TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 07
TIỂU PHẨM tập II
ẤN BẢN 2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngụ tại Anupiyā. Anupiyā là tên của một thị trấn của xứ Malla. Vào lúc bấy giờ, nhiều vương tử rất danh tiếng thuộc ḍng dơi Sakya xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người) đă xuất gia. Vào lúc bấy giờ, Mahānāma ḍng Sakya và Anuruddha ḍng Sakya là hai anh em. Anuruddha ḍng Sakya là người mảnh mai. Vị ấy có ba ṭa lâu đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, một dành cho mùa mưa. Vào bốn tháng mùa mưa ở trong ṭa lâu đài dành cho mùa mưa, trong lúc được phục vụ bởi các nữ công tấu nhạc, chàng không bước xuống phía dưới của ṭa lâu đài.
Khi ấy, Manānāma ḍng Sakya đă khởi ư điều này: “Hiện nay nhiều vương tử rất danh tiếng thuộc ḍng dơi Sakya đă xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người) đă xuất gia. C̣n gia tộc của chúng ta th́ không có người nào rời nhà xuất gia sống không nhà cả. Có lẽ hoặc là ta hoặc là Anuruddha nên xuất gia?” Sau đó, Mahānāma ḍng Sakya đă đi đến gặp Anuruddha ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với Anuruddha ḍng Sakya điều này: - “Này Anuruddha yêu dấu, hiện nay nhiều vương tử rất danh tiếng thuộc ḍng dơi Sakya đă xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người) đă xuất gia. C̣n gia tộc của chúng ta th́ không có người nào rời nhà xuất gia sống không nhà cả. Chính v́ điều ấy, hoặc là em hoặc là anh nên xuất gia.”
- “Em th́ mảnh mai, em không thể rời nhà xuất gia sống không nhà. Anh hăy xuất gia đi.”
- “Anuruddha yêu dấu, hăy đến. Anh sẽ chỉ dạy công việc gia đ́nh cho em. Trước tiên, cần bảo cày xới ruộng nương, sau khi bảo cày xới rồi cần bảo gieo hạt, sau khi bảo gieo hạt rồi cần bảo đưa nước vào, sau khi bảo đưa nước vào rồi cần bảo tưới nước đều khắp các ruộng, sau khi bảo tưới nước đều khắp các ruộng cần bảo nhổ cỏ, sau khi bảo nhổ cỏ rồi cần bảo gặt hái, sau khi bảo gặt hái rồi cần bảo thâu hoạch, sau khi bảo thâu hoạch rồi cần bảo chất thành đống, sau khi bảo chất thành đống rồi cần bảo đập giũ, sau khi bảo đập giũ rồi cần bảo tách rơm ra, sau khi bảo tách rơm ra cần bảo tách trấu ra, sau khi bảo tách trấu ra cần bảo sàng sảy, sau khi bảo sàng sảy rồi cần bảo đem cất vào kho, sau khi bảo đem cất vào kho rồi vào mùa tới cũng cần được làm y như thế, vào mùa tới nữa cũng cần được làm y như thế.”
- “Thế các công việc không được ngưng lại hay sao? Sự chấm dứt của các công việc không được biết đến hay sao? Khi nào các công việc sẽ được ngưng lại? Khi nào sự chấm dứt các công việc sẽ được biết đến? Khi nào chúng ta mới được rảnh rỗi mà hưởng thụ năm phần dục lạc đă được ban cho, đă được sở hữu?”
- “Này Anuruddha yêu dấu, công việc không được ngưng lại. Sự chấm dứt của các công việc không được biết đến. Khi công việc vẫn chưa ngưng lại, cha mẹ và ông đă qua đời.”
- “Chính v́ điều ấy nên chính anh hăy biết lấy công việc gia đ́nh. Em sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
2. Sau đó, Anuruddha ḍng Sakya đă đi đến gặp người mẹ, sau khi đến đă nói với người mẹ điều này: - “Thưa mẹ, con muốn rời nhà xuất gia sống không nhà. Mẹ hăy cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi được nói như thế, mẹ của Anuruddha ḍng Sakya đă nói với Anuruddha ḍng Sakya điều này: - “Này Anuruddha yêu dấu, các con là hai người con trai thân thương, quư mến, yêu dấu của mẹ. Chỉ có sự chết th́ mẹ đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”
Đến lần thứ nh́, Anuruddha ḍng Sakya đă nói với người mẹ điều này: - “Thưa mẹ, con muốn rời nhà xuất gia sống không nhà. Mẹ hăy cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này Anuruddha yêu dấu, các con là hai người con trai thân thương, quư mến, yêu dấu của mẹ. Chỉ có sự chết th́ mẹ đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang c̣n sống mẹ lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”
Đến lần thứ ba, Anuruddha đă nói với người mẹ điều này: - “Thưa mẹ, con muốn rời nhà xuất gia sống không nhà. Mẹ hăy cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.”
Vào lúc bấy giờ, đức vua Bhaddiya ḍng Sakya trị v́ lănh thổ Sakya. Và đức vua là bạn của Anuruddha ḍng Sakya. Khi ấy, mẹ của Anuruddha ḍng Sakya (nghĩ rằng): ‘Đức vua Bhaddiya ḍng Sakya này trị v́ lănh thổ Sakya là bạn của Anuruddha ḍng Sakya. Vị ấy không nhiệt t́nh rời nhà xuất gia sống không nhà!’ nên đă nói với Anuruddha ḍng Sakya điều này: - “Này Anuruddha yêu dấu, nếu đức vua Bhaddiya ḍng Sakya rời nhà xuất gia sống không nhà, như vậy th́ con cũng hăy xuất gia.”
3. Sau đó, Anuruddha ḍng Sakya đă đi đến gặp đức vua Bhaddiya ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với đức vua Bhaddiya ḍng Sakya điều này: - “Này bạn, việc xuất gia của tôi tùy thuộc vào bạn đó.”
- “Này bạn, nếu việc xuất gia của bạn tùy thuộc vào tôi, hăy làm cho nó không c̣n tùy thuộc nữa. Tôi với bạn ... cứ việc xuất gia một cách thoải mái.”[1]
- “Này bạn, hăy đến. Cả hai ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này bạn, tôi không thể rời nhà xuất gia sống không nhà. Điều ǵ khác mà tôi có thể làm cho bạn th́ tôi sẽ làm cho bạn. Bạn hăy xuất gia đi.”
- “Này bạn, mẹ đă nói với tôi như vầy: ‘Này Anuruddha yêu dấu, nếu đức vua Bhaddiya ḍng Sakya rời nhà xuất gia sống không nhà, như vậy th́ con cũng hăy xuất gia.’ Này bạn, hơn nữa bạn đă nói lời nói này: ‘Này bạn, nếu việc xuất gia của bạn tùy thuộc vào tôi, hăy làm cho nó không c̣n tùy thuộc nữa. Tôi với bạn ... cứ việc xuất gia một cách thoải mái.’ Này bạn, hăy đến. Cả hai ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
Vào lúc bấy giờ, loài người nói năng chân thật, tôn trọng sự chân thật. Khi ấy, đức vua Bhaddiya ḍng Sakya đă nói với Anuruddha ḍng Sakya điều này: - “Này bạn, hăy chờ đợi bảy năm. Sau bảy năm, cả hai chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này bạn, bảy năm quá lâu. Tôi không thể chờ đợi bảy năm.”
- “Này bạn, hăy chờ đợi sáu năm. ―(như trên)― năm năm. ―(như trên)― bốn năm. ―(như trên)― ba năm. ―(như trên)― hai năm. ―(như trên)― một năm. Sau một năm, cả hai chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này bạn, một năm quá lâu. Tôi không thể chờ đợi một năm.”
- “Này bạn, hăy chờ đợi bảy tháng. Sau bảy tháng, cả hai chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này bạn, bảy tháng quá lâu. Tôi không thể chờ đợi bảy tháng.”
- “Này bạn, hăy chờ đợi sáu tháng. ―(như trên)― năm tháng. ―(như trên)― bốn tháng. ―(như trên)― ba tháng. ―(như trên)― hai tháng. ―(như trên)― một tháng. ―(như trên)― nửa tháng. Sau nửa tháng, cả hai chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.”
- “Này bạn, nửa tháng quá lâu. Tôi không thể chờ đợi nửa tháng.”
- “Này bạn, hăy chờ đợi bảy ngày đến khi tôi trao lại vương quốc cho các người con trai và các người em trai xong.”
- “Này bạn, bảy ngày không lâu lắm. Tôi sẽ chờ đợi.”
4. Khi ấy, đức vua Bhaddiya ḍng Sakya, Anuruddha, Ānanda, Bhagu, Kimbila, Devadatta, với thợ cạo Upāli là người thứ bảy, giống như trước đây họ đă đi ra khu vườn hoa cùng với bốn loại quân binh, tương tợ y như thế, họ đă đi ra cùng với bốn loại quân binh. Khi đi đă xa, họ đă cho quân binh trở về. Sau khi đi sang lănh thổ khác, họ đă cởi các đồ trang sức ra, dùng y khoác ngoài buộc lại thành gói, rồi đă nói với thợ cạo Upāli điều này: - “Này khanh Upāli, ngươi nên trở lại. Nhiêu đây cũng đủ cho cả đời của ngươi.”
Sau đó, trong khi đi trở về thợ cạo Upāli đă khởi ư điều này: “Những người ḍng Sakya thật là ác độc (nghĩ rằng): ‘Các vương tử đă bỏ đi v́ gă này,’ cũng có thể ra lệnh giết ta. Chính các vương tử ḍng Sakya này c̣n rời nhà xuất gia sống không nhà, việc ǵ ta lại không?” Vị ấy đă mở gói đồ ra rồi treo gói đồ ấy ở trên cây, nói rằng: “Ai thấy được cứ việc lấy món quà” rồi đă đi đến gặp các vương tử ḍng Sakya. Các vương tử ḍng Sakya ấy đă nh́n thấy thợ cạo Upāli đang từ đàng xa đi lại, sau khi nh́n thấy đă nói với thợ cạo Upāli điều này: - “Này khanh Upāli, v́ sao ngươi quay lại?”
- “Thưa các vương tử, ở đây trong khi quay trở về tôi đă khởi ư điều này: ‘Những người ḍng Sakya thật là ác độc (nghĩ rằng): ‘Các vương tử đă bỏ đi v́ gă này,’ cũng có thể ra lệnh giết ta. Chính các vương tử ḍng Sakya này c̣n rời nhà xuất gia sống không nhà, việc ǵ ta lại không?’ Thưa các vương tử, tôi đây đă mở gói đồ ra treo gói đồ ấy ở trên cây, nói rằng: ‘Ai thấy được cứ việc lấy món quà’ rồi từ đó tôi đă quay lại.”
- “Này khanh Upāli, ngươi đă hành động đúng về việc người đă quay trở lại v́ những người ḍng Sakya quả là ác độc (nghĩ rằng): ‘Các vương tử đă bỏ đi v́ gă này,’ cũng có thể ra lệnh giết ngươi.”
5. Sau đó, các vương tử ḍng Sakya ấy đă đưa thợ cạo Upāli đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, các vương tử ḍng Sakya ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng tôi thuộc ḍng Sakya có sự ngă mạn. Bạch ngài, thợ cạo Upāli này là người hầu cận của chúng tôi lâu nay. Xin đức Thế Tôn cho người này xuất gia trước tiên. Chúng tôi sẽ thực hiện việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp tay, hành động thích hợp đối với ông ta. Như thế, sự ngă mạn của ḍng Sakya trong những người Sakya chúng tôi sẽ không c̣n nữa.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đă cho thợ cạo Upāli xuất gia trước tiên kế đến là các vương tử ḍng Sakya ấy. Sau đó ngay trong năm ấy, đại đức Bhaddiya đă chứng ngộ ba Minh, đại đức Anuruddha đă chứng đạt Thiên nhăn, đại đức Ānanda đă chứng ngộ quả Nhập Lưu, Devadatta đă thành tựu được thần thông của phàm nhân.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Bhaddiya mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng rằng: “Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!” Khi ấy, nhiều vị tỳ khưu đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đại đức Bhaddiya mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng rằng: ‘Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!’ Bạch ngài, chắc chắn rằng đại đức Bhaddiya không thỏa thích thực hành Phạm hạnh, hoặc là trong khi hồi tưởng lại chính sự khoái lạc vương giả ấy trước đây, (vị ấy) mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng rằng: ‘Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!’”
6. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo một vị tỳ khưu khác rằng: - “Này tỳ khưu, hăy đến. Ngươi hăy nhân danh ta nói với tỳ khưu Bhaddiya rằng: ‘Này đại đức Bhaddiya, bậc Đạo Sư cho gọi đại đức.’” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn đă đi đến gặp đại đức Bhaddiya, sau khi đến đă nói với đại đức Bhaddiya điều này: - “Này đại đức Bhaddiya, bậc Đạo Sư cho gọi đại đức.”
- “Này đại đức, xin vâng.” Rồi đại đức Bhaddiya nghe theo vị tỳ khưu ấy đă đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đại đức Bhaddiya đă ngồi xuống một bên, đức Thế Tôn đă nói với đại đức Bhaddiya điều này: - “Này Bhaddiya, nghe nói ngươi mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng rằng: ‘Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!’ có đúng không vậy?”
- “Bạch ngài, đúng vậy.”
- “Này Bhaddiya, trong khi cảm nhận được lợi ích ǵ khiến ngươi, mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng, vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng: ‘Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!’ vậy?”
- “Bạch ngài, trước đây khi con làm vua, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên trong hậu cung, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên ngoài hậu cung, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên trong thành phố, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên ngoài thành phố, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên trong xứ sở, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên ngoài xứ sở, bạch ngài, trong khi được bảo vệ và được an toàn như vậy, con đây sống vẫn cảm thấy sợ hăi, khiếp đảm, lo âu, hồi hộp. Bạch ngài, thế mà giờ đây con chỉ một ḿnh, mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng vẫn không sợ hăi, không khiếp đảm, không lo âu, không hồi hộp, vô tư lự, điềm tĩnh, tùy thuận sự bố thí của người khác, sống với tâm như loài thú rừng. Bạch ngài, trong khi cảm nhận được lợi ích này nên con mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi trống vắng, vẫn nhiều lần thốt lên lời cảm hứng rằng: ‘Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!’”
Sau đó, khi hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đă thốt lên lời cảm hứng này:
“Đối với người nào mà các sự sân hận không hiện diện ở trong tâm, đă vượt qua khỏi hữu và phi hữu như thế, vị ấy đă không c̣n sự sợ hăi, có sự an lạc, không sầu muộn, chư Thiên không đạt được việc nh́n thấy vị ấy.”
7. Sau đó, khi đă ngự ở Anupiyā theo như ư thích đức Thế Tôn đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đă ngự đến thành Kosambi. Tại nơi đó, trong thành Kosambi, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Ghosita. Khi ấy, Devadatta trong lúc độc cư thiền tịnh đă có ư nghĩ suy tầm như vầy sanh khởi: “Ta nên làm cho ai tin tưởng để khi người ấy đă đặt niềm tin nơi ta rồi th́ nhiều lợi lộc và sự trọng vọng có thể phát sanh?”
Khi ấy, điều này đă khởi lên cho Devadatta: “Hoàng tử Ajātasattu này c̣n trẻ và có tương lai rạng rỡ. Hay là ta nên làm cho hoàng tử Ajātasattu tin tưởng để khi vị ấy đă đặt niềm tin nơi ta rồi th́ nhiều lợi lộc và sự trọng vọng sẽ phát sanh?”
Sau đó, Devadatta đă thu xếp sàng tọa rồi cầm y bát đi đến thành Rājagaha. Theo tuần tự, vị ấy đă đến được thành Rājagaha. Khi ấy, Devadatta đă thay đổi h́nh dạng của ḿnh và biến thành h́nh dạng đứa bé trai ḿnh quấn đầy rắn xuất hiện ở trên bắp vế của hoàng tử Ajātasattu. Khi ấy, hoàng tử Ajātasattuđă trở nên sợ hăi, khiếp đảm, lo âu, hồi hộp. Khi ấy, Devadatta đă nói với hoàng tử Ajātasattu điều này:
- “Hoàng tử, ngài sợ tôi hay sao?”
- “Vâng, ta sợ lắm. Ngươi là ai?”
- “Tôi là Devadatta.”
- “Thưa ngài, nếu ngươi là ngài đại đức Devadatta, xin hăy hiện ra với h́nh dáng của chính ngài đi.”
8. Sau đó, Devadatta đă thay đổi h́nh dạng đứa bé trai và hiện ra đứng trước hoàng tử Ajātasattu có mang y hai lớp và y bát. Khi ấy, hoàng tử Ajātasattu vô cùng ngưỡng mộ thần thông kỳ diệu này của Devadatta nên sáng chiều đă đi đến phục vụ cùng với đoàn xe năm trăm chiếc và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa được mang lại.
Khi ấy, Devadatta với tâm đă bị chế ngự, đă bị ám ảnh bởi sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh khiến điều tham muốn như vầy đă khởi lên: ‘Ta sẽ quản trị hội chúng tỳ khưu.’ Cùng lúc với sự sanh khởi của tâm, Devadatta đă mất đi thần thông ấy.
Vào lúc bấy giờ, thị giả của đại đức Mahāmoggallāna tên là Kakudha con trai của Koḷiya vừa mới từ trần và tái sanh vào thân khác do ư tạo. Vị ấy đạt được bản thể có h́nh dạng như là hai hay ba cánh đồng làng ở xứ Magadha. Với sự thành tựu bản thể đó, vị ấy vẫn không hề làm tổn thương chính ḿnh hay người khác.
Khi ấy, Thiên tử Kakudha đă đi đến gặp đại đức Mahāmoggallāna, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Mahāmoggallāna rồi đứng một bên. Khi đă đứng một bên, Thiên tử Kakudha đă nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này: - “Thưa ngài, Devadatta với tâm đă bị chế ngự, đă bị ám ảnh bởi sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh khiến điều tham muốn như vầy đă khởi lên: ‘Ta sẽ quản trị hội chúng tỳ khưu.’ Thưa ngài, cùng lúc với sự sanh khởi của tâm, Devadatta đă mất đi thần thông ấy.” Thiên tử Kakudha đă nói lên điều ấy. Sau khi nói lên điều ấy, vị ấy đă đảnh lễ đại đức Mahāmoggallāna, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biến mất ngay tại chỗ ấy.
9. Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Mahāmoggallāna đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thị giả của con tên là Kakudha con trai ḍng Koḷiya vừa mới từ trần và tái sanh vào thân khác do ư tạo. Vị ấy đạt được bản thể có h́nh dạng như là hai hay ba cánh đồng làng ở xứ Magadha. Với sự thành tựu bản thể đó, vị ấy vẫn không hề làm tổn thương chính ḿnh hay người khác. Bạch ngài, khi ấy Thiên tử Kakudha đă đi đến gặp con, sau khi đến đă đảnh lễ con rồi đă đứng một bên. Khi đă đứng một bên, Thiên tử Kakudha đă nói với con điều này: ‘Thưa ngài, Devadatta với tâm đă bị chế ngự, đă bị ám ảnh bởi sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh khiến điều tham muốn như vầy đă khởi lên: Ta sẽ quản trị hội chúng tỳ khưu. Thưa ngài, chính do sự sanh khởi của tâm, Devadatta đă mất đi thần thông của ḿnh.’Thiên tử Kakudha đă nói lên điều ấy. Sau khi nói lên điều ấy, vị ấy đă đảnh lễ con, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biến mất ngay tại chỗ ấy.”
- “Này Moggallāna, có phải Thiên tử Kakudha với ngươi có tâm hiểu và biết (lẫn nhau) bằng tâm nên bất cứ điều ǵ Thiên tử Kakudha nói (ngươi biết được) tất cả điều ấy đều theo chính cách ấy, chứ không phải cách nào khác?”
- “Bạch ngài, Thiên tử Kakudha với con có tâm hiểu và biết (lẫn nhau) bằng tâm nên bất cứ điều ǵ Thiên tử Kakudha nói (con biết được) tất cả điều ấy đều theo chính cách ấy, chứ không phải cách nào khác.”
- “Này Moggallāna, hăy giữ kín lời nói này. Này Moggallāna, hăy giữ kín lời nói này. Đă đến lúc kẻ rồ dại ấy tự chính ḿnh sẽ làm bộc lộ bản thân.”
10. Này Moggallāna, có năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên đời. Thế nào là năm?
Này Moggallāna, ở đây có hạng đạo sư trong khi có giới không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có giới không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về giới, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về giới từ các đệ tử.
Này Moggallāna, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có sự nuôi mạng không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ và ‘Sự nuôi mạng của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có sự nuôi mạng không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ và ‘Sự nuôi mạng của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc nuôi mạng, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc nuôi mạng từ các đệ tử.
Này Moggallāna, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có sự thuyết pháp không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’ và ‘Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có sự thuyết pháp không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’ và ‘Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc thuyết pháp, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc thuyết pháp từ các đệ tử.
Này Moggallāna, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có lối giải thích không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có lối giải thích thanh tịnh’ và ‘Lối giải thích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có lối giải thích không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có lối giải thích thanh tịnh’ và ‘Lối giải thích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về lối giải thích, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về lối giải thích từ các đệ tử.
Này Moggallāna, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có tri kiến không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ và ‘Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có tri kiến không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ và ‘Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về tri kiến, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử.”
Này Moggallāna, năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên đời.
Và này Moggallāna, ta có giới thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về giới, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về giới từ các đệ tử.
Ta nuôi mạng thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ và ‘Sự nuôi mạng của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về sự nuôi mạng, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về sự nuôi mạng từ các đệ tử.
Ta thuyết pháp thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’ và ‘Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về sự thuyết pháp, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về sự thuyết pháp từ các đệ tử.
Ta có lối giải thích thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có lối giải thích thanh tịnh’ và ‘Lối giải thích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về lối giải thích, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về lối giải thích từ các đệ tử.
Ta có tri kiến thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ và ‘Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về tri kiến, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử.”
11. Sau đó, khi đă ngự tại Kosambi theo như ư thích đức Thế Tôn đă lên đường du hành đi đến thành Rājagaha. Trong khi du hành theo tuần tự ngài đă ngự đến thành Rājagaha.
Tại nơi đó, trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc.
Khi ấy, nhiều vị tỳ khưu đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, hoàng tử Ajātasattu sáng chiều đi đến phục vụ Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa được mang lại.”
- “Này các tỳ khưu, chớ có ganh tỵ với Devadatta về sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh. Này các tỳ khưu, cho đến khi nào hoàng tử Ajātasattu c̣n sáng chiều đi đến phục vụ Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa c̣n được mang lại th́ này các tỳ khưu, việc suy giảm trong các thiện pháp là điều sẽ xảy đến cho Devadatta, chứ không phải sự tiến triển.
Này các tỳ khưu, cũng giống như người ta làm vỡ túi mật ở mũi của con chó dữ tợn; này các tỳ khưu, bởi v́ như vậy con chó ấy sẽ trở nên dữ tợn hơn trước. Tương tợ như thế, này các tỳ khưu, cho đến khi nào hoàng tử Ajātasattu c̣n sáng chiều đi đến phục vụ Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa c̣n được mang lại th́ này các tỳ khưu, việc suy giảm trong các thiện pháp là điều sẽ xảy đến cho Devadatta, chứ không phải sự tiến triển.
Này các tỳ khưu, sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại. Này các tỳ khưu, giống như cây chuối khi trổ quả th́ đưa đến sự hư hỏng của thân cây, khi trổ quả th́ đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đă đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như cây tre khi kết trái th́ đưa đến sự hư hỏng của thân cây, khi kết trái th́ đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như cây sậy khi kết trái th́ đưa đến sự hư hỏng của thân cây, khi kết trái th́ đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như con lừa cái khi mang thai th́ đưa đến sự hư hỏng của bản thân, khi mang thai th́ đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; sự lợi lộc, trọng vọng, và tôn vinh đă đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.”
“Đúng vậy, (sự kết) trái hại chết cây chuối, (sự kết) trái hại chết cây tre, (sự kết) trái hại chết cây sậy, sự trọng vọng hại chết kẻ ngu tương tợ như bào thai hại chết con lừa.”
Tụng phẩm thứ nhất.
*****
TỤNG PHẨM THỨ NH̀
12. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đảo có cả đức vua, đang thuyết giảng Giáo Pháp. Khi ấy, Devadatta đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đă nói với đức Thế Tôn điều này:
- “Bạch ngài, đức Thế Tôn nay đă tàn tạ, già cả, lớn tuổi, đă sống thọ, đă đạt đến đoạn cuối cuộc đời. Bạch ngài, giờ đây xin đức Thế Tôn hăy sống gắn bó vào sự lạc trú trong hiện tại, c̣n hội chúng tỳ khưu hăy bàn giao cho tôi, tôi sẽ cai quản hội chúng tỳ khưu.”
- “Này Devadatta, thôi đi. Ngươi chớ có mong để được cai quản hội chúng tỳ khưu.”
Đến lần thứ nh́, Devadatta ―(như trên)― Đến lần thứ ba, Devadatta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn nay đă tàn tạ, già cả, lớn tuổi, đă sống thọ, đă đạt đến đoạn cuối cuộc đời. Bạch ngài, giờ đây xin đức Thế Tôn hăy sống gắn bó vào sự lạc trú trong hiện tại, c̣n hội chúng tỳ khưu hăy bàn giao cho tôi, tôi sẽ cai quản hội chúng tỳ khưu.”
- “Này Devadatta, ngay cả Sāriputta và Moggallāna ta c̣n không thể bàn giao hội chúng tỳ khưu, làm sao (có thể bàn giao) cho kẻ tồi tệ đáng phỉ nhổ như ngươi được?”
Khi ấy, Devadatta (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă bôi nhọ ta bằng cách gọi là kẻ đáng phỉ nhổ trước hội chúng có cả nhà vua và c̣n ca tụng Sāriputta và Moggallāna nữa!” nên tức tối, có sự không hài ḷng, rồi đă đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.
Như thế, đây đă là mối ác cảm thứ nhất của Devadatta đối với đức Thế Tôn.
13. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy thực hiện hành sự công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’
Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vậy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện hành sự công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng thực hiện hành sự công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Đại đức nào đồng ư sự thực hiện hành sự công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta’ xin im lặng; vị nào không đồng ư, có thể nói lên.
Hành sự công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta’ đă được hội chúng thực hiện. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
14. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo đại đức Sāriputta rằng: - “Này Sāriputta, chính v́ điều ấy ngươi hăy công bố về Devadatta ở trong thành Rājagaha.”
- “Bạch ngài, trước đây ở trong thành Rājagaha con đă khen ngợi về Devadatta rằng: ‘Con trai của Godhi có đại thần lực! Con trai của Godhi có đại năng lực!’ Bạch ngài, làm sao con công bố về Devadatta ở trong thành Rājagaha được?”
- “Này Sāriputta, khi ngươi khen ngợi về Devadatta ở trong thành Rājagaha rằng: ‘Con trai của Godhi có đại thần lực! Con trai của Godhi có đại năng lực!’ phải chăng là đúng sự thật?”
- “Bạch ngài, đúng vậy.”
- “Này Sāriputta, cũng tương tợ như vậy, ngươi hăy công bố đúng sự thật về Devadatta ở trong thành Rājagaha.”
- “Bạch ngài, xin vâng.” Đại đức Sāriputta đă đáp lời đức Thế Tôn.
Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy chỉ định Sāriputta để công bố về Devadatta ở trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước tiên, Sāriputta cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông qua bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định Sāriputta để công bố về Devadatta ở trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, ―(như trên)― mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định Sāriputta để công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, ―(như trên)― mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Đại đức nào đồng ư sự chỉ định Sāriputta để công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, ―(như trên)― mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta’ xin im lặng; vị nào không đồng ư, có thể nói lên.
Đại đức Sāriputta đă được hội chúng chỉ định để công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, ―(như trên)― mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.’ Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Và khi đă được chỉ định, đại đức Sāriputta cùng với nhiều vị tỳ khưu đă đi vào thành Rājagaha và đă công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: “Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. ―(như trên)― mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta.” Ở nơi ấy, những người nào không có đức tin, không mộ đạo, kém sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: “Các Sa-môn Thích tử này ganh tỵ. Họ ganh tỵ với sự lợi lộc và trọng vọng của Devadatta.” C̣n những người nào có đức tin, mộ đạo, sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: “Việc đức Thế Tôn cho công bố về Devadatta trong thành Rājagaha như thế này chẳng có ǵ sai trái!”
15. Sau đó, Devadatta đă đi đến gặp hoàng tử Ajātasattu, sau khi đến đă nói với hoàng tử Ajātasattu điều này: - “Tâu hoàng tử, trước đây loài người sống thọ, bây giờ yểu thọ. Điều thực tế cần được biết là ngài có thể chết đi trong lúc vẫn c̣n là hoàng tử; tâu hoàng tử, chính v́ điều ấy ngài hăy giết cha và lên làm vua. Ta sẽ giết đức Thế Tôn và trở thành đức Phật.”
Sau đó, hoàng tử Ajātasattu (nghĩ rằng): ‘Ngài Devadatta có đại thần lực, có đại năng lực; ngài Devadatta đương nhiên có thể biết được’ nên vào lúc sáng sớm đă buộc con dao găm ở đùi, rồi (với vẻ) khiếp đảm, sợ hăi, lo âu, hồi hộp đă xông vào hậu cung một cách vội vă. Các vị quan đại thần bảo vệ hậu cung đă nh́n thấy hoàng tử Ajātasattu vào lúc sáng sớm (với vẻ) khiếp đảm, sợ hăi, lo âu, hồi hộp đang xông vào hậu cung một cách vội vă, sau khi nh́n thấy họ đă giữ lại. Trong lúc khám xét, họ đă thấy con dao găm buộc ở đùi nên đă nói với hoàng tử Ajātasattu điều này: - “Tâu hoàng tử, ngài có ư định làm điều ǵ vậy?”
- “Ta có ư định giết cha.”
- “Do ai xúi giục?”
- “Do ngài đại đức Devadatta.”
Một số quan đại thần đă đưa ư kiến như vầy: - “Hoàng tử phải bị giết chết, Devadatta và tất cả các tỳ khưu phải bị giết chết.”
Một số quan đại thần khác đă đưa ư kiến như vầy: - “Các tỳ khưu không phải chết. Các vị tỳ khưu không làm tổn hại điều ǵ. C̣n hoàng tử và Devadatta phải bị giết chết.”
Một số quan đại thần khác đă đưa ư kiến như vầy: - “Hoàng tử không phải chết, Devadatta cũng không. Các tỳ khưu cũng không phải chết. Nên tŕnh báo lên đức vua. Đức vua ra lệnh như thế nào th́ chúng ta sẽ làm như thế ấy.”
Sau đó, các quan đại thần ấy đă đưa hoàng tử Ajātasattu đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă tŕnh báo sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
- “Này các khanh, các quan đại thần đă có ư kiến thế nào?”
- “Tâu bệ hạ, một số quan đại thần đă đưa ư kiến như vầy: ‘Hoàng tử phải bị giết chết, Devadatta và tất cả các tỳ khưu phải bị giết chết.’ Một số quan đại thần khác đă đưa ư kiến như vầy: ‘Các tỳ khưu không phải chết. Các vị tỳ khưu không làm điều ǵ tổn hại. C̣n hoàng tử và Devadatta phải bị giết chết.’ Một số quan đại thần khác đă đưa ư kiến như vầy: ‘Hoàng tử không phải chết, Devadatta cũng không. Các tỳ khưu cũng không phải chết. Nên tŕnh báo lên đức vua. Đức vua ra lệnh như thế nào th́ chúng ta sẽ làm thế ấy.’”
- “Này các khanh, đức Phật, hoặc Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng sẽ làm điều ǵ? Chẳng phải đức Thế Tôn đă cảnh giác và đă cho công bố về Devadatta trong thành Rājagaha rằng: ‘Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đă khác. Việc ǵ Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là (của) đức Phật, Giáo Pháp, hoặc Hội Chúng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta’ hay sao?”
Tại nơi ấy, những quan đại thần nào đă đưa ư kiến như vầy: “Hoàng tử phải bị giết chết, Devadatta và tất cả các tỳ khưu phải bị giết chết,” đức vua đă cách chức những vị ấy. Những quan đại thần nào đă đưa ư kiến như vầy: “Các tỳ khưu không phải chết. Các vị tỳ khưu không làm điều ǵ tổn hại. Chỉ có hoàng tử và Devadatta phải bị giết chết,” đức vua đă giáng chức những vị ấy. Những quan đại thần nào đă đưa ư kiến như vầy: “Hoàng tử không phải chết, Devadatta cũng không. Các tỳ khưu cũng không phải chết. Nên tŕnh báo lên đức vua. Đức vua ra lệnh như thế nào th́ chúng ta sẽ làm thế ấy,” đức vua đă thăng chức những vị ấy.
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nói với hoàng tử Ajātasattu điều này: - “Này hoàng tử, tại sao con có ư định giết ta?” - “Tâu bệ hạ, con muốn được vương quyền.”
- “Này hoàng tử, nếu con muốn được vương quyền, th́ vương quyền này là của con.” Rồi đă trao vương quyền cho hoàng tử Ajātasattu.
16. Sau đó, Devadatta đă đi đến gặp hoàng tử Ajātasatthu, sau khi đến đă nói với hoàng tử Ajātasattu điều này: - “Tâu đại vương, hăy ra lệnh cho các nam nhân để họ sẽ đoạt mạng sống của Sa-môn Gotama.” Khi ấy, hoàng tử Ajātasattu đă ra lệnh cho mọi người rằng: - “Này các khanh, ngài đại đức Devadatta đă nói như thế nào, các người hăy làm theo như thế ấy.”
Sau đó, Devadatta đă ra lệnh cho một người đàn ông rằng: - “Này ông bạn, Sa-môn Gotama ngụ ở nơi đó; hăy đoạt mạng sống của ông ta rồi hăy trở về bằng con đường này.” Rồi trên con đường ấy, Devadatta đă xếp đặt hai người đàn ông (bảo rằng): - “Người đàn ông nào một ḿnh trở về bằng con đường này; hăy đoạt mạng sống của hắn ta rồi hăy trở về bằng con đường này.” Rồi trên con đường ấy, Devadatta đă xếp đặt bốn người đàn ông (bảo rằng): - “Hai người đàn ông nào trở về bằng con đường này; hăy đoạt mạng sống của chúng rồi hăy trở về bằng con đường này.” Rồi trên con đường ấy, Devadatta đă xếp đặt tám người đàn ông (bảo rằng): - “Bốn người đàn ông nào trở về bằng con đường này; hăy đoạt mạng sống của chúng rồi hăy trở về bằng con đường này.” Rồi trên con đường ấy, Devadatta đă xếp đặt mười sáu người đàn ông (bảo rằng): - “Tám người đàn ông nào trở về bằng con đường này; hăy đoạt mạng sống của chúng rồi hăy trở về bằng con đường này.”
Sau đó, người đàn ông ấy một ḿnh cầm gươm và bao gươm, mang cung và túi tên đă đi đến gặp đức Thế Tôn; sau khi đến c̣n cách đức Thế Tôn một khoảng không xa, th́ trở nên khiếp đảm, sợ hăi, lo âu, hồi hộp, đă đứng với thân thể cứng đơ. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy người đàn ông ấy (với vẻ) khiếp đảm, sợ hăi, lo âu, hồi hộp, đang đứng với thân thể cứng đơ, sau khi nh́n thấy đă nói với người đàn ông ấy điều này: - “Này đạo hữu, hăy đến. Chớ có sợ hăi.”
Khi ấy, người đàn ông ấy đă bỏ gươm và bao gươm ở một góc, để cung và túi tên xuống, rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đê đầu ở hai chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, tội lỗi đă chiếm ngự lấy con khiến con như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên con đi đến đây với tâm độc ác, với tâm giết hại. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn ghi nhận tội lỗi ấy của con đây là tội lỗi hầu để ngăn ngừa trong tương lai.”
“Này đạo hữu, đúng như vậy, tội lỗi đă chiếm ngự lấy ngươi khiến ngươi như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên ngươi đi đến đây với tâm độc ác, với tâm giết hại. Này đạo hữu, chính từ việc ấy, ngươi đă thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, nay ta nhận biết điều ấy cho ngươi. Này đạo hữu, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến người đàn ông ấy. Tức là ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự tai hại sự thấp kém sự ô nhiễm của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của người ấy đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được Chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải đă được làm sạch, không c̣n vết nhơ, có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến người đàn ông ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, người đàn ông ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tợ như thế, Pháp đă được đức Thế Tôn giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với người đàn ông ấy điều này: - “Này đạo hữu, chớ đi bằng con đường ấy, hăy đi bằng con đường này.” Ngài đă chỉ cho đi bằng con đường khác.
17. Sau đó, hai người đàn ông ấy (nghĩ rằng): “Gă đàn ông ấy một ḿnh sao lại lâu đến quá vậy?” rồi trong khi đi dọc theo con đường ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. ―(như trên)― vào Giáo Pháp của bậc đạo sư không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, họ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với những người đàn ông ấy điều này: - “Này các đạo hữu, chớ đi bằng con đường ấy, hăy đi bằng con đường này.” Ngài đă chỉ cho đi bằng con đường khác.
Sau đó, bốn người đàn ông ấy (nghĩ rằng): “Hai gă đàn ông ấy sao lại lâu đến quá vậy?” rồi trong khi đi dọc theo con đường ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. ―(như trên)― vào Giáo Pháp của bậc đạo sư không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, họ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với những người đàn ông ấy điều này: - “Này các đạo hữu, chớ đi bằng con đường ấy, hăy đi bằng con đường này.” Ngài đă chỉ cho đi bằng con đường khác.
Sau đó, tám người đàn ông ấy (nghĩ rằng): “Bốn gă đàn ông ấy sao lại lâu đến quá vậy?” rồi trong khi đi dọc theo con đường ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. ―(như trên)― vào Giáo Pháp của bậc đạo sư không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, họ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với những người đàn ông ấy điều này: - “Này các đạo hữu, chớ đi bằng con đường ấy, hăy đi bằng con đường này.” Ngài đă chỉ cho đi bằng con đường khác.
Sau đó, mười sáu người đàn ông ấy (nghĩ rằng): “Tám gă đàn ông ấy sao lại lâu đến quá vậy?” rồi trong khi đi dọc theo con đường ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. ―(như trên)― vào Giáo Pháp của bậc đạo sư không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, họ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với những người đàn ông ấy điều này: - “Này các đạo hữu, chớ đi bằng con đường ấy, hăy đi bằng con đường này.” Ngài đă chỉ cho đi bằng con đường khác.
Sau đó, người đàn ông ấy một ḿnh đă đi đến gặp Devadatta, sau khi đến đă nói với Devadatta điều này: - “Thưa ngài, tôi không thể đoạt lấy mạng sống của đức Thế tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy có đại thần lực, có đại năng lực.”
- “Này ông bạn, thôi đi. Ngươi chớ đoạt lấy mạng sống của Sa-môn Gotama, chính ta sẽ đoạt lấy mạng sống của Sa-môn Gotama.”
18. Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn đang đi kinh hành ở bóng râm của ngọn núi Gijjhakūṭa. Khi ấy, Devadatta đă leo lên ngọn núi Gijjhakūṭa và xô xuống tảng đá lớn (nghĩ rằng): “Ta sẽ đoạt lấy mạng sống của Sa-môn Gotama bằng vật này.” Hai đỉnh núi đă giao nhau và chận tảng đá ấy lại. Do đó, những mảnh vụn đă văng ra và làm chảy máu ở bàn chân của đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn đă ngước nh́n lên phía trên và đă nói với Devadatta điều này: - “Này kẻ rồ dại, nhiều điều vô phước nghiêm trọng đă gây nên bởi ngươi, là việc ngươi có tâm độc ác, có tâm giết hại đă làm chảy máu của Như Lai.”
Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, đây là nghiệp vô gián đầu tiên mà Devadatta đă tích lũy, là việc đă làm chảy máu của Như Lai bằng tâm độc ác, bằng tâm giết hại.”
Các tỳ khưu đă nghe rằng: “Nghe nói Devadatta mưu đồ giết hại đức Thế Tôn.” Và các vị tỳ khưu ấy đi kinh hành ṿng quanh trú xá của đức Thế Tôn tạo nên âm thanh ồn tiếng động lớn trong khi đọc tụng để bảo vệ, che chở, và canh gác cho đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă nghe tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng đọc tụng, sau khi nghe đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng đọc tụng ấy là ǵ vậy?”
- “Bạch ngài, các tỳ khưu đă nghe rằng: ‘Nghe nói Devadatta mưu đồ giết hại đức Thế Tôn.’ Bạch ngài, và các vị tỳ khưu ấy đi kinh hành ṿng quanh trú xá của đức Thế Tôn tạo nên âm thanh ồn và âm thanh lớn trong khi đọc tụng để bảo vệ, che chở, và canh gác cho đức Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, đó là tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng đọc tụng ấy.”
- “Này Ānanda, chính v́ điều ấy ngươi hăy gọi các tỳ khưu ấy với lời nói của ta rằng: ‘Bậc Đạo Sư gọi các đại đức.’”
- “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đă đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Bậc Đạo Sư gọi các đại đức.”
- “Này đại đức, xin vâng.” Rồi các vị tỳ khưu ấy nghe theo đại đức Ānanda đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đă nói với các vị tỳ khưu ấy đang ngồi một bên điều này:
19. - “Này các tỳ khưu, việc người nào có thể tước đoạt mạng sống của đức Như Lai bằng sự hăm hại là không hợp lư và không có cơ sở. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai Vô Dư Niết Bàn không do sự hăm hại.
Này các tỳ khưu, có năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên đời. Thế nào là năm? Này các tỳ khưu, ở đây có hạng đạo sư trong khi có giới không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có giới không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho ông ta? Vả lại, ông ta được hài ḷng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều ǵ ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.” Này các tỳ khưu, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về giới, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về giới từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có sự nuôi mạng không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ ―(như trên)― Này các tỳ khưu, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc nuôi mạng, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc nuôi mạng từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có sự thuyết pháp không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’ ―(như trên)― Này các tỳ khưu, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc thuyết pháp, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc thuyết pháp từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có lối giải thích không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có lối giải thích thanh tịnh’ ―(như trên)― Này các tỳ khưu, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về lối giải thích, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về lối giải thích từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư trong khi có tri kiến không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ ―(như trên)― Này các tỳ khưu, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về tri kiến, và như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử. Này các tỳ khưu, năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên đời.
Và này các tỳ khưu, ta có giới thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có giới thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về giới, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về giới từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, ta nuôi mạng thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ và ‘Sự nuôi mạng của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về sự nuôi mạng, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về sự nuôi mạng từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, ta thuyết pháp thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’ và ‘Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về sự thuyết pháp, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về sự thuyết pháp từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, ta có lối giải thích thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có lối giải thích thanh tịnh’ và ‘Lối giải thích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về lối giải thích, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về lối giải thích từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, ta có tri kiến thanh tịnh và biết rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ và ‘Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Các đệ tử không cần bảo vệ ta về tri kiến, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử.
Này các tỳ khưu, việc người nào có thể tước đoạt mạng sống của đức Như Lai bằng sự hăm hại là không hợp lư và không có cơ sở. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai Vô Dư Niết Bàn không do sự hăm hại.
Này các tỳ khưu, các ngươi hăy đi về trú xá của mỗi người. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai không cần được bảo vệ.”
20. Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha có con voi dữ tợn tên Nālāgiri là con thú giết người. Khi ấy, Devadatta sau khi vào thành Rājagaha đă đi đến chuồng voi và đă nói với những người quản tượng điều này: - “Này các người, chúng tôi là những thân quyến của đức vua, có quyền lực để đưa kẻ có chức vụ thấp lên chức vụ cao, c̣n làm tăng thêm luôn cả thực phẩm và lương bổng nữa. Này các người, chính v́ điều ấy khi nào Sa-môn Gotama đi vào con đường này, khi ấy các ngươi hăy thả con voi Nālāgiri này ra và cho đi theo con đường này.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Những người quản tượng ấy đă trả lời Devadatta.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y cầm y bát cùng với nhiều vị tỳ khưu đă đi vào thành Rājagaha để khất thực. Sau đó, đức Thế Tôn đă đi vào con đường ấy. Những người quản tượng ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang đi vào con đường ấy, sau khi nh́n thấy đă thả con voi Nālāgiri và cho đi theo con đường ấy. Con voi Nālāgiri đă nh́n thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại gần, sau khi nh́n thấy đă vươn ṿi lên, tai và đuôi dựng đứng, rồi đă chạy lại đức Thế Tôn. Các vị tỳ khưu ấy đă nh́n thấy con voi Nālāgiri từ đàng xa đang đi lại gần, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con voi Nālāgiri này dữ tợn, là con thú giết người đă đi vào con đường này. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy trở lui, xin đấng Thiện Thệ hăy trở lui.” - “Này các tỳ khưu, hăy đi đến, chớ có sợ hăi. Này các tỳ khưu, việc người nào có thể tước đoạt mạng sống của đức Như Lai bằng sự hăm hại là không hợp lư và không có cơ sở. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai Vô Dư Niết Bàn không do sự hăm hại.”
Đến lần thứ nh́, các vị tỳ khưu ấy ―(như trên)― Đến lần thứ ba, các vị tỳ khưu ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con voi Nālāgiri này dữ tợn, là con thú giết người đă đi vào con đường này. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy trở lui, xin đấng Thiện Thệ hăy trở lui.”
- “Này các tỳ khưu, hăy đi đến, chớ có sợ hăi. Này các tỳ khưu, việc người nào có thể tước đoạt mạng sống của đức Như Lai bằng sự hăm hại là không hợp lư và không có cơ sở. Này các tỳ khưu, các đức Như Lai Vô Dư Niết Bàn không do sự hăm hại.”
21. Vào lúc bấy giờ, dân chúng trèo lên và nấp ở các ṭa nhà dài, ở các khu nhà lớn, ở các mái che. Ở nơi ấy, những người nào không có đức tin, không mộ đạo, kém sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: - “Này quư vị, chắc chắn ngài Đại Sa-môn Gotama đẹp trai sẽ bị con long tượng gây thương tích.” C̣n những người nào có đức tin, mộ đạo, sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: - “Này quư vị, chốc nữa thôi chắc chắn con long tượng này sẽ bị Tượng Chúa khuất phục.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đă rải tâm từ đến con voi Nālāgiri. Sau đó, con voi Nālāgiri đă được đức Thế Tôn rải luồng tâm từ đến nên đă hạ ṿi xuống rồi đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đă đứng ở phía trước đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đă dùng tay phải xoa ở trán của con voi Nālāgiri rồi đă nói với con voi Nālāgiri những lời kệ này:
“Này voi, chớ có đối đầu với Tượng Chúa. Này voi, bởi v́ đối đầu với Tượng Chúa là khổ. Này voi, bởi v́ cơi trời là không có cho kẻ giết Tượng Chúa, từ cơi này (sẽ) đi đến cơi khác.
Và chớ có ngạo mạn, và chớ có xao lăng, bởi v́ những kẻ bị xao lăng không về được cơi trời. Bằng cách nào ngươi sẽ đi về cơi trời th́ chính ngươi sẽ làm theo như cách ấy.”
Khi ấy, con voi Nālāgiri đă dùng ṿi lấy các hạt bụi ở bàn chân của đức Thế Tôn rắc trên đầu nó, đă khum xuống chào, rồi đă bước lui trong lúc vẫn nh́n đức Thế Tôn. Sau đó, con voi Nālāgiri đă về lại chuồng và đứng tại chỗ của nó. Và như thế, con voi Nālāgiri đă trở nên thuần phục. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ngâm nga bài kệ này:
“Nhiều kẻ được thuần hóa bằng gậy gộc, bằng các gậy móc câu, và bằng các roi vọt, con voi được vị Đại Ẩn Sĩ điều phục không bằng gậy gộc, không bằng vũ khí.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Devadatta này quả thật ác độc, không biết xấu hổ, bởi v́ ở nơi đây lại dám ra sức giết hại Sa-môn Gotama là vị có đại thần lực như thế này, có đại năng lực như thế này.”
Lợi lộc và sự trọng vọng của Devadatta đă sút giảm. C̣n lợi lộc và sự trọng vọng của đức Thế Tôn đă tăng trưởng.
22. Vào lúc bấy giờ, Devadatta do lợi lộc và sự trọng vọng bị sút giảm nên phải cùng phe nhóm liên tục yêu cầu ở các gia đ́nh rồi thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử này lại liên tục yêu cầu ở các gia đ́nh rồi thọ thực? Ai lại không thích sự sung túc? Ai lại không hài ḷng với đồ ăn ngọt ngào?”
Các tỳ khưu đă nghe dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Devadatta cùng phe nhóm lại liên tục yêu cầu ở các gia đ́nh rồi thọ thực?”
Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này Devadatta, nghe nói ngươi cùng phe nhóm liên tục yêu cầu ở các gia đ́nh rồi thọ thực, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy đối với các tỳ khưu ta sẽ quy định vật thực theo nhóm ba vị ở các gia đ́nh v́ ba lư do: “Nhằm kiềm chế những kẻ tồi tệ, v́ sự sống an lạc của các tỳ khưu hiền thiện: ‘Chớ để các tỳ khưu ác xấu nương tựa vào phe cánh mà chia rẽ hội chúng,’ và v́ ḷng trắc ẩn đối với các gia đ́nh. Và trong việc vật thực dâng chung nhóm, nên được hành xử theo Pháp.”[2]
23. Sau đó, Devadatta đă đi đến gặp Kokālika, Kaṭamorakatissa con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto, sau khi đến đă nói với Kokālika, Kaṭamorakatissa con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto điều này: - “Này các đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo.”
Khi được nói như thế, Kokālika đă nói với Devadatta điều này: - “Này đại đức, Sa-môn Gotama thật sự có đại thần lực, có đại năng lực. Làm thế nào chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo được?”
- “Này các đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi đến gặp Sa-môn Gotama và yêu cầu năm sự việc: ‘Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức.
Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời, vị nào cư ngụ trong làng th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị khất thực cho đến trọn đời, vị nào ưng thuận sự thỉnh mời th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ cho đến trọn đời, vị nào ưng thuận y của gia chủ th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị sống ở gốc cây cho đến trọn đời, vị nào đi đến mái che th́ vị ấy phạm tội.
Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.’
Sa-môn Gotama sẽ không cho phép năm sự việc này. Và chúng ta đây sẽ công bố cho dân chúng biết về năm sự việc này.”
- “Này đại đức, với năm sự việc này có thể tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo. Này đại đức, bởi v́ dân chúng có niềm tin với khổ hạnh.”
24. Sau đó, Devadatta cùng phe nhóm đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Devadatta đă nói với đức Thế Tôn điều này:
- “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức.
Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời, vị nào cư ngụ trong làng th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị khất thực cho đến trọn đời, vị nào ưng thuận sự thỉnh mời th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ cho đến trọn đời, vị nào ưng thuận y của gia chủ th́ vị ấy phạm tội.
Là các vị sống ở gốc cây cho đến trọn đời, vị nào đi đến mái che th́ vị ấy phạm tội.
Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.”
- “Này Devadatta, thôi đi. Vị nào muốn th́ hăy trở thành vị sống ở rừng, vị nào muốn th́ hăy cư ngụ ở trong làng.
Vị nào muốn th́ hăy trở thành vị khất thực, vị nào muốn th́ hăy ưng thuận việc thỉnh mời.
Vị nào muốn th́ hăy là vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào muốn th́ hăy ưng thuận y của gia chủ.
Này Devadatta, chỗ trú ngụ là gốc cây trong tám tháng được ta cho phép, cá thịt thanh tịnh với ba điều kiện: ‘Không thấy, không nghe, không nghi’ được ta cho phép.”
25. Khi ấy, Devadatta (biết rằng): ‘Đức Thế Tôn không cho phép năm sự việc này’ nên mừng rỡ, phấn chấn cùng phe nhóm đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, Devadatta cùng phe nhóm đă đi vào thành Rājagaha công bố cho dân chúng biết về năm sự việc:
- “Này các đạo hữu, chúng tôi đă đi đến gặp Sa-môn Gotama và đă yêu cầu năm sự việc: ‘Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, ―(như trên)― là người khen ngợi sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, ―(như trên)― sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời, ―(như trên)― Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.’ Sa-môn Gotama không cho phép năm sự việc này. C̣n chúng tôi đây thọ tŕ và thực hành năm sự việc này.”
Ở nơi ấy, những người nào không có đức tin, không mộ đạo, kém sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: - “Các Sa-môn Thích tử này đúng là có sự từ bỏ, có sở hành đoạn trừ; c̣n Sa-môn Gotama là kẻ xa hoa nên nghĩ đến việc xa hoa.” C̣n những người nào có đức tin, mộ đạo, sáng suốt, những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao Devadatta lại ra sức việc chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lănh đạo?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Devadatta lại ra sức việc chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lănh đạo?”
26. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Devadatta, nghe nói ngươi ra sức việc chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lănh đạo, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
- “Này Devadatta, thôi đi. Ngươi chớ có thích thú việc chia rẽ hội chúng. Này Devadatta, chia rẽ hội chúng là việc nghiêm trọng. Này Devadatta, kẻ nào phá vỡ sự hợp nhất, kẻ ấy gây nên tội lỗi tồn tại trọn kiếp[3] và bị nung nấu trong địa ngục trọn kiếp. Và này Devadatta, người nào làm hợp nhất hội chúng bị chia rẽ người ấy tạo nên phước báu của Phạm Thiên và sẽ được an vui ở cơi trời trọn kiếp. Này Devadatta, thôi đi. Ngươi chớ có thích thú việc chia rẽ hội chúng. Này Devadatta, chia rẽ hội chúng là việc nghiêm trọng.”
Sau đó vào buổi sáng, đại đức Ānanda đă mặc y, cầm y bát, đi vào thành Rājagaha để khất thực. Devadatta đă nh́n thấy đại đức Ānanda đang đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này đại đức Ānanda, giờ đây kể từ hôm nay tôi sẽ hành lễ Uposatha và sẽ thực hiện các hành sự của hội chúng không cần đến đức Thế Tôn, không cần đến hội chúng tỳ khưu.”
Sau đó, khi đă đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong, đại đức Ānanda trong khi đi khất thực trở về sau bữa ăn đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Ānanda đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, nơi đây vào buổi sáng, con đă mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Rājagaha để khất thực. Bạch ngài, Devadatta đă nh́n thấy con đang đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp con, sau khi đến đă nói với con điều này: ‘Này đại đức Ānanda, giờ đây kể từ hôm nay tôi sẽ hành lễ Uposatha và sẽ thực hiện các hành sự của hội chúng không cần đến đức Thế Tôn, không cần đến hội chúng tỳ khưu.’ Bạch ngài, hôm nay Devadatta sẽ chia rẽ hội chúng.”
Sau đó, khi đă hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đă thốt lên lời cảm hứng này:
“Điều tốt là dễ làm bởi người tốt, điều tốt là khó làm bởi kẻ xấu. Điều ác là dễ làm bởi kẻ xấu, điều ác là khó làm bởi các vị Thánh.”
Tụng phẩm thứ nh́.
*****
TỤNG PHẨM THỨ BA
1. Khi ấy, vào ngày lễ Uposatha, Devadatta đă từ chỗ ngồi đứng dậy phân phát thẻ biểu quyết (nói rằng): - “Này các đại đức, chúng tôi đă đi đến gặp Sa-môn Gotama và đă yêu cầu năm sự việc:
‘Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, ―(như trên)― sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời, vị nào cư ngụ trong làng th́ vị ấy phạm tội. ―(như trên)― Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.’ Sa-môn Gotama không cho phép năm sự việc này. C̣n chúng tôi đây thọ tŕ và thực hành năm sự việc này. Đại đức nào đồng ư năm sự việc này xin hăy nhận lănh thẻ biểu quyết.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở thành Vesali có số lượng năm trăm vị vừa mới xuất gia và không hiểu biết rơ sự việc. Các vị ấy (nghĩ rằng): ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư’ nên đă nhận lấy thẻ biểu quyết.
Khi ấy, Devadatta đă chia rẽ hội chúng và dẫn năm trăm tỳ khưu ra đi về phía đỉnh đồi Gayā.
Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, Devadatta đă chia rẽ hội chúng và dẫn năm trăm tỳ khưu ra đi về phía đỉnh đồi Gayā.”
- “Này Sāriputta và Moggallāna, không lẽ các ngươi không có ḷng trắc ẩn đối với các tỳ khưu mới tu ấy hay sao? Này Sāriputta và Moggallāna, các ngươi hăy đi đến trước khi các tỳ khưu ấy tạo nên điều sai trái và hư hỏng.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi Sāriputta và Moggallāna nghe theo đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đă ra đi về phía đỉnh đồi Gayā.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đứng không xa đức Thế Tôn đang khóc lóc. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, v́ sao ngươi khóc?”
- “Bạch ngài, ngay cả hai vị Thinh Văn hàng đầu của đức Thế Tôn là Sāriputta và Moggallāna cũng thích thú với giáo lư của Devadatta và đi đến với Devadatta rồi.”
- “Này tỳ khưu, việc Sāriputta và Moggallāna có thể thích thú với giáo lư của Devadatta là việc không hợp lư và không có cơ sở; tuy nhiên, họ đă đi để cảnh tỉnh các tỳ khưu.”
2. Vào lúc bấy giờ, Devadatta được hội chúng đông đảo vây quanh đang thuyết giảng Giáo Pháp. Devadatta đă nh́n thấy Sāriputta và Moggallāna đang từ đàng xa đi lại, sau khi nh́n thấy đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy nh́n xem giáo lư của ta được khéo thuyết như thế nào; ngay cả các Thinh Văn hàng đầu của Sa-môn Gotama là Sāriputta và Moggallāna cũng thích thú với giáo lư của ta và đi đến với ta nữa.” Khi được nói như thế, Kokālika đă nói với Devadatta điều này: - “Này đại đức Devadatta, chớ có tin tưởng Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna có ước muốn xấu xa, bị chi phối bởi những ước muốn xấu xa.”
- “Này đại đức, thôi đi. Hăy chào mừng bọn họ bởi v́ họ thích thú với giáo lư của ta.”
Sau đó, Devadatta đă mời đại đức Sāriputta với một nửa chỗ ngồi (của ḿnh): - “Này đại đức Sāriputta, hăy đến. Hăy ngồi xuống ở đây.”
- “Này đại đức, thôi đi.” Rồi đại đức Sāriputta đă chọn chỗ ngồi khác và đă ngồi xuống ở một góc. C̣n đại đức Mahāmoggallāna cũng đă chọn chỗ ngồi khác và đă ngồi xuống ở một góc.
Khi ấy, Devadatta đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại gần như trọn đêm rồi đă yêu cầu đại đức Sāriputta rằng: - “Này đại đức Sāriputta, hội chúng tỳ khưu đă qua cơn dă dượi và buồn ngủ. Này đại đức Sāriputta, mong rằng có bài Pháp thoại dành cho các tỳ khưu khởi đến cho ngươi. Lưng tôi bị mỏi nên tôi sẽ nằm duỗi lưng ra.” - “Này đại đức, được rồi.” Đại đức Sāriputta đă trả lời Devadatta.
Sau đó, Devadatta đă xếp y hai lớp lại làm tư rồi thực hiện thế nằm ở phía bên hông phải. Trong khi vị ấy mệt mỏi, thất niệm, không tỉnh giác nên chỉ chốc lát đă ch́m vào giấc ngủ.
Khi ấy, đại đức Sāriputta đă giáo huấn và giảng dạy cho các tỳ khưu với bài Pháp thoại giảng dạy về sự kỳ diệu của thần thông về giáo hóa. Đại đức Mahāmoggallāna đă giáo huấn và giảng dạy cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại giảng dạy về sự kỳ diệu của thần thông. Sau đó, trong khi đang được giáo huấn và giảng dạy bởi đại đức Sāriputta với sự giảng dạy về sự kỳ diệu của thần thông về giáo hóa và bởi đại đức Mahāmoggallāna với sự giảng dạy về sự kỳ diệu của thần thông th́ Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi cho các tỳ khưu ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Khi ấy, đại đức Sāriputta đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, chúng ta hăy đi đến với đức Thế Tôn. Vị nào thích thú với Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy, vị ấy hăy đi đến.” Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đưa năm trăm vị tỳ khưu ấy đi đến Veḷuvana. Khi ấy, Kokālika đă đánh thức Devadatta: - “Này đại đức Devadatta, hăy dậy đi. Các tỳ khưu ấy đă bị Sāriputta và Moggallāna dẫn đi rồi. Này đại đức Devadatta, không phải tôi đă nói với đại đức rằng: ‘Này đại đức Devadatta, chớ có tin tưởng Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna có ước muốn xấu xa, bị chi phối bởi những ước muốn xấu xa.’” Khi ấy, ngay tại chỗ ấy máu nóng đă ứa ra từ miệng của Devadatta.
3. Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, lành thay nếu các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ (hội chúng) có thể tu lên bậc trên lại.”
- “Này Sāriputta, thôi đi. Ngươi chớ có thích thú với việc tu lên bậc trên lại của các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ. Này Sāriputta, chính v́ điều ấy ngươi hăy cho các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ tŕnh báo tội thullaccaya. Này Sāriputta, Devadatta đă cư xử với ngươi như thế nào?”
- “Bạch ngài, cũng tương tợ như đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại gần như trọn đêm rồi đă yêu cầu con rằng: ‘Này Sāriputta, hội chúng tỳ khưu đă qua cơn dă dượi và buồn ngủ. Này Sāriputta, mong rằng có bài Pháp thoại dành cho các tỳ khưu khởi đến cho ngươi. Lưng ta bị mỏi nên ta sẽ nằm duỗi lưng ra.’ Bạch ngài, Devadatta đă thực hành đúng y như vậy.”
Khi ấy, đức Thế tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, vào thời trước đây, có cái hồ lớn trong khu vực toàn là rừng. Các con long tượng sống nương tựa vào cái hồ đó. Chúng lặn xuống cái hồ ấy, dùng ṿi nhổ lên cọng và ngó sen, rửa kỹ lưỡng cho sạch sẽ, rồi đă nhai (cọng và ngó sen) không c̣n bùn và nuốt xuống. Điều ấy đem lại cho chúng vóc dáng và sức mạnh. Không v́ lư do đó mà chúng phải chết đi hoặc khổ như là chết. Này các tỳ khưu, nhưng trong số các con long tượng khổng lồ ấy có những con c̣n nhỏ, trẻ, non nớt, đang học hỏi. Những con này đă lặn xuống cái hồ ấy, dùng ṿi nhổ lên cọng và ngó sen, đă không rửa kỹ lưỡng cho sạch sẽ, rồi đă nhai (cọng và ngó sen) c̣n dính bùn và nuốt xuống. Điều ấy đă không đem lại cho chúng vóc dáng và sức mạnh. V́ lư do đó chúng phải chết đi hoặc khổ như là chết. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế Devadatta là kẻ tội nghiệp trong khi bắt chước ta sẽ phải tiêu hoại.”
“Con long tượng khổng lồ làm lay chuyển trái đất trong khi đang ăn cọng sen và quan sát các ḍng sông, kẻ tội nghiệp trong khi bắt chước ta, ví như con voi con sau khi ăn đất bùn, sẽ phải chết.”
4. “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có tám yếu tố xứng đáng để đi làm sứ giả. Tám yếu tố ấy là ǵ? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là người lắng nghe, là người làm cho (kẻ khác) lắng nghe, là người hướng dẫn, là người hiểu rộng, là người có sự nhận thức, là người làm cho (kẻ khác) có sự nhận thức, là người rành rẽ về việc có lợi ích hoặc không có lợi ích, không phải là người gây nên các sự tranh căi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có tám yếu tố này xứng đáng để đi làm sứ giả.
Này các tỳ khưu, Sāriputta có tám yếu tố xứng đáng để đi làm sứ giả. Tám yếu tố ấy là ǵ? Này các tỳ khưu, ở đây Sāriputta là người lắng nghe, là người làm cho (kẻ khác) lắng nghe, là người hướng dẫn, là người hiểu rộng, là người có sự nhận thức, là người làm cho (kẻ khác) có sự nhận thức, là người rành rẽ về việc có lợi ích hoặc không có lợi ích, không phải là người gây nên các sự tranh căi. Này các tỳ khưu, Sāriputta có tám yếu tố này xứng đáng để đi làm sứ giả.”
“Nếu vị nào không run sợ sau khi đi đến nơi hội chúng có sự tranh căi ồn ào, là vị không bỏ dở lời nói, và không che giấu lời giảng dạy, vị nói có sự mạch lạc, bị chất vấn không nổi sân; vị tỳ khưu như thế xứng đang đi làm vị sứ giả.”
“Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi tám điều không đúng Chánh Pháp là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được. Tám điều ấy là ǵ? Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi lợi lộc, là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được. Này các tỳ khưu, ... bởi không lợi lộc ―(như trên)― Này các tỳ khưu, ... bởi danh vọng ―(như trên)― Này các tỳ khưu, ... bởi không danh vọng ―(như trên)― Này các tỳ khưu, ... bởi sự trọng vọng ―(như trên)― Này các tỳ khưu, ... bởi sự không trọng vọng ―(như trên)― Này các tỳ khưu, ... bởi ước muốn xấu xa ―(như trên)― Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi bạn bè xấu xa, là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được. Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi tám điều không đúng Chánh Pháp này là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này các tỳ khưu, tốt đẹp thay vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― không lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― không danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự không trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― ước muốn xấu xa đă được sanh khởi, ―(như trên)― có thể sống hoàn toàn chế ngự bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi.
Và này các tỳ khưu, tùy thuận lợi ích và ư định ǵ mà vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― không lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― không danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự không trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― ước muốn xấu xa đă được sanh khởi, ―(như trên)― có thể sống hoàn toàn chế ngự bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi? Này các tỳ khưu, bởi v́ đối với vị ấy trong khi sống hoàn toàn không chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt có thể sanh khởi (đến vị ấy); trong khi sống hoàn toàn chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, như thế các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt ấy không h́nh thành được.
Này các tỳ khưu, bởi v́ đối với vị ấy trong khi sống hoàn toàn không chế ngự không lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― không danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự không trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― ước muốn xấu xa đă được sanh khởi, ―(như trên)― bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi, các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt có thể sanh khởi (đến vị ấy); trong khi sống hoàn toàn chế ngự bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi, như thế các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt ấy không thể h́nh thành được.
Này các tỳ khưu, tùy thuận lợi ích và ư định này mà vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― không lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― không danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự không trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― ước muốn xấu xa đă được sanh khởi, ―(như trên)― vị ấy có thể sống hoàn toàn chế ngự bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi.
Này các tỳ khưu, do đó, ở đây chúng ta sẽ sống hoàn toàn chế ngự lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― không lợi lộc đă được sanh khởi, ―(như trên)― danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― không danh vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― sự không trọng vọng đă được sanh khởi, ―(như trên)― ước muốn xấu xa đă được sanh khởi, chúng ta sẽ sống hoàn toàn chế ngự bạn hữu xấu xa đă được sanh khởi.’ Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập y như thế ấy.”
5. “Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi ba điều không đúng Chánh Pháp là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được. Ba điều ấy là ǵ? Ước muốn xấu xa, bạn hữu xấu xa, đă đạt đến sự dừng lại ở khoảng giữa với sự đắc chứng đặc biệt có tính chất thấp thỏi (là các tầng thiền và các pháp thần thông). Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị chế ngự, bị ám ảnh bởi ba điều không đúng Chánh Pháp này là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.”
i. “Hiển nhiên, các ngươi chớ để bất cứ ước muốn xấu xa nào ở thế gian sanh khởi. Cũng bởi điều này đây, các ngươi hăy biết là có cảnh giới tương ứng đối với các ước muốn xấu xa.
ii. Devadatta, được biết là ‘người sáng trí,’ được công nhận ‘bản thân đă chứng thiền,’ đă trụ vững như là đang chói sáng với danh vọng, là điều tôi đă được nghe.
iii. Kẻ ấy, thực hành theo sự xao lăng, sau khi công kích đấng Như Lai ấy, đă đi đến địa ngục Avīci có bốn cửa chốn gây nên nỗi kinh hoàng.
iv. Bởi v́ kẻ gây hại đến bậc không (có tâm địa) xấu xa không làm việc ác, (quả) ác xấu xảy đến cho chính kẻ có tâm địa xấu xa, không nhân hậu ấy.
v. Kẻ nào suy nghĩ để làm ô nhiễm đại dương bằng lọ thuốc độc, với vật ấy kẻ ấy không thể làm ô nhiễm bởi v́ đại dương là bao la, to lớn.
vi. Tương tợ y như thế, kẻ nào dùng lời nói (bôi nhọ) hăm hại đấng Thiện Thệ là bậc đă đạt đến sự hoàn hảo, có tâm thanh tịnh; lời nói (bôi nhọ) không có tác động ở nơi vị ấy.
vii. Bậc sáng trí nên kết bạn hữu với hạng người như thế ấy, và nên phục vụ người ấy. Vị tỳ khưu theo đường lối của người ấy sẽ đạt được sự chấm dứt khổ đau.”
6. Khi ấy, đại đức Upāli đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có điều nói rằng: ‘Sự bất đồng trong hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng.’ Bạch ngài, cho đến như thế nào được gọi là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng? Cho đến như thế nào được gọi là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng?”
- “Này Upāli, một bên có một người, một bên có hai người, người thứ tư phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, một bên có hai người, một bên có hai người, người thứ năm phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, một bên có hai người, một bên có ba người, người thứ sáu phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, một bên có ba người, một bên có ba người, người thứ bảy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, một bên có ba người, một bên có bốn người, người thứ tám phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, một bên có bốn người, một bên có bốn người, người thứ chín phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, như vậy là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng. Này Upāli, chín hoặc hơn chín là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng.
Này Upāli, tỳ khưu ni không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Cô ni tu tập sự không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Vị sa di không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Vị sa di ni không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Nam cư sĩ không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Nữ cư sĩ không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Này Upāli, vị tỳ khưu b́nh thường là vị có sự đồng cộng trú, đứng chung ranh giới có thể chia rẽ hội chúng.”
7. “Bạch ngài, có điều nói rằng: ‘Sự chia rẽ hội chúng, sự chia rẽ hội chúng.’ Bạch ngài, cho đến như thế nào th́ hội chúng bị chia rẽ?”
- “Ở đây, này Upāli, các tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp;’ tuyên bố Pháp là: ‘Phi Pháp;’ tuyên bố phi Luật là: ‘Luật;’ tuyên bố Luật là: ‘Phi Luật;’ tuyên bố điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố vô tội là: ‘Phạm tội;’ tuyên bố phạm tội là: ‘Vô tội;’ tuyên bố tội nhẹ là: ‘Tội nặng;’ tuyên bố tội nặng là: ‘Tội nhẹ;’ tuyên bố tội c̣n dư sót là: ‘Tội không c̣n dư sót;’ tuyên bố tội không c̣n dư sót là: ‘Tội c̣n dư sót;’[4] tuyên bố tội xấu xa là: ‘Tội không xấu xa;’ tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội xấu xa.’ Do mười tám sự việc này, các vị ấy tách ra và tách rời hẳn, chúng thực hiện lễ Uposatha riêng rẽ, chúng thực hiện lễ Pavāraṇā riêng rẽ, chúng thực hiện hành sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy th́ hội chúng bị chia rẽ.”
8. “Bạch ngài, có điều nói rằng: ‘Sự hợp nhất hội chúng, sự hợp nhất hội chúng.’ Bạch ngài, cho đến như thế nào th́ hội chúng có sự hợp nhất?”
“Ở đây, này Upāli, các tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Phi Pháp;’ tuyên bố Pháp là: ‘Pháp;’ tuyên bố phi Luật là: ‘Phi Luật;’ tuyên bố Luật là: ‘Luật;’ tuyên bố điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố vô tội là: ‘Vô tội;’ tuyên bố phạm tội là: ‘Phạm tội;’ tuyên bố tội nặng là: ‘Tội nặng;’ tuyên bố tội nhẹ là: ‘Tội nhẹ;’ tuyên bố tội c̣n dư sót là: ‘Tội c̣n dư sót;’ tuyên bố tội không c̣n dư sót là: ‘Tội không c̣n dư sót;’ tuyên bố tội xấu xa là: ‘Tội xấu xa;’ tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội không xấu xa.’ Với mười tám sự việc này, các vị ấy không tách ra và không tách rời hẳn, không thực hiện lễ Uposatha riêng rẽ, không thực hiện lễ Pavāraṇā riêng rẽ, không thực hiện hành sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy th́ hội chúng có sự hợp nhất.”
9. - “Bạch ngài, sau khi chia rẽ hội chúng hợp nhất, kẻ ấy gây nên điều ǵ?”
- “Này Upāli, sau khi chia rẽ hội chúng hợp nhất, kẻ gây nên tội lỗi chịu đựng trọn kiếp, bị nung nấu trong địa ngục trọn kiếp.”
“Kẻ chia rẽ hội chúng là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp. Kẻ thích thú với phe nhóm, sống sai Pháp, làm tiêu hoại sự an ổn của thiền, sau khi đă chia rẽ hội chúng có sự hợp nhất, bị nung nấu trong địa ngục trọn kiếp.”
- “Bạch ngài, sau khi làm hợp nhất hội chúng đă bị chia rẽ, vị ấy tạo được điều ǵ?”
- “Này Upāli, sau khi làm hợp nhất hội chúng đă bị chia rẽ, vị ấy tạo được phước báu của Phạm Thiên, được vui hưởng ở cơi trời trọn kiếp.”
“An lạc thay sự hợp nhất của hội chúng, và tán đồng với những ai sống hợp nhất. Vị thích thú với sự hợp nhất, sống đúng theo Pháp, không làm tiêu hoại sự an ổn của thiền, sau khi đă làm cho hội chúng có sự hợp nhất, được vui hưởng ở cơi trời trọn kiếp.”
10. “Bạch ngài, có thể nào kẻ chia rẽ hội chúng sẽ là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được?”
- “Này Upāli, kẻ chia rẽ hội chúng có thể sẽ là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.”
- “Bạch ngài, có thể nào kẻ chia rẽ hội chúng sẽ không là kẻ sanh đọa xứ, không là kẻ đi địa ngục, không phải chịu đựng trọn kiếp, có thể sửa đổi được?”
- “Này Upāli, kẻ chia rẽ hội chúng có thể sẽ không là kẻ sanh đọa xứ, không là kẻ đi địa ngục, không phải chịu đựng trọn kiếp, có thể sửa đổi được.”
- “Bạch ngài, thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được?”
- “Này Upāli, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có quan điểm là sai Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có hoài nghi về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có quan điểm là sai Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có hoài nghi về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có quan điểm là sai Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
11. Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp.’ (Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp.’ (Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có hoài nghi về về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp,’ tuyên bố phi Luật là ‘Luật;’ tuyên bố Luật là: ‘Phi Luật;’ tuyên bố điều không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều không được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố vô tội là: ‘Phạm tội;’ tuyên bố phạm tội là: ‘Vô tội;’ tuyên bố tội nhẹ là: ‘Tội nặng;’ tuyên bố tội nặng là: ‘Tội nhẹ;’ tuyên bố tội c̣n dư sót là: ‘Tội không c̣n dư sót;’ tuyên bố tội không c̣n dư sót là: ‘Tội c̣n dư sót;’ tuyên bố tội xấu xa là: ‘Tội không xấu xa;’ tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội xấu xa.’ (Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có quan điểm là sai Pháp về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố Pháp là ‘Phi Pháp.’ ―(như trên)― tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội xấu xa.’ (Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, ―(như trên)―
(Vị ấy) có quan điểm là sai Pháp về việc ấy, có hoài nghi về việc chia rẽ, ―(như trên)―
(Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, ―(như trên)― (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có hoài nghi về việc chia rẽ, ―(như trên)―
(Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có quan điểm là sai Pháp về việc chia rẽ, ―(như trên)―
(Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, ―(như trên)―
(Vị ấy) có hoài nghi về điều ấy, có hoài nghi về về việc chia rẽ, sau khi che giấu quan điểm, sau khi che giấu điều mong mỏi, sau khi che giấu điều khao khát, sau khi che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể sửa đổi được.”
12. - “Bạch ngài, thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không là kẻ sanh đọa xứ, không là kẻ đi địa ngục, không phải chịu đựng trọn kiếp, có thể sửa đổi được?”
- “Này Upāli, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: ‘Phi Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, sau khi không che giấu quan điểm, sau khi không che giấu điều mong mỏi, sau khi không che giấu điều khao khát, sau khi không che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không là kẻ sanh đọa xứ, không là kẻ đi địa ngục, không phải chịu đựng trọn kiếp, có thể sửa đổi được.
Này Upāli, c̣n có trường hợp khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố Pháp là: ‘Pháp.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, ―(như trên)― tuyên bố phi Luật là ‘Phi Luật;’ ―(như trên)― tuyên bố Luật là: ‘Luật;’ tuyên bố điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được giảng, đă được nói bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được thực hành bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă không được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố điều đă được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đă được quy định bởi đức Như Lai;’ tuyên bố phạm tội là: ‘Phạm tội;’ tuyên bố vô tội là: ‘Vô tội;’ tuyên bố tội nặng là: ‘Tội nặng;’ tuyên bố tội nhẹ là: ‘Tội nhẹ;’ tuyên bố tội c̣n dư sót là: ‘Tội c̣n dư sót;’ tuyên bố tội không c̣n dư sót là: ‘Tội không c̣n dư sót;’ tuyên bố tội xấu xa là: ‘Tội xấu xa;’ tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội không xấu xa.’ (Vị ấy) có quan điểm là đúng Pháp về việc ấy, có quan điểm là đúng Pháp về việc chia rẽ, sau khi không che giấu quan điểm, sau khi không che giấu điều mong mỏi, sau khi không che giấu điều khao khát, sau khi không che giấu ư định, rồi phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hăy nhận lấy thẻ này, hăy ủng hộ việc này.’ Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không là kẻ sanh đọa xứ, không là kẻ đi địa ngục, không phải chịu đựng trọn kiếp, có thể sửa đổi được.”
Tụng phẩm thứ ba.
Chương Chia Rẽ Hội Chúng là thứ bảy.
*****
Ở Anupiyā, những người có danh tiếng, vị mảnh mai không muốn, các việc cày xới, gieo hạt, đưa nước vào, tưới nước, nhổ cỏ, gặt hái, thâu hoạch, chất thành đống, đập giũ, (tách) rơm và trấu ra, sàng sảy, rồi cất vào kho.
Ngay cả trong tương lai, (các công việc) vẫn không được ngưng lại, cả người cha lẫn người ông. Các vị Bhaddiya, và Anuruddha, Ānanda, Bhagu, Kimbila, tự hào là ḍng Sakya. Và chuyện ở Kosambi, vị đă bị mất (thần thông), và Thiên tử Kakudha.
Vị đă công bố, và đối với người cha, các nam nhân, tảng đá, voi Nāḷāgiri, ba (lần hăm hại), năm (sự việc), việc nghiêm trọng, kẻ đă chia rẽ, với tội thullaccaya, ba nhóm gồm tám điều, rồi lại ba điều (không đúng Chánh Pháp), sự bất đồng, sự chia rẽ, có thể sẽ là.”
--ooOoo--
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Bhaddiya v́ thương mến bạn muốn nói rằng: “Tôi với bạn sẽ xuất gia;” nhưng v́ ḷng ham muốn sự vinh quang của vương quyền ngăn cản trái tim lại nên chỉ nói được “Tôi với bạn” và đă không thể nói phần c̣n lại (VinA. vi, 1275). Nói thêm cho rơ về lời giải thích trên là vị Anuruddha đă nghe đức vua Bhaddiya nói như sau: “Tôi với bạn cứ việc xuất gia một cách thoải mái.”
[2] Liên quan đến điều pācittiya 32 (ND).
[3] Ngài Buddhaghosa giải thích là āyukappaṃ nghĩa là khoảng thời gian của cuộc sống, của tuổi thọ (VinA. vi, 1276).
[4] Tội không c̣n dư sót là nhóm tội pārājika. Tội c̣n dư sót là sáu nhóm tội c̣n lại (VinA. vii, 1319).