TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 39
APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KÝ SỰ
Tập Một
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
2717. Trong thời quá khứ, tôi đã là con voi ở hội chúng các vị Ẩn Sĩ. Do niềm tịnh tín, tôi đã rải rắc nhụy của hoa sen đến các bậc Đại Ẩn Sĩ.
2718. Các đấng Chiến Thắng Độc Giác tối thượng là những vị có các ái đã được giũ bỏ như thế ấy. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở các vị ấy, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2719. Kể từ khi tôi đã rải rắc nhụy hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2720. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padumakesariya[1] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padumakesariya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2721. Tôi đã dâng cúng tràng hoa có hương thơm đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī. Tôi đã dâng cúng tấm vải thượng hạng bằng tơ lụa đến bậc có bản thể chính trực
2722. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng vật thơm trước đây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng vật thơm.
2723. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sucela, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2724. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sabbagandhiya[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sabbagandhiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2725. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng, tợ như mặt trời đang mọc lên.
2726. Tôi đã chắp tay lên và đã rước Ngài về nhà của mình. Sau khi đã rước đấng Toàn Giác (về nhà), tôi đã dâng cúng vật thực thượng hạng.
2727. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thực thượng hạng trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vật thực thượng hạng.
2728. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paramannadāyaka[3] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paramannadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2729. Đã có lễ hội ở cội Đại Bồ Đề của đức Thế Tôn Vipassī đúng vào lúc đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đang ngự ở cội cây.
2730. Vào thời điểm ấy, được tháp tùng bởi Hội Chúng tỳ khưu, đức Thế Tôn (đã) công bố về Bốn Sự Thật, trong lúc thốt lên với lời nói hùng tráng.
2731. Trong khi thuyết giảng một cách giản lược và trong khi thuyết giảng một cách chi tiết, đấng Toàn Giác, bậc đã phơi bày điều bị che lấp, đã giúp cho đám đông dân chúng thành tựu Niết Bàn.
2732. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư và đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
2733. Kể từ khi tôi đã lắng nghe Giáo Pháp trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về Giáo Pháp.
2734. Trước đây ba mươi ba kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Sutavā, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2735. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhammasaññaka[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhammasaññaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2736. Lúc bấy giờ, đã có khu ẩn cư ở bờ sông Bhāgīrathī. Có sự mong cầu, tôi đã đi đến khu ẩn cư ấy, tay cầm trái cây.
2737. Ở tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy (đức Phật) Vipassī tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng. Tôi đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư tất cả trái cây mà tôi có.
2738. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
2739. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phaladāyaka[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phaladāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2740. Bạch đức Phật Anh Hùng, con kính lễ Ngài! Ngài đã được giải thoát về mọi phương diện. Vì con đã bị lâm vào cảnh bất hạnh, xin Ngài hãy là nơi nương nhờ của con đây.
2741. Đức Siddhattha, bậc không người đối địch ở thế gian, đã chú nguyện cho tôi đây rằng: “Hội Chúng là vô thượng, không thể đo lường, sánh bằng biển lớn.
2742. Ngươi hãy làm cho tâm được tịnh tín ở Hội Chúng, thửa ruộng không bị nhơ bẩn, nguồn ban phát kết quả vô cùng tận. Ngươi đã gieo hạt giống tốt, ngươi hãy trồng tỉa ở tại nơi ấy.”
2743. Sau khi nói xong điều này, sau khi đã chỉ dạy cho tôi như thế, đấng Toàn Tri, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, đã bay lên khoảng không ở bầu trời.
2744. Khi bậc Toàn Tri, đấng Nhân Ngưu, vừa mới ra đi không bao lâu, tôi đã gần kề sự chết, và tôi đã được sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
2745. Khi ấy, sau khi đã làm cho tâm được tịnh tín ở Hội Chúng, thửa ruộng không bị nhơ bẩn, nguồn ban phát kết quả vô cùng tận, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2746. Kể từ khi tôi đã đạt được niềm tịnh tín trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của niềm tịnh tín.
2747. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sampasādaka[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sampasādaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2748. Tự viện của đức Thế Tôn Siddhattha đã được tôi tạo dựng trong khi các con chim được yên lặng ở những cội cây có bóng râm dày đặc.
2749. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng. Tôi đã bàn giao tu viện đến bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.
2750. Được mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã dâng cúng trái cây và bông hoa. Sau đó, có niềm tịnh tín đã được sanh lên, tôi đã chuyển giao khu rừng ấy.
2751. Bất cứ vật gì tôi đã dâng cúng đến đức Phật với tâm ý trong sạch (đều có) quả báu sanh khởi đến tôi trong khi tôi tái sanh vào cõi hữu.
2752. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tu viện trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tu viện.
2753. Trước đây ba mươi bảy kiếp, bảy vị (cùng) tên Mudusītala đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2754. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ārāmadāyaka[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ārāmadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2755. Tôi đã nhìn thấy vị Thinh Văn của bậc Hiền Trí Atthadassī. Trong khi vị ấy đang xây dựng công trình mới ở trong khuôn viên (tu viện), tôi đã đi đến gần (nơi ấy).
2756. Và khi công trình mới đã được hoàn thành, với tâm tịnh tín với ý vui mừng ở Phước Điền vô thượng, tôi đã dâng cúng lớp vữa tô.
2757. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của lớp vữa tô.
2758. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Anulepadāyaka[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Anulepadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2759. 2760. Trong giấc mơ, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tợ như mặt trời đang mọc lên, tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng, đang đi vào bên trong khu rừng. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín vào điều ấy, tôi đã sanh lên nhàn cảnh.
2761. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2762. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Buddhasaññaka[9] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Buddhasaññaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2763. Sườn núi đã được tôi làm sạch sẽ dành cho đức Thế Tôn Piyadassī. Và tôi đã bố trí lu nước cho việc sử dụng của vị (Phật) như thế ấy.
2764. 2765. Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī, đã chú nguyện về việc ấy cho tôi rằng: “Tòa lâu đài ấy có một ngàn khu vực, có một trăm quả cầu tròn, được trang hoàng với những lá cờ, được làm với màu lục, và châu báu không phải là ít sẽ được sanh lên (cho ngươi).” Sau khi dâng cúng vật thí là sườn núi, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2766. Trước đây 32 kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Susuddha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2767. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pabbhāradāyaka[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pabbhāradāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Tua nhụy, vật thơm, và vật thực, vị có sự suy tưởng về Giáo Pháp, và (cúng dường) bằng trái cây, niềm tịnh tín, và vị dâng cúng tu viện, lớp vữa tô, vị suy tưởng về đức Phật, và vị dâng cúng sườn núi; (tổng cộng) có năm mươi mốt câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Padumakesariya là phẩm thứ ba mươi mốt.
--ooOoo--
2768. Hàng rào đã được tôi cho xây dựng đến bậc Hiền Trí Dhammadassī. Và sự bảo vệ đã được tôi dâng cúng đến bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2769. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, do tính chất đặc biệt của nghiệp ấy tôi đã đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.
2770. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ārakkhadāyaka[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ārakkhadāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2771. Đấng Chiến Thắng luôn luôn chiếu sáng tợ như cây sālā non trẻ đã được mọc lên tốt đẹp, tợ như cây sobhañjana đã vươn cao, tợ như tia sét ở trên bầu trời.
2772. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng vật thực đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vessabhū, vị Trời của chư Thiên ấy.
2773. Đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, đã nói lời tùy hỷ về vật (cúng dường) ấy đến tôi rằng: “Trong khi (ngươi) tái sanh vào cõi hữu, mong rằng quả báu sanh khởi đến ngươi.”
2774. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vật thực.
2775. Trước đây hai mươi lăm kiếp, tôi đã là vị tên Amittabha độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2776. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhojanadāyaka[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhojanadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2777. Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Siddhattha đang di chuyển ở khoảng không của cõi trời. Và không có dấu chân (được lưu lại) ở bầu trời, ở trên không trung, ở lớp khí quyển.
2778. Sau khi nhìn thấy sự di chuyển của bậc Hiền Trí và nhìn thấy y của đấng Chánh Đẳng Giác bị lay động bởi làn gió, niềm hạnh phúc đã lập tức sanh khởi đến tôi.
2779. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2780. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gatasaññaka[13] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gatasaññaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2781. Tôi là vị Bà-la-môn tên Nesāda sống ở bờ sông. Tôi đã quét dọn khu ẩn cư bằng những bông hoa (sen) có trăm cánh.
2782. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha có màu da vàng chói, đang di chuyển qua khu rừng, niềm vui đã sanh khởi đến tôi.
2783. Sau khi đi ra tiếp đón bậc Toàn Giác, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu, tôi đã rước (Ngài) về khu ẩn cư và đã rải rắc (đến Ngài) với những đóa hoa sen hạng nhất.
2784. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2785. Trước đây bảy mươi ba kiếp, bốn vị (cùng tên) Pādapāvara đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2786. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattapadumiya[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattapadumiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2787. Đấng Toàn Giác Siddhattha, bậc không bị đánh bại, có màu da vàng chói tợ như mặt trời có trăm tia sáng, đang đi ở không xa.
2788. Tôi đã đi ra tiếp đón và đã đưa Ngài đi vào khu ẩn cư. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng chỗ ngồi bằng bông hoa.
2789. Khi ấy, tràn đầy niềm phấn khởi tôi đã chắp tay lên. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật, tôi đã ước nguyện về nghiệp ấy rằng:
2790. “Có phước thiện nào đã được tôi thực hiện ở đấng Tự Chủ bậc không bị đánh bại, do nhờ tất cả (các) thiện nghiệp ấy, mong rằng tôi được vô nhiễm ở trong Giáo Pháp.”
2791. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chỗ ngồi bằng bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chỗ ngồi bằng bông hoa.
2792. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphāsanadāyaka[15] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphāsanadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2793. Ngôi bảo tháp của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī tên là Uttama. Lúc bấy giờ, tôi đã mò mẫm lang thang ở trong khu rừng hoang vắng.
2794. Sau khi lìa khỏi khu rừng bao la, tôi đã nhìn thấy ngôi bảo tọa sư tử. Tôi đã khoác y một bên vai, đã chắp tay lên, và đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
2795. Sau khi đã ngợi ca đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, hết một khoảng thời gian trong ngày, (tôi đã) trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã thốt lên lời nói này:
2796. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Đại Hùng, bạch bậc Trưởng Thượng của thế gian, bạch đấng Nhân Ngưu, Ngài là đấng Toàn Tri.”
2797. Bằng cách lấy Ngài làm đối tượng, tôi đã ngợi ca đức Phật Sikhī và đã đảnh lễ ngôi bảo tọa, sau đó tôi đã ra đi, mặt hướng phía Bắc.
2798. (Kể từ khi) tôi đã ngợi ca đấng cao quý trong số các vị đang thuyết giảng trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ca ngợi.
2799. Trước đây hai mươi bảy kiếp, bảy vị (cùng) tên Atulya ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2800. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Āsanatthavika[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Āsanatthavika là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2801. Trong khi thuyết giảng về vị thế Bất Tử, đấng Đại Hùng có vóc dáng tốt đẹp, được tháp tùng bởi các bậc Thinh Văn, cư ngụ ở căn nhà tối thượng.
2802. Bằng lời nói ngọt ngào ấy, Ngài (đã) thu hút đám đông dân chúng. Lời giảng đã vang vang và bao quát ở chư Thiên và nhân loại.
2803. Sau khi lắng nghe âm thanh vang vang của bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở âm thanh và tôi đã đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
2804. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2805. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saddasaññaka[17] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saddasaññaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2806. (Tôi đã nhìn thấy đức Phật) Siddhattha đang chiếu sáng tất cả các phương ở trong vùng đồi núi, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, tợ như khối lửa ở ngọn núi.
2807. Sau khi nhìn thấy ánh sáng của đức Phật, ánh sáng của mặt trời, và tương tợ như thế ấy ánh sáng của mặt trăng, niềm hạnh phúc đã sanh khởi đến tôi.
2808. Sau khi nhìn thấy ba loại ánh sáng, tôi đã khoác tấm da dê một bên vai và đã ngợi ca đức Phật, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, bậc Tối Thượng của các vị Thinh Văn.
2809. Bởi vì ở thế gian có ba nguồn ánh sáng xua đuổi bóng tối ở trên đời là mặt trăng, mặt trời, và đức Phật đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
2810. Tôi đã trình bày ví dụ so sánh và đã tán dương bậc Đại Hiền Trí. Sau khi tán dương vẻ đẹp của đức Phật, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2811. Kể từ khi tôi đã tán dương đức Phật trước đây 94 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
2812. Trước đây 61 kiếp, tôi đã là vị độc nhất tên Ñāṇadhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2813. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiraṃsiya[18] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiraṃsiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2814. Lúc bấy giờ, tôi đã là người nông dân ở bờ sông Sindhu. Tôi bị vướng bận trong việc quán xuyến công việc của người khác và (sống) lệ thuộc vào vật thực của người khác.
2815. Trong lúc đi dọc theo sông Sindhu, tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Siddhattha đang ngồi thiền định tợ như đóa hoa sen đã nở rộ.
2816. Khi ấy, tôi đã ngắt bảy bông hoa kandali ở cuống hoa. Tôi đã dâng lên ở đỉnh đầu của đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời.
2817. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, được định tĩnh trong (đề mục) thích hợp, tợ như loài voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi khó mà tiếp cận.
2818. Sau khi đi đến gần vị (có tính) cẩn trọng có (các) giác quan đã được tu tập ấy, tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ bậc Đạo Sư.
2819. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2820. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kandalipupphiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kandalipupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2821. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Đại Hùng Vipassī, vị Anh Hùng ưu tú, quý cao, bậc Đại Ẩn Sĩ có sự chinh phục, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý.
2822. Khi bậc thọ nhận các vật hiến cúng đang bước đi ở đường lộ, tôi đã cầm lấy tràng hoa kumuda và đã rải rắc đến đức Phật tối thượng.
2823. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2824. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kumudamāliya[19] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kumudamāliya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị dâng cúng sự bảo vệ, vị dâng cúng vật thực, vị có sự suy tưởng về đức Phật đã đi qua, vị liên quan đến đóa hoa sen, vị có chỗ ngồi bằng bông hoa, vị ca ngợi, vị có sự suy tưởng về âm thanh, ba loại hào quang, vị có hoa kandali, vị có hoa kumuda, (tổng cộng) có năm mươi bảy câu kệ.
Phẩm Ārakkhadāyaka là phẩm thứ ba mươi hai.
--ooOoo--
2825. Tôi đã nhìn thấy đấng Tối Thượng Nhân, bậc không bị đánh bại Siddhattha đã được định tĩnh, đã được đạt đến, và đã nhập vào thiền định.
2826. Tôi đã cầm lấy bông hoa ummā và đã dâng lên đức Phật. Tất cả các bông hoa có đầu quay về một hướng, có cuống hoa ở phía trên, có miệng hoa ở phía dưới.
2827. Trong khi ngự ở trên không trung, chúng có nhiều màu sắc tợ như chiếc thảm bông hoa. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
2828. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2829. Trước đây năm mươi lăm kiếp, tôi đã vị lãnh chúa độc nhất tên Samantacchadana, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2830. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ummāpupphiya[20] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ummāpupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2831. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Nhân Ngưu đang chiếu sáng, trông tợ như cây kakudha đang chói sáng, giống như con bò mộng thuần chủng, tợ như vì sao osadhī đang tỏa rạng.
2832. Tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ đấng Đạo Sư. Được hoan hỷ với việc làm của bản thân, tôi đã ngợi ca đấng Đạo Sư.
2833. Sau khi nhặt lấy cát vô cùng trong sạch và túm lại bằng vạt váy, tôi đã rải rắc ở con đường đã đi qua của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.
2834. Sau đó, với tâm ý trong sạch tôi đã rải xuống một nửa số cát ở chỗ nghỉ ngơi ban ngày của bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2835. (Kể từ khi) tôi đã rải xuống số cát trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cát.
2836. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pulinapūjaka[21] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pulinapūjaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2837. Sau khi nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ của bậc Đạo Sư được treo ở ngọn cây, tôi đã chắp tay lên và đã nâng tấm y lên cao hơn nữa.
2838. Sau khi nhìn lại từ đàng xa, nụ cười đã sanh khởi đến tôi. Sau khi chắp tay lên, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín hơn nữa.
2839. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2840. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Hāsajanaka[22] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Hāsajanaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2841. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã là người thông thạo về chú thuật. Tôi đã duy trì truyền thống gia tộc, sự tế lễ đã được tôi khuyến khích.
2842. Khi ấy, tám mươi bốn ngàn con thú bị giết chết bởi tôi. Chúng đã bị đưa lại ở cột trụ bằng lõi cây và được sẵn sàng cho mục đích tế lễ.
2843. (Đức Phật) trông tợ thỏi vàng đặt ở cửa miệng lò nung, như là than gỗ khadira cháy rực, tợ như mặt trời đang mọc lên, tợ như mặt trăng vào ngày rằm.
2844. Đấng Toàn Giác Siddhattha, vị đã hoàn thành tất cả phận sự, bậc đem lại phúc lợi được tôn kính bởi tam giới, đã đi đến gần và đã nói lời nói này:
2845. “Này người trai trẻ, việc không hãm hại sanh mạng của mọi loài, sự xa lánh việc trộm cắp, việc gian dâm, và việc uống chất say khiến Ta được hoan hỷ.
2846. Và sự thích thú trong sở hành bình lặng, sự hiểu rộng, lòng biết ơn, các pháp này nên được ca ngợi ở thế giới này và thế giới khác.
2847. Sau khi làm phát triển những pháp này, được vui thích về sự lợi ích đối với tất cả chúng sanh, sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật, hãy tu tập Đạo Lộ tối thượng.”
2848. Sau khi đã nói lời này, sau khi đã chỉ dạy tôi như thế, đấng Toàn Tri, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã bay lên không trung và ra đi.
2849. Tôi đã làm cho tâm được trong sạch trước, và sau đó đã làm cho tâm được tịnh tín. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
2850. (Kể từ khi) tôi đã làm cho tâm được tịnh tín trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2851. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Yaññasāmika[23] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Yaññasāmika là phần thứ tư.
--ooOoo--
2852. Tôi sống ở khu ẩn cư tại bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy con nai màu vàng chói đang bước đi ở trong khu rừng.
2853. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở con nai, tôi đã tưởng nhớ đến đấng Trưởng Thượng của thế gian. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã tưởng nhớ đến các vị Phật khác.
2854. Chư Phật nào thuộc thời quá khứ xa xăm, hiện tại, và vị lai, ba (thời) chư Phật ấy chói sáng như thế ấy tợ như con nai chúa.
2855. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2856. Trước đây hai mươi bảy kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Araññasatta, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2857. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nimittasaññaka[24] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nimittasaññaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2858. Bậc Toàn Giác (Siddhattha), có màu da vàng chói tợ như cây cột trụ bằng vàng, có ba mươi hai hảo tướng, đang đi ở khu phố chợ.
2859. Tôi đã rước bậc Toàn Giác Siddhattha, vị đã hoàn thành tất cả phận sự, bậc không còn dục vọng, vị không bị đánh bại, và tôi đã chăm lo bữa ăn đến bậc Đại Hiền Trí ấy.
2860. Khi ấy, bậc Hiền Trí, đấng Bi Mẫn ở thế gian đã chiếu sáng đến tôi. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2861. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng vật thực.
2862. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Annasaṃsāvaka[25] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Annasaṃsāvaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2863. Khi vị Thiên nhân mệnh chung từ tập thể chư Thiên do sự chấm dứt của tuổi thọ, chư Thiên đang tùy hỷ thường thốt lên ba lời nói rằng:
2864. “Này bạn, từ nơi đây bạn hãy đi đến nhàn cảnh có sự cộng trú với loài người. Có bản thể nhân loại, bạn hãy đạt được niềm tin tối thượng vào Chánh Pháp.
2865. Mong rằng niềm tin ấy của bạn được tạo lập, được sanh khởi cội rễ, được vững vàng trong Chánh Pháp đã khéo được công bố, và không bị dao động cho đến hết cuộc đời.”
2866. “Bạn hãy làm việc thiện bằng thân, nhiều việc thiện bằng khẩu. Bạn hãy làm việc thiện bằng ý, (là việc) không có khổ đau, không có mầm tái sanh.
2867. Sau đó, hãy làm nhiều việc phước còn có mầm tái sanh ấy bằng sự bố thí. Bạn cũng nên hướng dẫn những người bạn khác vào Chánh Pháp, vào Phạm hạnh.”
2868. Do lòng thương tưởng này, chư Thiên khi đã biết vị thiên nhân đang mệnh chung, thường nói lời tùy hỷ rằng: “Hãy trở lại thành phố chư Thiên lần nữa.”
2869. Khi ấy, lúc hội chúng chư Thiên đã hội tụ lại, đã có sự dao động ở tôi rằng: “Bị mệnh chung từ nơi này, ta sẽ đi đến sanh chủng nào?”
2870. Sau khi biết được sự dao động của tôi, vị Sa-môn có các giác quan đã được tu tập ấy, với ý muốn tiếp độ tôi, đã đi đến gặp tôi.
2871. Vị Thinh Văn của (đức Phật) Padumuttara tên là Sumana. Khi ấy, vị ấy đã chỉ dạy ý nghĩa và Giáo Pháp, và đã làm cho tôi chấn động.
(Tụng phẩm thứ mười hai).
2872. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật. Sau khi đảnh lễ bậc trí tuệ ấy, tôi đã qua đời ở tại nơi ấy.
2873. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã được sanh ra ở chính tại nơi ấy. Trong khi sống ở trong bụng mẹ, tôi đã được người mẹ cưu mang lần nữa.
2874. Sau khi mệnh chung từ thân ấy, tôi đã được sanh về thế giới chư Thiên. Khi ấy, tôi không nhận thấy tâm ưu phiền trong khoảng thời gian ấy.
2875. Sau khi mệnh chung từ cõi trời Đạo Lợi, tôi đã hạ sanh vào bụng mẹ. Sau khi ra khỏi bụng mẹ, tôi đã biết được (nghiệp) đen lẫn trắng.
2876. Chỉ mới bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã đi vào tu viện của đức Thế Tôn Gotama, người con trai của dòng Sakya như thế ấy.
2877. Khi Phật Ngôn đã được lan rộng, khi Giáo Pháp đã được nhiều người hiểu biết, tôi đã nhìn thấy ở tại nơi ấy những vị thực hành Giáo Pháp, những vị tỳ khưu của bậc Đạo Sư.
2878. Có thành phố tên là Sāvatthī, đức vua Kosala ngự ở tại nơi ấy. Đức vua đã đi đến cội Bồ Đề tối thượng bằng chiếc xe được kéo bằng voi.
2879. Sau khi nhìn thấy con voi của đức vua, tôi đã tưởng nhớ lại nghiệp quá khứ. Tôi đã chắp tay lên và đã đi đến cuộc hội họp.
2880. Chỉ mới bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Vị Thinh Văn tên Ānanda đã hầu cận đức Phật.
2881. (Là người) có hành vi hoàn hảo, lại có nghị lực, có niệm, và nghe nhiều, trong khi làm tâm của đức vua được tịnh tín, vị có sự chói sáng rực rỡ đã truyền đạt lại (Giáo Pháp).
2882. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, tôi đã tưởng nhớ lại nghiệp quá khứ. Trong khi là người đứng ở ngay tại chỗ ấy, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
2883. Sau khi khoác y một bên vai, tôi đã chắp tay lên ở đầu. Sau khi đảnh lễ đấng Toàn Giác, tôi đã thốt lên lời kệ này:
2884. Tôi đã nâng lên bông hoa nigguṇḍī rồi đã đặt xuống ở bảo tọa sư tử của đức Phật Padumuttara, đấng Chúa Tể của loài người, bậc Đạo Sư.
2885. “Bạch đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, nhờ vào nghiệp ấy con đã từ bỏ sự hơn thua và đã đạt được vị thế Bất Động.”
2886. Trong hai mươi lăm ngàn kiếp, các bậc thống lãnh loài người (ở mỗi kiếp) đã là từng nhóm tám vị Sát-đế-lỵ có tuổi thọ dài, rất dài.[26]
2887. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nigguṇḍipupphiya[27] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nigguṇḍipupphiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2888. Sau khi cùng nhau đi đến, tất cả dân chúng tiến hành việc cúng dường trọng thể đến đức Thế Tôn Vessabhū, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
2889. Khi ấy, tôi đã thực hiện một khối vôi bột cùng với vòng hoa đội đầu bằng bông hoa nhài, và tôi đã dâng lên ở phía trước bảo tọa sư tử.
2890. Tất cả dân chúng sau khi cùng nhau đi đến nhìn thấy bông hoa tối thượng (nói rằng): “Người nào đã cúng dường bông hoa này đến đức Phật tối thượng như thế ấy?”
2891. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi Hóa Lạc Thiên. Tôi thọ hưởng nghiệp của mình đã khéo được thực hiện bởi bản thân trong thời quá khứ.
2892. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi đều là đối tượng yêu quý của tất cả; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2893. Tôi không biết đến sự phỉ báng (nào) đã được thực hiện bởi tôi bằng thân, bằng lời nói, hay bằng ý đối với các vị đạo sĩ khổ hạnh, những vị đã chế ngự bản thân.
2894. Do việc ấy đã được thực hành tốt đẹp và do các nguyện lực của tâm, tôi là đối tượng được cúng dường của tất cả; điều này là quả báu của việc không phỉ báng.
2895. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2896. Trước đây mười một kiếp, vị Sát-đế-lỵ tên Sahassāra đã là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2897. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sumanāveliya[28] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sumanāveliya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2898. (Trong lúc) đức Thế Tôn Siddhattha bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy đang công bố về Sự Thật, đang giúp cho các sanh linh thành tựu Niết Bàn.
2899. (Khi ấy) tôi đã mang lại bông hoa sen mọc ở trong nước, làm thích ý. Sau khi thực hiện chiếc lọng che bằng bông hoa, tôi đã dâng lên đức Phật.
2900. Bậc Hiểu Biết Thế Gian Siddhattha, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đấng Đạo Sư, đứng ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên lời kệ này:
2901. “Người nào sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở Ta đã nắm giữ chiếc lọng che bằng bông hoa, do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, người ấy không đi đến chốn khổ đau.”
2902. Nói xong lời này, bậc Toàn Giác đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sid-dhattha đã giải tán hội chúng rồi đã bay lên khoảng không ở bầu trời.
2903. Khi vị Trời của nhân loại đứng dậy, chiếc lọng che màu trắng cũng đã vươn lên. Chiếc lọng che tối thượng di chuyển ở phía trước đức Phật tối thượng.
2904. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên chiếc lọng che trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc lọng bằng bông hoa.
2905. Vào kiếp thứ 74, tám vị (cùng) tên Jalasikha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2906. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphachattiya[29] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphachattiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2907. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, làm mưa cơn mưa Giáo Pháp, tợ như nước mưa tuôn ở bầu trời.
2908. Tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác ấy đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đi về nhà của mình.
2909. Tôi đã cầm lấy chiếc lọng che đã được tô điểm, và đã đi đến gặp bậc Tối Thượng Nhân. Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã ném (chiếc lọng) lên không trung.
2910. Tợ như chiếc xe kéo đã được khéo điều khiển, tợ như vị đứng đầu các bậc Thinh Văn đã được huấn luyện, (chiếc lọng che) đã tiến đến gần đấng Toàn Giác và đã đứng yên ở trên đỉnh đầu.
2911. Bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
2912. “Chiếc lọng che đã được tô điểm làm thích ý này đã được dâng cúng bởi người nào, do sự tịnh tín ấy ở trong tâm người ấy không đi đến khổ cảnh.
2913. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc ở giữa chư Thiên bảy lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi hai lần.
2914. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
2915. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người ấy) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
2916. Hiểu được lời nói hùng tráng đã được thốt lên là ngôn từ của đức Phật, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã khởi lên niềm vui dào dạt.
2917. Sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã ngự đến sanh chủng Thiên nhân. Có tòa lâu đài tối thượng làm thích ý đã được sanh lên cho tôi.
2918. Trong khi (tôi) rời khỏi cung điện, có chiếc lọng che màu trắng đã được cầm giữ (che cho tôi). Khi ấy tôi đã đạt được sự tưởng nhớ lại; điều này là quả báu của nghiệp quá khứ.
2919. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, tôi đã đi đến bản thể nhân loại. Trước đây bảy trăm kiếp, tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi sáu lần.
2920. Sau khi chết đi lìa bỏ thân ấy, tôi đã đi đến thành phố chư Thiên. Sau khi tuần tự luân hồi, tôi đã quay trở lại cuộc sống nhân loại.
2921. Trong khi tôi hạ sanh vào bụng mẹ, có những người đã nắm giữ chiếc lọng màu trắng (che cho tôi). Được bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
2922. Vị Bà-la-môn tên Sunanda là thông thạo về chú thuật. Vị ấy đã cầm lấy chiếc lọng che bằng pha-lê và đã dâng cúng đến vị Tối Thượng Thinh Văn.
2923. Bậc đại anh hùng, nhà thuyết giảng vĩ đại Sāriputta đã nói lời tùy hỷ. Sau khi lắng nghe lời tùy hỷ của vị ấy, tôi đã tưởng nhớ lại nghiệp quá khứ.
2924. Tôi đã chắp tay lên và đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Sau khi nhớ lại nghiệp quá khứ, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán
2925. Sau khi từ chỗ ngồi đứng dậy, tôi đã chắp tay lên ở đầu. Tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác và đã thốt lên lời nói này:
2926. Trước đây một trăm ngàn kiếp, đức Phật, bậc Vô Thượng ở thế gian, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara là vị thọ nhận các vật hiến cúng.
2927. Tôi đã dâng cúng chiếc lọng che đã được tô điểm có nhiều màu sắc đến Ngài. Đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả, đã nhận lấy bằng hai tay.
2928. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Do sự dâng cúng một chiếc lọng che, tôi đã không đi đến chốn khổ đau.
2929. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
2930. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saparivārachattadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saparivārachattadāyaka là phần thứ 10.
--ooOoo--
Bông hoa ummā, (vị cúng dường) cát, nụ cười, vật tế lễ, vật báo hiệu, vị ngợi ca (về sự cúng dường vật thực), vị có bông hoa nigguṇḍī, bông hoa nhài, vị có chiếc lọng che bằng bông hoa, vị có chiếc lọng che và các vật phụ thuộc, (tổng cộng) có hơn một trăm lẻ bảy câu kệ.
Phẩm Ummāpupphiya là phẩm thứ ba mươi ba.
--ooOoo--
2931. Tôi đã dâng cúng nhang thơm đến đức Thế Tôn Siddhattha. Nhang thơm ấy được bao phủ bằng (mùi hương của) các bông hoa nhài và được phù hợp với đức Phật.
2932. Đấng Toàn Giác, bậc Lãnh Đạo Thế Gian tợ như cây cột trụ bằng vàng, tợ như bông hoa súng được chói sáng, tợ như ngọn lửa tế thần được cháy rực.
2933. Tợ như con hổ hùng tráng quý cao, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, Ngài đã ngồi xuống ở phía trước Hội Chúng gồm các vị tỳ khưu cao quý trong số các bậc Sa-môn.
2934. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã chắp tay lên. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
2935. Kể từ khi tôi đã cúng dường hương thơm cho đến chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường hương thơm.
2936. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhadhūpiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhadhūpiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2937. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, chói sáng như là ngọn lửa từ bơ lỏng, cháy rực như là ngọn lửa tế thần, đang di chuyển bằng đường không trung.[30]
2938. Tôi đã dùng bàn tay múc nước và đã hắt lên không trung. Đấng Đại Hùng, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ đã tiếp nhận.
2939. Đứng ở trên không trung, bậc Đạo Sư tên Padumuttara sau khi biết được ý định của tôi đã nói lên lời kệ này:
2940. “Do sự dâng cúng nước này và do sự sanh khởi niềm phỉ lạc, ngươi không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
2941. Bạch đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, nhờ vào việc làm ấy, sau khi từ bỏ sự hơn thua, con đã đạt được vị thế Bất Động.
2942. Và (trước đây) sáu ngàn năm trăm kiếp, ba đấng Chuyển Luân Vương tên Sahassarāja đã là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.
2943. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakapūjaka[31] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakapūjaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2944. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng rậm, tôi sinh sống, là người thợ săn. Sau khi nhìn thấy cây punnāga đã được trổ hoa, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.[32]
2945. Tôi đã thu nhặt bông hoa xinh đẹp tỏa hương thơm ngào ngạt ấy. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp ở trên cát, tôi đã dâng (bông hoa) lên đức Phật.
2946. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2947. (Trước đây) chín mươi mốt kiếp, tôi đã là vị Tamonuda độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2948. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Punnāgapupphiya[33] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Punnāgapupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2949. Tôi đã là người gánh cỏ ở thành phố Haṃsavatī. Tôi sinh sống bằng việc gánh cỏ. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.
2950. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Sau khi xua đi điều tăm tối ấy, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã hiện khởi.
2951. Sau khi ngồi xuống ở căn nhà của mình, vào lúc ấy tôi đã suy nghĩ như vầy: “Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian, và vật xứng đáng để dâng cúng thì ta không có.
2952. Đây là tấm vải choàng duy nhất của ta. Ta không có người thí chủ nào. Việc tiếp xúc với địa ngục là khổ sở. Ta sẽ ươm trồng vật cúng dường.”
2953. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Tôi đã cầm lấy tấm vải độc nhất và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
2954. Sau khi dâng cúng tấm vải độc nhất, tôi đã nói lớn tiếng rằng: “Bạch đấng Anh Hùng, bậc Đại Hiền Trí, nếu Ngài là vị Phật xin Ngài hãy giúp con vượt qua.”
2955. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi tán dương vật dâng cúng của tôi, đã nói lời tùy hỷ với tôi rằng:
2956. “Do tấm vải độc nhất này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) không đi đến đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.
2957. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi sáu lần và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương ba mươi ba lần.
2958. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Trong khi luân hồi ngươi sẽ hiện hữu ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người.
2959. Có sắc đẹp, hội đủ đức hạnh, có thân hình không bị kém sút, ngươi sẽ đạt được vải vóc không bị suy suyển, không thể ước lượng, theo như ước muốn.”
2960. Sau khi nói điều này, bậc Toàn Giác tên Padumuttara, bậc Trí Tuệ, đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
2961. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một tấm vải.
2962. Vải vóc hiện ra cho tôi theo mỗi lần giở lên của bước chân. Tôi đứng trên tấm vải ở bên dưới, có tấm che ở phía trên cho tôi.
2963. Và trong ngày hôm nay, nếu muốn tôi có thể che phủ bằng các loại vải vóc đối với bầu vũ trụ, luôn cả rừng rậm cùng với núi non.
2964. Nhờ vào chỉ một tấm vải ấy, trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác tôi có được màu da vàng chói, rồi tôi luân hồi ở cõi này cõi khác.
2965. Quả thành tựu của một tấm vải đã không đi đến sự hư hoại ở bất cứ nơi đâu. Đây là lần sanh sau cùng của tôi, (quả thành tựu ấy) được chín muồi cho tôi ở ngay cả nơi đây.
2966. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tấm vải trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một tấm vải.
2967. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
2968. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekadussadāyaka[34] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekadussadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2969. Lúc bấy giờ, đấng Toàn Giác tên Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, được tùy tùng bởi các bậc Lậu Tận, đã cư ngụ tại tu viện của Hội Chúng.
2970. Rồi đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī cùng với tám trăm ngàn bậc Lậu Tận đã đi ra từ cánh cổng tu viện.
2971. Là vị quấn y phục bằng da dê và cũng là vị mặc y phục bằng vỏ cây, tôi đã cầm lấy nước bông hoa kusumbha rồi đã đi đến gần bậc Toàn Giác.
2972. Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tràn đầy niềm phấn khởi, tay chắp lên, tôi đã cầm lấy nước bông hoa kusumbha và đã rưới lên đức Phật.
2973. Do việc làm ấy, bậc Toàn Giác tên Padumuttara đã tán dương việc làm của tôi, rồi đã ra đi theo như ý định.
2974. Kể từ khi tôi đã cúng dường năm ngàn giọt (nước), tôi đã (trở thành vị Thiên Vương) cai quản Thiên quốc đúng hai ngàn năm trăm kiếp.
2975. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương đúng hai ngàn năm trăm kiếp. Với nghiệp còn dư sót, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
2976. Vào lúc tôi là vị Thiên Vương, vào lúc tôi là vị thống lãnh nhân loại, tôi có tên là Phusita, chính tên gọi ấy là thuộc về tôi.
2977. Trong khi là vị Thiên nhân cũng như khi là loài người, mưa đổ xuống như nhỏ giọt ở xung quanh tôi một sải tay.
2978. Các lần tái sanh của tôi đã được tiêu diệt, các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận; điều này là quả báu của giọt nước.
2979. Mùi thơm tỏa ra từ thân thể của tôi giống như mùi của trầm hương. Mùi thơm của tôi từ cơ thể tỏa ra (khoảng cách) một nửa kosa.[35]
2980. Là người có được nghiệp phước thiện đang tỏa ra hương thơm của cõi trời, mọi người sau khi ngửi được mùi hương biết được là Phusita đã đi đến đây.
2981. Các cành cây, các lá cây, các nhánh cây, và luôn cả toàn bộ các loại cỏ, thuận theo ý định của tôi, có hương thơm được sanh lên trong giây lát.
2982. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trầm hương trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của giọt nước.
2983. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phusitakampiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phusitakampiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2984. Ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, đã ngự ở trong khu rừng đông đúc thú dữ.
2985. Không người nào đã dám đi đến để đảnh lễ ngôi bảo tháp. Bị bao phủ bởi cỏ, cây cối, và dây leo, ngôi bảo tháp đã bị sụp đổ.
2986. Khi ấy, tôi đã là người thợ rừng theo nghề của cha và ông nội. Tôi đã nhìn thấy ngôi bảo tháp đổ nát, bị chằng chịt bởi cỏ và dây leo ở trong khu rừng.
2987. Sau khi nhìn thấy ngôi bảo tháp của đức Phật, tôi đã thiết lập tâm cung kính rằng: “Đây là ngôi bảo tháp của đức Phật tối thượng, nó đã bị sụp đổ và còn tồn tại ở trong khu rừng.
2988. Thật không đúng đắn, không hợp lẽ đối với người biết được điều phải quấy! Ta hãy dọn sạch ngôi bảo tháp của đức Phật rồi hãy chăm lo công việc khác.”
2989. Sau khi dọn sạch cỏ, cây cối, và dây leo ở ngôi bảo tháp, tôi đã đảnh lễ tám lượt rồi đã cúi mình ra đi.
2990. Do việc làm ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
2991. Tại nơi ấy, có cung điện bằng vàng vô cùng rực rỡ đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, có chiều cao là sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
2992. Tôi đã cai quản Thiên quốc ba trăm lượt. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương hai mươi lăm lần.
2993. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đạt được của cải lớn lao, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dọn sạch (ngôi bảo tháp).
2994. Khi tôi đang di chuyển bằng kiệu khiêng, bằng lưng voi ở trong khu rừng, bất cứ hướng nào tôi đi đến, khu rừng đều có sự trợ giúp đến tôi.
2995. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, gốc cây hoặc thậm chí gai nhọn mà tôi không nhìn thấy bằng mắt, tự chính chúng được dời đi.
2996. Và bệnh cùi, nhọt, chàm, động kinh, ghẻ, lở, ngứa không xảy đến cho tôi; điều này là quả báu của việc dọn sạch (ngôi bảo tháp).
2997. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi không biết đến khối u mọc lên ở cơ thể của tôi.
2998. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi luân hồi ở hai cõi, ở bản thể Thiên nhân và loài người.
2999. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi có màu da vàng chói, có sự phát ra ánh sáng ở khắp mọi nơi.
3000. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là sự khó chịu biến mất và sự khoan khoái hiện hữu.
3001. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tâm tôi được trong sạch, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh.
3002. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là sau khi ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
3003. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc làm sạch sẽ.
3004. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pabhaṅkara đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pabhaṅkara là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3005. Tôi đã là người làm công cho người khác ở thành phố Bandhumatī. Tôi bị vướng bận trong việc quán xuyến công việc của người khác và (sống) lệ thuộc vào vật thực của người khác.
3006. Sau khi đi đến nơi vắng vẻ rồi ngồi xuống, vào lúc ấy tôi đã suy nghĩ như vầy: “Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian và hành động hướng thượng của ta là không có.”
3007. Thời điểm để dọn sạch cảnh giới tái sanh, cơ hội đã được sắp xếp cho ta. Việc tiếp xúc với địa ngục là khổ sở cho những chúng sanh thật sự không có phước báu.”
3008. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã đi đến gặp người chủ công việc. Sau khi yêu cầu về công việc trong một ngày, tôi đã đi vào khu rừng.
3009. Khi ấy, tôi đã mang lại cỏ, cây gỗ, và dây leo. Sau khi dựng lên ba cây gậy, tôi đã thực hiện cái lều bằng cỏ.
3010. Sau khi cúng hiến cái lều nhỏ ấy vì sự lợi ích của Hội Chúng, tôi đã trở về nội trong ngày hôm ấy và đã đi đến gặp người chủ công việc.
3011. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Do nhờ (quả báu của việc dâng cúng) cái lều nhỏ bằng cỏ, tại nơi ấy có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi đã được hóa hiện ra.
3012. (Cung điện ấy) có một ngàn khu vực, có một trăm quả cầu tròn được trang hoàng với những lá cờ, được làm với màu lục, có một trăm ngàn tháp nhọn đã hiện diện ở cung điện của tôi.
3013. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có tòa lâu đài hiện diện kế bên đúng theo ý định của tôi.
3014. Sự sợ hãi, hoặc trạng thái u mê, hoặc lông rởn ốc là không được biết đến, tôi không biết đến sự run sợ của tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3015. Các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, linh cẩu, tất cả đều tránh xa tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3016. Các loài bò sát và các hạng ma quỷ, các con rắn, các ác thần, và các quỷ sứ, các hạng này cũng tránh xa tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3017. Tôi không nhớ tôi có sự nhìn thấy giấc mộng xấu xa (lần nào), niệm của tôi hiện hữu; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3018. Chỉ nhờ vào cái lều nhỏ bằng cỏ, tôi thọ hưởng sự thành đạt, tôi đã đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
3019. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3020. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇakuṭidāyaka[36] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇakuṭidāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
3021. Lúc bấy giờ, ở thành phố Haṃsavatī tôi đã là vị Bà-la-môn, là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà.
3022. Tôi là người có dòng dõi, khéo được học tập, được các người học trò của mình trọng vọng. Khi ấy, tôi đã đi ra khỏi thành phố nhằm mục đích rửa tội bằng nước.
3023. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Được tháp tùng bởi một ngàn bậc Vô Lậu, đấng Chiến Thắng đã đi vào thành phố.
3024. Tôi đã nhìn thấy vị có dáng vóc vô cùng tao nhã như là đã được tạo nên bởi sự không còn dục vọng, được tháp tùng bởi các vị A-la-hán. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín.
3025. Tôi đã chắp tay lên ở đầu và đã cúi chào bậc có sự hành trì tốt đẹp. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng tấm áo choàng.
3026. Sau khi nâng lên bằng cả hai tay, tôi đã thảy tấm vải choàng lên. Hội chúng của đức Phật đứng đến nơi đâu thì tấm vải choàng đã che đến nơi ấy.
3027. Khi ấy, trong lúc làm tấm che cho Hội Chúng tỳ khưu đông đảo, v.v... đang đi khất thực, (tấm vải choàng) đã đứng yên, khiến cho tôi được vui mừng.
3028. Trong khi tôi đang từ nhà bước ra, đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả, bậc Đạo Sư, đứng ở tại đường lộ, đã nói lời tùy hỷ với tôi rằng:
3029. “Người nào với tâm tịnh tín, với ý vui mừng đã dâng cúng tấm vải choàng đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
3030. (Người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần.
3031. Người có được nghiệp phước thiện, trong khi đang sống ở thế giới chư Thiên, sẽ có được sự che phủ bằng tấm vải ở xung quanh một trăm do-tuần.
3032. Và (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi sáu lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
3033. Người có được nghiệp phước thiện, trong khi luân hồi ở cõi hữu, sẽ tức thời đạt được mọi điều ước nguyện ở trong tâm.
3034. Người nam này sẽ đạt được các tấm vải làm bằng tơ lụa, bằng sợi len, bằng chỉ lanh, và bằng bông vải có giá trị cao.
3035. Người nam này sẽ đạt được mọi ước nguyện ở trong tâm và sẽ thọ hưởng quả thành tựu của (việc dâng cúng) một tấm vải vào mọi thời điểm.
3036. Về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người ấy sẽ xuất gia và sẽ đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.”
3037. Ôi việc làm của tôi đã được thực hiện tốt đẹp đến đấng Toàn Tri, bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi dâng cúng một tấm vải choàng, tôi đã đạt được vị thế Bất Tử.
3038. Trong lúc tôi sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, có tấm che bằng vải được duy trì ở xung quanh tôi một sải tay.
3039. Tôi sử dụng y và vật dụng không phải do gợi ý xin xỏ, tôi có sự thành đạt về cơm ăn nước uống; điều này là quả báu của tấm áo choàng.
3040. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải.
3041. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Uttareyyadāyaka[37] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Uttareyyadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
3042. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, trong khi công bố về bốn Sự Thật, đã giúp cho nhiều người vượt qua.
3043. Lúc bấy giờ, tôi là vị đạo sĩ tóc bện có sự khổ hạnh cao tột. Khi ấy tôi di chuyển ở hư không, (vừa đi) vừa phất phơ các y phục bằng vỏ cây.
3044. Tôi không thể di chuyển ở phía trên của đức Phật tối thượng. Lúc ấy, tợ như con chim bị va vào tảng đá, tôi đã không đạt được sự di chuyển.
3045. Sự hư hoại về oai nghi này chưa từng xảy ra cho tôi trước đây. Giống như người nổi trên mặt nước, tôi (thường) di chuyển ở không trung như vậy.
3046. “Chắc là có người có bản chất cao thượng đang ngồi ở phía bên dưới. Hừ! Ta sẽ tìm hiểu việc này. Ít ra ta cũng có thể đạt được nguyên nhân.”
3047. Trong khi từ không trung đáp xuống, tôi đã nghe tiếng nói của bậc Đạo Sư đang thuyết giảng về tính chất vô thường, khi ấy tôi đã học tập điều ấy.
3048. Sau khi đã học tập sự suy tưởng về vô thường, tôi đã đi về khu ẩn cư của tôi. Sau khi sống đến hết tuổi thọ, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
3049. Khi đang ở vào thời điểm cuối cùng, tôi đã nhớ lại sự lắng nghe Giáo Pháp ấy. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3050. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp. Và tôi đã cai quản Thiên quốc năm mươi mốt lần.
3051. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
3052. Sau khi ngồi xuống ở căn nhà của người cha, vị Sa-môn có giác quan đã được tu tập, trong khi giải thích về câu kệ ngôn, đã đề cập đến tính chất vô thường.
3053. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi có nhớ lại sự suy tưởng (về vô thường) ấy, (nhưng) tôi (đã) không thấu triệt điểm cốt yếu là Niết Bàn, vị thế Bất Tử.
3054. “Quả vậy, các pháp hữu vi là vô thường, có pháp sanh và diệt, sau khi sanh lên chúng hoại diệt, sự tịnh lặng của chúng là an lạc.”[38]
3055. Sau khi lắng nghe câu kệ ngôn, tôi đã nhớ lại việc làm quá khứ. Sau khi ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
3056. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi nhận biết đức hạnh (của tôi), đức Phật, bậc Hữu Nhãn, đã cho tu lên bậc trên.
3057. Trong khi chỉ là đứa bé trai, tôi đã hoàn tất việc cần làm. Hôm nay, còn có việc gì tôi cần phải làm ở Giáo Pháp của người con trai dòng Sakya?
3058. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; (điều này) là quả báu của việc lắng nghe Chánh Pháp.
3059. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhammasavaṇiya[39] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhammasavaṇiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
3060. Tôi đã là người làm tràng hoa ở thành phố Haṃsavatī. Tôi đã lội xuống hồ sen và đã hái những đóa hoa sen.
3061. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, cùng với một trăm ngàn bậc có tâm an tịnh như thế ấy.
3062. Khi ấy, trong khi lưu tâm đến sự tiến hóa của tôi, Ngài cùng với các bậc Lậu Tận trong sạch có sáu thắng trí, đã đi đến chỗ của tôi.
3063. Sau khi nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, bậc Tự Chủ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, khi ấy tôi đã ngắt đóa hoa sen ở cuống và đã thảy lên không trung.
3064. “Bạch đấng Anh Hùng, nếu Ngài là đức Phật, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, xin cho các đóa sen tự đi đến và duy trì ở trên đỉnh đầu Ngài.”
3065. Đấng Đại Hùng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã chú nguyện. Do nhờ oai lực của đức Phật, chúng đã duy trì ở trên đỉnh đầu.
3066. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3067. Có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi đây. Nó được gọi tên là “Satapattaṃ” có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
3068. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc một ngàn lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.
3069. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi thọ hưởng nghiệp của mình, (là nghiệp) đã khéo được thực hiện bởi bản thân trong thời quá khứ.
3070. Chỉ nhờ vào một đóa sen hồng ấy, sau khi thọ hưởng sự thành đạt, tôi đã đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
3071. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3072. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một đóa sen hồng.
3073. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ukkhittapadumiya[40] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ukkhittapadumiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Nhang thơm, (vị cúng dường) nước, bông hoa punnāga, vị có tấm vải độc nhất, giọt nước (thơm), vị Pabhaṅkara, vị dâng cúng cái lều (cỏ), vị có tấm áo choàng, vị có sự lắng nghe, vị có một đóa sen hồng; các câu kệ được gộp chung lại ở phẩm này là một trăm câu kệ và bốn mươi bốn câu nữa.
Phẩm Gandhadhūpiya là phẩm thứ ba mươi bốn.
--ooOoo--
3074. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, trong khi giảng giải ở cõi này cõi khác, Ngài đã giúp cho nhiều người vượt qua.
3075. Khi ấy, tôi là con thiên nga chúa cao quý trong số các loài chim (lưỡng sanh). Tôi lặn xuống hồ nước thiên nhiên và vui giỡn trò đùa của loài thiên nga.
3076. Vào khi ấy, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đấng Chiến Thắng, đã đi đến ở bên trên của hồ nước thiên nhiên.
3077. Sau khi nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, bậc Tự Chủ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, tôi đã ngắt đóa sen hồng trăm cánh đáng yêu ở cuống hoa.
3078. Được tịnh tín vào đấng Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi dùng mỏ gắp lấy và thảy lên bầu trời, tôi đã cúng dường đến đức Phật tối thượng.
3079. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở không trung đã nói lời tùy hỷ đến tôi rằng:
3080. “Do một đóa sen hồng này và do các nguyện lực của tác ý, ngươi không đi đến đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.”
3081. Nói xong điều ấy, bậc Toàn Giác tên Padumuttara, sau khi tán dương việc làm của tôi, đã ra đi theo như ý định.
3082. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3083. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapadumiya[41] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapadumiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
3084. Lúc bấy giờ, tôi đã là con khỉ ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đang ngồi ở trong vùng đồi núi.
3085. (Đức Phật) đang làm cho tất cả các phương rực sáng tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa. Sau khi nhìn thấy bậc hội đủ các tướng mạo chính và phụ, tôi đã trở nên hoan hỷ.
3086. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, có tâm ý mừng rỡ vì phỉ lạc, tôi đã nâng ba đóa sen xanh lên ở trên đầu.
3087. Sau khi dâng lên các bông hoa đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, sau khi đạt đến sự tôn kính, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
3088. Trong khi đang cúi mình ra đi với tâm ý trong sạch, tôi đã rơi xuống ở giữa tảng đá và đã đi đến sự chấm dứt mạng sống.
3089. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3090. Tôi đã cai quản Thiên Quốc ba trăm lần và đã là đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần.
3091. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3092. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ti-uppalamāliya[42] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ti-uppalamāliya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3093. Đấng Đạo Sư tên Tissa đã là bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu. Sau khi nhìn thấy sự đoạn tận mầm mống tái sanh (sự Viên Tịch Niết Bàn) của Ngài, tôi đã treo lên lá cờ.
3094. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3095. Tôi đã cai quản Thiên Quốc ba trăm lần và đã là đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần.
3096. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi thọ hưởng nghiệp của mình, (là nghiệp) đã khéo được thực hiện bởi bản thân trong thời quá khứ.
3097. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lá cờ.
3098. Và giờ đây, trong lúc mong muốn tôi có thể che đậy (mặt đất) có rừng rậm luôn cả núi non bằng loại vải sợi lanh; vào khi ấy quả báu của tôi đã được thể hiện.
3099. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhajadāyaka[43] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhajadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
3100. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Bhūtagaṇa. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ vướng ở ngọn cây.
3101. Khi ấy, tôi đã thu nhặt ba bông hoa kiṅkiṇi và đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ, tôi đã cúng dường tấm y may từ vải bị quăng bỏ.
3102. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của ba đóa hoa.
3103. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikiṅkiṇipūjaka[44] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikiṅkiṇipūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
3104. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Hārita. Khi ấy, đấng Tự Chủ tên Nārada đã cư ngụ ở gốc cây.
3105. Tôi đã thực hiện gian nhà bằng cây sậy và đã lợp bằng cỏ. Sau khi dọn sạch sẽ con đường kinh hành, tôi đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ.
3106. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên trong mười bốn kiếp, và đã cai quản Thiên Quốc bảy mươi bốn lần.
3107. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi bảy lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
3108. Cung điện của tôi có chiều cao tợ như chiếc cầu vồng đã xuất hiện, có ngàn cây cột trụ, không thể so sánh, là cung điện có sự rực rỡ.
3109. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi thọ hưởng hai sự thành tựu, tôi đã xuất gia trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
3110. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh, sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3111. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Naḷāgārika[45] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Naḷāgārika là phần thứ năm.
--ooOoo--
3112. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Cāpala. Đức Phật tên Sudassana đã cư trú ở trong vùng đồi núi.
3113. Sau khi hái bông hoa ở núi Hi-mã-lạp, tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc đã vượt qua dòng nước lũ, không còn lậu hoặc, đang di chuyển ở không trung.
3114. Khi ấy, tôi đã đặt tám bông hoa campaka ở trên đầu rồi đã dâng lên đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc Đại Ẩn Sĩ.
3115. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3116. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Campakapupphiya[46] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Campakapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3117. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Romasa. Khi ấy, cũng có vị Phật tên Sambhava đã cư ngụ ở ngoài trời.
3118. Tôi đã lìa khỏi chỗ cư ngụ và đã mang đến (dâng) đóa sen hồng. Sau khi đã cầm giữ (đóa sen) một ngày, tôi đã quay trở về chỗ trú ngụ.
3119. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3120. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padumapūjaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padumapūjaka là phần thứ bảy.
(Tụng phẩm thứ mười ba).
--ooOoo--
3121. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Lambaka. Bậc Toàn Giác tên Upatissa đã đi kinh hành ở bên ngoài trời.
3122. Lúc bấy giờ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tôi đã nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại ấy.
3123. Với tâm ý trong sạch, khi ấy tôi đã dâng cúng nắm cỏ để làm chỗ ngồi đến đức Phật, bậc Đại Ẩn Sĩ ấy.
3124. Sau khi dâng cúng đến vị Trời của chư Thiên, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín nhiều hơn nữa. Tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác rồi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
3125. Vừa mới ra đi không bao lâu, (con sư tử) vua của loài thú đã tấn công tôi. Trong lúc bị con sư tử vật ngã, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
3126. (Do) việc làm đã được tôi thực hiện đến đức Phật tối thượng, bậc không còn lậu hoặc, là vừa mới xảy ra đây, tợ như tốc độ của mũi tên khéo được bắn ra, tôi đã đi đến thế giới của chư Thiên.
3127. Ở tại nơi ấy, tòa lâu đài xinh đẹp có một ngàn khu vực, có một trăm quả cầu tròn, được trang hoàng với những lá cờ, có màu lục, đã được hóa hiện ra do nghiệp phước thiện.
3128. Ánh sáng của tòa lâu đài tỏa ra tợ như ánh mặt trời đã mọc lên cao. Được quây quần với các nàng tiên nữ trẻ, tôi đã sướng vui theo ước muốn của dục vọng.
3129. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã đi đến bản thể loài người và đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
3130. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng chỗ ngồi trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của nắm cỏ.
3131. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇamuṭṭhidāyaka[47] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇamuṭṭhidāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
3132. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng đã vượt qua dòng nước lũ, không còn lậu hoặc, đang ngồi ở trong vùng đồi núi tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng.
3133. Sau khi nhìn thấy cây tinduka có trái, tôi đã ngắt cả chùm. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng đến (đức Phật) Vessabhū.
3134. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
3135. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tindukaphaladāyaka[48] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tindukaphaladāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
3136. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác tên Revata đã cư ngụ ở bờ sông. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng.
3137. (Đức Phật) trông tợ thỏi vàng đặt ở cửa miệng lò nung, như là than gỗ khadira cháy rực, tợ như vì sao osadhī đang chiếu sáng, tôi đã thể hiện sự chắp tay lại.
3138. (Kể từ khi) tôi đã thể hiện sự chắp tay ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc chắp tay.
3139. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekañjaliya[49] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekañjaliya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có đóa sen hồng, vị có tràng hoa sen xanh, lá cờ, vị có bông hoa kiṅkiṇi, (gian nhà bằng) cây sậy, bông hoa campaka, đóa sen hồng, nắm (cỏ), cây tinduka, và vị chắp tay lại là tương tợ; (tổng cộng) có sáu mươi sáu câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Ekapadumiya là phẩm thứ ba mươi lăm.
--ooOoo--
3140. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác được vây quanh bởi hội chúng chư Thiên.
3141. Trong lúc Ngài đang công bố về bốn Sự Thật (và) đang tiếp độ đám đông dân chúng, tôi đã lắng nghe lời nói ngọt ngào tương tợ tiếng hót của loài chim karavīka.
3142. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín vào âm vang giọng nói Phạm Thiên của bậc Hiền Trí Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian, tôi đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
3143. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của niềm tịnh tín.
3144. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saddasaññaka[50] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saddasaññaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
3145. Lúc bấy giờ, tôi đã là người trồng lúa mạch ở thành phố Aruṇavatī. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác ở đường lộ, tôi đã trải xuống bó rơm lúa mạch.
3146. Biết được ý định của tôi, bậc có lòng thương tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Lãnh Đạo cao cả của thế gian Sikhī, đã ngồi xuống ở tấm trải bằng rơm lúa mạch.
3147. Sau khi nhìn thấy bậc Vô Nhiễm, vị có thiền chứng vĩ đại, đấng Hướng Đạo, đã ngồi xuống, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tại nơi ấy tôi đã mệnh chung.
3148. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc trải thảm rơm lúa mạch.
3149. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Yavakalāpiya[51] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Yavakalāpiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3150. Sau khi nhìn thấy cây kiṃsuka đã được trổ hoa, tôi đã chắp tay lên. Sau khi suy tưởng về đức Phật Siddhattha, tôi đã cúng dường ở không trung.
3151. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3152. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṃsukapūjaka[52] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṃsukapūjaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
3153. Và sau khi nhìn thấy dấu chân đã bước qua của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī, tôi đã khoác tấm da dê một bên vai và đã đảnh lễ dấu chân tối thượng.
3154. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa, một loài thảo mộc mọc ở trên trái đất, đã được trổ hoa, tôi đã ngắt một chùm và đã cúng dường ở dấu chân có hình bánh xe.
3155. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường dấu chân.
3156. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sakoṭakakoraṇḍadāyaka[53] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sakoṭakakoraṇḍadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
3157. Lúc bấy giờ, tôi đã đi sâu vào khu rừng hoang rậm và đã đốn cây tre. Sau khi cầm lấy thanh đòn ngang, tôi đã dâng cúng đến Hội Chúng.
3158. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã đảnh lễ các bậc có sự hành trì tốt đẹp. Tôi cũng đã dâng cúng thanh đòn ngang, rồi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
3159. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cây gậy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây gậy.
3160. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Daṇḍadāyaka[54] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Daṇḍadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
3161. Bậc Giác Ngộ tên Sataraṃsī, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, sau khi xuất khỏi định đã đi đến tôi về việc khất thực.
3162. Sau khi nhìn thấy vị Phật Độc Giác có tâm thanh tịnh, tôi đã dâng cúng món cháo xoài đến Ngài với tâm ý trong sạch.
3163. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây 94 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món cháo xoài.
3164. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ambayāgudāyaka[55] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ambayāgudāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3165. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, trong khi lìa khỏi việc nghỉ ngơi ban ngày, trong khi đi đó đây về việc khất thực, Ngài đã đi đến gần chỗ của tôi.
3166. Do điều ấy, được sung sướng, có tâm ý vui mừng, tôi đã dâng cúng chiếc hộp đựng muối xinh đẹp đến đức Phật tối thượng như thế ấy, (và) tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
3167. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng chiếc hộp xinh đẹp trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc hộp.
3168. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Supuṭakapūjaka[56] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Supuṭakapūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
3169. Do được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng một chiếc giường đến đức Thế Tôn Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
3170. Tôi đã đạt được phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển của cõi trời. Do nhờ sự dâng cúng cái giường nhỏ ấy, tôi đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc.
3171. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc giường trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.
3172. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mañcadāyaka[57] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mañcadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
3173. Lúc bấy giờ, tôi là đạo sĩ lõa thể. Vị tỳ khưu và tôi đã bước lên chiếc thuyền. Trong khi chiếc thuyền đang bị đắm, vị tỳ khưu đã ban cho tôi sự nương nhờ.
3174. (Kể từ khi) vị ấy ban cho sự nương nhờ đến tôi trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đi đến nương nhờ.
3175. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saraṇagamaniya[58] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saraṇagamaniya là phần thứ chín.
--ooOoo--
3176. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác tên Tissa đã cư ngụ ở trong khu rừng lớn. Sau khi Ngài đã từ chính cõi trời Đẩu Suất về lại nơi đây, tôi đã dâng cúng vật thực.
3177. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác có danh vọng lớn lao tên Tissa, sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đi đến cõi trời Đẩu Suất.
3178. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
3179. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piṇḍapātika[59] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piṇḍapātika là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có sự suy tưởng về âm thanh, vị trồng lúa mạch, các bông hoa kiṃsuka, và bông hoa koraṇḍa, thanh đòn ngang, món cháo xoài, vị có chiếc hộp xinh đẹp, vị dâng cúng chiếc giường, sự nương nhờ, và món vật thực; (tổng cộng) có bốn mươi câu kệ.
Phẩm Saddasaññaka là phẩm thứ ba mươi sáu.
--ooOoo--
3180. Sau khi từ cõi trời Đạo Lợi đi đến nơi đây, người thanh niên tên Maṅgala đã cầm lấy bông hoa mandārava dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.
3181. Tôi đã đặt ở trên đỉnh đầu của (đức Phật) đang ngồi nhập định. Sau khi đã duy trì bảy ngày, tôi đã trở về lại thế giới chư Thiên.
3182. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3183. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mandāravapupphiya[60] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mandāravapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
3184. Sau khi từ cõi trời Dạ Ma đi đến vị Gotama vinh quang và quý trọng ở cõi người, tôi đã cầm lấy bông hoa kakkāru và đã dâng lên đức Phật.
3185. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3186. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kakkārupupphiya[61] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kakkārupupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3187. Đấng Toàn Giác tên Phussa là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Có ước muốn độc cư, bậc Trí Tuệ đã đi đến gần chỗ của tôi.
3188. Sau khi đã làm cho tâm được tịnh tín vào đấng Đại Bi, bậc Chiến Thắng ấy, tôi đã cầm lấy rễ và củ sen rồi đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
3189. Kể từ khi tôi đã dâng cúng củ sen trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
3190. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhisamuḷāladāyaka[62] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhisamuḷāladāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
3191. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị thầy về pháp thuật ở núi Hi-mã-lạp. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị có danh vọng lớn lao đang đi kinh hành.
3192. Khi ấy, tôi đã đặt ba bông hoa kesarī ở trên đầu, rồi đã đi đến gần và đã cúng dường đến bậc Toàn Giác Vessabhū.
3193. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3194. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kesarapupphiya[63] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kesarapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
3195. Lúc bấy giờ, bậc Giác Ngộ tên Paduma đã sống ở ngọn núi Cittakūṭa. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại ấy.
3196. Sau khi nhìn thấy cây aṅkola đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã thu nhặt (bông hoa). Tôi đã đi đến gặp bậc Giác Ngộ và đã cúng dường đấng Chiến Thắng Paduma.
3197. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3198. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aṅkolapupphiya[64] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aṅkolapupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
3199. Đấng Toàn Giác có màu da vàng chói, tợ như cây cột trụ bằng vàng, có ba mươi hai hảo tướng, đang đi ở khu phố chợ.
3200. Sau khi ngồi xuống ở nơi cao quý của tòa lâu đài, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã cầm lấy bông hoa kadamda và đã cúng dường đến đức Phật Vipassī.
3201. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3202. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kadambapupphiya[65] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kadambapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3203. Lúc bấy giờ, đấng Giác Ngộ tên Anoma đã sống ở bờ sông Gaṅgā. Sau khi cầm lấy bông hoa uddālaka, tôi đã cúng dường đến bậc không bị đánh bại.
3204. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3205. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Uddālapupphiya[66] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Uddālapupphiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
3206. Và bậc Giác Ngộ Upasanta sống ở trong vùng đồi núi. Tôi đã cầm lấy một bông hoa campaka và đã đi đến gần bậc Tối Thượng Nhân.
3207. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bằng hai tay và đã cúng dường đến đấng Hiền Trí Độc Giác tối thượng, bậc không bị đánh bại.
3208. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3209. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekacampakapupphiya[67] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekacampakapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
3210. Tôi đi xuôi theo dòng nước ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa.
3211. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa timira và đã rải rắc ở đỉnh đầu đấng Hiền Trí Độc Giác tối thượng.
3212. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3213. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Timirapupphiya[68] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Timirapupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
3214. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu, đang đi kinh hành.
3215. Tôi đã thu hái bông hoa salala và đã dâng cúng đến đức Phật. Đấng Đại Hùng đã ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.
3216. Sau khi thọ nhận, đấng Toàn Giác, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, đấng Đại Hùng đã ngửi (bông hoa), trong khi tôi đang nhìn xem.
3217. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. Tôi đã chắp tay lên và đã leo lên ngọn núi lần nữa.
3218. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3219. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Salalapupphiya[69] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Salalapupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông hoa mandārava, bông hoa kakkāru, củ sen, bông hoa kesara, bông hoa aṅkola, vị có bông hoa kadamba, bông hoa uddāla, một bông hoa campaka, bông hoa timira, và cả bông hoa salala nữa; (tổng cộng) có bốn mươi câu kệ.
Phẩm Mandāravapupphiya là phẩm thứ ba mươi bảy.
--ooOoo--
3220. Sau khi nhìn thấy cây pāṭalī, một loài thảo mộc mọc ở trên trái đất, được xanh tươi, tôi đã đắp y một bên vai, chắp tay lên, và đã đảnh lễ cây pāṭalī.
3221. Tôi đã chắp tay lên và thể hiện tâm ý cung kính đến bậc trong sạch bên trong, trong sạch bên ngoài, đã khéo được giải thoát, không còn lậu hoặc.
3222. Tôi đã đảnh lễ cây pāṭalī tợ như (đảnh lễ) đấng Toàn Giác Vipassī, bậc được thế gian tôn sùng, là đại dương về lòng bi mẫn và trí tuệ, đang ở trước mặt.
3223. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ cội Bồ Đề trước đây 91 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.
3224. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bodhivandaka[70] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bodhivandaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
3225. Đức Thế Tôn tên Vipassī là đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả. Được tháp tùng bởi những người học trò của mình, đấng Chiến Thắng đã đi vào thành Bandhuma.
3226. Tôi đã đặt ba bông hoa pāṭalī vào lòng của tôi. Chính vì có ý định gội đầu, tôi đã đi đến bến tàu ở dòng sông.
3227. Sau khi đi ra khỏi thành Bandhumatī, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian được chói sáng như là bông hoa súng, được cháy rực như là ngọn lửa tế thần.
3228. Tợ như con hổ hùng tráng quý cao, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, đấng Cao Quý trong số các vị Sa-môn dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đang bước đi.
3229. Được tịnh tín ở đấng Thiện Thệ, bậc có sự rửa sạch các cấu uế ô nhiễm ấy, tôi đã cầm lấy ba bông hoa và đã cúng dường đến đức Phật tối thượng.
3230. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3231. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pāṭalipupphiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pāṭalipupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3232. Lúc bấy giờ, tôi đã là con khỉ ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đang ngồi ở trong vùng đồi núi.[71]
3233. (Đức Phật) đang làm cho tất cả các phương rực sáng tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa. Sau khi nhìn thấy bậc hội đủ các tướng mạo chính và phụ, tôi đã trở nên hoan hỷ.
3234. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, có tâm ý mừng rỡ vì phỉ lạc, tôi đã nâng ba đóa sen xanh lên ở trên đầu.
3235. Sau khi cúng dường các bông hoa đến bậc Đại Ẩn Sĩ Phussa, sau khi thể hiện sự tôn kính, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
3236. Trong khi đang cúi mình ra đi với tâm ý trong sạch, tôi đã rơi xuống ở giữa tảng đá và đã đi đến sự chấm dứt mạng sống.
3237. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ cuộc sống trước đây, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3238. Và tôi đã cai quản Thiên quốc ba trăm lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần.
3239. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3240. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ti-uppalamāliya[72] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ti-uppalamāliya là phần thứ ba.
--ooOoo--
3241. Vào lúc đấng Toàn Giác, bậc Đại Ẩn Sĩ Padumuttara đã Niết Bàn, tất cả dân chúng đã tụ hội lại và họ đã di chuyển nhục thân (của Ngài).
3242. Trong khi nhục thân đang được di chuyển, trong khi các chiếc trống đang được vang lên, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường bông hoa paṭṭi.
3243. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; (điều này) là quả báu ở việc đã cúng dường nhục thân (đức Phật).
3244. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3245. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3246. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṭṭipupphiya[73] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṭṭipupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
3247. Bậc Toàn Giác tên Sumana, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, đã hiện khởi. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường bông hoa thất diệp.
3248. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa thất diệp trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bông hoa thất diệp.
3249. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3250. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3251. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattapaṇṇiya[74] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattapaṇṇiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
3252. Khi giàn hỏa thiêu đang được thực hiện và khi vật thơm các loại được đặt vào, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường một nắm tay vật thơm.
3253. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường giàn hỏa thiêu trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường lễ hỏa táng.
3254. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3255. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3256. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhamuṭṭhiya[75] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhamuṭṭhiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3257. Khi đức Thế Tôn tên Padumuttara đã viên tịch Niết Bàn và đã được đưa lên giàn hỏa thiêu, tôi đã cúng dường bông hoa sālā.
3258. Kể từ khi tôi đã cúng dường bông hoa trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường lễ hỏa táng.
3259. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3260. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3261. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[76] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
3262. Tôi sở hữu chiếc quạt lá cọ vô cùng giá trị được bao phủ với các bông hoa nhài, và tôi đã dâng cúng đến đức Thế Tôn Siddhattha.
3263. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng chiếc quạt lá cọ trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc quạt lá cọ.
3264. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3265. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3266. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sumanatālavaṇṭiya[77] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sumanatālavaṇṭiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
3267. Sau khi thực hiện tràng hoa nhài, tôi đã nắm giữ (tràng hoa) đứng ở phía trước đức Thế Tôn Siddhattha, bậc đã gội rửa (tội lỗi), vị đạo sĩ khổ hạnh.
3268. (Kể từ khi) tôi đã nắm giữ tràng hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc nắm giữ tràng hoa nhài.
3269. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3270. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3271. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sumanadāmiya[78] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sumanadāmiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
3272. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đang ngồi ở trong vùng đồi núi tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng.
3273. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã chắp tay lên ở đầu. Tôi đã cầm lấy trái cây kāsumāri và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
3274. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
3275. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3276. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3277. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kāsumāriphaladāyaka[79] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kāsumāriphaladāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Cội cây Bồ Đề, bông hoa pāṭalī, vị có (ba) đóa sen xanh, bông hoa paṭṭi, các bông hoa thất diệp, nắm tay vật thơm, giàn hỏa thiêu, (chiếc quạt) lá cọ, vị có tràng hoa nhài, và luôn cả vị có trái cây kāsumāri; (tổng cộng) có năm mươi chín câu kệ.
Phẩm Bodhivandaka là phẩm thứ ba mươi tám.
--ooOoo--
[1] Padumakesariya nghĩa là “vị liên quan đến việc rải rắc nhựy (kesara) sen hồng (paduma).”
[2] Sabbagandhiya nghĩa là “vị liên quan đến tất cả (sabba) các loại hương thơm (gandha).”
[3] Paramannadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật thực (anna) thượng hạng (parama).”
[4] Dhammasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về Giáo Pháp (dhamma).”
[5] Phaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala).”
[6] Sampasādaka nghĩa là “vị tự tạo niềm tin (pasādaka) cho chính mình (sam).”
[7] Ārāmadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tu viện (ārāma).”
[8] Anulepadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vữa tô (anulepa).”
[9] Buddhasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về đức Phật (buddha).”
[10] Pabbhāradāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) sườn núi (pabbhāra).”
[11] Ārakkhadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) sự bảo vệ (ārakkha).”
[12] Bhojanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật thực (bhojana).”
[13] Gatasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về đức Phật đã đi qua (gata).”
[14] Sattapadumiya nghĩa là “vị liên quan đến bảy (satta) đóa sen hồng (paduma).”
[15] Pupphāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chỗ ngồi (āsana) bằng bông hoa (puppha).”
[16] Āsanatthavika nghĩa là “vị ngợi ca (thavika) ngôi bảo tọa (āsana).”
[17] Saddasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về âm thanh (sadda).”
[18] Tiraṃsiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) nguồn ánh sáng (raṃsi).”
[19] Kumudamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (mālā) kumuda.”
[20] Ummāpupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) ummā.”
[21] Pulinapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) cát (pulina).”
[22] Hāsajanaka nghĩa là “vị làm sanh khởi (janaka) nụ cười (hāsa).”
[23] Yaññasāmika nghĩa là “vị làm chủ (sāmika) lễ cúng tế (yañña).”
[24] Nimittasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về hiện tướng (nimitta).”
[25] Annasaṃsāvaka nghĩa là “vị ngợi ca (saṃsāvaka) về việc dâng cúng vật thực (anna).”
[26] abbuda là số 1 thêm vào 56 số không, nirabbuda là số 1 thêm vào 63 số không (ND).
[27] Nigguṇḍipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) nigguṇḍi.”
[28] Sumanāveliya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (āveli) bằng hoa nhài (sumana).”
[29] Pupphachattiya nghĩa là “vị liên quan đến chiếc lọng che (chatta) bằng bông hoa.”
[30] Ký sự này tương tợ ký sự 106 về trưởng lão Udakapūjaka.
[31] Udakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) nước (udaka).”
[32] Ký sự này giống y như ký sự 159 về trưởng lão Punnāgapupphiya.
[33] Punnāgapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) punnāga.”
[34] Ekadussadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) một (eka) tấm vải (dussa).”
[35] kosa là khoảng cách bằng 500 lần chiều dài của cây cung.
[36] Tiṇakuṭidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cái lều nhỏ (kuṭi) bằng cỏ (tiṇa).”
[37] Uttareyyadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm áo choàng (uttareyya).”
[38] Câu kệ này được thấy ở nhiều nơi thuộc Tạng Kinh.
[39] Dhammasavaṇiya nghĩa là “vị liên quan đến việc lắng nghe (savaṇa) Pháp (dhamma).”
[40] Ukkhittapadumiya nghĩa là “vị liên quan đến đóa sen hồng (paduma) đã được thảy lên (ukkhitta) không trung.”
[41] Ekapadumiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) đóa sen hồng (paduma).”
[42] Ti-uppalamāliya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa (mālā) gồm ba (ti) đóa sen xanh (uppala).”
[43] Dhajadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) lá cờ (dhaja).”
[44] Tikiṅkiṇipūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) ba (ti) bông hoa kiṅkiṇi.”
[45] Naḷāgārika nghĩa là “vị liên quan đến gian nhà (āgāra) bằng cây sậy (naḷa).”
[46] Campakapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) campaka.”
[47] Tiṇamuṭṭhidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nắm (muṭṭhi) cỏ (tiṇa).”
[48] Tindukaphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) tinduka.”
[49] Ekañjaliya nghĩa là “vị liên quan đến một lần (eka) chắp tay (añjali).”
[50] Saddasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về âm thanh (sadda).”
[51] Yavakalāpiya nghĩa là “vị liên quan đến bó rơm (kalāpa) lúa mạch (yava).”
[52] Kiṃsukapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa kiṃsuka.”
[53] Sakoṭakakoraṇḍadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chùm (sakoṭaka) bông hoa koraṇḍa.”
[54] Daṇḍadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cây gậy (daṇḍa).”
[55] Ambayāgudāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cháo (yāgu) xoài (amba).”
[56] Supuṭakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) chiếc hộp (puṭaka) xinh đẹp (su).”
[57] Mañcadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (mañca).”
[58] Saraṇagamaniya nghĩa là “vị liên quan việc đi đến (gamana) nương nhờ (saraṇa), tức là đã quy y.”
[59] Piṇḍapātika nghĩa là “vị liên quan đến đồ ăn khất thực (piṇḍapāta).”
[60] Mandāravapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) mandārava.”
[61] Kakkārupupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kakkāru.”
[62] Bhisamuḷāladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) rễ (bhisa) và củ sen (muḷāla).”
[63] Kesarapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kesarī.”
[64] Aṅkolapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) aṅkola.”
[65] Kadambapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kadamba.”
[66] Uddālapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) uddāla.”
[67] Ekacampakapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) bông hoa (puppha) campaka.”
[68] Timirapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) timira.”
[69] Salalapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) salala.”
[70] Bodhivandaka nghĩa là “vị đảnh lễ (vandaka) cội cây Bồ Đề (bodhi).”
[71] Nội dung ký sự này tương tợ như ký sự 342 về trưởng lão Ti-uppalamāliya.
[72] Ti-uppalamāliya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa (mālā) gồm ba (ti) đóa sen xanh (uppala).”
[73] Paṭṭipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) paṭṭi.”
[74] Sattapaṇṇiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa thất diệp (sattapaṇṇa).”
[75] Gandhamuṭṭhiya nghĩa là “vị liên quan đến nắm tay (muṭṭhi) vật thơm (gandha).”
[76] Citakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) giàn hỏa thiêu (citaka).”
[77] Sumanatālavaṇṭiya nghĩa là “vị liên quan đến chiếc quạt (vaṇṭa) lá cọ (tāla) được bao phủ với các bông hoa nhài (sumana).”
[78] Sumanadāmiya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (dāma) bông nhài (sumana).”
[79] Kāsumāriphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) kāsumāri.”