THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
ĐẠI PHẬT SỬ - TẬP 1.B
Nguyên tác: Mingun Sayadaw
Tỳ khưu Minh Huệ biên dịch


[Trước] [Mục lục tập 1B] [Tiếp theo]


12. Các pháp Pāramī được rút gọn như thế nào?

Đối với câu hỏi: “Các pháp pāramī được rút gọn như thế nào?, câu trả lời là:

Ba mươi pháp Ba-la-mật được thâu gọn lại thành mười bằng cách gom các pháp cùng đặc tánh lại thành một nhóm (tức là gom ba loại Dāna Pāramī thành một, ba loại Sīla Pāramī thành một, v.v...). Tương tự, mười pháp này có thể cô đọng lại thành sáu bằng cách gom các pháp Ba-la-mật có liên quan thành một nhóm, đó là Dāna Pāramī, Sīla Pāramī, Khantī Pāramī, Vīriya Pāramī, Jhāna Pāramī và Paññā Pāramī (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nại, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ).

Đây là cách cô đọng các pháp Ba-la-mật: Xuất gia nghĩa là sống cuộc đời Sa-môn, tu thiền định và các việc phước khác. Ở đây, xuất gia là sống cuộc đời Sa-môn, nên được xem là Sīla Pāramī vì chúng có bản chất giống nhau. Cũng vậy, xuất gia là thiền định, thoát khỏi năm triền cái, nên được xem là Jhāna Pāramī, và xuất gia là việc phước phổ biến, có mặt trong cả sáu pháp Ba-la-mật.

Chân thật có ba loại: lời nói chân thật (vacī-sacca); xa lìa sự gian dối, hư ngụy (virati-sacca), là sở hữu Chánh ngữ (Sammā-vācā) và trí tuệ chân thật (ñāṇa-sacca), là sở hữu trí tuệ (paññā). Trong ba loại này, vacī-sacca virati-sacca liên quan đến sīla nên được xem là Sīla Pāramī; còn ñāṇa-sacca là sở hữu trí tuệ nên được xem là Paññā Pāramī.

Mettā Pāramī có bản chất tương tự với Jhāna Pāramī nên được bao gồm trong Jhāna Pāramī.

Upekkhā Pāramī bao gồm sở hữu Tatramajjhattatā Paññā. Tatramajjhattatā nên được xem là Jhāna Pāramī vì nó có liên quan. Còn sở hữu Trí tuệ giống như Ñāṇupekkhā nên được xem là Paññā Pāramī.

Adhiṭṭhānana Pāramī nên được bao gồm trong cả 6 pháp Ba-la- mật: Dāna, Sīla, Khantī, Vīriya, Jhāna và Paññā vì trong sáu pháp Ba-la-mật này đều có Adhiṭṭhāna (Quyết định không lay chuyển).

Lợi ích của 6 pháp Ba-la-mật được ghép thành từng cặp

Trước hết 6 pháp Ba-la-mật đã được rút gọn: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nại, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ có thể được ghép thành 15 cặp như sau:

(a) Dāna & Sīla - Bố thí và Trì giới.

(b) Dāna & Khantī - Bố thí và Nhẫn nại.

(c) Dāna & Viriya - Bố thí và Tinh tấn.

(d) Dāna & Jhāna - Bố thí và Thiền định.

(e) Dāna & Paññā - Bố thí và Trí tuệ.

(f) Sīla & Khantī - Trì giới và Nhẫn nại.

(g) Sīla & Viriya - Trì giới và Tinh tấn.

(h) Sīla & Jhāna - Trì giới và Thiền định.

(i) Sīla & Paññā - Trì giới và Trí tuệ.

(j) Khanti & Viriya - Nhẫn nại và Tinh tấn.

(k) Khantī & Jhāna - Nhẫn nại và Thiền định.

(l) Khantī & Paññā - Nhẫn nại và Trí tuệ.

(m) Vīriya & Jhāna - Tinh tấn và Thiền định.

(n) Vīriya & Paññā - Tinh tấn và Trí tuệ.

(o) Jhāna & Paññā - Thiền định và Trí tuệ.

Bồ Tát thành tựu qua hai cặp:

(a) Dāna & Sīla, Bồ tát thành tựu hai điều phước là làm những việc lợi ích cho chúng sanh và xa lìa những điều có hại cho họ.

(b) Dāna & Khantī, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là vô tham và vô sân.

(c) Dāna & Viriya, Bồ tát thành tựu hai điều phước là tánh hào phóng và đa văn.

(d) Dāna & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai điều phước là từ bỏ dục lạc và sân hận.

(e) Dāna & Paññā, Bồ tát thành tựu hai điều phước là sự định tâm và thiền quán; và hai điều phước khác là pháp học về giáo pháp (pariyatti) và thiền quán.

(f) Sīla & Khantī, Bồ tát thành tựu hai phước báu lợi ích là thân hạnh, khẩu hạnh thanh tịnh và thiên hướng thanh tịnh.

(g) Sīla & Vīriya, Bồ tát thành tựu hai điều phước là sự định tâm và thiền quán.

(h) Sīla & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai điều phước là đoạn trừ phiền não (vītikkama kilesa) và triền phiền não (pariyaṭṭhāna kilesa) (Sīla Jhāna đoạn trừ triền phiền não).

(i) Sīla & Paññā, Bồ tát thành tựu hai việc phước là vô úy thí (abhaya dāna) và pháp thí (dhamma dāna); vô úy thí có thể xảy ra chỉ khi nào có Sīla; và pháp thí có thể xảy ra chỉ khi nào có Paññā.

(j) Khantī & Viriya, Bồ tát thành tựu hai đức tánh là nhẫn nại và kiên trì; (các pháp thăng trầm của đời sống chỉ có thể vượt qua bằng nhẫn nại, và chỉ khi nào có tinh tấn, các việc phước mới được làm một cách tận tâm tận ý).

(k) Khantī & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là đoạn trừ thù địch khởi sanh từ sân hận và sự thiên vị khởi sanh từ tham (không có Khantī, người ta có khuynh hướng chống lại những điều không khả ái trong thế gian vì sự sanh khởi của sân hận; không có Jhāna, người ta dễ nghiêng về những cảnh khả ái trong thế gian vì sự sanh khởi của tâm tham).

(l) Khantī & Paññā, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là thấu hiểu tánh vô ngã trong danh sắc (nāma rūpa) và tuệ quán thông đạt Niết bàn.

(m) Viriya & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là tinh cần (paggaha) và tâm bất tán loạn (avikkhepa).

(n) Vīriya & Paññā , Bồ tát thành tựu hai lợi ích là làm chỗ dựa cho chúng sanh và chỗ dựa cho chính mình (chỗ nương tựa cho chúng sanh nhờ Vīriya, chỗ nương tựa cho chính mình nhờ Paññā).

(o) Jhāna & Paññā, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là sự định tâm và quán Tuệ.

Lợi ích phát sanh từ những nhóm ba

Bồ tát thành tựu ba lợi ích do:

(1) đoạn trừ tham, sân và si là ba căn cội của mọi điều ác, nhờ dāna, sīla khantī.

(2) rút ra tinh hoa từ tài sản, thân sắc và mạng sống của mình (vì chúng kết hợp với năm loại kẻ thù, nên tài sản và của cải không có những giá trị nội tại, giá trị thực của chúng là cho chúng đi - dāna). Vì phải chịu nhiều loại bịnh nên thân không có thực chất mà thực chất của nó là sự thọ trì giới - sīla. Cuối cùng khi kết thúc bằng sự hoại vong, mạng sống cũng không có thực chất. Thực chất của nó là sự tu tập thiền quán – Vipassanā.

(3) các việc phước về bố thí, trì giới và tu thiền nhờ nhóm ba dāna, sīla jhāna.

(4) tài thí, vô úy thí và pháp thí nhờ dāna, sīla paññā.

Tương tự, các lợi ích còn lại của nhóm 3 và 4 Ba-la-mật có thể suy ra từ các nhóm hai.

Bốn Trụ xứ (Adhiṭṭhāna)

Sau khi cho thấy mười Ba-la-mật được rút gọn thành sáu bằng cách đưa các pháp tương tự về chung một mối, sáu Ba-la-mật này lại được bao gồm trong bốn Trụ xứ.

- Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ

- Cāgādhiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ

- Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ

- Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ.

(i) Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ: Niết bàn là Chân lý tuyệt đối (Paramattha Sacca) cùng với những pháp hành khởi đầu dẫn đến Niết bàn (pubbabhāga paṭipadā), là ngữ đế (vacisacca); ly vọng ngữ đế (virati sacca) là sở hữu chánh ngữ (sammāvācā); và trí đế (ñāṇa sacca) là sở hữu trí tuệ (paññā). (Ngữ đế, Ly vọng ngữ đế và Trí đế tạo thành trụ xứ nâng đỡ cho Bồ tát trụ vào trong suốt những kiếp luân hồi, thực hành các pháp Ba-la-mật và trong kiếp Ngài thành Phật. Niết bàn là chân lý tuyệt đối tạo thành trụ xứ cho vị Bồ tát khi Ngài thành Phật. Do đó, chúng tạo thành Đế trụ xứ (Saccādhiṭṭhāna.)

(ii) Cāgādhiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ là sự đoạn tất cả phiền não không dư sót bằng A-la-hán đạo và xả đoạn các cảnh dục và các dục ái qua sự thực hành các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v... ở giai đoạn đầu khi Ngài là vị Bồ tát. (Bồ tát trong khi thực hành các pháp Ba-la-mật không thể đoạn tận tất cả phiền não mà không còn dư sót. Ngài chỉ có thể xả ly các cảnh dục trong khả năng của Ngài qua pháp Bố thí Ba-la-mật, v.v... và xả đoạn các phiền não dục một cách tạm thời (tadaṅga-pahāna) và xả đoạn chúng bằng sự trấn phục (vikkhambhana-pahāna), Bồ tát xây dựng trụ xứ cho mình chỉ bằng cách này. Chỉ khi Ngài chứng đắc A-la-hán quả và Nhất thiết trí trở thành một vị Phật, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ, xả đoạn hoàn toàn tất cả phiền não không còn dư sót. Do đó, sự xả đoạn toàn bộ phiền não bằng A-la-hán đạo, sự xả đoạn các cảnh dục và phiền não dục có tánh cách tạm thời và trấn phục, tất cả những sự xả đoạn này tạo thành Xả đoạn trụ xứ - Cāgādhiṭṭhāna.

(iii) Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ là sự vắng lặng hoàn toàn tất cả phiền não bằng A-la-hán đạo, sự lắng dịu khổ đau trong luân hồi khi giác ngộ Niết bàn, sự xả đoạn các phiền não tạm thời hoặc sự trấn phục qua việc thực hành các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v... trong khi là Bồ tát. (Khi vị Bồ tát đang thực hành các pháp Ba-la-mật, các phiền não và khổ của luân hồi chưa thể dập tắt triệt để được. Do đó, qua các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v... tạo thành phương tiện làm lắng dịu phiền não, vị Bồ tát chỉ xả đoạn chúng tạm thời và bằng sự trấn phục mà thôi. Bằng những pháp hành như vậy, vị Bồ tát xây dựng cho chính Ngài trụ xứ tạm thời. Đến khi chứng đắc Phật quả, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ qua việc đoạn tận hoàn toàn các phiền não và khổ luân hồi. Cho nên sự vắng lặng các phiền não và khổ luân hồi tạo thành Tịch tịnh trụ xứ - Upasamādhiṭṭhāna.

(iv) Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ là A-la-hán quả tuệ (Arahatta- phala) và Nhất thiết trí và tất cả các loại trí tuệ như phương tiện thiện xảo trí, v.v… đã khởi sanh trước kia trong dòng tâm của vị Bồ tát. (Trong những kiếp là Bồ tát, Ngài trú trong các loại trí tuệ như phương tiện thiện xảo trí, v.v... Đến khi chứng đắc đạo quả Phật, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ của A-la-hán quả tuệ và Nhất thiết trí. Do đó, tất cả các loại trí tuệ đã nêu ra ở trên tạo thành Trí tuệ trụ xứ - Paññādhiṭṭhāna).

Đối với những kẻ phàm phu thiểu trí, chỉ biết nương tựa vào các cảnh dục và phiền não dục. Những cảnh dục và phiền não dục này tạo thành chỗ nương tựa của họ. Đối với vị Bồ tát thấy rõ mối nguy hiểm trong chúng, Ngài an trú trong bốn trụ xứ của chân thật (sacca), xả đoạn (cāga), tịch tịnh (upasama) và trí tuệ (paññā). Những trụ xứ này đưa Ngài từ các cảnh dục, phiền não dục đến chỗ giải thoát, tức Niết bàn. Do đó, bốn yếu tố này tạo thành những trụ xứ dành cho vị Bồ tát.

Sự thành tựu bốn Trụ xứ xảy ra trong dòng tâm của vị Bồ tát như thế nào

Sau khi nhận được sự thọ ký thành Phật, Bồ tát suy xét các pháp Ba-la-mật bằng Ba-la-mật Tư trạch trí (Pāramī-pavicaga ñāṇa). Sau khi đã làm như vậy, Ngài phát nguyện thực hành viên mãn tất cả các pháp Ba-la-mật. Rồi Ngài tiếp tục thực hành viên mãn chúng đúng với lời nguyện này. Như vậy Đế trụ xứ (Saccādhiṭṭhā) hiện khởi trong dòng tâm của vị Bồ tát.

Trong khi các pháp Ba-la-mật đang được thực hành viên mãn thì có sự xả đoạn các phiền não đối nghịch với chúng và cũng xảy ra sự xả đoạn các cảnh dục và phiền não. Như vậy Xả đoạn trụ xứ (Cāgādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

Vì có sự diệt tắt các phiền não do oai đức của các pháp Ba-la-mậtnên Tịch tịnh trụ xứ (Upasamādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

Qua những pháp Ba-la-mật này, Bồ tát có được Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla ñāṇa) và Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

(Điều muốn nói ở đây là : Bất cứ khi nào vị Bồ tát thực hành 10 pháp Ba-la-mật hoặc 6 Ba-la-mật, hoặc bất cứ khi nào Ngài thực hiện các việc phước có liên quan đến các pháp Ba-la-mật thì có sự hiện khởi trong dòng tâm của vị Bồ tát: (i) Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ là sự cố gắng không suy thối để thực hành lời nguyện của Ngài; (ii) Cāgādhiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ là sự đoạn trừ các phiền não đối nghịch với các pháp Ba-la-mật; (iii) Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ là sự tắt lịm các phiền não; (iv) Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ là thiện xảo trong các phương tiện đem lại phúc lợi cho chúng sanh. Do đó, sáu pāramī được cô đọng thành bốn trụ xứ (adhiṭṭhana): chân thật (sacca), xả đoạn (cāga), tịch tịnh (upasama) và trí tuệ (paññā).

Khi một người chuyên tâm vào một công việc kinh doanh trong sạch, thấy nó có lợi như đã dự định, người ấy tiếp tục đeo đuổi công việc kinh doanh ấy với sự siêng năng và nhiều tinh tấn hơn. Ở đây lợi ích phát sanh từ công việc kinh doanh ban đầu là nguyên nhân, sự siêng năng và tinh tấn gia tăng trong việc theo đuổi công việc là kết quả của nguyên nhân ấy.

Tương tự, khi Bồ tát bắt tay thực hiện những việc phước thuộc Ba- la-mật, Ngài thọ hưởng lợi ích của những việc phước này dưới dạng Bốn trụ xứ, đó là vị ngọt của ngữ chơn thật (vacissacca); sự đoạn trừ các phiền não (cāga); sự diệt tắt ngọn lửa phiền não (upasamā); và phương tiện thiện xảo trí (upāya-kosalla ñāṇa). Ngài tiếp tục làm những việc phước về Ba-la-mật này với sự siêng năng và gia tăng sức tinh tấn từ kiếp này sang kiếp khác. Ở đây lợi ích của những việc phước này dưới dạng Bốn trụ xứ là nguyên nhân và những việc phước về Ba-la-mật được lập đi lập lại bằng sự siêng năng và sức tinh tấn gia tăng là kết quả của nguyên nhân ấy. Nên hiểu rằng sự xảy ra của những việc phước về Ba-la-mật và sự xảy ra của bốn Trụ xứ là một, chỉ khác nhau về cách gọi mà thôi.

Mô tả chi tiết hơn:

(i) Trong quá trình thực hiện các việc phước về Dāna Pāramī, Bồ tát hướng những lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ là sự thực hành bố thí vững chắc theo đúng ý nguyện của Ngài: “Ta sẽ bố thí khi thấy người tầm cầu vật thí”; (b) Cāgādhiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ là sự đoạn tận bỏn xẻn, v.v... đối nghịch với pháp bố thí; (c) Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ là sự diệt tắt tâm tham đối với các vật thí, tâm sân (xảy ra đối với những người miễn cưỡng bố thí) đối với những người đến xin vật thí; tâm si về sự bố thí (trạng thái si mê thường hay xảy ra đối với người không quen bố thí) vì sợ hao tổn; (d) Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ là sự bố thí đúng lúc như đã dự định, do trí tuệ hướng đạo.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát tiếp tục phát triển pháp Bồ tát Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

(ii) Tương tự, trong quá trình thực hành Sīla Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự không vi phạm các giới cấm đúng theo lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự đoạn trừ bất thiện tư và các tội ác; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt điều tai hại do các bất thiện nghiệp gây ra; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát càng tu tập Giới Ba-la-mật hơn nữa.

(iii) Trong quá trình thực hành pháp Khantī Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự thực hành pháp nhẫn nại một cách bền bỉ đúng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự đoạn trừ những ý nghĩ bất thiện gây ra bởi hành vi và lời nói ác của kẻ khác; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt sân ác; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, Bồ tát tiếp tục phát triển Nhẫn nại Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

(iv) Trong quá trình thực hành pháp Viriya Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là công việc đem phúc lợi đến chúng sanh đúng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự đoạn trừ tánh dễ duôi, làm việc dang dở. (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt của sự tổn hại do bất thiện pháp gây ra; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát tiếp tục phát triển Tinh tấn Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

(v) Trong quá trình thực hành Jhāna Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự suy nghĩ sâu sắc và tầm cầu phúc lợi cho toàn thể thế gian đúng với lời nguyện của Ngài;

(b) Cāgādhiṭṭhāna là sự đoạn trừ các triền cái; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự an tịnh của tâm; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, Bồ tát tiếp tục phát triển Thiền định Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

(vi) Trong quá trình thực hành pháp Paññā Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự thiện xảo trong các phương tiện đem lại lợi ích cho chúng sanh đúng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự đoạn trừ các tà đạo và các ác nghiệp; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt mọi hình thức lo âu, bồn chồn do vô minh gây ra, (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ đóng vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana) này, Bồ tát tiếp tục phát triển Trí tuệ Ba-la-mật (Paññā Pāramī) nhiều hơn nữa.

Như vậy trong mọi việc phước về pāramī đều có sự hiện diện của bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana), cho nên có thể nói rằng sáu pāramī được bao gồm trong bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana).

Bốn Trụ xứ được xem là Một Trụ xứ

Cũng như sáu pháp pāramī được bao gồm trong bốn Trụ xứ, cũng vậy mỗi trụ xứ có thể được xem là bao trùm ba trụ xứ còn lại. Sau đây là cách bao gồm mỗi trụ xứ (adhiṭṭhana).

Như Đế trụ xứ (Saccādiṭṭhāna), các trụ xứ Xả đoạn (Cāgādhiṭṭhāna), Tịch tịnh (Upasamādhiṭṭhāna) và Trí tuệ (Paññādhiṭṭhāna) có bản chất thi hành trung thực đúng với lời nguyện nên có thể được bao gồm trong Đế trụ xứ (Saccādiṭṭhāna).

Như Cāgādhiṭṭhāna, Saccādiṭṭhāna, Upasamādhiṭṭhāna Paññādhiṭṭhāna vì có bản chất đoạn trừ các yếu tố đối nghịch và là kết quả của sự từ bỏ hoàn toàn nên có thể được bao gồm trong Cāgādhiṭṭhāna

Như Upasamādhiṭṭhāna, Saccādiṭṭhāna, Cāgādhiṭṭhāna Paññādhiṭṭhāna vì có bản chất diệt tắt sức nóng của các ác nghiệp và phiền não gây ra, nên có thể được bao gồm trong Upasamādhiṭṭhāna.

Saccādiṭṭhāna, Cāgādhiṭṭhāna Upasamādhiṭṭhāna đi theo kẻ hướng đạo là paññā nên có thể được bao gồm trong Paññādhiṭṭhāna.

Các Trụ xứ đem lại lợi ích như thế nào?

Như vậy tất cả các pháp pāramī đều có sự khởi đầu bằng Đế trụ xứ (Saccādiṭṭhāna) - chúng hiện khởi qua Xả đoạn trụ xứ (Cāgādhiṭṭhāna), lớn mạnh do nhờ Tịch tịnh trụ xứ (Upasamādhiṭṭhāna), xa lìa các phiền não nhờ Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) và trở nên thanh tịnh.

Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của các pháp pāramī, Saccādiṭṭhāna giữ vai trò chủ đạo, chỉ với Saccādiṭṭhāna, sự thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật mới có thể bắt đầu. Ở giai đoạn giữa, Cāgādhiṭṭhāna giữ vai trò chủ đạo, sau khi bắt đầu thực hành viên mãn các pháp pāramī bằng Saccādiṭṭhāna, nó được tiếp tục ở giai đoạn giữa bằng sự xả ly cả thân và mạng sống của chính mình để đem lại lợi ích cho chúng sanh bằng Cāgādhiṭṭhāna. Ở giai đoạn cuối, Upasamādhiṭṭhāna giữ vai trò chủ đạo, bằng sự diệt tắt tất cả đau khổ của luân hồi, phận sự thực hành viên mãn các pháp pāramī mới kết thúc.

Paññādhiṭṭhāna tối cao trong cả ba thời kỳ đầu, giữa và cuối. Chỉ với trí tuệ, các pháp pāramī mới có thể bắt đầu, sự xả ly toàn bộ thân thể và mạng sống của ta mới có thể thực hiện được và sự diệt tắt rốt ráo đau khổ của luân hồi mới có thể xảy ra.

Tất cả bốn trụ xứ này thường xuyên làm gia tăng lợi ích cho chính mình và mọi người, được mọi người yêu mến và kính trọng. Trong bốn trụ xứ này, qua Saccādiṭṭhāna Cāgādhiṭṭhāna, Bồ tát khi là cư sĩ đem lại lợi ích cho chúng sanh bằng sự bố thí vật chất. Qua Upasamādhiṭṭhāna, Paññādhiṭṭhāna - khi là đạo sĩ, Bồ tát đã bố thí Pháp đến chúng sanh.

Sự thành tựu bốn Trụ xứ xảy ra trong kiếp chót của Bồ tát khi Ngài thành một vị Phật như thế nào

GHI CHÚ MỞ ĐẦU:

Trong việc giải thích các quan điểm khác nhau của các vị A-xà-lê trong các luận thuyết, chúng được gọi là Eke vāda hay Aññe vāda khi các vị A-xà-lê này có những khả năng chuyên môn xứng đáng làm thầy của tác giả. Khi họ có những khả năng chuyên môn bằng với tác giả, thì tác giả gọi những quan điểm của họ là Apare vādä Nếu họ kém hơn tác giả thì tác giả gọi quan điểm của họ là Keci vāda.

Phương pháp ghi chép theo truyền thống này được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Eke hay aññe có nghĩa là những người xứng đáng làm thầy của tác giả. Apare nghĩa là những người có khả năng chuyên môn bằng với tác giả, và Keci ám chỉ những người kém hơn tác giả.

Eke vāda

Nói về sự thành tựu của bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) xảy ra trong kiếp chót của Bồ tát, các vị A-xà-lê bậc thầy cho rằng bốn Trụ xứ đã được thành tựu viên mãn vào lúc Bồ tát nhập thai (sự nhập thai của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài chỉ xảy ra khi các pháp Ba-la-mật đã được thành tựu viên mãn, cũng vậy nó chỉ xảy ra khi nào bốn Trụ xứ đạt đến chỗ thành tựu viên mãn).

Lời giải thích của các vị a-xà-lê bậc thầy này là - Sau khi đã thành tựu viên mãn Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) vào lúc giáng sanh vào lòng mẹ, trong khi nằm mười tháng trong bào thai và khi ra khỏi bào thai, Bồ tát luôn luôn có chánh niệm và giác tỉnh. Những kẻ phàm phu không biết họ đang tái sanh vào lòng mẹ, họ cũng không biết mình đang ở trong bào thai mẹ và lúc được sanh ra. Tám mươi vị Thinh văn tương lai cũng biết rõ sự kiện sanh vào lòng mẹ của họ, nhưng họ không biết thời gian ở trong bào thai và lúc ra khỏi bào thai. Hai vị Đại đệ tử tương lai và chư Phật Độc giác tương lai biết rõ lúc họ tái sanh vào lòng mẹ và trong khi ở trong bào thai, nhưng không biết rõ lúc ra khỏi bào thai. Thực tế thì những Đại đệ tử đương lai và chư đương lai Phật độc giác, khi gần tới thời kỳ sanh nở, bị sức ép bên trong bào thai đẩy ra cửa mình của người mẹ, bị nhào lộn tựa như đang chìm xuống vực sâu; rồi họ phải chịu đau đớn cùng cực khi đang ra khỏi cửa mình của người mẹ, giống như con voi lớn ra khỏi cái hang có cửa hẹp. Những vị Đại đệ tử đương lai và chư đương lai Phật Độc giác không biết rằng họ đang ra khỏi bào thai của mẹ. Bằng cách này, ta nên có sự kinh cảm sâu sắc bằng cách quán sự khổ cùng cực của sự sanh như sau: “Ngay cả những nhân vật đã thành tựu các pháp Pāramī cũng phải chịu đau đớn mãnh liệt trong trường hợp như vậy!”

Tuy nhiên đối với chư vị Bồ tát sẽ thành Phật trong kiếp chót, các Ngài biết rõ ba sự kiện liên quan đến sự thọ sanh vào lòng mẹ, lúc ở trong bào thai và lúc đản sanh. Sức ép bên trong bào thai không đủ khả năng làm đảo lộn thân xác của các Ngài. Vào lúc sanh, các Ngài luôn ra khỏi lòng mẹ với hai tay duỗi thẳng, mắt mở và đứng thẳng vững chắc. Ngoài chư Phật đương lai, không một ai có chánh niệm về ba biến cố này. Do đó, vào lúc thọ sanh vào lòng mẹ và lúc đản sanh, mười ngàn luân vi thế giới đều chấn động dữ dội (Chú giải bộ Dīgha Nikāya, cuốn 3).

Sau khi đã thành tựu viên mãn Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ, vừa sanh ra, Bồ tát đi bảy bước về hướng bắc, và sau khi dò xét tất cả các hướng một cách dũng cảm, Ngài ba lần phát chơn ngôn uy dũng như tiếng gầm của chúa tể sơn lâm: “Ta là bậc Tối thượng trong thế gian (aggo’haṃ asmi lokassa). Ta là bậc Tối thắng trong thế gian (jettho’haṃ asmi lokassa). Ta là bậc Tối thượng tôn trong thế gian (settho’haṃ asmi lokassa).”

Sau khi thành tựu viên mãn Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ, khi Ngài thấy bốn điềm tướng, người già, người bịnh, người chết, và người xuất gia thì tánh ngã mạn do tuổi trẻ, sức mạnh, sự trường thọ và phú quý diệt ngay trong dòng tâm của Bồ tát vì Ngài có sự hiểu biết sâu sắc về bốn phần Giáo pháp (Dhammuddesa) - là sự đau khổ của thân do bởi tuổi già, bịnh tật, sự chết, và cách thoát khỏi tình trạng nô lệ do lòng tham đối với các dục lạc và tài sản, không thể có được cách thoát nếu không có sự xả ly hoàn toàn lòng tham ấy (được đưa ra trong Ratthapāla Sutta).

Sau khi đã thành tựu viên mãn Cāgādiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ, Bồ tát bỏ lại tất cả thân thích và quyến thuộc trong hoàng cung không chút quan tâm. Ngài từ bỏ vương quyền mà Ngài đang thọ hưởng và quyền bá chủ của vị Chuyển luân vương sắp đến với Ngài.

Đây là phần trình bày của các vị A-xà-lê bậc thầy. Nhà Chú giải Mahā Dhammapāla không bình luận gì về Eke vāda này.

Keci vāda

Theo các vị A-xà-lê, bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) được thành tựu viên mãn chỉ khi nào chứng đắc Phật quả. Các vị giải thích là: Khi Ngài thành Phật (sự chứng đắc A-la-hán đạo tuệ và Nhất thiết trí) do nhờ sự tích lũy Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ trong quá khứ đúng với lời nguyện của Ngài, Ngài thông đạt Tứ thánh đế, Saccādiṭṭhāna được thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Xả đoạn trụ xứ, Cāgādiṭṭhāna được được tích lũy trong quá khứ nên Ngài đoạn tận tất cả phiền não, cho nên Xả đoạn trụ xứ được thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Tịch tịnh trụ xứ, Upassamādiṭṭhāna đã tích lũy trong quá khứ, Ngài đạt được sự an lạc siêu phàm nhất của Niết bàn khi thành Phật, cho nên Tịch tịnh trụ xứ được thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Trí tuệ trụ xứ, Paññādhiṭṭhāna đã được tích lũy trong quá khứ, Ngài đạt được Vô chướng trí (anāvaraṇa ñāṇa) biết rõ tất cả những gì cần biết, cho nên Trí tuệ trụ xứ, Paññādhiṭṭhāna được thành tựu viên mãn vào lúc ấy.

Nhà chú giải Mahā Dhammapāla có nhận xét về bài giải thích này như sau: “Lời giải thích của họ không được hoàn hảo bởi vì Chánh đẳng giác (Abhisambodhi), tức A-la-hán đạo tuệ hay Nhất thiết trí, là thực tại tuyệt đối. Vì Tịch tịnh trụ xứ, Upassamādiṭṭhāna có nghĩa là sự diệt tắt hoàn toàn do khổ luân hồi không còn sanh khởi hay do sự an lạc hoàn toàn và vì điều này có thể đạt được chỉ vào lúc tịch diệt (parinibbāna).”

Aññe vāda

Tuy nhiên các vị thầy Aññe thì cho rằng bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) được thành tựu viên mãn trong trường hợp bài kinh Chuyển pháp luân được thuyết giảng (khi Đức Phật vận dụng Thuyết thị trí - Desanā ñāṇa).

Đây là bài giải thích của các vị thầy Aññe: “Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ mà Đức Phật đã tích lũy trong quá khứ được thành tựu trong luồng tâm thức của Ngài qua sự thuyết giảng Tứ Thánh đế theo ba cách là saccañāṇa (trí biết về chân đế), kiccañāṇa (trí biết về việc phải làm) và katañāṇa (trí biết về việc đã làm) đối với mỗi đế trong Tứ thánh đế. Cāgādiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ mà Đức Phật đã tích lũy trong quá khứ được thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài qua sự bố thí vĩ đại về chánh pháp. Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ mà Đức Phật tích lũy trong quá khứ được thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài sau khi tự mình chứng đạt sự an lạc của giải thoát tất cả phiền não và giúp những kẻ khác cũng đạt được như thế. Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ mà Đức Phật đã tích lũy trong quá khứ được thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài qua sự thấy biết đầy đủ tất cả thiên hướng của chúng sanh.

Nhà Chú giải Mahā Dhammapāla có nhận xét về bài giải thích quan điểm của các vị thầy aññe như sau: “Lời giải thích của các vị thầy aññe cũng không hoàn hảo vì bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn chỉ khi nào các phận sự của một vị Phật đã xong. Qua sự thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân, Đức Phật chỉ mới bắt đầu làm các phận sự của Ngài, Ngài chưa làm xong các phận sự ấy. Cho nên lời giải thích của các vị thầy aññe vẫn chưa đầy đủ.

Apare vāda

Các vị thầy Apare cho rằng bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn vào lúc Đức Phật tịch diệt (parinibbāna).

Đây là lời giải thích của các vị thầy apare: “Trong bốn phương diện Đế trụ xứ thì Niết bàn, tức Paramattha Saccādhiṭṭhāna, là đệ nhất, phận sự của nó chưa hoàn thành do chỉ chứng đắc A-la-hán đạo qua sự diệt tắt các phiền não (kilesa parinibbāna).

Phận sự của nó được hoàn thành chỉ khi nào kiếp sống chấm dứt bằng sự diệt tắt các uẩn (khandha parinibbāna). Chỉ khi ấy Saccādhiṭṭhāna - Đế trụ xứ mới được viên thành. Vào lúc ấy, tất cả bốn uẩn, là dục uẩn (kāmupadhi), thân uẩn (khandhupadhi), phiền não uẩn (kilesupadhi) và hành uẩn (abhisaṅkhārupadhi) đều bị loại bỏ nên Cāgādiṭṭhāna - Xả đoạn trụ xứ được viên thành. Khi ấy vì tất cả các hành đều diệt nên Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ được viên thành. Cũng vào thời điểm đó, tất cả mục đích của trí tuệ đều đạt được nên Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ được viên thành”. Đây là quan điểm của các vị thầy apare. Nhà chú giải Mahā Dhammapāla không có lời bình luận nào về quan điểm của họ nhưng đưa ra lời giải thích riêng của mình để bổ túc vào đó: (a) Sự thành tựu viên mãn Saccādhiṭṭhāna đặc biệt rõ ràng vào lúc đản sanh; (b) Sự thành tựu viên mãn Paññādhiṭṭhāna đặc biệt rõ ràng vào lúc Ngài thành đạo; (c) Sự thành tựu viên mãn Cāgādiṭṭhāna đặc biệt rõ ràng khi Ngài thực hiện sự bố thí vĩ đại về Pháp qua sự thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân, (d) Sự thành tựu viên mãn Upassamādiṭṭhāna đặc biệt rõ ràng khi Ngài giác ngộ Niết bàn .

Tóm tắt quan điểm của những vị A-xà-lê

(i) Các vị thầy Eke cho rằng bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn trong trường hợp đầu tiên khi sự thọ sanh vào lòng mẹ xảy ra trong kiếp chót.

(ii) Các vị thầy Keci cho rằng bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ hai khi thành đạo.

(iii) Các vị thầy Aññe cho rằng bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ ba khi bài kinh Chuyển pháp luân được thuyết giảng.

(iv) Các vị thầy Apare cho rằng bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ tư khi Đức Phật viên tịch Đại bát Niết bàn.

Tuân theo truyền thống của các tác giả là nói lên quan điểm của mình ở cuốí tác Phẩm, đại đức Mahā Dhammapāla nêu ra quan điểm cuối cùng, là apare vāda, vì vị ấy tán đồng quan điểm ấy và chấp nhận nó bằng lời nhận xét bổ túc như sau: “Bốn Trụ xứ được thành tựu viên mãn chỉ trong trường hợp thứ tư khi Đức Phật viên tịch Đại-bát-Niết- bàn đúng như lời giải thích của các vị thầy Apare. Tuy nhiên, điều đặc biệt rõ ràng là Saccādhiṭṭhā được thành tựu viên mãn ở trưởng hợp thứ nhất; Paññādhiṭṭhāna ở trường hợp thứ hai; Cāgādhiṭṭhāna ở trường hợp thứ ba; Và Upasamādhiṭṭhāna ở trường hợp thứ tư.”

Những lợi ích của các Trụ xứ

Qua Saccādiṭṭhāna thì giới thanh tịnh, qua Cagādiṭṭhāna thì sự nuôi mạng được thanh tịnh, qua Upasamādiṭṭhāna thì tâm thanh tịnh, qua Paññādiṭṭhāna thì trí tuệ thanh tịnh.

Hơn nữa, qua Saccādiṭṭhāna (vì không đi lệch khỏi pháp chân thật), Ngài không theo cách hành xử sai lệch của sân. Qua Cagādiṭṭhāna (vì không bị tham luyến vào các vật dục), Ngài không theo cách hành xử sai trái của tham. Qua Upasamādiṭṭhāna (vì hoàn thiện) và vì không có gì để sợ hãi nên Ngài không theo cách hành xử sai lầm của sợ hãi; và qua Paññādiṭṭhāna (vì thấy các pháp như thật), Ngài không theo cách hành xử sai lầm của si mê.

Thêm nữa, qua Saccādiṭṭhāna, Ngài có thể chịu đựng không chút nóng giận với các điều phiền toái do lạnh, nóng, đói khát gây ra; do tiếp xúc với ruồi muỗi, gió nắng, các loài bò sát; những lời mắng chửi, càu nhàu của kẻ khác và những chứng bịnh đau đớn. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài sử dụng bốn món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc men mà không có sự chấp thủ sanh khởi do tham. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài tránh được các nguy hiểm do voi dữ, ngựa hoang, chó dữ và thú hoang gây ra nhờ giữ tâm vắng lặng tuyệt đối. Qua Paññādiṭṭhāna, Ngài sáng suốt loại trừ những ý nghĩ tà vạy về dục lạc, sân, hại cũng như những yếu tố bất thiện.

Qua Saccādiṭṭhāna, Ngài đạt được hạnh phúc của sự xuất gia. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài hưởng được hạnh phúc của đời sống độc cư. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài hưởng được sự an lạc và qua Paññādiṭṭhāna, Ngài hưởng được hạnh phúc kết hợp với bốn phần trí tuệ về Đạo.

Qua Saccādiṭṭhāna, Ngài đạt được hạnh phúc của sơ thiền. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài đạt được hạnh phúc của nhị thiền. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài đạt được hạnh phúc của tam thiền và qua Paññādiṭṭhāna, Ngài đạt được hạnh phúc của tứ thiền.

Các pháp Pāramī rút gọn còn hai pháp

Cũng như tất cả các pháp pāramī đều được bao gồm trong bốn Trụ xứ, chúng cũng được xem là hai pháp: Từ bi (Karunā) và Trí tuệ (Paññā). Thực tế thì chỉ phẩm hạnh như dāna, v.v... được thành lập dựa trên nền tảng là karunā paññā, là hai pháp cần thiết cho sự giác ngộ Chánh đẳng giác, dẫn đến kết quả là Nhất thiết trí.

Những điểm đã được trình bày trong chương này là:

Sự rút gọn 30 pháp Pāramī thành 10. Sự rút gọn 10 Pāramī thành 6: Dāna, Sīla, Khantī, Viriya, Jhanā Paññā. Rồi sự rút gọn 6 Pāramī thành 4 Trụ xứ - Adhiṭṭhāna và cuối cùng tất cả Pāramī được cô đọng trong hai pháp: Karunā Paññā.


Mục lục chính Tập 1A Tập 1B Tập 2 Tập 3 Tập 4 Tập 5 Tập 6A Tập 6B


[Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục]