sau khi nhìn thấy cây kadamba đã được trổ hoa tợ như mặt trăng (vua của các ngọn đèn) đã mọc lên, bằng cả hai tay tôi đã hái và đã rải rắc ở bảy vị Phật.
2024. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2025. Trước đây chín mươi hai kiếp, bảy vị (cùng) tên Puppha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2026. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kadambapupphiya[30] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kadambapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2027. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên Bhūtagaṇa. Ở tại nơi ấy có đấng Chiến Thắng, bậc Tự Chủ, bậc tách ly khỏi thế gian cư ngụ đơn độc.
2028. Tôi đã cầm lấy những bông hoa tiṇasūla và đã dâng lên đức Phật. Tôi không trở thành người bị rơi vào đọa xứ trong chín mươi chín ngàn kiếp.
2029. Trước đây mười một kiếp, tôi đã là vị Dharaṇīruha độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2030. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇasūlaka[31] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇasūlaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2031. (Tôi đã là) vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật tên Suvaccha sống ở trong vùng đồi núi, được tùy tùng bởi các người học trò của mình.
2032. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, có ý định tiếp độ tôi, Ngài đã đi đến khu ẩn cư của tôi.
2033. Ngài (đã) đi kinh hành ở trên không trung, tương tợ như thế Ngài (đã) phun khói, (đã) chói sáng. Sau khi nhận biết sự vui mừng ở tôi, Ngài đã ra đi, mặt hướng phía đông.
2034. Sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, tôi đã cầm lấy bông hoa nāga và đã rải rắc ở con đường (Ngài) đã đi qua.
2035. (Kể từ khi) tôi đã rải rắc bông hoa trước đây một trăm ngàn kiếp, do nhờ sự tịnh tín ấy ở trong tâm tôi đã không đi đến khổ cảnh.
2036. (Trước đây) ba ngàn một trăm kiếp, tôi đã là đức vua Mahāratha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2037. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nāgapupphiya[32] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nāgapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2038. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng rậm, tôi sinh sống, là người thợ săn. Sau khi nhìn thấy cây punnāga đã được trổ hoa, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.
2039. Tôi đã thu nhặt bông hoa xinh đẹp tỏa hương thơm ngào ngạt ấy. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp ở trên cát, tôi đã dâng lên đức Phật.
2040. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2041. (Trước đây) 91 kiếp, tôi đã là vị Tamonuda độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2042. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Punnāgapupphiya[33] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Punnāgapupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2043. Ở không xa núi Hi-mã-lạp đã có hồ nước thiên nhiên rộng lớn, được che phủ bởi các bông sen đỏ và sen xanh, được tràn ngập bởi các bông sen trắng.
2044. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài chim tên gọi kukuttha, có giới hạnh, được thành tựu trí sáng suốt, rành rẽ về phước và tội.
2045. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Đại Hiền Trí đã lai vãng ở không xa hồ nước thiên nhiên.
2046. Tôi đã ngắt hoa súng trắng mọc ở trong nước và đã dâng đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Biết được ý định của tôi, bậc Đại Hiền Trí đã thọ nhận.
2047. Và sau khi đã dâng cúng vật thí ấy, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2048. Trước đây 1600 kiếp, tám vị thống lãnh dân chúng (cùng) tên Varuṇa này đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2049. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kumudadāyaka[34] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kumudadāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị (có hoa) bandhujīvaka, vị có hoa màu nâu đỏ, (vị quét dọn) con đường đi, vị có hoa kakkāru, hoa mandārava, vị có hoa kadamba, vị có hoa tiṇasūla, vị có hoa nāga, hoa punnāga, vị có hoa komuda; (tổng cộng) có năm mươi sáu câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Bandhujīvaka là phẩm thứ mười sáu.
--ooOoo--
2050. Sau khi lìa khỏi khu rừng bao la, vị Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu, bậc Hữu Nhãn tên Paduma đã thuyết giảng Giáo Pháp.
2051. Đã có cuộc hội họp của các Dạ-xoa ở không xa bậc Đại Ẩn Sĩ. Vì công việc ấy, các Dạ-xoa đã đi đến và ngay lập tức đã xem xét.
2052. Nhận biết lời nói của đức Phật và sự thuyết giảng về Bất Tử, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã vỗ tay và đã phục vụ (Ngài).
2053. Quý vị hãy nhìn xem quả báu của việc phục vụ bậc Đạo Sư đã khéo được thực hành, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong ba mươi ngàn kiếp.
2054. Trước đây hai ngàn chín trăm kiếp, (tôi đã là) vị tên Samalaṅkata, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2055. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Supāricariya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Supāricariya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2056. Đức Thế Tôn tên Siddhattha, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, dẫn đầu các vị Thinh Văn, đã bước đi ở trong thành phố.
2057. Tôi đã được vinh dự là người canh gác ở hậu cung của đức vua. Tôi đã đi đến gần tòa lâu đài và đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
2058. Tôi đã cầm lấy bông hoa kaṇavera và đã rải rắc ở Hội Chúng tỳ khưu. Tôi đã thực hiện nhiều lần ở đức Phật, sau đó đã rải rắc nhiều hơn nữa.
2059. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2060. Trước đây tám mươi bảy kiếp, bốn vị (cùng) tên Mahiddhika đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2061. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kaṇaverapupphiya[35] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kaṇaverapupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2062. Trước đây, tôi quả nhiên đã có dâng cúng trái cây đến đức Thế Tôn Tissa. Và tôi đã dâng lên trái dừa được công nhận là vật ăn được.
2063. Sau khi tôi đã dâng cúng trái cây ấy đến đức Phật, bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa, tôi được vui mừng là người đã làm xong việc theo như dự tính, tôi đã được tái sanh theo như ước muốn.
2064. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
2065. Trước đây mười ba kiếp, tôi đã là đức vua Indasama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2066. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Khajjakadāyaka[36] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Khajjakadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2067. Còn về đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, Ngài bay lên bầu trời và di chuyển bằng đường không trung.
2068. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình cúng dường đến bất cứ khu vực nào mà đấng Đạo Sư, bậc Đại Hiền Trí, đã đi đến và đứng lại ở khu vực ấy.
2069. (Kể từ khi) tôi đã nhìn thấy bậc Đại Hiền Trí (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường khu vực (đức Phật đã đứng).
2070. (Trước đây) một ngàn một trăm kiếp, (tôi đã là) vị tên Gosujāta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2071. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Desapūjaka[37] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Desapūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2072. Đấng Toàn Giác Vessabhū, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Hiền Trí đã đi sâu vào khu rừng lớn cho việc nghỉ ngơi giữa ngày.
2073. Khi ấy, tôi đã thu nhặt bông hoa kaṇikāra và đã làm chiếc lọng che. Sau khi thực hiện chiếc lọng che bằng bông hoa, tôi đã dâng lên đức Phật.
2074. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2075. Trước đây hai mươi kiếp, tám vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Soṇṇābha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2076. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kaṇikāracchadaniya[38] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kaṇikāracchadaniya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2077. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tên Phussa, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đấng Anh Hùng, trong khi giúp cho đám đông dân chúng thành tựu Niết Bàn, Ngài (đã) đi ở trên đường.
2078. Theo tuần tự, đức Thế Tôn đã đi đến gần chỗ của tôi. Do đó, tôi đã nhận lấy bình bát và đã dâng cúng bơ lỏng và dầu ăn.
2079. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bơ lỏng trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bơ lỏng.
2080. Trước đây 56 kiếp, tôi đã là vị tên Samodaka độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2081. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sappidāyaka[39] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sappidāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2082. Tôi (đã) di chuyển xuôi dòng ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đấng Tự Chủ ở tại nơi ấy tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa.
2083. Tôi đã cầm lấy bông hoa yūthika và đã đi đến gần bậc Đại Hiền Trí. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
2084. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2085. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, tôi đã là vị tên Samuddhara độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2086. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Yūthikāpupphiya[40] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Yūthikāpupphiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2087. Lúc bấy giờ, tôi đã là người con trai của đức vua ở thành phố Tivarā đáng yêu. Sau khi nhận được tặng phẩm, tôi đã dâng cúng đến bậc An Tịnh.
2088. Đức Thế Tôn đã chấp thuận và đã dùng bàn tay sờ vào tấm vải. Sau khi chấp thuận, (đức Phật) Siddhattha đã bay lên khoảng không ở bầu trời.
2089. Trong khi đức Phật đang đi, các tấm vải đã chạy theo phía sau của Ngài. Tại nơi ấy tôi đã làm cho tâm được tịnh tín; đức Phật là nhân vật cao cả của chúng ta.
2090. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tấm vải trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải.
2091. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, khi ấy tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương, là vị chúa tể của loài người tên Parisuddha, có oai lực lớn lao.
2092. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dussadāyaka[41] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dussadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2093. Ở tại thành phố Bandhumatī, đã có hội chúng cư sĩ đông đảo. Tôi đã là người ưu tú trong số họ, và họ là các cộng sự viên của tôi.
2094. Sau khi tụ tập tất cả bọn họ lại, tôi đã khuyến khích về công việc phước thiện: “Chúng ta sẽ làm tràng hoa dâng đến Hội Chúng là Phước Điền tối thượng.”
2095. Thuận theo mãnh lực của niềm ước muốn của tôi, họ đã đáp lại rằng: “Tốt lắm,” và họ đã hoàn tất tràng hoa ấy. (Tôi đã nói rằng): “Chúng ta hãy dâng đến (đức Phật) Vipassī.”
2096. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tràng hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tràng hoa.
2097. Trước đây năm mươi chín kiếp, tôi đã là vị thống lãnh dân chúng độc nhất tên Ādeyya, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2098. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Samādapaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Samādapaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2099. Đức Thế Tôn tên Tissa đã là bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Hiền trí, vị thiện xảo về việc an trú (thiền quả), đang đi vào hương thất.
2100. Tôi đã cầm lấy tràng hoa có hương thơm ngào ngạt và đã đi đến gần đấng Chiến Thắng. Chính vì không làm ồn đến đấng Toàn Giác, tôi đã dâng cúng một nhúm năm ngón tay (bông hoa).
2101. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên hương thơm trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một nhúm năm ngón tay (bông hoa).
2102. Trước đây bảy mươi hai kiếp, vị vua tên Sayampabha đã là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2103. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pañcaṅguliya[42] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pañcaṅguliya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có sự phục vụ tốt, vị có bông hoa kaṇavera, vị có vật ăn được, vị cúng dường khu vực, bông hoa kaṇikāra, vị dâng cúng bơ lỏng, bông hoa yūthika, vị dâng cúng tấm vải, tràng hoa, và một nhúm năm ngón tay; (tổng cộng) có năm mươi bốn câu kệ.
Phẩm Supāricariya là phẩm thứ mười bảy.
--ooOoo--
2104. Ở núi Hi-mã-lạp đã có hồ nước thiên nhiên rộng lớn. Là loài quỷ sứ đã được sanh ra ở tại nơi ấy, tôi đã có dáng vẻ rùng rợn, có sức mạnh lớn lao.
2105. Bông súng trắng ở tại nơi ấy trổ hoa. Chúng được sanh ra có kích thước bằng bánh xe. Tôi đã thu nhặt bông hoa ấy, và đã có sự gặp gỡ với bậc có Năng Lực vào lúc ấy.
2106. Về đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu, sau khi nhìn thấy bông hoa đã được gom lại, Ngài đã đi đến gần chỗ của tôi.
2107. Và khi bậc Toàn Giác, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đã đi đến gần, tôi đã gặp Ngài; tôi đã cầm lấy bông hoa và đã dâng lên đức Phật.
2108. Khi ấy, hội chúng ấy đã trải dài đến tận cùng núi Hi-mã-lạp. Đức Như Lai đã đi đến, có được đầy đủ mái che cho toàn bộ hội chúng.
2109. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2110. Trước đây mười lăm kiếp, bảy vị thống lãnh dân chúng (cùng) tên Sahassaratha ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2111. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kumudamāliya[43] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kumudamāliya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2112. Tôi đã cho thực hiện cầu thang để bước lên tòa lâu đài của đức Thế Tôn Koṇḍañña, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
2113. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, sau khi thọ hưởng sự thành đạt, tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2114. (Trước đây) ba mươi mốt ngàn kiếp, ba vị vua (cùng) tên Sambahula đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2115. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nisseṇidāyaka[44] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nisseṇidāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2116. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu.
2117. Sau khi nhìn thấy giống cây rattika (nở hoa ban đêm) có chứa dược liệu đã được trổ hoa, tôi đã thu hoạch bông hoa luôn cả cuống và đã dâng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
2118. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
2119. Và trước đây vào kiếp thứ tám, tôi đã là đức vua tên Suppasanna, được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2120. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Rattipupphiya[45] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Rattipupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2121. Tôi đã thực hiện cái giếng dành cho đức Thế Tôn Vipassī. Và khi ấy, sau khi dâng cúng đồ ăn khất thực, tôi đã dâng (cái giếng) đến Ngài.
2122. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái giếng.
2123. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udapānadāyaka[46] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udapānadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2124. Khi bậc Lãnh Đạo Padumuttara, đấng Bảo Hộ Thế Gian đã Niết Bàn, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng bảo tọa sư tử.
2125. Tại nơi ấy, sau khi thực hiện sự cúng dường với nhiều vật thơm và tràng hoa đến Ngài là nguồn đem lại sự an lạc trong thời hiện tại, nhiều người thành tựu Niết Bàn.
2126. Sau khi đảnh lễ cội Bồ Đề tối thượng với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2127. (Trước đây) mười lăm ngàn kiếp, tám vị vua (cùng) tên Siluccaya ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2128. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sīhāsanadāyaka[47] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sīhāsanadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2129. Đức Thế Tôn Anomadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu đã đi kinh hành ở ngoài trời nhằm sự thoải mái (cho cơ thể) trong thời hiện tại.
2130. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ và đã rải rắc bông hoa. Các bông hoa đã rơi ở bàn chân được giở lên và ở trên đỉnh đầu.
2131. Trước đây 20.000 kiếp, năm người (cùng) tên Pupphacchadaniya đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2132. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maggadattika đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maggadattika là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2133. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng một ngọn đèn ở cây salala là cội Bồ Đề tối thượng của bậc Hiền Trí Padumuttara.
2134. Trong khi (tôi) được sanh lên ở cõi hữu, sự tích lũy phước báu đã được sanh theo, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngọn đèn.
2135. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, bốn người (cùng) tên Candābha ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2136. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekadīpiya[48] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekadīpiya là phần thứ bảy.
(Tụng phẩm thứ chín).
--ooOoo--
2137. Có con sông nhỏ đã phát xuất từ phần bên dưới của núi Hi-mã-lạp. Và lúc bấy giờ, bậc Tự Chủ cư ngụ ở phần đất cạnh bờ sông ấy.
2138. Tôi đã cầm lấy chiếc ghế bành làm bằng ngọc ma-ni có màu sắc xinh xắn, đáng yêu. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
2139. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên ngọc ma-ni trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2140. Và trước đây mười hai kiếp, tám vị vua (cùng) tên Sataraṃsi ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2141. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maṇipūjaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maṇipūjaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2142. Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là người thầy thuốc khéo được học tập, là nguồn đem lại sự an lạc cho những bệnh nhân có sự khổ đau.
2143. Sau khi nhìn thấy vị Sa-môn có giới hạnh, vô cùng sáng suốt, bị lâm bệnh. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng thuốc chữa bệnh.
2144. Chính nhờ thế, vị Sa-môn có giác quan thu thúc đã được lành bệnh. Người là vị hầu cận của (đức Phật) Vipassī, có tên là Asoka.
2145. Kể từ khi tôi đã dâng cúng phương thuốc trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của thuốc chữa bệnh.
2146. Và trước đây vào kiếp thứ tám, (tôi đã là) vị tên Sabbosadha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2147. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikicchaka[49] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikicchaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2148. Vào thời kỳ đức Thế Tôn Vessabhū, tôi đã là người phụ việc tu viện. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã phục vụ Hội Chúng tối thượng.
2149. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
2150. Trước đây vào kiếp thứ bảy, chính bảy vị (cùng tên) Samodaka ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2151. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saṅghupaṭṭhāka[50] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saṅghupaṭṭhāka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông súng trắng, rồi vị có cầu thang, giống cây nở hoa về đêm, vị dâng cúng giếng nước, vị có bảo tọa sư tử, vị rải rắc (bông hoa) ở con đường, vị có một ngọn đèn, vị dâng lên ngọc ma-ni, vị y sĩ, vị phục vụ; (tổng cộng) có bốn mươi chín câu kệ.
Phẩm Kumuda là phẩm thứ mười tám.
--ooOoo--
2152. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Toàn Giác có màu da vàng chói tợ như mặt trời đã mọc lên đang quan sát phương hướng trong lúc đang di chuyển ở không trung.
2153. Sau khi nhìn thấy cây kuṭaja đã được trổ hoa, đã được phát tán ngang dọc, tôi đã ngắt lấy (bông hoa) từ trên cây và đã dâng lên (đức Phật) Phussa.
2154. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2155. Trước đây 17 kiếp, bảy vị (cùng tên) Pupphita đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2156. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kuṭajapupphiya[51] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kuṭajapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2157. Đấng Toàn Giác, bậc Tự Chủ tên Siddhattha là vị đã được các bậc có đức hạnh ca ngợi. Được thành tựu về thiền định, Ngài đã ngồi ở trong vùng đồi núi.
2158. Trong khi tìm kiếm bông hoa tối thượng sanh trưởng ở trong nước tại hồ nước thiên nhiên, tôi đã nhìn thấy các bông hoa bandhujīvaka gần kề bên cạnh.
2159. Tôi đã nâng lên (các bông hoa) bằng cả hai tay và đã đi đến gần bậc Đại Hiền Trí. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên (đức Phật) Siddhattha.
2160. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2161. Trước đây 14 kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng, là đấng Chuyển Luân Vương tên Samuddakappa có oai lực lớn lao.
2162. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bandhujīvaka[52] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bandhujīvaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2163. (Tôi đã nhìn thấy đức Phật Sikhī) ngồi ở trong vùng đồi núi tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng, tợ như biển cả không thể đo lường, giống như là quả địa cầu bao la.
2164. Tương tợ như loài bò mộng thuần chủng, Ngài được tôn vinh bởi hội chúng chư Thiên. Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ, tôi đã đi đến gần bậc Tối Thượng Nhân.
2165. Sau khi lấy ra bảy bông hoa đã được che phủ bằng tấm vải mịn, tôi đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.
2166. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2167. Trước đây hai mươi kiếp, tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương độc nhất với tên là Mahānela, có quyền uy vĩ đại, có oai lực lớn lao.
2168. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Koṭumbariya[53] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Koṭumbariya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2169. Đức Thế Tôn tên Tissa, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, đã bước đi ở trên đường lộ, được tháp tùng bởi các vị Thinh Văn.
2170. Năm bó hoa sen và bốn bó nữa đã được tôi cất giữ. Có ý định dâng vật hiến cúng nhằm thành tựu công đức, tôi đã cầm (các bông hoa) lên.
2171. Trong lúc bậc Toàn Giác, đấng Tối Thượng Nhân, bậc có màu da vàng chói, đang đi ở khu phố chợ, được chiếu rọi bởi ánh hào quang của đức Phật, tôi đã cúng dường (bông hoa) đến Ngài
2172. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2173. Trước đây mười ba kiếp, năm vị được gọi tên là Usabha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2174. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pañcahatthiya[54] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pañcahatthiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2175. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Lãnh Đạo Thế Gian tợ như mặt trời đang mọc lên, tợ như mặt trời có tia sáng màu trắng, tợ như cây kakudha đang chói sáng.
2176. Tôi đã nghiền các hạt đậu tây ở trong mật viên tinh khiết. Trong khi đứng ở ngay tại tòa lâu đài, tôi đã dâng cúng đến đấng quyến thuộc của thế gian
2177. Đã hiện diện tám trăm ngàn vị Thinh Văn của đức Phật. Món ấy dầu được tràn đầy bình bát của tất cả các vị, mà vẫn còn nhiều hơn thế nữa.
2178. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2179. Trong bốn mươi ngàn kiếp, ba mươi tám người ấy có (cùng) tên là Isimugga, họ đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2180. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Isimuggadāyaka[55] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Isimuggadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2181. Tôi đã là người sử dụng chiếc trống con ở thành phố Rammavatī. Thường xuyên bận rộn với công việc phục vụ, tôi đã đi đến cội Bồ Đề tối thượng.
2182. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã phục vụ sáng chiều, tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong một ngàn tám trăm kiếp.
2183. Trước đây một ngàn năm trăm kiếp, tôi đã là vị thống lãnh dân chúng tên Muraja, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2184. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bodhi-upaṭṭhāka[56] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bodhi-upaṭṭhāka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2185. Khi vị Thiên nhân mệnh chung từ tập thể chư Thiên do sự chấm dứt của tuổi thọ, chư Thiên đang tùy hỷ thường thốt lên ba lời nói rằng:
2186. “Này bạn, từ nơi đây bạn hãy đi đến nhàn cảnh có sự cộng trú với loài người. Có bản thể nhân loại, bạn hãy đạt được niềm tin tối thượng vào Chánh Pháp.
2187. Mong rằng niềm tin ấy của bạn được tạo lập, được sanh khởi cội rễ, được vững vàng trong Chánh Pháp đã khéo được công bố, và không bị dao động cho đến hết cuộc đời.”
2188. “Bạn hãy làm việc thiện bằng thân, nhiều việc thiện bằng khẩu. Bạn hãy làm việc thiện bằng ý, (là việc) không có khổ đau, không có mầm tái sanh.
2189. Sau đó, hãy làm nhiều việc phước còn có mầm tái sanh ấy bằng sự bố thí. Bạn cũng nên hướng dẫn những người bạn khác vào Chánh Pháp, vào Phạm hạnh.”
2190. Do lòng thương tưởng này, khi biết vị Thiên nhân đang mệnh chung, chư Thiên thường nói lời tùy hỷ rằng: “Hãy trở lại thành phố chư Thiên lần nữa.”
2191. Khi ấy, lúc hội chúng chư Thiên đã hội tụ lại, đã có sự dao động ở tôi rằng: “Bị mệnh chung từ nơi này, ta sẽ đi đến sanh chủng nào?”
2192. Sau khi biết được sự dao động của tôi, vị Sa-môn có các giác quan đã được tu tập ấy, với ý muốn tiếp độ tôi, nên đã đi đến gặp tôi.
2193. Vị Thinh Văn của (đức Phật) Padumuttara tên là Sumana. Khi ấy, vị ấy đã chỉ dạy ý nghĩa và Giáo Pháp, và đã làm cho tôi chấn động.
2194. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật. Sau khi đảnh lễ bậc trí tuệ ấy, tôi đã qua đời ở tại nơi ấy.
2195. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã được sanh ra ở chính tại nơi ấy, tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong 100.000 kiếp.
2196. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekacintika[57] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekacintika là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2197. Trong khi là vị Thiên nhân, tôi đã được các tiên nữ trọng vọng. Tôi đã nhớ lại nghiệp quá khứ, tôi đã nhớ đến đức Phật tối thượng.
2198. Sau khi lấy ra bông hoa tikaṇṇi, tôi đã làm cho tâm của chính mình được tịnh tín và đã dâng lên đức Phật Vipassī, đấng Nhân Ngưu.
2199. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2200. Trước đây 73 kiếp, bốn vị (cùng) tên Ramuttama đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2201. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikaṇṇipupphiya[58] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikaṇṇipupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2202. Lúc bấy giờ, đã xảy âm thanh ầm ĩ ở chư Thiên ở cõi trời Đạo Lợi rằng: “Đức Phật Niết Bàn ở thế gian, và chúng ta vẫn còn tham ái.”
2203. Chư Thiên ấy đã bị khơi dậy bởi nỗi niềm chấn động, đã bị chiếm hữu bởi mũi tên sầu muộn. Được hỗ trợ bằng năng lực của chính mình, tôi đã đi đến gần bên đức Phật.
2204. Tôi đã cầm lấy bông hoa mandārava mềm mại đã được hóa hiện ra, tôi đã dâng lên đức Phật vào thời điểm viên tịch Niết Bàn.
2205. Khi ấy, tất cả chư Thiên và các tiên nữ đã tùy hỷ với tôi. Tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2206. Trước đây sáu mươi ngàn kiếp, mười sáu người (cùng) tên Mahā-mallajana ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2207. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekacāriya[59] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekacāriya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2208. Bị (phiền não) chế ngự, tất cả các vị ấy đã cùng nhau đi đến gặp tôi và tham thiền. Trong khi các vị ấy đang tham thiền, họ đã có sự bực bội khởi lên.
2209. Lúc bấy giờ, vị có tên Sunanda, Thinh Văn của đức Phật bậc Hiền Trí Dhammadassī, đã đi đến gặp tôi.
2210. Khi ấy, những người nào đã có sự sinh hoạt gắn bó với tôi, những người ấy đã dâng cúng bông hoa đến tôi. Tôi đã cầm lấy bông hoa ấy và đã dâng lên vị Thinh Văn.
2211. Tôi đây đã qua đời và cũng đã tái sanh ở tại nơi ấy lần nữa. Tôi đã không đi đến đọa xứ trong một ngàn tám trăm kiếp.
2212. Trước đây 1300 kiếp, tám vị (cùng) tên Dhūmaketu đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2213. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tivaṇṭipupphiya[60] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tivaṇṭipupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông hoa kuṭaja, vị có bông hoa bandhujīva, bông hoa koṭumbara, bó bông hoa, hạt đậu tây, cội Bồ Đề, vị có một lần suy nghĩ, vị có bông hoa tikaṇṇi, vị có một lần hành xử, bông hoa tivaṇṭi; (tổng cộng) có sáu mươi hai câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Kuṭajapupphiya là phẩm thứ mười chín.
--ooOoo--
2214. Tòa lâu đài với tám mươi bốn ngàn cột trụ làm bằng vàng đã khéo được hóa hiện ra cho tôi, tợ như (phép mầu do) cây như ý của chư Thiên.
2215. Với tâm ý trong sạch, tôi đã cầm lấy bông hoa tamāla và đã dâng lên đức Phật Sikhī là đấng quyến thuộc của thế gian.
2216. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2217. Trước đây hai mươi kiếp, chỉ một mình (tôi) có tên Candatitta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2218. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tamālapupphiya[61] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tamālapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2219. Cỏ mà vị ẩn sĩ sống ở trong rừng (đã) cắt cho bậc Đạo Sư, tất cả cỏ ấy đã ngã xuống ở trên mặt đất, nghiêng về phía phải.
2220. Khi ấy, tôi đã cầm lấy cỏ ấy và đã trải ra ở phần cao nhất của mặt đất. Và tôi đã mang lại chỉ ba lá cây thốt nốt.
2221. Sau khi làm mái che bằng cỏ, tôi đã dâng cúng đến (đức Phật) Siddhattha. Chư Thiên và nhân loại đã duy trì (mái che) cho bậc Đạo Sư ấy trong bảy ngày.
2222. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cỏ trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cỏ.
2223. Trước đây sáu mươi lăm kiếp, bốn vị (cùng) tên Mahaddhana đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2224. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇasantharadāyaka[62] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇasantharadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2225. Lúc bấy giờ, ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Phussa ở trong khu rừng bao la đã bị phá sập bởi các con voi, có cây cối đã mọc lên ở nơi ấy.
2226. Được vui lòng với các đức hạnh của bậc Thầy của tam giới ấy, tôi đã san bằng chỗ lồi lõm và đã dâng cúng khối vôi bột.
2227. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của khối vôi bột.
2228. (Trước đây) bảy mươi bảy kiếp, mười sáu vị (cùng) tên Jitasena đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2229. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Khaṇḍaphulliya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Khaṇḍaphulliya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2230. Lúc bấy giờ, ở thành phố Tīvarā đáng yêu đã có khu vườn thượng uyển. Ở tại nơi ấy, tôi đã là người giữ vườn, có sự sinh hoạt gắn bó với đức vua.
2231. Đấng Tự Chủ tên Paduma đã là vị có hào quang. Khi bậc Hiền Trí ấy ngồi ở nơi cây sen trắng, bóng râm đã không rời khỏi Ngài.
2232. Sau khi nhìn thấy cây asoka đã được trổ hoa, nặng trĩu từng chùm, có dáng nhìn xinh đẹp, tôi đã dâng lên đức Phật có tên là Padumuttara.
2233. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2234. Trước đây ba mươi bảy kiếp, mười sáu vị (cùng tên) Aruṇañjaha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2235. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Asokapūjaka[63] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Asokapūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2236. Sau khi nhìn thấy cây aṅkola với chùm hoa cao quý có lớp vỏ bọc đã được trổ hoa, tôi đã hái xuống bông hoa ấy và đã đi đến gặp đức Phật.
2237. Vào thời điểm ấy, bậc Đại Hiền Trí Siddhattha có sự ẩn cư. Sau khi bày tỏ sự tôn kính trong chốc lát, tôi đã rải rắc bông hoa ở nơi hang động.
2238. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2239. Trước đây ba mươi sáu kiếp, (tôi đã là) vị Devagajjita độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2240. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aṅkolaka[64] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aṅkolaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2241. Tôi đã có một vườn hoa ở thành phố Dvāravatī. Và có giếng nước ở ngay tại nơi ấy là nguồn cung cấp (nước) cho các loài thực vật.
2242. Có lòng thương tưởng đến tôi, vị Siddhattha không bị đánh bại ấy, được hỗ trợ bằng năng lực của chính mình, đi đến ở trên không trung.
2243. Tôi không nhìn thấy bất cứ vật nào khác đáng để cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi nhìn thấy chồi non của cây asoka, tôi đã thảy (chồi non ấy) lên không trung.
2244. Trong khi đức Phật đang di chuyển, các chồi non ấy đi theo phía sau của Ngài. Tôi đây sau khi đã nhìn thấy thần thông ấy (đã tán dương rằng): “Ôi tính chất cao thượng của đức Phật!”
2245. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên chồi non trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2246. Trước đây hai mươi bảy kiếp, tôi đã là vị Ekassara độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2247. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kisalayapūjaka[65] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kisalayapūjaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2248. Tôi đã là con khỉ có sức mạnh và nhanh nhẹn, thường lai vãng ở nơi hiểm trở của ngọn núi. Sau khi nhìn thấy cây tinduka có trái, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.
2249. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã lìa khỏi (chỗ ngụ) vài ngày và đã xem xét đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha, bậc đã đi đến tận cùng ba cõi.
2250. Sau khi biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian cùng với một ngàn bậc Vô Lậu đã đi đến gần tôi.
2251. Sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đã đi đến gần, có trái cây ở tay. Đức Thế Tôn, đấng Toàn Tri, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng đã thọ nhận.
2252. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
2253. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị có tên Upananda, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2254. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tindukadāyaka[66] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tindukadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2255. Vì lòng thương tưởng hậu thế, đức Thế Tôn tên Sumedha, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu, đấng Chiến Thắng đã ra sức nỗ lực.
2256. Trong khi bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy đang đi kinh hành, tôi đã dâng lên đức Phật nắm tay gồm những bông hoa girinela.
2257. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong ba mươi ngàn kiếp.
2258. Trong hai ngàn ba trăm kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Sunela, là người độc nhất được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2259. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Muṭṭhipūjaka[67] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Muṭṭhipūjaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2260. Đấng Tự Chủ tên Sumaṅgala, bậc không bị đánh bại, đấng Chiến Thắng đã rời khỏi khu rừng bao la và đã đi vào thành phố.
2261. Sau khi thực hành việc đi khất thực, bậc Hiền Trí đã lìa khỏi thành phố. Có phận sự đã được làm xong, bậc Toàn Giác ấy đã cư ngụ ở trong khu rừng.
2262. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa kiṅkaṇi và đã dâng lên đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc Đại Ẩn Sĩ.
2263. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2264. Trước đây tám mươi sáu kiếp, (tôi đã là) vị tên Apilāpiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2265. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṅkaṇipupphiya[68] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṅkaṇipupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2266. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Hữu Nhãn đã rời khỏi khu rừng bao la và đã đi đến trú xá.
2267. Sau khi cầm lấy bông hoa yūthika tối thượng bằng cả hai tay, tôi đã dâng lên đức Phật, bậc có tâm từ ái như thế ấy.
2268. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã thọ hưởng sự thành tựu và đã không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2269. Trước đây năm mươi kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Samittanandana, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2270. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Yūthikāpupphiya[69] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Yūthikāpupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có bông hoa tamāla, thảm trải bằng cỏ, vị khám phá sự đổ vỡ, vị liên quan đến bông hoa asoka, vị có bông hoa aṅkola, chồi non, trái cây tinduka, các bông hoa nela, vị có bông hoa kiṅkaṇi, vị có bông hoa yūthikā; (tổng cộng) có năm mươi tám câu kệ.
Phẩm Tamālapupphiya là phẩm thứ hai mươi.
--ooOoo--
Vị dâng cúng thức ăn, (vị có) đoàn tùy tùng, bông hoa sereyya, trưởng lão Sobhita là tương tợ, vị có chiếc lọng che, bông hoa bandhujīva, và luôn cả vị có sự phục vụ khéo léo, bông hoa kumuda, bông hoa kuṭaja, và luôn cả vị có bông hoa tamāla đã được thực hiện là thứ mười. Có sáu trăm câu kệ và sáu mươi sáu câu thêm vào đó.
Nhóm “Mười” từ phẩm Bhikkhā.
Nhóm “Một Trăm” thứ nhì được đầy đủ.
--ooOoo--
[1] Sereyyaka nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa sereyya.”
[2] Pupphathūpiya nghĩa là “vị liên quan đến ngôi bảo tháp (thūpa) bằng bông hoa (puppha).”
[3] Pāyāsadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) món cơm sữa (pāyāsa).”
[4] Sammukhāthavika nghĩa là “vị đã ngợi ca (thavika) trực tiếp ở trước mặt (sammukhā).”
[5] Kusumāsaniya nghĩa là “vị liên quan đến chỗ ngồi (āsana) bằng bông hoa (kusuma).”
[6] Phaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala).”
[7] Ñāṇasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về trí tuệ (ñāṇa) của đức Phật.”
[8] Gandhapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) có mùi thơm (gandha).”
[9] Padumapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) hoa sen hồng (paduma).”
[10] Candanapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) trầm hương (candana).”
[11] Pupphachadaniya nghĩa là “vị liên quan đến mái che (chadana) bằng bông hoa (puppha).”
[12] Rahosaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về nơi thanh vắng (raho).”
[13] Campakapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) campaka.”
[14] Atthasandassaka nghĩa là “vị chỉ dạy (sandassaka) về ý nghĩa, mục đích (attha)”.
[15] Ekapasādaniya nghĩa là “vị liên quan đến việc một lần (eka) có được đức tin (pasādana).”
[16] Sālapupphadāyaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa (puppha) sālā.”
[17] Piyālaphaladāyaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) trái cây (phala) piyāla.”
[18] Atichattiya nghĩa là “vị liên quan đến chiếc lọng che ở thượng tầng (atichatta).”
[19] Thambhāropaka nghĩa là “vị dựng lên (āropaka) cây cột (thambha).”
[20] Vedikāraka nghĩa là “vị thực hiện (kāraka) viền rào (vedi).”
[21] Saparivāriya nghĩa là “vị liên quan đến nhóm tùy tùng (parivāra) của mình (sa).”
[22] Ummāpupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) ummā.”
[23] Anulepadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vữa để tô trét (anulepa).”
[24] Vaṭaṃsakiya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (vaṭaṃsaka).”
[25] Pallaṅkadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc ghế bành (pallaṅka).”
[26] Tambapupphiya nghĩa là “vị liên quan bông hoa (puppha) màu nâu đỏ (tamba).”
[27] Vīthisammajjaka nghĩa là “vị quét dọn (sammajjaka) con đường (vīthi).”
[28] Kakkārupūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa kakkāru.”
[29] Mandāravapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa mandārava.”
[30] Kadambapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kadamba.”
[31] Tiṇasūlaka nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa tiṇasūlaka.”
[32] Nāgapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) nāga.”
[33] Punnāgapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) punnāga.”
[34] Kumudadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) hoa súng trắng (kumuda).”
[35] Kaṇaverapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kaṇavera.”
[36] Khajjakadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật thực để nhai (khajjaka).”
[37] Desapūjaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) khoảnh đất, vùng đất (desa).”
[38] Kaṇikāracchadaniya nghĩa là “vị liên quan đến mái che (chadana) bằng bông hoa kaṇikāra.”
[39] Sappidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bơ lỏng (sappi).”
[40] Yūthikāpupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) yūthika.”
[41] Dussadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải (dussa).”
[42] Pañcaṅguliya nghĩa là “vị liên quan đến 1 nhúm năm (pañca) ngón tay (aṅgula).”
[43] Kumudamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (māla) kumuda.”
[44] Nisseṇidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cầu thang (nisseṇī).”
[45] Rattipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (māla) nở vào ban đêm (ratti).”
[46] Udapānadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cái giếng (udapāna).”
[47] Sīhāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bảo tọa sư tử (sīhāsana).”
[48] Ekadīpiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) ngọn đèn (dīpa).”
[49] Tikicchaka nghĩa là “vị thầy thuốc.”
[50] Saṅghupaṭṭhāka nghĩa là “vị phục vụ (upaṭṭhāka) Hội Chúng (saṅgha).”
[51] Kuṭajapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kuṭaja.”
[52] Bandhujīvaka nghĩa là “vị có bông hoa bandhujīvaka.”
[53] Koṭumbariya nghĩa là “vị liên quan đến tấm vải mịn koṭumbara.”
[54] Pañcahatthiya nghĩa là “vị liên quan đến năm (pañca) bó (hattha) hoa.”
[55] Isimuggadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đậu tây (isimugga).”
[56] Bodhi-upaṭṭhāka nghĩa là “vị phục vụ (upaṭṭhāka) cội cây Bồ Đề (bodhi).”
[57] Ekacintika nghĩa là “vị có một lần (eka) suy nghĩ (cintika).”
[58] Tikaṇṇipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tikaṇṇi.”
[59] Ekacāriya nghĩa là “vị có một lần (eka) hành xử (cāriya).”
[60] Tivaṇṭipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tivaṇṭi.”
[61] Tamālapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tamāla.”
[62] Tiṇasantharadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm thảm (santhara) bằng cỏ (tiṇa).”
[63] Asokapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa asoka.”
[64] Aṅkolaka nghĩa là “vị có bông hoa aṅkola.”
[65] Kisalayapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) các chồi non (kisalaya).”
[66] Tindukadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây tinduka.”
[67] Muṭṭhipūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) nắm (muṭṭhi) bông hoa.”
[68] Kiṅkaṇipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kiṅkaṇi.”
[69] Yūthikāpupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) yūthikā.”