TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 07
TIỂU PHẨM tập II
ẤN BẢN 2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TỤNG PHẨM THỨ NHẤT & THỨ NH̀
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử trong lúc tắm lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây, giống như những vơ sĩ đấu vật và những người thành phố tô điểm làn da vậy?” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các vị tỳ khưu hỏi rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc tắm cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy trong lúc tắm lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.” Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong lúc tắm không nên cọ xát cơ thể vào thân cây; vị nào cọ xát th́ phạm tội dukkaṭa.”
2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc tắm cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào cột trụ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử trong lúc tắm lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào cột trụ, giống như những vơ sĩ đấu vật và những người thành phố tô điểm làn da vậy?” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong lúc tắm không nên cọ xát cơ thể vào cột trụ; vị nào cọ xát th́ phạm tội dukkaṭa.”
3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc tắm cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử trong lúc tắm lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà, giống như những vơ sĩ đấu vật và những người thành phố tô điểm làn da vậy?” ―(như trên)― Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, trong lúc tắm không nên cọ xát cơ thể vào tường nhà; vị nào cọ xát th́ phạm tội dukkaṭa.”
4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục sư tắm (cọ xát) ở tấm ván xẻ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao ―(như trên)― và lưng ở tấm ván xẻ, giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, không nên tắm (cọ xát) ở tấm ván xẻ; vị nào tắm th́ phạm tội dukkaṭa.”
5. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với cây kỳ cọ h́nh giống bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên tắm với cây kỳ cọ h́nh giống bàn tay; vị nào tắm th́ phạm tội dukkaṭa.”
6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với chuỗi hột chà lưng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên tắm với chuỗi hột chà lưng; vị nào tắm th́ phạm tội dukkaṭa.”
7. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo vị khác kỳ cọ theo cách dùng thân thể cọ xát lẫn nhau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên bảo vị khác kỳ cọ theo cách dùng thân thể cọ xát lẫn nhau; vị nào bảo làm th́ phạm tội dukkaṭa.”
8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với cây chà lưng (làm bằng răng cá kiếm). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên tắm với cây chà lưng; vị nào tắm th́ phạm tội dukkaṭa.”
9. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ghẻ. Đối với vị ấy không có cây chà lưng không được thoải mái. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép cây chà lưng chưa được chế biến đối với vị bị bệnh.”
10. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ già cả yếu đuối trong lúc tắm không thể kỳ cọ cơ thể của ḿnh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc dùng dây vải.”
11. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ngần ngại làm công việc kỳ cọ phần lưng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng tay như thường lệ.”
12-19. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo hoa tai ―(như trên)― đeo hoa tai dạng chuỗi ―(như trên)― đeo xâu chuỗi ở cổ ―(như trên)― đeo xâu chuỗi ở hông ―(như trên)― đeo ṿng ―(như trên)― đeo ṿng ở ngực ―(như trên)― đeo đồ trang sức ở tay ―(như trên)― đeo nhẫn ở ngón. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo hoa tai ―(như trên)― đeo hoa tai dạng chuỗi ―(như trên)― đeo xâu chuỗi ở cổ ―(như trên)― đeo xâu chuỗi ở hông ―(như trên)― đeo ṿng ―(như trên)― đeo ṿng ở ngực ―(như trên)― đeo đồ trang sức ở tay ―(như trên)― đeo nhẫn ở ngón, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, không nên đeo hoa tai, không nên đeo hoa tai dạng chuỗi, không nên đeo dây chuỗi ở cổ, không nên đeo dây chuỗi ở hông, không nên đeo ṿng, không nên đeo ṿng ở ngực, không nên đeo đồ trang sức ở tay, không nên đeo nhẫn; vị nào đeo th́ phạm tội dukkaṭa.”
20. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để tóc dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên để tóc dài; vị nào để (tóc dài) th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (để tóc) hai tháng hoặc (để dài) hai lóng tay.”
21-25. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chải tóc bằng lược ―(như trên)― chải tóc bằng vật giống h́nh mang rắn ―(như trên)― chải tóc bằng tay x̣e ra ―(như trên)― chải tóc với sáp ong ―(như trên)― chải tóc với dầu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên chải tóc bằng lược, không nên chải tóc bằng vật giống h́nh mang rắn, không nên chải tóc bằng tay x̣e ra, không nên chải tóc với sáp ong, không nên chải tóc với dầu nước; vị nào chải tóc th́ phạm tội dukkaṭa.”
26. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n nét mặt ở gương soi, và ở trong chậu nước nữa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên nh́n nét mặt ở gương soi hoặc ở trong chậu nước; vị nào nh́n th́ phạm tội dukkaṭa.”
27. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở mặt. Vị ấy đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, vết thương của tôi ra làm sao?” Các tỳ khưu đă nói như sau: - “Này đại đức, vết thương của ngài là như thế đó.” Vị ấy không tin. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, do nhân duyên bệnh ta cho phép nh́n nét mặt ở gương soi hoặc ở trong chậu nước.”
28. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thoa dầu khuôn mặt, xoa bóp khuôn mặt, thoa phấn khuôn mặt, tô điểm khuôn mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở thân thể, vẽ màu ở khuôn mặt, vẽ màu ở thân thể và ở khuôn mặt. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên thoa dầu khuôn mặt, không nên xoa bóp khuôn mặt, không nên thoa phấn khuôn mặt, không nên tô điểm khuôn mặt bằng bột phấn đỏ, không nên vẽ màu ở thân thể, không nên vẽ màu ở khuôn mặt, không nên vẽ màu ở thân thể và ở khuôn mặt; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.”
29. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở mắt. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, do nhân duyên bệnh ta cho phép thoa dầu khuôn mặt.”
30. Vào lúc bấy giờ, tại thành Rājagaha có lễ hội Giraggasamajja. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi xem lễ hội Giraggasamajja. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào đi th́ phạm tội dukkaṭa.”
31. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” ―(như trên)― Sau khi thuyết Pháp thoại, ngài đă bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài: Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu, luôn cả những kẻ khác cũng bị say đắm trong âm điệu, hàng tại gia phàn nàn, trong khi ra sức thể hiện âm điệu thiền định bị phân tán, người đời sau bị rơi vào xu hướng theo quan điểm sai trái. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ khưu, không nên ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại trong khi thuyết giảng với giọng có âm điệu. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc thuyết giảng với giọng có âm điệu.”
32. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc áo choàng có phủ lông phía bên ngoài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên mặc áo choàng có phủ lông phía bên ngoài; vị nào mặc th́ phạm tội dukkaṭa.”
33. Vào lúc bấy giờ, trong khu vườn của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cây xoài đang ra trái. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă cho phép rằng: - “Hăy để các ngài đại đức thọ dụng xoài một cách thoải mái.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă bảo hái luôn cả xoài non rồi thọ thực. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha muốn dùng xoài. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă ra lệnh cho mọi người rằng: - “Này các khanh, hăy đi đến vườn và mang xoài lại.” - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Những người ấy theo lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi đến vườn và nói với các người giữ vườn điều này: - “Này các ngươi, đức vua muốn dùng xoài. Các ngươi hăy dâng xoài.” - “Các ngài ơi, không c̣n xoài nữa. Các tỳ khưu đă bảo hái luôn cả xoài non và thọ dụng.”
Sau đó, những người ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha. - “Này các khanh, xoài đă được các ngài đại đức thọ dụng ngon lành; tuy nhiên, sự chừng mực đă được đức Thế Tôn ngợi khen cơ mà!” Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại thọ dụng xoài của đức vua không biết chừng mực vậy?” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng xoài; vị nào thọ dụng th́ phạm tội dukkaṭa.”
34. Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của nhóm người nọ. Các miếng xoài đă được bỏ vào trong món xúp. Các tỳ khưu ngần ngại không thọ lănh.
- “Này các tỳ khưu, hăy thọ lănh và thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép (thọ dụng) xoài miếng.”
Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của nhóm người nọ. Họ đă không học hỏi để làm xoài thành miếng. Ở pḥng ăn, họ đă tiến hành với các trái xoài hăy c̣n nguyên vẹn. Các tỳ khưu ngần ngại không thọ lănh.
- “Này các tỳ khưu, hăy thọ lănh và thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng trái cây đă được làm thành được phép đối với Sa-môn theo năm cách: đă được hoại bởi lửa, đă được hoại bởi dao, đă được hoại bởi móng tay, không có hột, và hột đă được lấy ra là cách thứ năm. Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng trái cây đă được làm thành được phép đối với Sa-môn theo năm cách này.”
35. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn và chết đi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, chắc chắn là vị tỳ khưu ấy đă không rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này rồi. Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu vị tỳ khưu ấy rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy dầu bị rắn cắn cũng không thể nào chết được. Bốn loài rắn chúa là các loài nào? Loài rắn chúa Virūpakkha, loài rắn chúa Erāpatha, loài rắn chúa Chabyāputta, loài rắn chúa Kaṇhāgotamaka. Này các tỳ khưu, chắc chắn là tỳ khưu ấy đă không rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này rồi. Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu vị tỳ khưu ấy rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy dầu bị rắn cắn cũng không thể nào chết được. Này các tỳ khưu, ta cho phép rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này để thực hiện sự hộ tŕ bản thân nhằm ǵn giữ bản thân, nhằm bảo vệ bản thân. Và này các tỳ khưu, nên thực hành như vầy:
‘Tôi có tâm từ đối với các Virūpakkha, tôi có tâm từ đối với các Erāpatha, tôi có tâm từ đối với các Chabyāputta, và tôi có tâm từ đối với các Kaṇhāgotamaka.
Tôi có tâm từ đối với các loài không chân, tôi có tâm từ đối với các loài hai chân, tôi có tâm từ đối với các loài bốn chân, tôi có tâm từ đối với các loài nhiều chân.
Loài không chân đừng hăm hại tôi, loài hai chân đừng hăm hại tôi, loài bốn chân đừng hăm hại tôi, loài nhiều chân đừng hăm hại tôi.
Hỡi tất cả chúng sanh, tất cả các sinh vật, tất cả các sanh linh và toàn thể, xin tất cả hăy nh́n thấy các điều lành, điều xấu xa chớ có xảy đến bất cứ ai.
Đức Phật là vô lượng,
Giáo Pháp là vô lượng, Hội Chúng là vô lượng.
Các loài ḅ sát (như là) các loài rắn, bọ cạp, rết, nhện, thằn lằn, chuột là có hạn lượng. Tôi đă thực hiện các sự bảo vệ, tôi đă thực hiện sự hộ tŕ, xin các sanh linh hăy tránh xa.
Tôi đây kính lễ đức Thế Tôn,
kính lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác.’”
36. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị dằn vặt bởi sự không được thỏa thích nên đă cắt đi dương vật của bản thân. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trong khi vật khác cần được đoạn trừ, kẻ rồ dại ấy lại đoạn trừ vật khác. Này các tỳ khưu, không nên cắt đi dương vật của bản thân; vị nào cắt th́ phạm tội thullaccaya.”
37. Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú ở thành Rājagaha có được khúc gỗ trầm hương của lơi gỗ trầm hương rất quư giá. Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha đă khởi ư điều này: “Hay là ta cho đẽo thành cái b́nh bát với khúc gỗ trầm hương này? Và phần gỗ vụn sẽ là vật sử dụng của ta, c̣n cái b́nh bát ta sẽ cho đi làm quà biếu.” Sau đó, nhà đại phú thành Rājagaha đă cho đẽo thành cái b́nh bát với khúc gỗ trầm hương ấy rồi kéo lên bằng sợi dây và treo ở ngọn cây tre, xong buộc nhiều cây tre tiếp nối nhau và nói như vầy: - “Vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa th́ hăy lấy quà biếu chính là cái b́nh bát xuống.”
Khi ấy, Pūraṇa Kassapa đă đi đến gặp nhà đại phú thành Rājagaha, sau khi đến đă nói với nhà đại phú thành Rājagaha điều này: - “Này gia chủ, chính ta là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa, ngươi hăy dâng cái b́nh bát cho ta.” - “Thưa ngài, nếu ngài là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa th́ ngài hăy lấy quà biếu chính là cái b́nh bát xuống đi.”
Sau đó, Makkhaligosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccāyana, Sañjaya Belaṭṭhiputta, Nigaṇṭha Nātaputta[1] đă đi đến gặp nhà đại phú thành Rājagaha, sau khi đến đă nói với nhà đại phú thành Rājagaha điều này: - “Này gia chủ, chính ta là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa, ngươi hăy dâng cái b́nh bát cho ta.” - “Thưa ngài, nếu ngài là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa th́ ngài hăy lấy quà biếu chính là cái b́nh bát xuống đi.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahāmoggallāna và đại đức Piṇḍolabhāradvāja vào buổi sáng đă mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Rājagaha để khất thực. Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đă nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này: - “Đại đức Mahāmoggallāna quả là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa. Này đại đức Mahāmoggallāna, hăy đi và lấy xuống cái b́nh bát này. Cái b́nh bát ấy là của đại đức.” - “Đại đức Piṇḍolabhāradvāja cũng là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa. Này đại đức Piṇḍolabhāradvāja, hăy đi và lấy xuống cái b́nh bát này đi. Cái b́nh bát ấy là của đại đức.” Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đă bay lên không trung, cầm lấy cái b́nh bát ấy, và đi (trên không) quanh thành Rājagaha ba ṿng.
Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú thành Rājagaha cùng vợ và con đang đứng ở tại nhà của họ, hai tay chắp lên, thành kính làm lễ rằng: - “Thưa ngài, xin ngài đại đức Bhāradvāja hăy ngự đến nhà của chúng tôi ở ngay chỗ này.” Sau đó, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đă ngự đến tư gia của nhà đại phú thành Rājagaha. Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha đă nhận lấy cái b́nh bát từ tay của đại đức Piṇḍolabhāradvāja, chất đầy vật thực cứng loại đắt giá rồi dâng lại cho đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đă nhận lại b́nh bát ấy rồi đi về tu viện. Dân chúng đă nghe rằng: “Nghe nói cái b́nh bát của nhà đại phú thành Rājagaha đă được lấy xuống bởi ngài đại đức Piṇḍolabhāradvāja.” Và các người ấy với âm thanh ồn ào, với âm thanh ầm ĩ, đă nối đuôi nhau đi phía sau đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Đức Thế Tôn đă nghe âm thanh ồn ào âm thanh ầm ĩ, sau khi nghe đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, âm thanh ồn ào âm thanh ầm ĩ ấy là ǵ vậy?”
- “Bạch ngài, cái b́nh bát của nhà đại phú thành Rājagaha đă được lấy xuống bởi đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Bạch ngài, dân chúng đă nghe rằng: ‘Nghe nói cái b́nh bát của nhà đại phú thành Rājagaha đă được lấy xuống bởi ngài đại đức Piṇḍolabhāradvāja.’ Và bạch ngài, những người ấy với âm thanh ồn ào, với âm thanh ầm ĩ, đă nối đuôi nhau tuần tự đi phía sau đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Bạch ngài, bạch Thế Tôn, âm thanh ồn ào, âm thanh ầm ĩ kia là chuyện ấy.”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Piṇḍolabhāradvāja rằng: - “Này Bhāradvāja, nghe nói cái b́nh bát của nhà đại phú thành Rājagaha đă được nhà ngươi lấy xuống, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này Bhāradvāja, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm. Này Bhāradvāja, v́ sao ngươi lại phô bày pháp thượng nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông đến hàng tại gia v́ nguyên nhân của cái b́nh bát gỗ tầm thường? Này Bhāradvāja, cũng giống như người đàn bà cho xem chỗ kín v́ nguyên nhân của đồng bạc tầm thường; này Bhāradvāja, tương tợ như thế v́ nguyên nhân cái b́nh bát gỗ tầm thường, pháp thượng nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông đă bị ngươi phô bày đến hàng tại gia. Này Bhāradvāja, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, không nên phô bày pháp thượng nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông đến hàng tại gia; vị nào phô bày th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, hăy đập vỡ b́nh bát gỗ ấy, nghiền thành bột mịn, rồi hăy dâng đến các tỳ khưu làm hương liệu của thuốc cao. Này các tỳ khưu, không nên sử dụng b́nh bát bằng gỗ; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa.”
38. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng những b́nh bát đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng vàng, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng bạc, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng ngọc ma-ni, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng ngọc bích, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng pha-lê, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng đồng đỏ, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng thủy tinh, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng thiếc, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng ch́, không nên sử dụng b́nh bát làm bằng đồng thau; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép hai loại b́nh bát: b́nh bát sắt và b́nh bát đất.”
39. Vào lúc bấy giờ, phần đáy b́nh bát bị trầy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ṿng đế b́nh bát.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các ṿng đế b́nh bát đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các ṿng đế b́nh bát đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép hai loại ṿng đế b́nh bát: loại làm bằng thiếc và loại làm bằng ch́.”
Những ṿng đế dày cộm không giữ yên (b́nh bát). Các vị đă tŕnh việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép đẽo gọt bớt.”
Chúng bị lỏng chỏng. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt răng cá kiếm (cắm vào để giữ b́nh bát).”
40. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các ṿng đế b́nh bát màu sặc sỡ: loại có tranh vẽ, loại có đắp h́nh nổi. Các vị đi đó đây phô trương những thứ ấy ngay cả ở nơi đường phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các ṿng đế b́nh bát màu sặc sỡ: loại có tranh vẽ, loại có đắp h́nh nổi; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép loại ṿng đế b́nh thường.”[2]
41. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đem cất b́nh bát c̣n đẫm nước. B́nh bát bị hư hỏng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đem cất b́nh bát c̣n đẫm nước; vị nào đem cất th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đem cất b́nh bát sau khi phơi nắng.”
42. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đem phơi nắng b́nh bát c̣n nước. B́nh bát có mùi hôi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đem phơi nắng b́nh bát c̣n nước; vị nào đem phơi nắng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đem cất b́nh bát sau khi làm ráo nước và đem phơi nắng.”
43. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để luôn b́nh bát ở chỗ nóng. Màu sắc của b́nh bát bị hoại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên để luôn b́nh bát ở chỗ nóng; vị nào để luôn th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đem cất b́nh bát sau khi phơi nắng ở chỗ nóng trong chốc lát.”
44. Vào lúc bấy giờ, có nhiều b́nh bát được đặt xuống ở ngoài trời không có vật kềm giữ. Do cơn gió xoáy, các b́nh bát đă quay ṿng và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giá giữ b́nh bát.”
45. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở mép của giường đúc. B́nh bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở mép của giường đúc; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
46. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở mép của bục nền xung quanh. B́nh bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở mép của bục nền xung quanh; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
47. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lật úp b́nh bát ở trên mặt đất. Vành miệng (b́nh bát) bị trầy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) miếng lót bằng cỏ.”
Miếng lót bằng cỏ bị các con mối ăn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mảnh vải.”
Mảnh vải bị các con mối ăn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bục kê b́nh bát.”
B́nh bát rơi từ bục kê b́nh bát và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giỏ mây chứa b́nh bát.”
Ở trong giỏ mây chứa b́nh bát, b́nh bát bị trầy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng b́nh bát.”
Dây mang vai không có. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết lại.”
48. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu treo b́nh bát ở chốt đinh gắn vào tường và ở móc ngà voi. B́nh bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên treo b́nh bát; vị nào treo th́ phạm tội dukkaṭa.”
49. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở giường. Trong khi ngồi xuống do sự lẫn lộn về ghi nhớ nên đè lên và làm vỡ b́nh bát. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở giường; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
50. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở ghế. Trong khi ngồi xuống do sự lẫn lộn về ghi nhớ nên đè lên và làm vỡ b́nh bát. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở ghế; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
51. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở bắp vế. Do sự lẫn lộn về ghi nhớ các vị đứng lên khiến b́nh bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở bắp vế; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
52. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt b́nh bát xuống ở trên cái dù. Do cơn gió xoáy, cái dù bị bật lên khiến b́nh bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đặt b́nh bát xuống ở trên cái dù; vị nào đặt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.”
53. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mở cửa với b́nh bát ở tay. Cánh cửa bật trở lại khiến b́nh bát bị vỡ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên mở cửa với b́nh bát ở tay; vị nào mở cửa th́ phạm tội dukkaṭa.”
54. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi khất thực (chứa) ở bầu đựng nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các tu sĩ ngoại đạo vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đi khất thực (chứa) ở bầu đựng nước; vị nào đi (khất thực như thế) th́ phạm tội dukkaṭa.”
55. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi khất thực (chứa) ở chậu đựng nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các tu sĩ ngoại đạo vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên đi khất thực (chứa) ở chậu đựng nước; vị nào đi (khất thực như thế) th́ phạm tội dukkaṭa.”
56. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ chỉ sử dụng các vật bị quăng bỏ. Vị ấy sử dụng b́nh bát (làm bằng) đầu lâu của người chết. Có phụ nữ nọ nh́n thấy, hoảng sợ, đă mất tự chủ (thét lên): - “Làm tôi hết hồn, gă này đúng là quỷ sứ!” Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại sử dụng b́nh bát (làm bằng) đầu lâu của người chết, giống như kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng b́nh bát (làm bằng) đầu lâu của người chết; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, không nên sinh tồn chỉ nhờ vào các vật bị quăng bỏ; vị nào sinh tồn (như thế) th́ phạm tội dukkaṭa.”
57. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dùng b́nh bát để mang đi các đồ thừa thăi, xương xóc, và nước cặn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các vị Sa-môn Thích tử này thọ thực trong chính cái vật đựng (rác) của bọn họ!” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên dùng b́nh bát để mang đi các đồ thừa thăi, xương xóc, hay nước cặn; vị nào mang đi th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật đựng (rác).”
58. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xé (vải) bằng tay rồi may y. Y không thẩm mỹ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có vỏ bọc.”
59. Vào lúc bấy giờ, dao nhỏ có cán được phát sanh đến hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có cán.”
60. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các cán dao đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các cán dao đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ ṣ.”
61. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu may y bằng lông gà và lạt tre. Y được may vụng về. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) kim khâu.”
Các kim khâu bị rỉ sét.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ống đựng kim khâu.”
Cho dù ở trong ống đựng, các kim khâu cũng bị rỉ sét.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép phủ đầy với bột gây men.”
Cho dù ở trong bột gây men, các kim khâu cũng bị rỉ sét.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép phủ đầy với bột lúa mạch.”
Cho dù ở trong bột lúa mạch, các kim khâu cũng bị rỉ sét.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bột đá.”
Cho dù với bột đá, các kim khâu cũng bị rỉ sét.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép trộn với mật và sáp ong.”
Bột đá bị rời rạc.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (trộn) bột đá với nhựa cây.”
62. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cắm cọc ở các nơi, buộc (vải) lại với nhau rồi may y. Y có các góc không vuông vức. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm y mẫu, dây buộc ở tấm y mẫu, sau khi buộc y vào chỗ này chỗ kia rồi may.”
Các vị trải ra tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Tấm y mẫu bị rời ra.
- “Này các tỳ khưu, không nên trải ra tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng; vị nào trải ra th́ phạm tội dukkaṭa.”
Các vị trải ra tấm y mẫu ở trên mặt đất. Tấm y mẫu bị dơ.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thảm cỏ.”
Đường viền của tấm y mẫu bị sờn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép thiết lập đường biên tức là ṿng đai xung quanh.”
Tấm y mẫu không đạt kích thước.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc y vào khung y mẫu, vào thanh gỗ dẹp, vào cọc gỗ, vào dây buộc, vào chỉ buộc rồi may.”
Các khoảng cách của các đường chỉ không đều nhau.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đo đạc.”
Các đường chỉ bị cong quẹo.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép đường chỉ may tạm.”
63. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên tấm y mẫu với các bàn chân chưa rửa. Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên bước lên tấm y mẫu với các bàn chân chưa rửa; vị nào bước lên th́ phạm tội dukkaṭa.”
64. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên tấm y mẫu với các bàn chân đẫm nước. Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên bước lên tấm y mẫu với các bàn chân đẫm nước; vị nào bước lên th́ phạm tội dukkaṭa.”
65. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mang giày dép bước lên tấm y mẫu. Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên mang giày dép bước lên tấm y mẫu; vị nào bước lên th́ phạm tội dukkaṭa.”
66. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cầm (kim) bằng ngón tay trong khi may y. Các ngón tay bị đau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật bao ngón tay.”
67. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các vật bao ngón tay đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các vật bao ngón tay đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ ṣ.”
68. Vào lúc bấy giờ, những kim khâu, những con dao nhỏ, luôn cả những vật bao ngón tay bị thất lạc. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa.”
Chúng bị lẫn lộn trong thùng chứa. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi để đựng vật bao ngón tay.”
Dây mang vai không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết lại.”
69. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi may y ở ngoài trời bị mệt mỏi v́ lạnh và nóng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà may y, mái che tạm để may y.”
Nhà may y có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang).
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Vào lúc bấy giờ, rác cỏ rơi vào trong nhà may y.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
70. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi may y xong đă bỏ bê tấm y mẫu ngay tại chỗ ấy rồi ra đi. Tấm y mẫu bị gặm nhấm bởi các con chuột và các con mối. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại.”
Tấm y mẫu bị rời ra. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đặt cây gỗ hoặc tre ở bên trong rồi cuốn lại.”
Tấm y mẫu bị bung ra. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép dây buộc.”
71. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đă đưa tấm y mẫu lên cất ở trên vách tường hoặc ở trên cột nhà rồi ra đi. Tấm y mẫu rơi xuống và bị bung ra. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép treo lên ở chốt đinh gắn vào tường hoặc ở móc ngà voi.”
72. Sau đó, khi đă ngự tại thành Rājagaha theo như ư thích đức Thế Tôn đă lên đường đi đến thành Vesāli. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đă dùng bát chứa đựng kim khâu, dao nhỏ, và thuốc men rồi ra đi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng thuốc men.”
Dây mang vai không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết lại.”
73. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă buộc đôi dép bằng dây thắt lưng rồi đi vào làng để khất thực. Có nam cư sĩ nọ trong khi đảnh lễ vị tỳ khưu ấy đă bị đôi dép chạm vào đầu. Vị tỳ khưu ấy đă bị xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng dép.”
Dây mang vai không có. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết lại.”
74. Vào lúc bấy giờ, ở khoảng giữa cuộc hành tŕnh nước chưa được làm thành đúng phép. Đồ lược nước không có. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước.”
Mảnh vải lược không có hiệu quả.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước gắn ở gáo múc.”
Mảnh vải lược không có hiệu quả. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đồ lọc nước thông thường.”
75. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đang đi đường xa trong xứ Kosaka. Một tỳ khưu hành xử điều sai trái. Vị tỳ khưu thứ hai đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.” Vị ấy đă kết oán với vị kia. Sau đó, vị tỳ khưu kia bị khó chịu v́ khát nước đă nói với vị tỳ khưu kết oán điều này: - “Này đại đức, hăy đưa cho tôi đồ lược nước, tôi sẽ uống nước.” Vị tỳ khưu kết oán đă không đưa cho. Vị tỳ khưu kia bị khó chịu v́ khát nước đă chết đi. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. - “Này đại đức, có phải đại đức đă không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi vị tỳ khưu ấy rằng: - “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đă không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại kia, thật không đúng đắn cho ngươi, thật không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm. Này kẻ rồ dại kia, v́ sao ngươi lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước vậy? Này kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đi đường xa khi được hỏi mượn đồ lược nước không thể không đưa cho; vị nào không đưa cho th́ phạm tội dukkaṭa. Và này các tỳ khưu, vị không có đồ lược nước không nên đi đường xa; vị nào đi th́ phạm tội dukkaṭa. Nếu không có đồ lược nước hoặc đồ lọc nước thông thường, có thể chú nguyện chéo y hai lớp: ‘Tôi sẽ uống sau khi lược nước bằng vật này.’”
76. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đă ngự đến thành Vesāli. Tại nơi đó trong xứ Vesāli, đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thực hiện công tŕnh (xây dựng) mới. Đồ lược nước không làm trong (nước) được. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép đồ lược nước gắn ở các cây gậy. Đồ lược nước gắn ở các cây gậy không làm trong (nước) được. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vại lọc nước.”
77. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị khuấy rối bởi các con muỗi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lều chống muỗi.”
78. Vào lúc bấy giờ, ở xứ Vesāli, sự luân phiên bữa ăn gồm các thức ăn hảo hạng được xác định. Các tỳ khưu thọ dụng các thức ăn hảo hạng nên cơ thể béo ph́, có nhiều chứng bệnh. Khi ấy, (thầy thuốc) Jīvaka Komārabhacca đă đi đến Vesāli do công việc cần làm nào đó. Jīvaka Komārabhacca đă nh́n thấy các tỳ khưu có cơ thể béo ph́, có nhiều chứng bệnh, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, hiện nay các tỳ khưu có cơ thể béo ph́, có nhiều chứng bệnh. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn cho phép các tỳ khưu (sử dụng) đường kinh hành và pḥng tắm hơi; như thế, các tỳ khưu sẽ bớt bệnh.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đường kinh hành và pḥng tắm hơi.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi kinh hành ở đường kinh hành không bằng phẳng. Các bàn chân bị đau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm cho bằng phẳng.”
Đường kinh hành có nền thấp nên bị ngập nước. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
79. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi đi kinh hành ở đường kinh hành bị té. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) viền rào ở đường kinh hành.”
80. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi đi kinh hành ở ngoài trời bị mệt mỏi v́ lạnh và nóng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà đi kinh hành.”
Rác cỏ rơi vào trong nhà đi kinh hành. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
81. Vào lúc bấy giờ, pḥng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Pḥng tắm hơi không có cửa. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rănh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
82. Chân tường của pḥng tắm hơi bị hư hỏng. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây mô tṛn.”
Pḥng tắm hơi không có ống thông khói. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) ống thông khói.”
83. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu làm chỗ đốt lửa ở giữa pḥng tắm hơi có khuôn viên hẹp. Lối đi lại không có. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm chỗ đốt lửa một bên góc ở pḥng tắm hơi có khuôn viên hẹp, ở giữa (pḥng tắm hơi) có khuôn viên rộng.”
Trong pḥng tắm hơi, ngọn lửa đốt nóng mặt (các tỳ khưu). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đất sét (đắp) ở mặt.”
Các vị nhồi ướt đất sét ở tay. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) máng đựng đất sét.”
Đất sét có mùi hôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ủ (đất sét).”
Vào lúc bấy giờ, ở trong pḥng tắm hơi ngọn lửa đốt nóng thân thể (các tỳ khưu). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép mang nước lại.” Các vị mang nước lại bằng nắp b́nh bát và bằng b́nh bát. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vại chứa nước (và) gáo múc nước.”
84. Mái lợp cỏ làm pḥng tắm hơi trở nên dơ bẩn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới.”
Pḥng tắm hơi bị lầy lội. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền gạch, nền đá, nền gỗ.” (Pḥng tắm hơi) vẫn c̣n bị lầy lội. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép rửa sạch.”
Nước c̣n đọng lại. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rănh thoát nước.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngồi xuống trên nền đất của pḥng tắm hơi, các phần thân thể bị ngứa ngáy. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế ngồi ở pḥng tắm hơi.”
85. Vào lúc bấy giờ, pḥng tắm hơi không được rào lại. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Không có nhà kho chứa đồ. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà kho chứa đồ.”
Nhà kho chứa đồ có nền thấp nên bị ngập nước. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Nhà kho chứa đồ không có cửa. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rănh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
Vào lúc bấy giờ, rác cỏ rơi ở nhà kho chứa đồ. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.”
Căn pḥng bị lầy lội. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.”
Các vị không thành công. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.”
Nước c̣n đọng lại. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rănh thoát nước.”
86. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (đang) ở trần đảnh lễ vị ở trần, (đang) ở trần bảo vị (đang) ở trần đảnh lễ, (đang) ở trần phục vụ vị ở trần, (đang) ở trần bảo (người khác) phục vụ vị ở trần, (đang) ở trần dâng đồ cho vị ở trần, thọ nhận (lúc đang) ở trần, nhai (lúc đang) ở trần, ăn (lúc đang) ở trần, ngủ (lúc đang) ở trần, uống (lúc đang) ở trần. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị (đang) ở trần không nên đảnh lễ vị ở trần, vị nào đảnh lễ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị (đang) ở trần không nên bảo vị (đang) ở trần đảnh lễ, ―(như trên)― Vị (đang) ở trần không nên đảnh lễ, ―(như trên)― Vị (đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ, ―(như trên)― Vị (đang) ở trần không nên phục vụ vị ở trần, ―(như trên)― Vị (đang) ở trần không nên được bảo phục vụ vị ở trần, ―(như trên)― Vị (đang) ở trần không nên dâng đồ cho vị ở trần, ―(như trên)― Không nên thọ nhận (lúc đang) ở trần, ―(như trên)― Không nên nhai (lúc đang) ở trần, ―(như trên)― Không nên ăn (lúc đang) ở trần, ―(như trên)― Không nên ngủ (lúc đang) ở trần, ―(như trên)― Không nên uống (lúc đang) ở trần, vị nào uống (lúc đang ở trần) th́ phạm tội dukkaṭa.”
87. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để y xuống trên nền đất của pḥng tắm hơi. Y bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y ở pḥng tắm hơi.”
Lúc trời mưa, mưa rơi ở y. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) gian nhà lớn ở pḥng tắm hơi.”
Gian nhà lớn ở pḥng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: ―(như trên)― Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. ―(như trên)― Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Vào lúc bấy giờ, rác cỏ rơi vào trong gian nhà lớn của pḥng tắm hơi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đang ở trần ngần ngại làm công việc kỳ cọ lưng ở trong pḥng tắm hơi, ở trong nước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại tấm choàng: tấm choàng ở pḥng tắm hơi, tấm choàng ở trong nước, và tấm choàng bằng vải.”
88. Vào lúc bấy giờ, trong pḥng tắm hơi không có nước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giếng nước.”
Thành giếng bị sụp đổ. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Giếng nước có nền thấp nên bị ngập nước. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. ―(như trên)― Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. ―(như trên)― Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
89. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu kéo nước lên bằng dây rừng, bằng dây thắt lưng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây thừng để kéo nước.”
Hai tay bị đau. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cần giọt, cần trục quay, bánh xe ṛng rọc.”
Các thùng (kéo nước) bị bể nhiều. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại gàu (kéo nước): gàu bằng thiếc, gàu bằng gỗ, loại có (gắn) các sợi da thuộc.”
90. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi kéo nước ở ngoài trời bị mệt mỏi v́ lạnh và nóng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) gian nhà ở giếng.”
Rác cỏ rơi vào trong gian nhà ở giếng. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
Vào lúc bấy giờ, giếng không được che đậy nên bị các rác cỏ luôn cả các vật dơ rơi vào. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nắp đậy.”
Vào lúc bấy giờ, vật chứa nước không có. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) máng đựng nước, chậu đựng nước.”
91. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tắm ở nơi này nơi kia trong khuôn viên tu viện. Tu viện trở nên lầy lội. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) hồ nước (để tắm).”
Hồ tắm không được kín đáo. Các tỳ khưu hổ thẹn khi tắm. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Hồ tắm bị lầy lội. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền gạch, nền đá, nền gỗ.”
Nước c̣n đọng lại. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rănh thoát nước.”
92. Vào lúc bấy giờ, các phần cơ thể của các tỳ khưu bị lạnh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm ráo (nước) cho dù chỉ bằng miếng vải thấm nước.”
Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ có ư định cho xây dựng hồ trữ nước nhằm sự lợi ích của hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) hồ trữ nước.”
Bờ thành của hồ trữ nước bị sụp đổ. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Nước trong hồ trữ nước bị ôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ống dẫn nước, ống tháo nước.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư định cho thực hiện pḥng tắm hơi có mái ṿm nhằm sự lợi ích cho hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) pḥng tắm hơi có mái ṿm.”
93. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ĺa xa tọa cụ trong bốn tháng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên ĺa xa tọa cụ trong bốn tháng; vị nào ĺa xa th́ phạm tội dukkaṭa.”
94. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nằm trên những chỗ nằm có rải hoa. Dân chúng trong khi dạo quanh tu viện nh́n thấy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên nằm trên những chỗ nằm có rải hoa; vị nào nằm th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, dân chúng đi đến tu viện mang theo dầu thơm và ṿng hoa. Các tỳ khưu trong khi ngần ngại không thọ lănh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi nhận dầu thơm rồi th́ in dấu năm ngón tay lên cửa, sau khi nhận hoa rồi th́ đem đặt ở một góc ở trong trú xá.”
95. Vào lúc bấy giờ, có tấm thảm len đă phát sanh đến hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thảm len.”
Khi ấy, các tỳ khưu đă khởi ư như vầy: “Thảm len nên được chú nguyện để dùng riêng hay là nên được chú nguyện để dùng chung?” - “Này các tỳ khưu, thảm len không nên được chú nguyện để dùng riêng, không nên được chú nguyện để dùng chung.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực (dựa vào) gối kê được rắc dầu thơm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên thọ thực (dựa vào) gối kê được rắc dầu thơm; vị nào thọ thực (như thế) th́ phạm tội dukkaṭa.”
96. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Vị ấy trong khi ăn không thể kềm giữ b́nh bát bằng tay được. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giá đỡ b́nh bát.”
97. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên ăn chung trong một đĩa, không nên uống chung trong một cốc, không nên nằm chung trên một giường, không nên nằm chung một tấm trải, không nên nằm chung một tấm đắp, không nên nằm chung một tấm trải và tấm đắp; vị nào nằm chung th́ phạm tội dukkaṭa.”
98. Vào lúc bấy giờ, Vaḍḍha Licchavi là thân hữu của các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Khi ấy, Vaḍḍha Licchavi đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Khi được nói như vậy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. Đến lần thứ nh́, Vaḍḍha Licchavi đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Đến lần thứ nh́, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. Đến lần thứ ba, Vaḍḍha Licchavi đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. - “Có phải tôi làm phật ḷng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại đức không nói chuyện với tôi?” - “Này đạo hữu Vaḍḍha, bởi v́ ngươi vẫn dửng dưng như thế trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.”
- “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ?”
- “Này đạo hữu Vaḍḍha, nếu ngươi chịu làm th́ ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.”
- “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ? Tôi có thể làm điều ǵ?”
- “Này đạo hữu Vaḍḍha, hăy đến. Ngươi hăy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hăy nói với đức Thế Tôn như vầy: ‘Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không thích đáng. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; vợ con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.’”
- “Thưa các ngài đại đức, xin vâng.” Rồi Vaḍḍha Licchavi nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Vaḍḍha Licchavi đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không thích đáng. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; vợ con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều vị Vaḍḍha này đă nói không?”
- “Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết mà.”
Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều vị Vaḍḍha này đă nói không?”
- “Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết mà.”
- “Này Dabba, các vị (ḍng dơi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hăy nói: ‘Có làm;’ nếu không làm, hăy nói: ‘Không làm.’”
- “Bạch ngài, từ khi con được sanh ra con không thấy ḿnh là kẻ đă thực hành việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống ǵ là tỉnh thức.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy úp ngược b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi (tức là) hăy thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Này các tỳ khưu, b́nh bát nên được úp ngược đối với nam cư sĩ có tám yếu tố: Vị ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, ra sức làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, ra sức làm cho các tỳ khưu không có chỗ ngụ, vị mắng nhiếc gièm pha các tỳ khưu, chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu, vị phỉ báng đức Phật, vị phỉ báng Giáo Pháp, vị phỉ báng Hội Chúng. Này các tỳ khưu, ta cho phép úp ngược b́nh bát đối với nam cư sĩ có tám yếu tố này.
Và này các tỳ khưu, nên úp ngược (b́nh bát) như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vaḍḍha Licchavi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên úp ngược b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) nên thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vaḍḍha Licchavi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Hội chúng úp ngược b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ư việc úp ngược b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
B́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng (đă được thực thi). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
99. Sau đó vào buổi sáng, đại đức Ānanda đă mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của Vaḍḍha Licchavi, sau khi đến đă nói với Vaḍḍha Licchavi điều này: - “Này đạo hữu Vaḍḍha, b́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với ngươi, ngươi có sự không cùng thọ hưởng với hội chúng.” Khi ấy, Vaḍḍha Licchavi (biết rằng): ‘Nghe nói b́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với ta, nghe nói ta có sự không cùng thọ hưởng với hội chúng’ nên bị ngất xỉu ngă xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, bạn bè thân hữu, thân quyến ruột thịt của Vaḍḍha Licchavi đă nói với Vaḍḍha Licchavi rằng: - “Này đạo hữu Vaḍḍha, thôi đi. Chớ có than van, chớ có rên rỉ. Chúng ta sẽ làm cho đức Thế Tôn và hội chúng tỳ khưu tin tưởng.”
Sau đó, Vaḍḍha Licchavi với y phục ướt đẫm, với đầu tóc ướt đẫm, cùng vợ con, bạn bè thân hữu, và thân quyến ruột thịt đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói điều này: - “Bạch ngài, tội lỗi đă chiếm ngự lấy con khiến con như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức, nên con đă bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch ngài, đối với con đây xin đức Thế Tôn ghi nhận tội lỗi là tội lỗi hầu để ngăn ngừa trong tương lai.”
- “Này đạo hữu Vaḍḍha, đúng như thế. Tội lỗi đă chiếm ngự lấy ngươi khiến ngươi như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên ngươi đă bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Này đạo hữu Vaḍḍha, chính từ việc đó ngươi đă thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, chúng ta ghi nhận điều ấy cho ngươi. Này đạo hữu Vaḍḍha, chính điều này là sự tiến bộ trong Luật của bậc Thánh: ‘Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ thực hành sự ngăn ngừa trong tương lai.’”
Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy mở b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi, hăy thực thi việc cùng thọ hưởng với hội chúng. Này các tỳ khưu, b́nh bát nên được mở ra đối với nam cư sĩ có tám yếu tố: Vị không ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, không ra sức làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, không ra sức làm cho các tỳ khưu không có chỗ ngụ, vị không mắng nhiếc không gièm pha các tỳ khưu, không chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu, không phỉ báng đức Phật, không phỉ báng Giáo Pháp, không phỉ báng Hội Chúng. Này các tỳ khưu, ta cho phép mở b́nh bát đối với nam cư sĩ có tám yếu tố này.
Và này các tỳ khưu, nên mở ra như vầy: Này các tỳ khưu, Vaḍḍha Licchavi ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, b́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với con, con có sự không cùng thọ hưởng với hội chúng. Bạch các ngài, con đây làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ con thỉnh cầu hội chúng việc mở b́nh bát.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. B́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu hội chúng việc mở b́nh bát. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên mở b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) nên thực thi việc cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. B́nh bát đă được hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavi, (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu hội chúng việc mở b́nh bát. Hội chúng mở b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi (tức là) thực thi việc cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ư việc mở b́nh bát đối với Vaḍḍha Licchavi (tức là) việc cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
B́nh bát đă được hội chúng mở ra đối với Vaḍḍha Licchavi (tức là) việc cùng thọ hưởng với hội chúng (đă được thực hiện). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Tụng phẩm thứ nh́.
*****
100. Sau đó, khi đă ngự tại thành Vesāli theo như ư thích đức Thế Tôn đă lên đường đi đến xứ Bhaggā. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến xứ Bhaggā. Tại nơi đó ở xứ Bhaggā, đức Thế Tôn ngự tại Suṃsumāragira, trong khu rừng Bhesakalā, nơi vườn nai.
Vào lúc bấy giờ, lâu đài tên Kokanada của vương tử Bodhi vừa mới được xây dựng không bao lâu, chưa có Sa-môn hoặc Bà-la-môn hay bất cứ người nào vào cư ngụ.
Khi ấy, vương tử Bodhi đă bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng: - “Này con trai của bà Sañjikā mến, hăy đến. Ngươi hăy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hăy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn, hăy hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái với lời nói của ta rằng: ‘Bạch ngài, vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn, và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái.’ Và ngươi hăy nói như vầy: ‘Bạch đức Thế Tôn, xin ngài cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’”
- “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă bày tỏ sự thân thiện đối với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái. Và nói như vầy: ‘Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’” Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng.
Khi ấy, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā sau khi biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp vương tử Bodhi, sau khi đến đă nói với vương tử Bodhi điều này: - “Thưa ngài, chúng tôi đă bạch đức Thế Tôn Gotama ấy với lời nói của ngài là: ‘Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái. Và nói như vầy: Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’ Và Sa-môn Gotama đă nhận lời.”
101. Sau đó, khi trải qua đêm ấy vương tử Bodhi đă cho chuẩn bị vật thực hảo hạng loại cứng loại mềm rồi ra lệnh trải các tấm vải trắng ở lâu đài Kokanada cho đến tận bậc cấp ở ngoài cùng, xong đă bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng: - “Này con trai của bà Sañjikā mến, hăy đến. Ngươi hăy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hăy thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch ngài, đă đến giờ; bữa ăn đă chuẩn bị xong.’” - “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: - “Bạch ngài Gotama, đă đến giờ; bữa ăn đă chuẩn bị xong.”
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của vương tử Bodhi cùng với hội chúng tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, vương tử Bodhi đứng ở bên ngoài cổng ra vào đang chờ đợi đức Thế Tôn. Rồi vương tử Bodhi đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang từ đàng xa đi lại, sau khi nh́n thấy vương tử Bodhi đă từ chỗ ấy đi ra đón tiếp, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, thỉnh ngài đi phía trước rồi đă đi đến lâu đài Kokanada.
Khi ấy, đức Thế Tôn đă đứng lại cạnh bậc cấp ở ngoài cùng. Rồi vương tử Bodhi đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy bước lên các tấm vải. Bạch ngài, xin đấng Thiện Thệ hăy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đă im lặng. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, vương tử Bodhi đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy bước lên các tấm vải. Bạch ngài, xin đấng Thiện Thệ hăy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă nh́n sang đại đức Ānanda. Rồi đại đức Ānanda đă nói với vương tử Bodhi điều này: - “Thưa vương tử, xin hăy gấp các tấm vải lại. Đức Thế Tôn sẽ không bước lên tấm thảm trải bằng vải. Đấng Như Lai có ḷng thương tưởng đến chúng sanh sau này.”[3]
Sau đó, vương tử Bodhi đă bảo gấp lại các tấm vải và cho sắp đặt chỗ ngồi ở phía trên của lâu đài Kokanada. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bước lên lâu đài Kokanada và ngồi xuống ở chỗ ngồi đă được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, vương tử Bodhi đă tự tay làm hài ḷng và toại ư hội chúng tỳ khưu có đức Phật dẫn đầu bằng thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực xong, có bàn tay đă rời b́nh bát, vương tử Bodhi đă ngồi xuống một bên.
Khi vương tử Bodhi đă ngồi xuống một bên, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vương tử Bodhi bằng bài Pháp thoại rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đức Thế Tôn đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên bước lên các tấm thảm trải bằng vải; vị nào bước lên th́ phạm tội dukkaṭa.”
102. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà bị sẩy thai nọ đă thỉnh các tỳ khưu đến rồi trải ra tấm vải và đă nói điều này: - “Thưa các ngài, xin hăy bước lên tấm vải.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại không bước lên.
- “Thưa các ngài, xin hăy bước lên tấm vải để đem lại sự may mắn.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại đă không bước lên.
Khi ấy, người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức trong khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn lại không bước lên tấm thảm trải bằng vải?” Các tỳ khưu đă nghe người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, các gia chủ tin vào sự may mắn. Này các tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm thảm trải bằng vải trong khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại không bước lên tấm vải chùi chân. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm vải chùi chân.”
103. Vào lúc bấy giờ, sau khi ngự tại xứ Bhaggā theo như ư thích đức Thế Tôn đă lên đường đi đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và cái chổi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và cái chổi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Đức Thế Tôn đă thọ nhận các chum và cái chổi. Đức Thế Tôn đă không thọ nhận vật chà chân (bằng đất nung).
Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Visākhā mẹ của Migāra đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái chum và cái chổi. Này các tỳ khưu, không nên sử dụng vật chà chân (bằng đất nung); vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba vật chà chân: cát, sỏi, và đá bọt biển.”
104. Khi ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái quạt (h́nh vuông) và cái quạt lá cọ (h́nh tṛn) đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái quạt (h́nh vuông) và cái quạt lá cọ (h́nh tṛn) của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.”
Đức Thế Tôn đă thọ nhận cái quạt (h́nh vuông) và cái quạt lá cọ (h́nh tṛn). Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, Visākhā mẹ của Migāra ―(như trên)― hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái quạt (h́nh vuông) và cái quạt lá cọ (h́nh tṛn).”
105. Vào lúc bấy giờ, quạt đuổi muỗi được phát sanh đến hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) quạt đuổi muỗi.”
Quạt đuôi ḅ rừng được phát sanh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng quạt đuôi ḅ rừng; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba loại quạt: làm bằng vỏ cây, làm bằng loại rễ cây usīra, làm bằng lông đuôi chim công.”
106. Vào lúc bấy giờ, ô dù được phát sanh đến hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đi lại đó đây. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đă đi đến công viên cùng với nhiều tín đồ của đạo lơa thể. Các tín đồ của đạo lơa thể đă nh́n thấy từ đàng xa các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă nói với nam cư sĩ ấy điều này: - “Này ông, các bậc khả kính kia của ông mang ô dù đi đến ḱa, giống như đám quan đại thần vậy.”
- “Này quư vị, các vị ấy không phải là các tỳ khưu, là các du sĩ ngoại đạo.”
- ‘Là các tỳ khưu, không phải là các tỳ khưu,’ họ đă thực hiện việc cá độ. Sau đó, nam cư sĩ ấy khi đi lại gần biết được rơ ràng nên mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại mang ô dù đi đó đây?”
Các tỳ khưu đă nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng ô dù; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa.”
107. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Đối với vị ấy không có ô dù không được thoải mái. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù đối với tỳ khưu bị bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Ô dù đă được đức Thế Tôn cho phép đối với tỳ khưu bị bệnh, không cho đối với vị không bị bệnh” rồi ngần ngại che ô dù ở trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu không bị bệnh che ô dù ở trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện.”
108. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ buộc b́nh bát bằng sợi dây thừng treo ở cây gậy rồi đi ngang qua cổng của ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng (bàn bạc rằng): “Này các vị, gă trộm kia đang đi, gươm của gă lấp lánh ḱa” rồi đă đuổi theo, giữ lại, đến khi biết rơ, đă thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- “Này đại đức, có phải đại đức mang theo gậy và dây thừng?”
- “Này các đại đức, đúng vậy.”
Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu lại mang theo gậy và dây thừng?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi mang theo gậy và dây thừng, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên mang theo gậy và dây thừng; vị nào mang theo th́ phạm tội dukkaṭa.”
109. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy. Hội chúng ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy đă được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
110. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng. Hội chúng ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Sự đồng ư về (việc sử dụng) dây thừng đă được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
111. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang b́nh bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng. Hội chúng ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc ban cho sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Sự đồng ư về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đă được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
112. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có tật nhai lại thức ăn. Vị ấy nhai đi nhai lại (thức ăn) rồi nuốt xuống. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vị tỳ khưu này ăn vật thực lúc sái thời.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy trước đây không lâu thuộc ṇi giống trâu ḅ đă bị chết đi. Này các tỳ khưu, ta cho phép việc nhai lại đối với vị có tật nhai lại. Và này các tỳ khưu, sau khi ợ lên ở cửa miệng (vật đă ăn vào) không nên nuốt xuống; vị nào nuốt xuống th́ nên được hành xử theo Pháp.”[4]
113. Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của nhóm người nọ. Nhiều hột cơm đă bị rơi văi trong pḥng ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử trong khi được dâng cơm lại không thọ lănh một cách thận trọng, v́ mỗi một hột cơm được tạo nên bởi trăm công sức?” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vật nào bị rơi xuống trong khi được dâng cúng, ta cho phép tự thân nhặt lên và thọ dụng vật ấy. Này các tỳ khưu, vật ấy đă được xả thí bởi các thí chủ.”
114. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực với các móng được để dài. Có người đàn bà nọ đă nh́n thấy rồi nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Ngài ơi, hăy đến. Hăy thực hiện việc lứa đôi đi.”
- “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.”
- “Ngài ơi, nếu ngài không thực hiện, giờ đây tôi sẽ cào cấu khắp ḿnh mẩy bằng các móng tay của ḿnh rồi sẽ làm ầm ĩ: ‘Tỳ khưu này xúc phạm tôi.’”
- “Này chị gái, cô nên biết điều.”
Khi ấy, người đàn bà ấy đă cào cấu khắp ḿnh mẩy bằng các móng tay của ḿnh rồi đă làm ầm ĩ: “Tỳ khưu này xúc phạm tôi.”
Dân chúng đă chạy lại và bắt giữ vị tỳ khưu ấy. Rồi những người ấy đă nh́n thấy da và máu ở móng tay của người đàn bà ấy, sau khi nh́n thấy (biết được rằng): ‘Hành động này là của chính người đàn bà này, vị tỳ khưu không phải là người làm’ rồi đă thả vị tỳ khưu ấy ra.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- “Này đại đức, có phải đại đức đă để dài các móng?”
- “Này các đại đức, đúng vậy.”
Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại để dài các móng?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các móng không nên để dài; vị nào để dài th́ phạm tội dukkaṭa.”
115. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xé móng bằng móng tay, cắn móng bằng miệng, mài móng ở tường. Các ngón bị đau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc cắt móng.”
Các vị cắt móng làm chảy máu. Các ngón bị đau.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt móng đến sát phần thịt.”
116. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo trau chuốt hai mươi (móng tay và chân). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên bảo trau chuốt hai mươi (móng tay và chân); vị nào bảo trau chuốt th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy đất ra (từ các móng).”
117. Vào lúc bấy giờ, tóc của các tỳ khưu bị dài. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có khả năng để xuống tóc cho nhau không?”
- “Bạch Thế Tôn, có khả năng.”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao cạo, đá mài dao cạo, bao đựng dao cạo, miếng vải len, tất cả vật dụng liên quan đến dao cạo.”
118. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tỉa râu, để râu dài ra, tạo dáng cḥm râu dưới cằm, tạo dáng cḥm râu h́nh vuông, tạo dáng lông ngực, tạo dáng lông bụng, làm đứng giống ngà voi, nhổ (cạo) lông ở chỗ kín. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên tỉa râu, không nên để râu dài ra, không nên tạo dáng cḥm râu dưới cằm, không nên tạo dáng cḥm râu h́nh vuông, không nên tạo dáng lông ngực, không nên tạo dáng lông bụng, không nên làm đứng giống ngà voi, không nên nhổ (cạo) lông ở chỗ kín; vị nào nhổ (cạo) th́ phạm tội dukkaṭa.”
119. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở chỗ kín. Thuốc không thể bám vào. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhổ (cạo) lông ở chỗ kín do duyên cớ bệnh.”
120. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo cắt tóc bằng kéo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên bảo cắt tóc bằng kéo; vị nào bảo cắt th́ phạm tội dukkaṭa.”
121. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở trên đầu, không thể xuống tóc bằng dao cạo. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép bảo cắt tóc bằng kéo do duyên cớ bệnh.”
122. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để lông mũi dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên để lông mũi dài; vị nào để th́ phạm tội dukkaṭa.”
123. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lấy lông mũi ra với mảnh sành hoặc bằng sáp ong. Hai lỗ mũi bị đau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái nhíp (nhổ lông).”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo nhổ tóc bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên bảo nhổ tóc bạc; vị nào bảo nhổ th́ phạm tội dukkaṭa.”
124. Vào lúc bấy giờ, các lỗ tai của vị tỳ khưu nọ bị các ráy tai che bít. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lấy ráy tai.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các đồ lấy ráy tai đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các đồ lấy ráy tai đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ ṣ.”
125. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tích trữ nhiều đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Dân chúng trong khi dạo quanh tu viện nh́n thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ giống như nhà buôn bán đồ đồng vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên tích trữ đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ; vị nào tích trữ th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, và vật dùng làm cán (tay cầm). Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, vật dùng làm cán (tay cầm).”
126. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ôm đầu gối bằng y hai lớp. Các lớp vải của y hai lớp bị tơi tả. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên ngồi ôm đầu gối bằng y hai lớp; vị nào ngồi th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Không có vải băng bó, vị ấy không được thoải mái. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải băng bó.”
Khi ấy, các tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vải băng bó nên được làm ra như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khung dệt, con thoi, sợi dệt, kim dệt, và tất cả vật dụng liên quan đến việc dệt.”
127. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ không buộc dây thắt lưng đă đi vào làng để khất thực. Ở trên đường đi, y nội của vị ấy đă bị tuột xuống. Dân chúng đă kêu ồ lên. Vị tỳ khưu đă bị xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, vị không buộc dây thắt lưng không nên đi vào làng; vị nào đi vào th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép dây thắt lưng.”
128. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các dây thắt lưng đủ loại: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống h́nh đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các dây thắt lưng đủ loại: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống h́nh đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hai loại dây thắt lưng: loại bằng vải, và cái ruột tượng.”
Các mép của dây thắt lưng bị sờn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích.”
Đầu chóp của dây thắt lưng bị sờn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu tṛn (hai đầu chóp), thắt nút (hai đầu chóp).”
Hai đầu chóp của dây thắt lưng đă khâu lại bị sờn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khóa thắt lưng.”
129. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các khóa thắt lưng đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các khóa thắt lưng đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ ṣ, làm bằng chỉ sợi.”
130. Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda đă đắp các y hai lớp mỏng nhẹ rồi đi vào làng để khất thực. Do cơn gió xoáy, các y hai lớp đă bị tốc lên. Sau đó, đại đức Ānanda đă đi về lại tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút, cái nơ buộc.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các hột nút đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các hột nút đủ loại; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ ṣ, làm bằng chỉ sợi.”
131. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cài hột nút, cài cái nơ buộc ở trên y. Y bị sờn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút h́nh dẹp, cái nơ buộc h́nh dẹp.”
Các vị cài hột nút h́nh dẹp, cài cái nơ buộc h́nh dẹp ở góc chéo (của y). Phần cuối (của y) bị mở ra. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép cài hột nút h́nh dẹp ở góc chéo (của y), cài cái nơ buộc h́nh dẹp sau khi lùi vào bảy lóng tay hoặc tám lóng tay.”
132. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc vải lót trong của người tại gia: loại quấn như ṿi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên mặc vải lót trong của người tại gia: loại quấn như ṿi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài; vị nào mặc th́ phạm tội dukkaṭa.”
133. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc váy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như phu mang vác của đức vua vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên mặc váy; vị nào mặc th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia; vị nào trùm th́ phạm tội dukkaṭa.”
134. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo túi quàng ở hai vai. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như phu mang vác của đức vua vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đeo túi quàng ở hai vai; vị nào đeo th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép túi đeo một bên vai, túi hai người xách, vật đội trên đầu, vật mang ở vai, vật mang ở hông, túi xách.”
135. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không nhai gỗ chà răng. Miệng trở nên có mùi hôi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng: Không có ích lợi cho mắt, miệng trở nên có mùi hôi, các vị giác không tinh tế, mật và đờm che lấp thức ăn, vị ấy không hứng thú với thức ăn. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng: Có ích lợi cho mắt, miệng không có mùi hôi, các vị giác được tinh tế, mật và đờm không che lấp thức ăn, vị ấy hứng thú với thức ăn. Này các tỳ khưu, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng.”
136. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhai gỗ chà răng loại dài. Các vị c̣n đánh (gơ) các sa di bằng chính những cây gỗ ấy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng loại dài; vị nào nhai th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng dài tối đa tám ngón tay và không nên đánh (gơ) sa di bằng cây gỗ ấy; vị nào đánh th́ phạm tội dukkaṭa.”
137. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi nhai cây gỗ chà răng quá ngắn nên bị vướng ở cổ họng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng quá ngắn; vị nào nhai th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng ngắn tối thiểu bốn ngón tay.”
138. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đốt đám lửa lớn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như thợ đốt ḷ vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên đốt đám lửa lớn; vị nào đốt th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tu viện có cỏ rậm rạp. Trong khi đám lửa lớn bị phát cháy, các tu viện bị phát cháy. Các tỳ khưu ngần ngại (không) tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, khi đám lửa lớn phát cháy ta cho phép tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ.”
139. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trèo lên cây, chuyền từ cây này sang cây khác. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các con khỉ vậy?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên trèo lên cây; vị nào trèo lên th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi đi đến thành Sāvatthi ở xứ sở Kosala, giữa đường đă có con voi đứng chận. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă chạy lại gần gốc cây, trong lúc ngần ngại đă không trèo lên cây. Con voi ấy đă đi sang hướng khác. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép trèo lên cây với tầm cao của con người khi có việc cần làm, và đến tầm cao cần thiết trong những lúc hiểm nguy.”
140. Vào lúc bấy giờ, hai tỳ khưu tên Yameḷu và Tekula là hai anh em xuất thân ḍng dơi Bà-la-môn có lời nói nhă nhặn với âm điệu ngọt ngào. Họ đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, hiện nay các tỳ khưu có tên gọi khác nhau, có ḍng dơi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đă xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, hăy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại kia, v́ sao các ngươi lại nói như vầy: ‘Bạch ngài, hăy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật?’ Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.” Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân.”[5]
141. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập việc giải đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các tỳ khưu đă nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, kẻ chuyên chú trong việc giải đoán điềm lành dữ có thể đạt được sự tiến triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh trong Pháp và Luật này không?”
- “Bạch ngài, không có điều ấy.”
- “Hoặc vị chuyên chú trong Pháp và Luật này có thể học tập việc giải đoán điềm lành dữ không?”
- “Bạch ngài, không có điều ấy.”
- “Này các tỳ khưu, không nên học tập việc giải đoán điềm lành dữ; vị nào học tập th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy việc giải đoán điềm lành dữ. ―(như trên)― Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên dạy việc giải đoán điềm lành dữ; vị nào dạy th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên học tập kiến thức nhảm nhí; vị nào học tập th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, không nên dạy kiến thức nhảm nhí; vị nào dạy th́ phạm tội dukkaṭa.”
142. Vào lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn, được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, trong lúc đang giảng Pháp đă hắt hơi. Các tỳ khưu đă gây nên âm thanh ồn tiếng động lớn rằng: ‘Bạch ngài, mong rằng đức Thế Tôn hăy sống, mong rằng đấng Thiện Thệ hăy sống.’ Do âm thanh ấy sự giảng Pháp đă bị gián đoạn. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, khi hắt hơi mà được nói rằng: ‘Mong rằng người hăy sống,’ do duyên ấy có thể tiếp tục sống hay có thể chết đi?”
- “Bạch ngài, không có điều ấy.”
- “Này các tỳ khưu, khi (ai đó) hắt hơi không nên nói rằng: ‘Mong rằng người hăy sống.’ Vị nào nói th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, khi các tỳ khưu hắt hơi, dân chúng nói rằng: - “Thưa các ngài, mong rằng các ngài hăy sống.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại không đáp lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, mong rằng ngài hăy sống’ lại không đáp lời?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, những người tại gia mong điều tốt lành. Này các tỳ khưu, khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, mong rằng ngài hăy sống,’ ta cho phép đáp lại người tại gia rằng: ‘Mong rằng người sống lâu.’”
143. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn được hội chúng đông đảo vây quanh đang ngồi giảng Pháp. Có vị tỳ khưu nọ vừa mới nhai tỏi. Vị ấy(nghĩ rằng): ‘Chớ để các tỳ khưu bị phiền toái,’ nên đă ngồi xuống ở một góc. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đă ngồi xuống ở một góc, sau khi nh́n thấy ngài đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, v́ sao tỳ khưu ấy đă ngồi xuống ở một góc vậy?”
- “Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy vừa mới nhai tỏi. Vị ấy (nghĩ rằng): ‘Chớ để các tỳ khưu bị phiền toái’ nên đă ngồi xuống ở một góc.”
- “Này các tỳ khưu, sau khi nhai một vật ǵ mà phải bị loại ra khỏi cuộc giảng Pháp như thế này th́ có nên nhai vật ấy không?”
- “Bạch ngài, điều ấy không nên.”
- “Này các tỳ khưu, không nên nhai tỏi; vị nào nhai th́ phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta bị bệnh đau bụng gió. Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đă đi đến gặp đại đức Sāriputta, sau khi đến đă nói với đại đức Sāriputta điều này:
- “Này đại đức Sāriputta, trước đây khi bị bệnh đau bụng gió, đại đức được thoải mái nhờ vật ǵ?”
- “Này đại đức, đối với tôi nhờ tỏi.”
Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhai tỏi do duyên cớ bệnh.”
144. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tiểu tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép tiểu tiện ở một góc.”
Tu viện trở nên có mùi hôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước tiểu.”
Các vị đi tiểu tiện, ngồi xuống một cách khó khăn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục tiểu tiện.”
Bục tiểu tiện ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi tiểu tiện.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Lu nước tiểu không được đậy lại nên có mùi hôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
145. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đại tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép đại tiện ở một góc.”
Tu viện trở nên có mùi hôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hố tiêu.”
Thành hố tiêu bị sụp xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Hố tiêu có nền thấp nên bị ngập nước.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Ngồi ở ŕa mép, các vị bị té trong khi đại tiện.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép trải lót, làm cái lỗ ở giữa để đại tiện.”
Các vị đi đại tiện, ngồi xuống một cách khó khăn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục đại tiện.”
Các vị tiểu tiện ra ở bên ngoài.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) rănh dẫn nước tiểu.”
Gỗ chùi không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gỗ chùi.”
Thùng chứa đồ chùi không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa đồ chùi.”
Hố phân không được đậy lại nên có mùi hôi. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trong khi đại tiện ở ngoài trời bị mệt mỏi v́ lạnh và nóng. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà tiêu.”
Nhà tiêu không có cửa.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rănh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
Rác cỏ rơi vào trong nhà tiêu.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
146. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ già yếu đại tiện xong trong khi đứng dậy bị té. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay vịn.”
Vào lúc bấy giờ, nhà tiêu không được rào lại.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Không có nhà kho chứa đồ.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà kho chứa đồ.”
Nhà kho chứa đồ có nền thấp ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.” Nền móng bị đổ xuống. ―(như trên)― Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Nhà kho chứa đồ không có cửa.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rănh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
Rác cỏ rơi ở nhà kho chứa đồ.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.”
Căn pḥng bị lầy lội.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.”
Các vị không thành công.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.”
Nước c̣n đọng lại.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rănh thoát nước.”
Lu nước rửa không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước rửa.”
Gáo múc nước để rửa không có.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gáo múc nước để rửa.”
Các vị rửa, ngồi xuống một cách khó khăn.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bục ngồi rửa.”
Bục ngồi rửa ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi rửa.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Lu nước rửa không được đậy lại nên bị các rác cỏ luôn cả các vật dơ rơi vào.
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
147. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cư xử hành vi sai trái có h́nh thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa che ngực.
Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết hai mặt, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng thảm hoa, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đội đầu, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đeo tai, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh.
Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm. Họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại c̣n nhảy múa cùng với người nữ đang nhảy múa, ca hát cùng với người nữ đang nhảy múa, tấu đàn cùng với người nữ đang nhảy múa, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại c̣n nhảy múa, ... ca hát, ... tấu đàn, ... vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại c̣n nhảy múa, ... ca hát, ... tấu đàn, ... vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại c̣n nhảy múa cùng với người nữ đang vui đùa, ca hát cùng với người nữ đang vui đùa, tấu đàn cùng với người nữ đang vui đùa, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa.
Họ c̣n tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp ṿng tṛn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi tṛ vẽ bằng tay, họ chơi tṛ sấp ngửa, họ chơi tṛ thổi kèn bằng lá cây, họ chơi tṛ uốn dẻo, họ chơi tṛ nhào lộn, họ chơi tṛ dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi tṛ đo lường, họ chơi tṛ đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi tṛ đố chữ, họ chơi tṛ đoán ư, họ chơi tṛ nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huưt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ đánh nhau bằng các nắm tay. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: ‘Này cô em, hăy nhảy ở đây này,’ họ c̣n vỗ tay tán thưởng. Họ cư xử hành vi sai trái theo nhiều cách. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― - “Này các tỳ khưu, không nên cư xử hành vi sai trái theo nhiều cách; vị nào cư xử th́ nên được hành xử theo Pháp.”
148. Vào lúc bấy giờ, khi đại đức Uruvelakassapa xuất gia, nhiều đồ vật bằng kim loại, đồ vật bằng gỗ, đồ vật bằng gốm sứ được phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đă khởi ư rằng: “Đồ vật bằng kim loại nào đă được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật bằng gỗ nào đă được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật bằng gốm sứ nào đă được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép?”
Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí, tất cả đồ vật bằng gỗ ngoại trừ ghế trường kỷ, ghế nệm lông thú, b́nh bát bằng gỗ, giày dép bằng gỗ, tất cả đồ vật bằng gốm sứ ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn.”
Chương Các Tiểu Sự là thứ năm.
*****
1. Ở thân cây, ở cột trụ, và ở tường nhà, ở tấm ván xẻ, với cây kỳ cọ, và chuỗi hột, cọ xát (thân thể lẫn nhau), cây chà lưng, bệnh ghẻ, và vị già cả, (dùng) bàn tay như thường lệ.
2. Không nên mang ngay cả hoa tai, hoa dạng chuỗi, dây chuỗi ở cổ, ở hông, ṿng, ṿng ở ngực, đồ trang sức ở tay, và nhẫn.
3. (Về tóc) dài, lược chải, vật h́nh mang rắn, bàn tay (x̣e ra), (thoa) sáp ong, dầu nước, giương soi, và chậu nước, dầu (thoa), việc xoa bóp, và thoa phấn.
4. Các vị tô điểm, việc vẽ màu ở thân h́nh, và tô màu ở mặt, rồi cả hai việc, bệnh ở mắt, và ở trên đỉnh núi, sự (ngâm nga) kéo dài, âm điệu, (áo khoác) ở bên ngoài.
5. Xoài miếng, với các trái c̣n nguyên, con rắn, vị đă cắt đứt, và khúc gỗ trầm hương, các b́nh bát đủ loại, phần đáy b́nh bát, bằng vàng, bị dày cộm, bị lỏng chỏng.
6. Có màu sặc sỡ, bị hư hỏng, có mùi hôi, ở chỗ nắng, chúng đă bị vỡ, ở băng ghế, giường đúc, (tấm lót) cỏ, miếng vải, bục nền xung quanh, và ở giỏ mây, túi đựng, dây mang vai, tương tợ như thế về dây đeo bằng chỉ kết lại.
7. Ở chốt đinh, và ở giường, ở ghế, ở bắp vế, ở cái dù, việc mở cửa, bầu đựng nước, cái hũ, cái sọ từ thây người, các đồ thừa thăi, vật chứa.
8. Vị đă xé (bằng tay), dao có cán, bằng vàng, lông (gà), lạt tre, và ống đựng kim khâu, bột gây men, bột lúa mạch, bột đá, mật và sáp ong, nhựa cây.
9. Không vuông vức, đă buộc vào, chỗ không bằng phẳng, ở trên mặt đất, bị sờn, và không đạt kích thước, việc đo đạc, và đường chỉ may tạm, chân chưa rửa, đẫm nước, mang giày dép.
10. Các ngón tay, đồ bao ngón tay, thùng chứa đồ, các dây mang vai, ở ngoài trời, nền thấp, và luôn cả nền móng, các vị bị khó khăn.
11. Vị bị té, rác cỏ, việc tô vữa trong và ngoài, màu trắng, việc sơn màu đen, và việc chuẩn bị màu đỏ.
12. Việc trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng, sào máng y, và dây treo y, vị Lănh Đạo đă cho phép.
13. Sau khi bỏ bê, các vị ra đi, bị gặm nhấm, bị rời ra, bị bung ra, ngay cả ở trên tường, mang theo bằng b́nh bát, rồi ra đi.
14. Túi đựng, và dây mang bằng chỉ kết lại, sau khi buộc đôi dép (ở hông), và cái túi đựng dép, dây vải mang vai là chỉ kết lại.
15. Nước uống chưa được làm thành đúng phép, ở trên đường, đồ lược nước, miếng vải lược, đồ lọc nước thông thường, hai vị tỳ khưu, vị Hiền Sĩ đă đi đến Vesāli.
16. Ở tại nơi ấy, Ngài đă cho phép đồ lọc có hai lớp, bể lọc nước, đồ lược nước, bởi các con muỗi, với thức ăn hảo hạng, nhiều chứng bệnh, và thầy thuốc Jīvaka.
17. Đường kinh hành, nhà tắm hơi, ở nơi không bằng phẳng, các nền bị thấp, ba loại nền móng, các vị gặp khó khăn, bậc thang và tay cầm, lan can.
18. Ở ngoài trời, rác cỏ, việc tô vữa trong và ngoài, màu trắng, việc sơn màu đen, và việc chuẩn bị màu đỏ.
19. Việc trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng, sào máng y, và dây treo y, và các vị làm nền cao.
20. Ba loại bậc thang, và tay cầm, cánh cửa, trụ cửa, rănh xoay, chốt xoay, tay nắm, và chốt gài.
21. Đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, và sợi dây. Mô tṛn, và ống thông khói, ở giữa, và đất sét đắp ở mặt.
22. Máng đựng đất sét, có mùi hôi, bị phỏng, vại chứa nước, gáo múc nước, làm ra mồ hôi, (nền) bị lầy lội, đă rửa sạch, rănh thoát nước.
23. Ghế ngồi, ở nhà kho, công việc làm, cát, và đá phiến, rănh thoát nước, các vị ở trần, ở nền đất, trời đang mưa, ba loại tấm choàng tại nơi ấy.
24. Giếng nước, và bị sụp đổ, bằng dây rừng, sợi dây thắt lưng, cần giọt, cần trục quay, ṛng rọc, nhiều gàu múc bị bể.
25. (Gàu) bằng thiếc, bằng gỗ, bằng da thuộc, gian nhà, rác cỏ, và nắp đậy, máng chứa nước, hồ tắm, hàng rào, bị lầy lội, và bằng rănh thoát nước.
26. Việc bị lạnh, hồ trữ nước, và nước bị ôi, mái ṿng cung, bốn tháng, và các vị nằm, tấm thảm len, không nên chú nguyện để dùng riêng.
27. Được rắc dầu thơm, giá đỡ b́nh bát, các vị ăn chung trong một (tô), đă nằm chung, chuyện Vaḍḍha, chuyện Bodhi, Ngài đă không bước lên, cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), cái chổi.
28. Cát, sỏi, và đá bọt biển là vật chà chân, cái quạt (h́nh vuông), cái quạt lá cọ, quạt đuổi muỗi, và luôn cả quạt đuôi ḅ.
29. Ô dù, và không có, ở trong tu viện, ba sự đồng ư về sợi dây, tật nhai lại, cơm rơi, các móng dài, các vị cắt, các ngón tay bị đau.
30. Có bị chảy máu, và cắt sát (phần thịt), hai mươi (ngón), việc để tóc dài, dao cạo, đá mài, bao đựng, miếng vải len, vật dụng để cạo.
31. Các vị tỉa râu, các vị để râu, râu dưới cằm, râu h́nh vuông, lông ngực, lông bụng, giống ngà voi, các vị nhổ (cạo) lông.
32. Các chứng bệnh, cái kéo, vết thương, (lông mũi) dài, và bằng mảnh sành, tóc bạc, bị bít kín (lỗ tai), đủ các loại, vật bằng đồng thau và thuốc cao.
33. Ngồi ôm đầu gối, và vải băng bó, sợi dệt, kim dệt, dây thắt lưng, loại do nhiều sợi bện lại, loại giống h́nh đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích.
34. Loại bằng vải, và loại hai đầu được thắt lại, các mép (bị sờn), loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích, đầu chóp, khâu tṛn, và c̣n thắt nút nữa, đầu chóp đă khâu lại bị sờn.
35. Về khóa thắt lưng, hột nút, và cái nơ buộc, và loại có loại h́nh dẹp ở góc chéo (của y) và nên lùi vào, vải lót trong của người tại gia: loại quấn như ṿi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc.
36. Loại vải có tua, loại vải thật dài, cái váy, trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia, không nên đeo túi quàng ở hai vai, gỗ chà răng, việc đánh (gơ bằng gỗ chà răng).
37. Bị vướng ở cổ họng, và đám lửa lớn, ngọn lửa nghịch chiều, (trèo) cây, bởi con voi, vị Yameḷu, việc giải đoán điềm lành dữ, các vị đă học, các vị đă dạy lại.
38. Kiến thức nhảm nhí, việc dạy, Ngài đă hắt hơi, điều tốt lành, và (nhai) tỏi, bệnh gió, trở nên dơ bẩn, và có mùi hôi, khó khăn, bục (tiểu tiện).
39. Các vị hổ thẹn, không được đậy, có mùi hôi, và các vị đại tiện đó đây, có mùi hôi, hố tiêu, bị sụp xuống, nền cao, và các loại nền móng.
40. Bậc thang, tay cầm để vịn, ở ŕa mép, bị khó khăn, và bục đại tiện, (tiểu) ra ngoài, khe rănh, và gỗ chùi, thùng chứa, và không được đậy lại.
41. Nhà tiêu, và cánh cửa, và luôn cả trụ cửa, rănh xoay và chốt xoay, tay nắm, và chốt gài.
42. Đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, và luôn cả lỗ để xỏ dây, dây thừng, việc trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, và màu đen.
43. Việc trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, và dây treo, vị già yếu, hàng rào.
44. Và về căn pḥng ở ngay tại nơi ấy nữa, việc rải cát, các đá phiến, bị đọng nước, rănh thoát nước, luôn cả lu nước, và gáo múc.
45. Bị khó khăn, hổ thẹn, các nắp đậy, các vị đă cư xử hành vi sai trái, Ngài đă cho phép đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí.
46. Ngoại trừ ghế trường kỷ, ghế nệm lông thú, b́nh bát bằng gỗ, và giày dép (bằng gỗ), bậc Đại Hiền Sĩ đă cho phép tất cả các đồ vật làm bằng gỗ.
47. Ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn, đức Như Lai, đấng Bi Mẫn cũng đă cho phép tất cả đồ vật bằng gốm sứ.
48. Đối với sự việc nào, sự chỉ dẫn là tương tợ với sự việc trước và đă đă được tóm tắt ở trong phần tóm lược, sự việc ấy nên biết đến theo phương thức hướng dẫn.
49. Như vậy một trăm mười sự việc ở trong phần Các Tiểu Sự thuộc Tạng Luật là sự trợ giúp cho các vị hiền thiện trong việc duy tŕ Chánh Pháp.
50. Vị rành rẽ về Luật đă được học tập khéo léo, có tâm tốt lành, vô cùng hiền thiện, làm công việc giảng giải, thông minh, nghe nhiều, là vị xứng đáng việc cúng dường.”
Dứt Phần Tóm Lược.
--ooOoo--
[1] Pūraṇa Kassapa và năm vị này đứng đầu sáu nhóm ngoại đạo thời đó (ND).
[2] Ngài Buddhaghosa giải thích loại ṿng đế b́nh thường (pakatimaṇḍalaṃ) chính là loại ṿng đế có răng cá kiếm đă được cắt (VinA. vi, 1203).
[3] Việc đức Thế Tôn không bước lên tấm thảm trải bằng vải đă được ngài Buddhaghosa giải thích như sau: “Vương tử Bodhi đă trải ra tấm thảm bằng vải với ước nguyện rằng: ‘Nếu ta sẽ có được đứa con trai th́ đức Thế Tôn sẽ bước lên tấm thảm trải bằng vải của ta.’ Và v́ vị ấy không thể có con trai nên đức Thế Tôn đă không bước lên. Nếu đức Thế Tôn bước lên, sau này vị vương tử không có con trai có thể sanh tà kiến rằng: ‘Vị này không phải là Toàn Giác;’ đó là nguyên nhân trong việc đức Thế Tôn không bước lên tấm thảm trải bằng vải. Ngay cả các vị tỳ khưu trong khi không biết rồi bước lên có thể bị hàng tại gia chê bai, do đó đức Thế Tôn đă quy định điều học về việc này để tránh cho các vị tỳ khưu bị chê bai. Đây là nguyên nhân của việc quy định điều học” (VinA. vi, 1209).
[4] Liên quan đến tội pācittiya 37 (ND).
[5] saka nirutti: Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Ở đây ‘saka nirutti’ nghĩa là sự giảng giải được nói ra bởi đấng Chánh Đẳng Giác tức là sự phát biểu bằng ngôn ngữ của xứ Magadha” (Sđd. 1214). Các nhà học giả trong thời hiện tại đă nêu ra tranh luận về vấn đề này biện luận rằng từ sakāya c̣n có liên quan đến từ saka (bản thân) ám chỉ ngôn ngữ địa phương của mỗi cá nhân, thay v́ Sakya (ḍng dơi Thích Ca) ư nói đến ngôn ngữ cổ thời bấy giờ theo như lời giải thích của ngài Buddhaghosa. Chúng tôi ghi lời Việt theo ư kiến của các học giả thời sau này (ND).