TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 39
APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KÝ SỰ
Tập Một
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
2271. Sau khi nhìn thấy cây kaṇikāra đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã hái xuống (bông hoa) và đã dâng lên (đức Phật) Tissa, bậc đã vượt qua dòng lũ như thế ấy.
2272. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2273. Trước đây ba mươi lăm kiếp, (tôi đã là) vị nổi danh tên Aruṇapāṇī, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2274. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kaṇikārapupphiya[1] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kaṇikārapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2275. Đức Thế Tôn Sikhī hùng tráng có màu da vàng chói, có trăm ánh hào quang, có sự huy hoàng, có tâm từ ái, đã bước lên con đường kinh hành.
2276. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, sau khi đảnh lễ bậc có trí tuệ tối thượng, tôi đã cầm lấy bông hoa minela và đã dâng lên đức Phật.
2277.(Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2278. Vào kiếp (thứ) hai mươi chín, (tôi đã là) vị tên Sumedhayasa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2279. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Minelapupphiya[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Minelapupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2280. Bậc Toàn Tri, đấng Lãnh Đạo Thế Gian (sáng chói) trông tợ như cây cột trụ bằng vàng. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã lội xuống hồ nước lạnh và đã tắm.
2281. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa kiṅkiṇi và đã dâng lên (đức Phật) Vipassassī, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2263. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2283. Vào kiếp (thứ) hai mươi bảy, (tôi đã là) đức vua Bhīmaratha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2284. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṅkiṇikapupphiya[3] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṅkiṇikapupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2285. Đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu dẫn dầu các bậc Thinh Văn đã đi đến bờ sông Gaṅgā.
2286. Sông Gaṅgā đã tràn nước đến mé bờ khiến loài quạ có thể uống được, khó thể vượt qua. Tôi đã đưa đức Phật, bậc Tối Thượng của loài người, cùng với Hội Chúng tỳ khưu sang sông.
2287. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đưa sang (sông).
2288. Trước đây một ngàn ba trăm kiếp, năm vị (cùng tên) Sabbhogavā đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2289. Và trong kiếp sống cuối cùng này, tôi đã được sanh ra trong gia tộc Bà-la-môn. Cùng với ba người bạn, tôi đã xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇiya[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2290. Tôi đã người phụ việc tu viện của đức Thế Tôn Vipassī. Tôi đã cầm lấy bông hoa nigguṇḍi và đã dâng lên đức Phật.
2291. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi một kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2292. Trước đây ba mươi lăm kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Mahāpatāpa, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2293. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nigguṇḍipupphiya[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nigguṇḍipupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2294. Sau khi nhìn thấy vị Sa-môn có tâm ý thanh tịnh, không bị chộn rộn, đang thọ thực, tôi đã cầm lấy bình nước và đã dâng cúng đến (đức Phật) Siddhattha.
2295. Giờ đây, tôi không còn bợn nhơ, được xa lìa ô nhiễm, sự hoài nghi đã được đoạn tận. Trong khi sanh lên ở cõi hữu, quả báu tốt đẹp phát sanh (đến tôi).
2296. Kể từ khi tôi đã cúng dường nước trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng nước.
2297. Trước đây sáu mươi mốt kiếp, tôi đã là (vị có tên) Vimala độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2298. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakadāyaka[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2299. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Điều Phục Nhân Siddhattha ngồi ở trong vùng đồi núi đang chói sáng như là cây kaṇikāra, đang làm cho tất cả các phương rực sáng.
2300. Khi ấy, không do dự tôi đã dùng cây cung và đã dương lên mũi tên. Sau khi đã cắt đứt bông hoa có luôn cả cuống, tôi đã dâng lên đức Phật.
2301. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2302. Trước đây năm mươi mốt kiếp, tôi đã là (vị có tên) Jutindhara độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2303. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Salalamāliya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Salalamāliya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2304. Trong khi đi theo sau từng bước chân của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, tôi đã nhìn thấy bàn chân đang bước đi được điểm tô dấu hiệu hình bánh xe (của Ngài).
2305. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa đã được trổ hoa, tôi đã cúng dường (bông hoa) ở dấu chân (Ngài). Trở nên mừng rỡ, tôi đã đảnh lễ dấu chân tối thượng với tâm mừng rỡ.
2306. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường dấu chân (đức Phật).
2307. Vào kiếp thứ bảy mươi lăm, tôi đã là Vītamala độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2308. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Koraṇḍapupphiya[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Koraṇḍapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2309. Chân đế bình bát đã được tôi cúng dường đến đấng quyến thuộc của thế gian Sikhī. Tôi cai quản toàn bộ trái đất này cùng với tất cả tài nguyên.
2310. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2311. Trước đây hai mươi bảy kiếp, bốn người (cùng) tên Samanta-caraṇa đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2312. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ādhāradāyaka[9] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ādhāradāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2313. Tôi đã cúng dường một chiếc lọng đến đức Thế Tộn Tissa, vị Trời của chư Thiên như thế ấy, với tâm ý trong sạch.
2314. Điều ác xấu của tôi được chận đứng, có sự thành tựu của điều thiện. (Chư Thiên) nắm giữ chiếc lọng ở không trung (che cho tôi), điều này là quả báu của nghiệp quá khứ.
2315. (Đây là) lần sau cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2316. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc lọng trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.
2317. Trước đây bảy mươi hai kiếp, tám bậc thống lãnh dân chúng (cùng) tên Mahānidāna đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2318. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vātātapanivāriya[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vātātapanivāriya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông hoa kaṇikāra, bông hoa minela, bông hoa kiṅkiṇi, và với sự vượt qua, vị có bông hoa nigguṇḍi, vị cúng dường nước, bông hoa salala, và bông hoa kuraṇḍaka, (vị dâng cúng) chân đế bình bát, lọng che nắng; (tổng cộng) có bốn mươi tám câu kệ.
Phẩm Kaṇikārapupphiya là phẩm thứ hai mươi mốt.
--ooOoo--
2319. Con voi hạng nhất có ngà dài như gọng xe, vững chãi, đã được tôi dâng cúng đến đức Thế Tôn Siddhattha, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2320. Tôi thọ hưởng mục đích tối thượng là trạng thái an tịnh vô thượng. Vật thí cao quý đã được tôi dâng cúng đến vị tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian.
2321. Kể từ khi tôi đã dâng cúng con voi trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng con voi.
2322. Vào kiếp (thứ) bảy mươi tám, mười sáu vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Samantapāsādika đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2323. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Hatthidāyaka[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Hatthidāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2324. Tôi đã dâng cúng đôi dép đến vị ẩn sĩ già cả, sống ở rừng, có sự khổ hạnh dài lâu, có nội tâm đã được phát triển.
2325. Bạch đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, do việc làm ấy con thọ hưởng mọi phương tiện di chuyển; điều này là quả báu của nghiệp quá khứ.
2326. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đôi dép.
2327. Trước đây bảy mươi bảy kiếp, tám vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Suyāna đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2328. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pānadhidāyaka[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pānadhidāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2329. Vào lúc ấy, trong lúc tiếp độ đám đông dân chúng thành tựu Niết Bàn, (đức Phật) Vessabhū, đứng đầu Hội Chúng tỳ khưu, (đã) thuyết giảng về các Chân Lý Cao Thượng.
2330. Là người thành tựu tâm bi mẫn cao tột, tôi đã đi đến cuộc hội họp. Ngồi xuống, an tịnh, tôi đây đã lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đạo Sư.
2331. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, tôi đã đi đến thế giới của chư Thiên. Tôi đã cư ngụ giữa chư Thiên trong thành phố ở tại nơi ấy ba mươi kiếp.
2332.Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về Chân Lý.
2333. Trước đây hai mươi sáu kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Ekaphusita, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2334. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saccasaññaka[13] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saccasaññaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2335. Sau khi nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ của bậc Đạo Sư được treo ở ngọn cây, tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ tấm y may từ vải bị quăng bỏ.
2336. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2337. Trước đây hai mươi lăm kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Amitābha, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2338. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekasaññaka[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekasaññaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2339. (Tôi đã nhìn thấy đức Phật) tợ như mặt trời đang mọc lên, tợ như mặt trời có tia sáng màu trắng, tợ như con hổ hùng tráng quý cao khéo được sanh ra, (đang ngồi) ở trong vùng đồi núi.
2340. Năng lực ấy của đức Phật chói sáng ở trong vùng đồi núi. Sau khi đã làm cho tâm được tịnh tín ở ánh hào quang, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2341. Do nhờ sự tịnh tín ấy ở trong tâm và cũng nhờ vào sự niệm tưởng đến đức Phật, việc thiện đã được tôi thực hiện tốt đẹp trong các kiếp còn lại.
2342. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2343. Vào kiếp thứ năm mươi bảy, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Sujāta, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2344. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Raṃsisaññaka[15] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Raṃsisaññaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2345. Ở tại cội cây Assattha đã được phát triển, có ánh sáng màu xanh lục, tôi đã đạt được sự suy tưởng thuần túy hướng đến đức Phật, có niệm (đầy đủ).
2346. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, do nhờ tác động của sự suy tưởng ấy, sự đoạn tận các lậu hoặc đã được tôi đạt đến.
2347. Trước đây mười ba kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Dhaniṭṭha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2348. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saṇṭhita[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saṇṭhita là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2349. Chiếc quạt lá cọ đã được tôi dâng cúng đến đấng quyến thuộc của mặt trời Tissa nhằm mục đích dập tắt sự nóng nực và làm lắng dịu sự bực bội.
2350. Tôi tự mình dập tắt ngọn lửa tham ái và đặc biệt hơn nữa là ngọn lửa sân hận. Và tôi dập tắt ngọn lửa si mê; điều này là quả báu của chiếc quạt lá cọ.
2351. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2352. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2353. Trước đây sáu mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Mahānāma, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2354. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tālavaṇṭadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tālavaṇṭadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2355. Sau khi cầm lấy tấm vải choàng thô xấu, tôi đã (đi đến) thành phố của vị thầy tế độ. Và tôi học tập về chú thuật làm bẻ gãy mũi tên.
2356. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng. Là bậc ưu tú, quý cao, tột đỉnh, đức Phật Tissa là bậc Tối Thượng của đám đông.
2357. Khi tấm vải choàng thô xấu được trải ra, đấng Tối Thượng Nhân, bậc Đại Hùng, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu trong khi bước đi đã đặt chân lên (tấm vải choàng).
2358. Sau khi nhìn thấy đấng Quang Đăng của thế gian ấy tợ như mặt trăng không bị bợn nhơ, với tâm ý trong sạch tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư.
2359. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng tấm vải choàng thô xấu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm vải choàng thô xấu.
2360. Trước đây ba mươi bảy kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Sunanda, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2361. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Akkantasaññaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Akkantasaññaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2362. Ngồi ở nơi cao quý của tòa lâu đài, được trọng vọng bởi đám phụ nữ, tôi đã nhìn thấy vị Sa-môn bị lâm bệnh và đã thỉnh vào trong nhà.
2363. Khi bậc Đại Hùng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đã đi vào, tôi đã dâng cúng bơ lỏng và dầu ăn đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha.
2364. Sau khi nhìn thấy sự mệt nhọc đã được lắng xuống, khuôn mặt và giác quan đã được rạng rỡ, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư và đã ngợi ca ở phía trước Ngài.
2365. Là bậc đã đạt đến sự toàn hảo về thần thông, sau khi nhìn thấy tôi có nội tâm đã khéo được tịnh tín, bậc Trí Tuệ đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
2366. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây 94 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bơ lỏng và dầu ăn.
2367. Trước đây mười bảy kiếp, (tôi đã là) vị tên Jutideva, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2368. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sappidāyaka[17] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sappidāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2369. Con đường kinh hành của đức Thế Tôn Piyadassī đã được tôi làm sạch sẽ, được che bởi những cây sậy, có sự ngăn cản gió và sức nóng.
2370. Tôi đã nỗ lực trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư nhằm mục đích lánh xa điều ác, nhằm sự thành tựu việc thiện, nhằm sự dứt bỏ các điều ô nhiễm.
2371. Trước đây 11 kiếp, (tôi đã là) vị nổi danh tên Aggideva, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2372. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pāpanivāriya[18] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pāpanivāriya là phần thứ mười.
--ooOoo--
(Vị cúng dường) con voi, đôi dép, (vị suy tưởng về) Chân Lý, và các hào quang, (vị có sự suy tưởng) đã được bền vững, và vị có cây quạt lá cọ, tương tợ là vị suy tưởng về việc (đức Phật) đã bước lên, bơ lỏng, vị có sự ngăn cản điều ác; (tổng cộng) có năm mươi bốn câu kệ.
Phẩm Hatthi là phẩm thứ hai mươi hai.
--ooOoo--
2373. Vật tựa (lưng) đã được tôi dâng cúng đến đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2374. Tôi cai quản trái đất bao la bao gồm biển cả và tôi thực hiện quyền lãnh đạo đối với các sanh mạng ở trên trái đất.
2375. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tam minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
2376. Trước đây sáu mươi hai kiếp, ba vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Ekāpassita ấy đã là các Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2377. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ālambanadāyaka[19] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ālambanadāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2378. Trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi đã là bậc thầy của đám đông. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.
2379. 2380. Mảnh da thú đã được tôi dâng cúng đến đấng quyến thuộc của thế gian Sikhī. Nhờ vào việc làm ấy ở đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đã thọ hưởng sự thành tựu, tôi đã thiêu đốt các phiền não. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2381. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng tấm da dê trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm da dê.
2382. Trước đây vào kiếp thứ năm, tôi đã là đức vua Sudāyaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2383. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ajinadāyaka[20] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ajinadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2384. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.
2385. Tôi đã dâng cúng đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī một lát thịt. Tôi được thiết lập làm vị chúa tể ở thế gian luôn cả chư Thiên.
2386. Do nhờ sự dâng cúng lát thịt này, châu báu sanh lên cho tôi. Hai loại châu báu này ở thế gian đưa đến sự thành tựu của đời hiện tại.
2387. Tôi thọ hưởng tất cả các thứ ấy nhờ vào năng lực của sự dâng cúng lát thịt. Thân thể của tôi mềm mại, trí tuệ của tôi có sự nhận biết vi tế.
2388. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng lát thịt trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lát thịt.
2389. Trước đây vào kiếp thứ tư, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng. Vị ấy tên là Mahārohita, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2390. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dvirataniya[21] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dvirataniya là phần thứ ba.
(Tụng phẩm thứ mười).
--ooOoo--
2391. Tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn đến đức Thế Tôn Siddhattha. Và tôi đã dâng cúng sự bảo vệ đến đấng Thiện Thệ, bậc Đại Ẩn Sĩ.
2392. Do tính chất đặc biệt của nghiệp ấy, tôi không nhìn thấy sự kinh hoàng và sựhãi sợ. Khi được sanh lên ở bất cứ đâu, sự run sợ của tôi là không được biết đến.
2393. (Kể từ khi) tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vòng rào chắn.
2394. Trước đây vào kiếp thứ sáu, (tôi đã là) vị tên Apassena, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2395. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ārakkhadāyaka[22] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ārakkhadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2396. Tôi đã dâng cúng đến gian nhà sưởi ấm đến đức Thế Tôn Vipassī, chỗ trú ngụ và bình chứa nước nóng đến những người bị bệnh.
2397. Do việc làm ấy, thân thể của tôi đã được tạo thành tốt đẹp, tôi không còn biết đến bệnh tật; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
2398. Kể từ khi tôi đã dâng cúng gian nhà trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của gian nhà sưởi ấm.
2399. Trước đây vào kiếp thứ bảy, tôi đã là vị tên Aparājita độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2400. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Avyādhika[23] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Avyādhika là phần thứ năm.
--ooOoo--
2401. Nārada là tên của tôi, (mọi người) biết đến tôi là Kassapa. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị đứng đầu trong số các Sa-môn, được chư Thiên tôn kính.
2402. Đức Phật có các tướng mạo phụ là vị thọ nhận các vật hiến cúng. Tôi đã cầm lấy bông hoa aṅkola và đã dâng lên đức Phật.
2403. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2404. Trước đây bảy mươi bốn kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Romasa, có sự trang sức với ngọc trai và tràng hoa, có binh lực và phương tiện di chuyển xứng đáng.
2405. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aṅkolapupphiya[24] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aṅkolapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2406. Trong khi đi ra khu vực vườn hoa, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã cầm lấy vòng hoa đội đầu bằng vàng được kiến tạo khéo léo.
2407. Cỡi trên lưng của con voi, tôi đã mau chóng từ nơi ấy leo xuống và đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.
2408. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2409. Trước đây 27 kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Mahāpatāpa, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2410. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sovaṇṇavaṭaṃsakiya[25] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sovaṇṇavaṭaṃsakiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2411. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian Sikhī, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng, đã Niết Bàn, tôi đã thực hiện việc cúng dường cội Bồ Đề với những vòng hoa đội đầu được xếp đặt các nơi.
2412. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc cúng dường trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội Bồ Đề.
2413. Trước đây hai mươi sáu kiếp, tôi đã là vị tên Meghabbha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2414. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Miñjavaṭaṃsakiya[26] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Miñjavaṭaṃsakiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2415. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa tên Asita. Sau khi chọn lấy vòng hoa đội đầu, tôi đã ra đi để dâng lên đức vua.
2416. Khi chưa gặp được đức vua, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Sikhī. Được mừng rỡ, tôi đã dâng (vòng hoa) lên đức Phật với tâm mừng rỡ.
2417. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2418. Trước đây hai mươi lăm kiếp, tôi đã là vị vua có oai lực lớn lao tên Vebhāra, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2419. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sukatāveliya[27] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sukatāveliya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2420. Đấng Anh Hùng Vessabhū là bậc ưu tú, quý cao trong số các vị thắng trận. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.
2421. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.
2422. (Trước đây) 24 kiếp, (tôi đã là) vị tên Vigatānanda, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2423. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekavandiya[28] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekavandiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vật tựa (lưng), tấm da dê, vị dâng cúng thịt, vị thí chủ về sự bảo vệ, sự không bị bệnh, (bông hoa) aṅkola, (vòng hoa) vàng, (vòng hoa) ruột cây, vòng hoa đội đầu, và sự đảnh lễ; (tổng cộng) có năm mươi lăm câu kệ đã được tính đếm bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.
Phẩm Ālambanadāyaka là phẩm thứ hai mươi ba.
--ooOoo--
2424. Sau khi đi ra khỏi cổng của tu viện, tôi đã trải ra tấm ván. Và tôi đã phục vụ nước nhằm đạt đến mục đích tối thượng.
2425. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu ở (sự bố thí) chỗ ngồi và nước.
2426. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị có tên Abhisāma, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2427. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakāsanadāyaka[29] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakāsanadāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2428. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ làm gốm ở thành phố Bandhumatī. Trong khi ấy tôi đã cung cấp bát đĩa đến Hội Chúng tỳ khưu.
2429. (Kể từ khi) tôi đã cung cấp bát đĩa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của (việc dâng cúng) bát đĩa.
2430. Trước đây năm mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Anantajāli, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2431. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhājanadāyaka[30] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhājanadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2432. Tôi đã là người bán bánh ngọt ở thành phố Aruṇavatī. Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Sikhī đang đi ngang qua cánh cửa của tôi.
2433. Với tâm ý trong sạch, tôi đã nhận lấy bình bát của đức Phật và đã dâng cúng bánh ngọt sālā đến đức Phật, bậc đã đi đến đạo lộ chân chánh.
2434. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng vật thực cứng trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bánh ngọt sālā.
2435. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đã là vị Amitañjala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2436. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sālapūpiya[31] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sālapūpiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2437. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ đan lát ở trong thành phố Tivarā đáng yêu. Dân chúng ở nơi ấy được tịnh tín ở đấng Quang Đăng của thế gian Siddhattha.
2438. Người ta tìm kiếm chiếc chiếu nhằm mục đích cúng dường đến đấng Bảo Hộ Thế Gian. Tôi đã dâng cúng chiếc chiếu đến những người đang tiến hành việc cúng dường đức Phật.
2439. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc chiếu.
2440. (Trước đây) bảy mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Jutindhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2441. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kilañjadāyaka[32] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kilañjadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2442. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn ở cội cây Bồ Đề tối thượng của đức Thế Tôn Vipassī.
2443. (Kể từ khi) tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vòng rào chắn.
2444. Trước đây mười một kiếp, tôi đã là vị tên Suriyassama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2445. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vedikāraka[33] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vedikāraka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2446. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ nhuộm màu ở thành phố Aruṇavatī. Tôi đã nhuộm các màu sắc khác nhau cho các xấp vải ở ngôi bảo tháp.
2447. Kể từ khi tôi đã nhuộm màu sắc trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng màu sắc.
2448. Trước đây hai mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Candupama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2449. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vaṇṇākāra đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vaṇṇākāra là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2450. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Sau khi nhìn thấy cây piyāla đã được trổ hoa, tôi đã rải rắc (bông hoa) ở con đường (đức Phật) đã đi qua.
2451. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2452. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piyālapupphiya[34] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piyālapupphiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2453. Nương tựa vào nghề nghiệp của mình, tôi đã đi đến khu rừng rậm. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác đang đi, tôi đã dâng cúng vật thí là trái xoài.
2454. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc hiến dâng trái xoài.
2455. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ambayāgadāyaka[35] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ambayāgadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2456. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī đã Niết Bàn, việc bố trí đã được tôi điều hành ở ngôi bảo tháp tối thượng của đức Phật.
2457. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố trí.
2458. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Jagatikāraka[36] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Jagatikāraka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2459. Trước đây, tôi đã là người thợ rèn ở trong kinh thành Tivarā. Tôi đã dâng cúng một lưỡi rìu đến đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại.
2460. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lưỡi rìu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lưỡi rìu.
2461. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vāsidāyaka[37] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vāsidāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Chỗ ngồi và nước, bát đĩa, vị có bánh ngọt sālā, vị liên quan đến chiếc chiếu, vòng rào chắn, thợ nhuộm màu, bông hoa piyāla,vị bố thí vật hiến dâng là trái xoài, việc bố trí, vị dâng cúng lưỡi rìu; (tổng cộng) có ba mươi tám câu kệ.
Phẩm Udakāsana là phẩm thứ hai mươi bốn.
--ooOoo--
2462. Trước đây, tôi đã là thợ săn thú ở trong khu rừng hoang rậm. Sau khi cầm lấy và mang theo hạt tuvara nướng, tôi đã dâng cúng đến Hội Chúng.
2463. Kể từ khi tôi đã cúng dường vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của hạt tuvara nướng.
2464. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tuvaradāyaka[38] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tuvaradāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2465. Sau khi đã kiểm tra cẩn thận cây cung, tôi đã đi sâu vào trong rừng. Tôi đã nhìn thấy vươn lên đóa hoa sen có tua nhụy rủ xuống.
2466. Sau khi cầm lấy (bông hoa) bằng hai bàn tay, tôi đã chắp tay lên ở đầu và đã dâng lên đức Phật Tissa, bậc quyến thuộc của thế gian.
2467. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2468. (Trước đây) bảy mươi ba kiếp, bảy vị (cùng) tên Kesara đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2469. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nāgakesariya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nāgakesariya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2470. Tôi là con gà nước sống ở giữa hồ nước thiên nhiên. Khi ấy, tôi đã nhìn thấy vị Trời của chư Thiên đang di chuyển ở trên không trung.
2471. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dùng mỏ ngắt đóa hoa sen (có tua nhụy) và đã dâng lên đức Phật, đấng quyến thuộc của thế gian Tissa.
2472. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2473. (Trước đây) bảy mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Satapatta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2474. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Naḷinakesariya[39] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Naḷinakesariya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2475. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian ra đi cùng với một ngàn vị có lậu hoặc đã được đoạn tận. Tôi đã cầm lấy bông hoa viravi và đã dâng lên đức Phật.
2476. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2477. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Viravipupphiya[40] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Viravipupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2478. Tôi đã là người trông nom liêu cốc của đức Thế Tôn Siddhattha. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình xông khói vào lúc này lúc khác.
2479. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2480. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kuṭidhūpaka[41] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kuṭidhūpaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2481. Với sự thuần thành tuyệt đối, việc dâng cúng bình bát đã được tôi cung ứng đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, bậc có bản thể chính trực như thế ấy.
2482. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bình bát.
2483. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pattadāyaka[42] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pattadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2484. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Siddhattha Niết Bàn, tôi đã nhận được một phần xá-lợi của bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2485. Sau khi nhận lấy phần xá-lợi ấy của đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, trong năm năm tôi đã chăm sóc (phần xá-lợi ấy) như là (chăm sóc) bậc Tối Thượng Nhân đang còn tại tiền.
2486. Kể từ khi tôi đã cúng dường xá-lợi trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu ở sự hầu cận xá-lợi.
2487. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhātupūjaka[43] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhātupūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2488. Lúc bấy giờ, tôi đã đặt bảy bông hoa sattali ở trên đầu rồi đã dâng lên đức Phật, bậc Tối Thượng Nhân Vessabhū.
2489. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2490. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattalipupphapūjaka[44] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattalipupphapūjaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2491. Đấng Chiến Thắng, bậc Tự Chủ tên Padumuttara, là nhân vật cao cả. Ngài công bố về bốn Sự Thật và làm sáng tỏ về vị thế Bất Tử.
2492. Khi ấy, sau khi ngắt rời các bông hoa bimbijālika, tôi đã dâng lên đức Phật, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2493. Trước đây sáu mươi tám kiếp, bốn vị (cùng tên) Kiñjakesara đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2494. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bimbijāliya[45] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bimbijāliya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2495. Đấng Tự Chủ tên Kakusandha, bậc không bị đánh bại, sau khi lìa khỏi khu rừng bao la đã đi đến gần con sông lớn.
2496. Khi ấy, với tâm tịnh tín tôi đã cầm lấy bông hoa uddālaka và đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ, bậc đã tự chế ngự, có bản thể chính trực.
2497. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
2498. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Uddāladāyaka[46] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Uddāladāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Hạt tuvara nướng, (vị trưởng lão) Nāgakesariya, các bông hoa sen, các bông hoa viravi, vị xông khói liêu cốc, bình bát, xá-lợi, các bông hoa sattali, các bông hoa bimbijālika, cùng với bông hoa uddālaka; (tổng cộng) có ba mươi bảy câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc thông minh.
Phẩm Tuvaradāyaka là phẩm thứ hai mươi lăm.
--ooOoo--
2499. Trong khi đang trú ở thế giới chư Thiên, tôi được hoan hỷ sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, và tôi đã nói nên lời nói này:
2500. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Trong khi thuyết giảng về vị thế Bất Tử, Ngài đã giúp cho nhiều người vượt qua. ”
2501. Kể từ khi tôi đã nói lên lời nói ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
2502. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Thomaka[47] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Thomaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2503. Có ước muốn thực hiện hành động hướng thượng ở Giáo Pháp của đức Phật tối thượng, tôi đã lìa bỏ vóc dáng Thiên nhân và đã cùng với người vợ đi đến nơi này.
2504. Vị Thinh Văn của (đức Phật) Padumuttara tên là Devala. Vật thực đã được tôi dâng cúng đến vị ấy với tâm ý trong sạch.
2505. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
2506. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekāsanadāyaka[48] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekāsanadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2507. Bậc Giác Ngộ, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại tên Ānanda đã viên tịch Niết Bàn ở trong rừng già hoang rậm, không có bóng người.
2508. Khi ấy, tôi đã từ thế giới chư Thiên đi đến nơi đây và đã thực hiện lễ hỏa táng. Tại đó, tôi đã thiêu đốt thi thể và đã thể hiện sự tôn kính.
2509. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2510. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[49] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2511. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Vikata. Ở trung tâm của ngọn núi ấy, có vị Sa-môn, có các giác quan đã được tu tập, cư ngụ.
2512. Sau khi nhìn thấy sự an tịnh của vị ấy, với tâm ý trong sạch tôi đã cầm lấy ba bông hoa campaka và đã rải rắc chúng.
2513. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2514. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ticampakapupphiya[50] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ticampakapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2515. Tôi đã dâng lên các bông hoa sattapāṭali đến đức Phật (trong lúc Ngài) ngồi ở trong vùng đồi núi, đang chói sáng như là cây kaṇikāra.
2516. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2517. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattapāṭaliya[51] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattapāṭaliya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2518. Lúc bấy giờ, vị tên Candana đã là người con trai của đấng Giác Ngộ. Tôi đã dâng cúng (đến vị ấy) một đôi dép (ước nguyện rằng): “Xin ngài hãy giúp con thành tựu quả vị Giác Ngộ.”
2519. Kể từ khi tôi đã dâng cúng đôi dép trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đôi dép.
2520. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Upāhanadāyaka[52] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Upāhanadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2521. Sau khi đã thực hiện một bó (hoa), tôi đã bước đi ở đường lộ. Tôi đã nhìn thấy bậc Cao Cả trong số các vị Sa-môn được tháp tùng bởi Hội Chúng tỳ khưu.
2522. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, và với niềm phỉ lạc tột độ, tôi đã cầm lấy (bó hoa) bằng cả hai tay và đã dâng lên đức Phật.
2523. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2524. Trước đây bảy mươi ba kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa tên Jotiya, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2525. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mañjaripūjaka[53] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mañjaripūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2526. Tôi là vị mặc y phục bằng vỏ cây ở ngọn núi Hi-mã-lạp. Thu thúc trong các điều kiện hạn chế, tôi có thức ăn là muối và lá cây.
2527. Vào lúc bữa ăn sáng đã điểm, (đức Phật) Siddhattha đã đi đến gặp tôi. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng lên các thứ ấy đến đức Phật.
2528. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lá cây.
2529. (Trước đây) hai mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Yadatthiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2530. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṇṇadāyaka[54] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṇṇadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2531. Lúc bấy giờ, là vị hành pháp ngụ ở rừng đấng Toàn Giác đã cư ngụ ở gốc cây. Tôi đã thực hiện gian nhà lá và đã dâng cúng đến bậc không bị đánh bại.
2532. Kể từ khi tôi đã cúng dường cái chòi lá trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cái chòi.
2533. Trước đây hai mươi tám kiếp, mười sáu vị vua được gọi là Sabbattha-abhivassī đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2534. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kuṭidāyaka[55] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kuṭidāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2535. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Toàn Giác Sikhī có màu da vàng chói ngồi ở trong vùng đồi núi đang chiếu sáng các hào quang như là ngọn lửa.
2536. Tôi đã cầm lấy bông hoa aggaja và đã đi đến gần đấng Tối Thượng Nhân. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật (bông hoa ấy).
2537. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2538. (Trước đây) hai mươi lăm kiếp, tôi đã là vị tên Amita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2539. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aggajapupphiya[56] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aggajapupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị tán dương, một bữa ăn, giàn hỏa thiêu, bông hoa campaka, bông hoa sattapāṭali, đôi dép, bó hoa, lá cây, vị dâng cúng cái chòi, bông hoa aggaja; và các câu kệ đã được tính đếm ở đây là bốn mươi mốt câu cả thảy.
Phẩm Thomaka là phẩm thứ hai mươi sáu.
--ooOoo--
2540. Trong khi đấng Nhân Ngưu Siddhattha có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ, tôi đã cầm lấy hai bông hoa cao quý mọc ở trong nước và đã đi đến gặp Ngài.
2541. Tôi đã đặt xuống một bông hoa ở các bàn chân ở đức Phật tối thượng, và tôi đã cầm lấy một bông hoa rồi đã thảy lên không trung.
2542. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
2543. Trước đây ba mươi hai kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Antalikkhacara, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2544. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ākāsukkhipiya[57] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ākāsukkhipiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
254Khi đức Thế Tôn Siddhattha, đấng Nhân Ngưu đã Niết Bàn, ngay khi ấy tôi đã thoa dầu ở vòng rào chắn của cội Bồ Đề.
2546. Kể từ khi tôi đã thoa dầu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc thoa (dầu).
2547. Trước đây hai mươi bốn kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Succhavi, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2548. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Telamakkhiya[58] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Telamakkhiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2549. Bông hoa aḍḍhacanda đã được tôi dâng cúng ở cội cây Bồ Đề tối thượng của đức Thế Tôn Tissa là loại thảo mộc sanh trưởng ở trên trái đất.
2550. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội Bồ Đề.
2551. Trước đây hai mươi lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Devala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2552. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aḍḍhacandiya[59] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aḍḍhacandiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2553. Lúc bấy giờ, trong khi là vị Thiên nhân, tôi đã ngự xuống trái đất. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng năm ngọn đèn.
2554. Kể từ khi tôi đã dâng cúng ngọn đèn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng ngọn đèn.
2555. Trước đây năm mươi lăm kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Samantacakkhu, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2556. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padīpiya[60] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padīpiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2557. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Romaso. Ở tại chân ngọn núi ấy, có vị Sa-môn có các giác quan đã được tu tập.
2558. Tôi đã cầm lấy củ biḷālī và đã dâng cúng đến vị Sa-môn. Bậc Đại Hùng, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, đã nói lời tùy hỷ rằng:
2559. “Ngươi đã dâng cúng củ biḷālī đến Ta với tâm ý trong sạch. Trong khi (ngươi) tái sanh vào cõi hữu, quả báu sẽ sanh khởi đến ngươi.”
2560. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng củ biḷālī trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của củ biḷālī.
2561. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Biḷālidāyaka[61] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Biḷālidāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2562. Lúc bấy giờ, tôi đã là con chim ưng ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã gắp lấy con cá lớn và đã dâng cúng đến bậc Hiền Trí Siddhattha.
2563. Kể từ khi tôi đã dâng cúng con cá trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng con cá.
2564. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Macchadāyaka[62] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Macchadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2565. Lúc bấy giờ, tôi đã là lính kiểm lâm ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Siddhattha đang di chuyển ở trên không trung.
2566. Trong khi ngước nhìn bậc Đại Hiền Trí, tôi đã chắp tay lên. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ đấng Lãnh Đạo.
2567. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ đấng Nhân Ngưu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.
2568. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Javahaṃsaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Javahaṃsaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2569. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī được bao phủ bằng mạng lưới hào quang.
2570. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, và với niềm phỉ lạc tột độ, tôi đã cầm lấy bông hoa salala và đã rải rắc đến (đức Phật) Vipassī.
2571. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2572. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Salalapupphiya[63] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Salalapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2573. Ở trung tâm của núi Hi-mã-lạp có cái hồ nước đã khéo được tạo lập. Tôi đã là loài quỷ dữ ở tại nơi ấy, có bản chất quấy rối, là kẻ gây nên nỗi hãi sợ.
2574. Có ý muốn tiếp độ tôi, bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī ấy đã đi đến gặp tôi.
2575. Khi bậc Đại Hùng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đã đi đến gần, tôi đã đi ra khỏi nơi trú ẩn và đã đảnh lễ đấng Đạo Sư.
2576. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.
2577. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Upāgatāsaya[64] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Upāgatāsaya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2578. Bậc Toàn Giác Vipassī có màu da vàng chói là bậc xứng đáng sự cúng dường. Bậc Đạo Sư dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đã đứng ở bờ sông.
2579. Thuyền bè là phương tiện vượt qua biển cả không được tìm thấy ở tại nơi ấy. Tôi đã đi ra khỏi dòng sông và đã đưa đấng Lãnh Đạo Thế Gian sang (sông).
2580. (Kể từ khi) tôi đã đưa bậc Tối Thượng Nhân sang (sông) trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đưa sang (sông).
2581. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇiya[65] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có sự thảy lên (bông hoa), dầu thoa, vị có (bông hoa) aḍḍhacanda, vị dâng cúng cây đèn, vị dâng cúng củ biḷāli, con cá, vị tên Javahaṃsaka, vị dâng cúng bông hoa salala, loài quỷ dữ, vị đưa sang (sông) là mười. Và ở đây được ghi nhận là bốn mươi mốt câu kệ cả thảy.
Phẩm Ākāsukkhipiya là phẩm thứ hai mươi bảy.
--ooOoo--
2582. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng một cái ghế. Và tôi đã dâng lên cái gối nhằm đạt đến mục đích tối thượng
2583. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng cái gối trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái gối.
2584. Trước đây vào kiếp thứ sáu mươi ba, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Asama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2585. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Suvaṇṇabimbohaniya[66] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Suvaṇṇabimbohaniya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2586. Biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, đã đi đến bằng thần thông với thân được tạo thành bởi ý.
2587. Khi Ngài đang đi đến gần, tôi đã đảnh lễ bậc Đạo Sư, đấng Tối Thượng Nhân. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng (một) nắm hạt mè.
2588. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của nắm hạt mè.
2589. Trước đây mười sáu kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Nandiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2590. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tilamuṭṭhidāyaka[67] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tilamuṭṭhidāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2591. (Đức Phật Siddhattha) sống ở trong vùng đồi núi kề cận biển cả. Sau khi đi ra tiếp đón (Ngài), tôi đã thực hiện và đã dâng cúng cái hộp (đựng bông hoa).
2592. Sau khi dâng cúng cái hộp đựng bông hoa đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, đấng có lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2593. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cái hộp trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái hộp.
2594. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Caṅgoṭakiya[68] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Caṅgoṭakiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2595. Đức Thế Tôn Koṇḍañña là vị có tâm bình đẳng như hư không, có thiền chứng không bị chướng ngại, có tham ái đã được lìa bỏ như thế ấy.
2596. Bậc Đạo Sư, đấng Chúa Tể của loài người, là vị vượt qua tất cả si mê, là bậc có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian, tôi đã dâng cúng thuốc cao đến Ngài.
2597. Kể từ khi tôi đã dâng cúng thuốc cao trước đây vô lượng kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của thuốc cao.
2598. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Cirappa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2599. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Abbhañjanadāyaka[69] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Abbhañjanadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2600. Tôi đã dâng cúng khu vực sinh sống (cô tịch) đến vị Sa-môn bậc Đại Ẩn Sĩ đang cư ngụ tại cội cây sung, nơi tấm thảm lá cây đã được xác định.
2601. Sau khi chắp tay lên, tôi đã trải ra tấm thảm bằng bông hoa đến (đức Phật) Tissa, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy.
2602. (Kể từ khi) tôi đã thực hiện tấm thảm bằng bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm thảm.
2603. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đã là bậc thống lãnh loài người tên Ekañjalika, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2604. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekañjaliya[70] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekañjaliya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2605. Việc cúng dường tấm vải bạt đã được tôi dâng cúng ở đối tượng đáng được cúng dường vô thượng trước tiên hết là bậc Đạo Sư, Giáo Pháp, và luôn cả Hội Chúng của bậc Đại Ẩn Sĩ nữa.
2606. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải bạt.
2607. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Potthadāyaka[71] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Potthadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2608. Tôi đi xuôi theo dòng nước ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã đặt ở giàn hỏa thiêu bảy bông hoa māluva.
2609. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường lễ hỏa táng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường giàn hỏa thiêu.
2610. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, bảy vị (cùng) tên Paṭijagga đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
2611. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[72] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2612. Ở ngọn núi Hi-mã-lạp, có con sông Mahāsindhu có dáng hình xinh đẹp. Ở tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy (đức Phật) Sudassana; Ngài là bậc có tham ái đã được lìa bỏ, có ánh sáng rực rỡ.
2613. Sau khi nhìn thấy bậc được gắn liền với sự an tịnh tột bực, được tịnh tín tôi đã tự tay mình dâng cúng rễ cây āluva đến Ngài.
2614. Kể từ khi tôi đã dâng cúng rễ cây āluva trước đây 31 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của rễ cây āluva.
2615. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Āluvadāyaka[73] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Āluvadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2616. Lúc bấy giờ, đấng Tự Chủ tên Romasa là bậc có sự hành trì tốt đẹp. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng đóa hoa sen trắng (đến Ngài).
2617. Kể từ khi tôi đã dâng cúng đóa hoa sen trắng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đóa hoa sen trắng.
2618. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapuṇḍarīka[74] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapuṇḍarīka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2619. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình cho xây dựng cây cầu ở đường lộ lớn gập ghềnh để giúp cho mọi người vượt qua (đoạn đường ấy).
2620. (Kể từ khi) tôi đã cho xây dựng cây cầu trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
2621. Trước đây 55 kiếp, tôi đã là vị tên Samogadha độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2622. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇīya[75] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇīya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vàng, nắm hạt mè, cái hộp, thuốc cao, sự chắp tay, vị có tấm vải bạt, giàn hỏa thiêu, rễ cây āluva, một đóa hoa sen trắng, với cây cầu; (tổng cộng) có bốn mươi hai câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Suvaṇṇabimbohana là phẩm thứ hai mươi tám.
(Tụng phẩm thứ mười một).
--ooOoo--
2623. Tôi đã ngồi xuống trong gian nhà lá, có bữa ăn là vật thực bằng lá cây. Bậc Đại Hiền Trí đã đi đến gần tôi trong lúc tôi đang ngồi.
2624. Bậc Quang Đăng của thế gian Siddhattha là người thầy thuốc của tất cả thế gian. Khi Ngài đã ngồi xuống ở tấm thảm lá cây, tôi đã dâng cúng lá cây đến Ngài.
2625. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lá cây.
2626. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṇṇadāyaka[76] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṇṇadāyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2627. (Đức Phật Siddhattha) ấy có sự an tịnh sánh bằng núi Sineru, tợ như vật nâng đỡ trái đất, sau khi xuất khỏi thiền định đã đi đến gần tôi về việc khất thực.
2628. Và có những loại trái cây ngọt như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.
2829. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng tất cả thức ấy đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, vị có lòng thương tưởng đối với tất cả thế gian.
2630. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
2631. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Ekajjha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2632. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phaladāyaka[77] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phaladāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2633. Bậc Nhân Ngưu đang đi đến, giống như loài sư tử lang thang ở trong rừng, giống như loài bò mộng thuần chủng, tợ như cây kakudha đang chói sáng.
2634. Với tâm ý trong sạch, tôi đã thực hiện việc đi ra tiếp đón đấng Quang Đăng của thế gian Siddhattha, vị thầy thuốc của tất cả thế gian.
2635. (Kể từ khi) tôi đã đi ra tiếp đón đấng Nhân Ngưu trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đi ra tiếp đón.
2636. Trước đây hai mươi bảy kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Saparivāra, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2637. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paccuggamaniya[78] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paccuggamaniya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2638. Lúc bấy giờ, tôi đã là con yêu tinh ở cánh cổng phía nam. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng.
2639. Tôi đã dâng cúng một bông hoa đến bậc Tối Thượng Nhân Vipassī, vị có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2640. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2641. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapupphiya[79] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2642. Ở bờ sông Nammadā, có đấng Tự Chủ là bậc không bị đánh bại. Ngài đã chứng đạt thiền định, được thanh tịnh, không bị chộn rộn.
2643. Sau khi nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc không bị đánh bại, tôi đã được tịnh tín, có tâm ý vui mừng, Khi ấy, tôi đã dâng cúng đấng Tự Chủ ấy với bông hoa maghava.
2644. Kể từ khi tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2645. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maghavapupphiya[80] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maghavapupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2646. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Chúa Tể của loài người, đấng Long Tượng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đang bước đi ở đường lộ.
2647. Sau khi cho người thỉnh mời bậc có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian ấy, tôi đã dâng cúng người phục vụ đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha.
2648. Sau khi tiếp nhận, đấng Toàn Giác bậc Đại Hiền Trí đã gởi trả lại (người phục vụ cho tôi), rồi đã từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và ra đi, mặt hướng phía đông.
2649. Kể từ khi tôi đã dâng cúng người phục vụ trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
2650. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị tên Balasena, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2651. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Upaṭṭhākadāyaka[81] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Upaṭṭhākadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2652. Tôi đã ca ngợi sự nghiệp của các đấng Thiện Thệ đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ bằng đầu và bằng các bàn tay của mình ở bàn chân (của bậc Đại Ẩn Sĩ).
2653. (Kể từ khi) tôi đã ngợi ca sự nghiệp (của chư Phật) trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ca ngợi.
2654. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Apadāniya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Apadāniya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2655. Hội Chúng của đức Thế Tôn Vipassī là được tôn sùng kính trọng. Có điều bất hạnh đã xảy đến cho tôi là trước đây thân quyến đã có sự chia rẽ.
2656. Tôi đã đi đến sự xuất gia nhằm làm lắng dịu điều bất hạnh. Tại nơi ấy, do sự mong mỏi Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, tôi đã được thỏa thích trong bảy ngày.
2657. Kể từ khi tôi đã xuất gia trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc xuất gia.
2658. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, bảy vị lãnh chúa được biết đến với tên “Sunikkhama” đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2659. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattāhapabbajita[82] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattāhapabbajita là phần thứ tám.
--ooOoo--
2660. Lúc bấy giờ, tên của tôi là Veṭambarī. Người cha của tôi đã nắm lấy cánh tay của tôi và đã đưa tôi đến bậc Đại Hiền Trí.
2661. (Nghĩ rằng): “Chư Phật này, các đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, sẽ chỉ dạy cho ta.” Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình phục vụ các vị ấy một cách tôn kính.
2662. Kể từ khi tôi đã chăm sóc chư Phật trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
2663. Trước đây hai mươi ba kiếp, bốn vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Samaṇupaṭṭhāka đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2664. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Buddhupaṭṭhāka[83] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Buddhupaṭṭhāka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2665. Nhằm đạt đến mục đích tối thượng, chúng tôi tám mươi bốn ngàn người đã xuất gia, không còn sở hữu gì. Trong số các vị ấy, tôi đã là người đứng đầu.
2666. Và các vị này được thanh tịnh, không bị chộn rộn, dầu còn tham ái và còn sự tái sanh. Được tịnh tín, các vị này đã tự tay phục vụ (chư Thánh nhân) một cách tôn kính.
2667. Có các lậu hoặc đã được đoạn tận, có sân hận đã được tống khứ, có phận sự đã được hoàn thành, không còn lậu hoặc, các đấng Tự Chủ không bị đánh bại đã lan tỏa với tâm từ ái.
2668. Sau khi phục vụ chư vị đã tự mình giác ngộ, tôi có được niệm, nhưng tôi đã gần kề sự chết. Và chúng tôi đã đi đến bản thể chư Thiên.
2669. (Kể từ khi) tôi đã gìn giữ giới hạnh trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tự chế ngự.
2670. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pubbaṅgamiya[84] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pubbaṅgamiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Lá cây, (các) trái cây, sự đi ra tiếp đón, vị có một bông hoa, và (vị có) bông hoa maghava, người phục vụ, sự nghiệp (của chư Phật), sự xuất gia, vị phục vụ chư Phật, vị đứng đầu; (tổng cộng) có bốn mươi tám câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Paṇṇadāyaka là phần thứ hai mươi chín.
--ooOoo--
2671. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị Bà-la-môn tên Ajita. Có ý định dâng tặng vật hiến cúng, tôi đã thu thập nhiều loại bông hoa.
2672. Sau khi nhìn thấy giàn hỏa thiêu của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī đang bốc cháy, tôi đã đem số bông hoa ấy lại và đã rải rắc ở giàn hỏa thiêu.
2673. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2674. Trước đây hai mươi bảy kiếp, bảy vị thống lãnh loài người (cùng) tên Supajjalita ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2675. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[85] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2676. Tôi đã là vị mang y phục bằng vỏ cây, có y choàng là tấm da dê, có năm thắng trí đã được phát sanh, là người chạm đến mặt trăng.
2677. Sau khi nhìn thấy đấng Quang Đăng của thế gian Vipassī đã ngự đến chỗ tôi, tôi đã nắm giữ những bông hoa san hô (hình chiếc lọng) che cho bậc Đạo Sư.
2678. (Kể từ khi) tôi đã nắm giữ bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc nắm giữ.
2679. Trước đây tám mươi bảy kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Samantadhāraṇa, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2680. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphadhāraka[86] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphadhāraka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2681. Lúc bấy giờ, người con trai của tôi đã xuất gia, có trang phục là y ca-sa. Và vị ấy đã đạt được bản thể của vị Phật, đã Niết Bàn, được thế gian tôn vinh.
2682. Trong lúc tìm hiểu về (tăm tích) người con trai của mình, tôi đã đi lần theo ở phía sau. Tôi đã đi đến giàn hỏa thiêu của con người vĩ đại đã được Niết Bàn.
2683. Ở tại nơi ấy, tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ giàn hỏa thiêu. Khi ấy, tôi đã cầm lấy chiếc lọng trắng và đã dâng lên.
2684. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên chiếc lọng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.
2685. Trước đây hai mươi lăm kiếp, bảy vị thống lãnh dân chúng (cùng) tên Mahāraha ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2686. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Chattadāyaka[87] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Chattadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
2687. Khi mặt trời còn chưa mọc lên, đã có tiếng gầm rú dữ dội (báo hiệu) sự xuất hiện của đức Phật tối thượng bậc Đại Ẩn Sĩ ở trên thế gian.
2688. Tại nơi ấy, tôi đã nghe được tiếng động nhưng tôi không nhìn thấy đấng Chiến Thắng ấy. Và khi sự chết đã gần kề, tôi đã nhớ lại sự suy tưởng về đức Phật.
2689. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
2690. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saddasaññaka[88] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saddasaññaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2691. Sau khi rời khỏi cánh cổng của tu viện, tôi đã trải lót xương sọ của loài bò (ở con đường lầy lội). Tôi thọ hưởng nghiệp của mình; điều này là quả báu của nghiệp quá khứ.
2692. (Tôi có) các loài ngựa dòng Sindhu thuần chủng có tốc độ của gió, có các phương tiện di chuyển nhanh chóng, tôi thọ hưởng tất cả (các) thứ này; điều này là quả báu của (việc trải lót) xương sọ của loài bò.
2693. Ôi hành động đã khéo được thực hiện bởi tôi ở thửa ruộng tốt là hành động tuyệt vời. Việc khác không có giá trị bằng một phần (mười sáu) so với hành động đã được thực hiện ở nơi Hội Chúng.
2694. (Kể từ khi) tôi đã trải lót xương sọ của loài bò trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc trải lót.
2695. (Trước đây) bảy mươi lăm kiếp, tôi đã là vị tên Suppatiṭṭhita, là người độc nhất có quyền uy vĩ đại, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2696. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gosīsanikkhepaka[89] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gosīsanikkhepaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2697. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở ngọn núi Hi-mã-lạp. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng.
2698. Khi đức Phật Vipassī đấng Lãnh Đạo Thế Gian ấy đi đến gần tôi, khi ấy tôi đã rải rắc trầm hương và luôn cả cỏ thơm ở bàn chân (Ngài).
2699. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bàn chân ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ở bàn chân.
2700. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pādapūjaka[90] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pādapūjaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2701. 2702. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị Bà-la-môn tên Upasāḷhaka. Sau khi nhìn thấy bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, đi sâu vào khu rừng rậm, tôi đã đảnh lễ vị thọ nhận các vật hiến cúng của thế gian ở hai bàn chân. Biết được tôi có tâm đã được tịnh tín, đức Phật đã biến mất.
2703. Sau khi lìa khỏi khu rừng rậm, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng. Sau khi tán dương khu vực ấy, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2704. (Kể từ khi) tôi đã tán dương khu vực ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
2705. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Desakittaka[91] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Desakittaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2706. Tôi đã là người thợ săn ở ngọn núi Hi-mã-lạp. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.
2707. Sau khi đi đến gặp bậc Toàn Giác, tôi đã làm công việc phục vụ. Và tôi đã đi đến nương nhờ đối với bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2708. (Kể từ khi) tôi đã đi đến nương nhờ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đi đến nương nhờ.
2709. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saraṇagamaniya[92] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saraṇagamaniya là phần thứ tám.
--ooOoo--
2710. (Tôi đã là) người khổng lồ được nổi tiếng với tên là Romasa. Tôi đã dâng cúng một chùm trái xoài đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.
2711. Kể từ khi tôi đã dâng cúng xoài trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái xoài.
2712. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ambapiṇḍiya[93] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ambapiṇḍiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
2713. Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Vipassī đang đi khất thực. Tôi đã dâng lên một vá thức ăn đến đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2714. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, khi ấy tôi đã đảnh lễ và tôi đã ngợi ca đức Phật nhằm đạt đến mục đích tối thượng.
2715. (Kể từ khi) tôi đã ngợi ca (đức Phật) trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ngợi ca (đức Phật).
2716. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Anusaṃsāvaka[94] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Anusaṃsāvaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Giàn hỏa thiêu, bông hoa san hô, chiếc lọng (trắng), tiếng động, việc trải lót xương sọ của loài bò, (vị đảnh lễ) bàn chân, (vị tán dương) khu vực, sự nương nhờ, trái xoài, và luôn cả vị ngợi ca (đức Phật); (tổng cộng) có bốn mươi bảy câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Citakapūjaka là phẩm thứ ba mươi.
--ooOoo--
Bông hoa kaṇikāra, vị cúng dường voi, vật tựa (lưng), chỗ ngồi và nước, hạt tuvara nướng, vị tán dương, và luôn cả việc thảy lên (không trung), gối kê đầu, vị dâng cúng lá cây, và vị cúng dường lễ hỏa táng; toàn bộ các câu kệ ở đây là bốn trăm năm mươi mốt câu.
Tất cả gồm có hai ngàn năm trăm và bảy mươi hai câu thêm vào đó nữa. (Tổng cộng) có ba trăm ký sự đã được tính đếm bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.
Nhóm “Một Trăm” thứ ba được đầy đủ.
--ooOoo--
[1] Kaṇikārapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kaṇikāra.”
[2] Minelapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) minela.”
[3] Kiṅkiṇikapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kiṅkiṇi.”
[4] Taraṇiya nghĩa là “vị liên quan đến việc đưa sang (taraṇa) sông.”
[5] Nigguṇḍipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) nigguṇḍi.”
[6] Udakadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nước (udaka).”
[7] Salalamāliya nghĩa là “vị liên quan đến chùm hoa (mālā) salala.”
[8] Koraṇḍapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) koraṇḍa.”
[9] Ādhāradāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chân đế (ādhāra) bình bát.”
[10] Vātātapanivāriya nghĩa là “vị liên quan đến vật ngăn cản (nivāraṇa) gió (vāta) và sức nóng (ātapa).”
[11] Hatthidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) con voi (hatthi).”
[12] Pānadhidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đôi dép (pānadhi).”
[13] Saccasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về Chân Lý (sacca).”
[14] Ekasaññaka nghĩa là “vị có một lần (eka) suy tưởng (saññā).”
[15] Raṃsisaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) đến hào quang (raṃsi) của đức Phật.”
[16] Saṇṭhita nghĩa là “vị (có sự suy tưởng) đã được bền vững (saṇṭhita).”
[17] Sappidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bơ lỏng (sappi).”
[18] Pāpanivāriya nghĩa là “vị liên quan đến vật ngăn chặn (nivāraṇa) điều ác (pāpa).”
[19] Ālambanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật tựa lưng (ālambana).”
[20] Ajinadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm da dê (ajina).”
[21] Dvirataniya nghĩa là “vị liên quan đến hai (dvi) loại châu báu (ratana).”
[22] Ārakkhadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) sự bảo vệ (ārakkha).”
[23] Avyādhika nghĩa là “vị không có bệnh tật (vyādhi).”
[24] Aṅkolapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) aṅkola.”
[25] Sovaṇṇavaṭaṃsakiya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (vaṭaṃsaka) bằng vàng (sovaṇṇa).”
[26] Miñjavaṭaṃsakiya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (vaṭaṃsaka) bằng ruột cây (miñja).”
[27] Sukatāveliya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (āveli) đã được làm (kata) khéo léo (su).”
[28] Ekavandiya nghĩa là “vị liên quan đến một lần (eka) đảnh lễ (vandana).”
[29] Udakāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nước (udaka) và chỗ ngồi (āsana).”
[30] Bhājanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bát đĩa (bhājana).”
[31] Sālapūpiya nghĩa là “vị liên quan đến bánh ngọt (pūpa) sālā.”
[32] Kilañjadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc chiếu (kilañja).”
[33] Vedikāraka nghĩa là “vị thực hiện (kāraka) vòng rào chắn (vedi).”
[34] Piyālapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) piyāla.”
[35] Ambayāgadāyaka nghĩa là “vị thí chủ (dāyaka) của việc hiến dâng (yāga) trái xoài (amba).”
[36] Jagatikāraka nghĩa là “vị thực hiện (kāraka) việc bố trí (jagati).”
[37] Vāsidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) lưỡi rìu (vāsi).”
[38] Tuvaradāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) hạt tuvara nướng.”
[39] Naḷinakesariya nghĩa là “vị liên quan đến đóa sen (naḷina) có tua nhụy (kesarī).”
[40] Viravipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) viravi.”
[41] Kuṭidhūpaka nghĩa là “vị xông khói (dhūpaka) thơm ở liêu cốc (kuṭi).”
[42] Pattadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bình bát (patta).”
[43] Dhātupūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) xá-lợi (dhātu).”
[44] Sattalipupphapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa (puppha) sattali.”
[45] Bimbijāliya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) bimbijāliya.”
[46] Uddāladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bông hoa uddāla.”
[47] Thomaka nghĩa là “vị tán dương (thomaka).”
[48] Ekāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật thực (asana) một lần (eka).”
[49] Citakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) lễ hỏa táng (citaka).”
[50] Ticampakapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) bông hoa (puppha) campaka.”
[51] Sattapāṭaliya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa sattapāṭali.”
[52] Upāhanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đôi dép (upāhana).”
[53] Mañjaripūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bó hoa (mañjari).”
[54] Paṇṇadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) lá cây (paṇṇa).”
[55] Kuṭidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) liêu cốc (kuṭi).”
[56] Aggajapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) aggaja.”
[57] Ākāsukkhipiya nghĩa là “vị liên quan đến việc thảy lên (ukkhepa) không trung (ākāsa).”
[58] Telamakkhiya nghĩa là “vị liên quan đến việc thoa (makkhana) dầu (tela).”
[59] Aḍḍhacandiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa aḍḍhacandiya.”
[60] Padīpiya nghĩa là “vị liên quan đến ngọn đèn (padīpa).”
[61] Biḷālidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ biḷālī.”
[62] Macchadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cá (maccha).”
[63] Salalapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) salala.”
[64] Upāgatāsaya nghĩa là “vị có chỗ ngụ (āsaya) đã được đức Phật đi đến gần (upāgata).”
[65] Taraṇiya nghĩa là “vị liên quan đến việc đưa sang (taraṇa) sông.”
[66] Suvaṇṇabimbohaniya nghĩa là “vị liên quan đến cái gối (bimbohana) vàng (suvaṇṇa).”
[67] Tilamuṭṭhidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nắm tay (muṭṭhi) hạt mè (tila).”
[68] Caṅgoṭakiya nghĩa là “vị liên quan đến cái hộp (caṅgoṭaka).”
[69] Abbhañjanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) thuốc cao (abbhañjana).”
[70] Ekañjaliya nghĩa là “vị liên quan đến một lần (eka) chắp tay (añjali).”
[71] Potthadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải bạt (pottha).”
[72] Citakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) lễ hỏa táng (citaka).”
[73] Āluvadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) rễ cây āluva.”
[74] Ekapuṇḍarīka nghĩa là “vị có một (eka) đóa hoa sen trắng (puṇḍarīka).”
[75] Taraṇīya nghĩa là “vị liên quan đến việc vượt qua (taraṇa).”
[76] Paṇṇadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) lá cây (paṇṇa).”
[77] Phaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala).”
[78] Paccuggamaniya nghĩa là “vị liên quan đến việc đi ra tiếp đón (paccuggamana).”
[79] Ekapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) bông hoa (puppha).”
[80] Maghavapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) maghava.”
[81] Upaṭṭhākadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) người phục vụ (upaṭṭhāka).”
[82] Sattāhapabbajita nghĩa là “vị đã xuất gia (dāyaka) bảy (satta) ngày (aha).”
[83] Buddhupaṭṭhāka nghĩa là “vị phục vụ (upaṭṭhāka) đức Phật (buddha).”
[84] Pubbaṅgamiya nghĩa là “liên quan đến vị đứng đầu, vị đi (gam) ở phía trước (pubba).”
[85] Citakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) lễ hỏa táng (citaka).”
[86] Pupphadhāraka nghĩa là “vị nắm giữ (dhāraka) bông hoa (puppha).”
[87] Chattadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc lọng che (chatta).”
[88] Saddasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về âm thanh (sadda).”
[89] Gosīsanikkhepaka nghĩa là “vị đặt xuống (nikkhepaka) những cái sọ (sīsa) của loài bò (go).”
[90] Pādapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) ở bàn chân (pāda).”
[91] Desakittaka nghĩa là “vị tán dương (kittaka) khu vực (desa).”
[92] Saraṇagamaniya nghĩa là “vị liên quan việc đi đến (gamana) nương nhờ (saraṇa), tức là đã quy y.”
[93] Ambapiṇḍiya nghĩa là “vị liên quan đến chùm (piṇḍa) xoài (amba).”
[94] Anusaṃsāvaka nghĩa là “vị ngợi ca (anusaṃsāvaka) đức Phật.”