TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 07
TIỂU PHẨM tập II
ẤN BẢN 2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
1. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các sư đệ, vào lúc ấy ta đang thực hiện cuộc hành tŕnh đường xa từ Pāvā đi Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Này các sư đệ, khi ấy ta đă rời đường lộ rồi ngồi xuống ở gốc cây nọ. Vào lúc bấy giờ, có đạo sĩ lơa thể nọ sau khi nhận được bông hoa Mandārava ở Kusinārā đang thực hiện cuộc hành tŕnh đường xa đi Pāvā. Này các sư đệ, ta đă nh́n thấy vị đạo sĩ lơa thể ấy đang đi lại từ đàng xa, sau khi nh́n thấy ta đă nói với vị đạo sĩ lơa thể ấy điều này: ‘Này đạo hữu, đạo hữu có biết bậc Đạo Sư của chúng tôi không?’ ‘Ồ đạo hữu, đúng vậy, tôi có biết. Hôm nay Sa-môn Gotama đă Vô Dư Niết Bàn được bảy ngày rồi. Do đó, tôi mới có được bông hoa Mandārava này.’
2. Này các sư đệ, tại nơi ấy những tỳ khưu nào chưa đoạn tận ái dục, một số các vị đưa tay lên khóc than. Như thân cây bị đốn găy, các vị ngă xuống lăn qua lăn lại (than rằng): “Đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn quá sớm, đấng Thiện Thệ Vô Dư Niết Bàn quá sớm, bậc Hữu Nhăn biến mất ở thế gian quá sớm.” C̣n những tỳ khưu nào có ái dục đă được đoạn tận, các vị ấy có niệm, có sự tỉnh giác thời chấp nhận: “Các Pháp hữu vi là vô thường, bởi v́ điều ấy có thể xảy ra ở đây.” Này các sư đệ, khi ấy ta đă nói với các tỳ khưu điều này: “Này các sư đệ, thôi đi! Chớ có buồn rầu, chớ có than văn nữa. Này các sư đệ, không phải điều ấy đă được đức Thế Tôn khuyến cáo là ngay với tất cả các vật thân yêu vừa ư đều có bản chất đa dạng, có bản chất không thật, có bản chất thay đổi? Này các sư đệ, bởi v́ điều ấy có thể xảy ra ở đây, nghĩa là vật ǵ được sanh lên, tồn tại, rồi bị biến đổi thuận theo pháp thế gian, (nếu nghĩ rằng): ‘Mong sao vật ấy chớ có bị hư hoại,’ sự kiện này không thể có được!”
3. Này các sư đệ, vào lúc bấy giờ có vị xuất gia lúc đă già tên Subhadda đang ngồi trong tập thể ấy. Này các sư đệ, khi ấy vị xuất gia lúc đă già Subhadda đă nói với các tỳ khưu ấy điều này: “Này các vị, thôi đi! Chớ có buồn rầu, chớ có than văn nữa. Chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi vị đại Sa-môn ấy rồi. Và chúng ta đă bị làm khó khăn rằng: ‘Điều này được phép cho các ngươi, điều này không được phép cho các ngươi.’ Giờ đây, điều ǵ chúng ta thích chúng ta sẽ làm điều ấy, điều ǵ chúng ta không thích chúng ta sẽ không làm điều ấy.”
Này các sư đệ, vậy chúng ta hăy trùng tụng Pháp và Luật trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.”
- “Thưa ngài, chính v́ điều ấy xin vị trưởng lăo hăy tuyển chọn các tỳ khưu.” Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă tuyển chọn bốn trăm chín mươi chín vị A-la-hán. Các vị tỳ khưu đă nói với đại đức Mahākassapa điều này: - “Thưa ngài, vị đại đức Ānanda này tuy c̣n là bậc Hữu Học nhưng không thể nào bị chi phối bởi tham, bởi sân, bởi si mê, bởi sợ hăi. Và vị này thuộc ḷng nhiều Pháp và Luật từ đức Thế Tôn. Thưa ngài, chính v́ điều ấy xin vị trưởng lăo hăy tuyển chọn luôn cả đại đức Ānanda.”
4. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă tuyển chọn luôn cả đại đức Ānanda. Sau đó, các vị tỳ khưu trưởng lăo đă khởi ư điều này: - “Vậy chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật ở nơi nào?” Khi ấy, các vị tỳ khưu trưởng lăo đă khởi ư điều này: “Thành Rājagaha quả là có khu vực khất thực rộng lớn, có nhiều chỗ trú ngụ; hay là chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, các tỳ khưu khác không được đi đến an cư mùa mưa ở thành Rājagaha?” Sau đó, đại đức Mahākassapa đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Đây là lời đề nghị.
Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Vị nào đồng ư việc chỉ định năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha’ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Năm trăm vị tỳ khưu này đă được hội chúng chỉ định để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không được an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
5. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến thành Rājagaha để trùng tụng Pháp và Luật. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lăo đă bàn bạc điều này: - “Này các đại đức, việc sửa chữa chỗ bị hư hỏng đă được đức Thế Tôn khen ngợi. Này các đại đức, vậy vào tháng thứ nhất chúng ta hăy sửa chữa những nơi bị hư hỏng; vào tháng giữa, chúng ta sẽ tụ họp lại rồi trùng tụng Pháp và Luật.” Sau đó vào tháng thứ nhất, các tỳ khưu trưởng lăo đă sửa chữa chỗ bị hư hỏng. Khi ấy, đại đức Ānanda (nghĩ rằng): “Ngày mai là đại hội, việc ta sẽ đi đến đại hội khi c̣n là bậc Hữu Học thật là không thích đáng cho ta!” rồi đă trải qua gần trọn đêm với niệm trú ở thân, và trong đêm vào lúc hừng sáng (mới khởi ư rằng): “Ta sẽ nằm xuống” rồi nghiêng thân h́nh. Và vào lúc đầu chưa chạm gối, hai chân vừa mới giở lên khỏi mặt đất, và trong khoảng thời gian ấy tâm đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc không c̣n chấp thủ. Sau đó, đại đức Ānanda đă đi đến đại hội, trong khi (đă) là vị A-la-hán.
6. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Upāli về Luật.” Đại đức Upāli cũng đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Luật tôi sẽ trả lời.” Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Upāli điều này: - “Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ nhất đă được quy định ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến Sudinna con trai của Kalanda.” - “Về sự việc ǵ?” - “Về việc (thực hiện việc) đôi lứa.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đă hỏi về nguyên do, đă hỏi về nhân sự, đă hỏi về sự quy định, đă hỏi về sự quy định thêm, đă hỏi về sự phạm tội, và đă hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ nhất.
7. - “Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ nh́ đă được quy định ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Rājagaha.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến Dhaniya con trai người thợ đồ gốm.” - “Về sự việc ǵ?” - “Về việc lấy vật không được cho.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đă hỏi về nguyên do, đă hỏi về nhân sự, đă hỏi về sự quy định, đă hỏi về sự quy định thêm, đă hỏi về sự phạm tội, và đă hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ nh́.
- “Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ ba đă được quy định ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến nhiều vị tỳ khưu.” - “Về sự việc ǵ?” - “Về việc tước đoạt mạng người.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đă hỏi về nguyên do, đă hỏi về nhân sự, đă hỏi về sự quy định, đă hỏi về sự quy định thêm, đă hỏi về sự phạm tội, và đă hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ ba.
- “Này sư đệ Upāli, điều pārājika thứ tư đă được quy định ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā.” - “Về sự việc ǵ?” - “Về pháp thượng nhân.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Upāli về câu chuyện, đă hỏi về nguyên do, đă hỏi về nhân sự, đă hỏi về sự quy định, đă hỏi về sự quy định thêm, đă hỏi về sự phạm tội, và đă hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ tư. Bằng chính phương thức ấy, (đại đức Mahākassapa) đă hỏi về phần Luật Phân Tích của cả hai phái (tỳ khưu và tỳ khưu ni). Mỗi khi được hỏi, đại đức Upāli đă trả lời.
8. Sau đó, đại đức Mahākassapa đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi Ānanda về Pháp.” Khi ấy, đại đức Ānanda đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được đại đức Mahākassapa hỏi về Pháp tôi sẽ trả lời.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Ānanda điều này: - “Này sư đệ Ānanda, kinh Brahmajāla (Phạm Vơng) đă được thuyết ở đâu?” - “Thưa ngài, ở nhà nghỉ của vua tại Ambalaṭṭhikā, ở khoảng giữa Rājagaha và Nālanda.” - “Liên quan đến ai?” - “Đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Ānanda về duyên khởi, đă hỏi về nhân sự của kinh Brahmajāla.
- “Này sư đệ Ānanda, kinh Sāmaññaphala (Sa-môn Quả) đă được thuyết ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Rājagaha nơi vườn xoài của Jīvaka.” - “Với ai?” - “Với Ajātasattu con trai của Videhi.” Rồi đại đức Mahākassapa đă hỏi đại đức Ānanda về duyên khởi, đă hỏi về nhân sự của kinh Sāmaññaphala. Bằng chính phương thức ấy, (đại đức Mahākassapa) đă hỏi về năm bộ Kinh. Mỗi khi được hỏi, đại đức Ānanda đă trả lời.
9. Sau đó, đại đức Ānanda đă nói với các tỳ khưu trưởng lăo điều này: - “Thưa các ngài, vào thời điểm Vô Dư Niết Bàn đức Thế Tôn đă nói với tôi như vầy: ‘Này Ānanda, khi ta không c̣n, hội chúng nếu muốn có thể bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.’” - “Này sư đệ Ānanda, vậy ngươi có hỏi đức Thế Tôn: ‘Bạch ngài, vậy các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng là các điều nào?’ không?” - “Thưa các ngài, tôi đă không hỏi đức Thế Tôn: ‘Bạch ngài, vậy các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng là các điều nào?’”
Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.” Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, giữ lại mười ba điều saṅghādisesa, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.” Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, giữ lại mười ba điều saṅghādisesa, giữ lại hai điều aniyata, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.” Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, giữ lại mười ba điều saṅghādisesa, giữ lại hai điều aniyata, giữ lại ba mươi điều nissaggiya pācittiya, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.” Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, giữ lại mười ba điều saṅghādisesa, giữ lại hai điều aniyata, giữ lại ba mươi điều nissaggiya pācittiya, giữ lại chín mươi hai điều pācittiya, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.” Một số trưởng lăo đă nói như vầy: - “Giữ lại bốn điều pārājika, giữ lại mười ba điều saṅghādisesa, giữ lại hai điều aniyata, giữ lại ba mươi điều nissaggiya pācittiya, giữ lại chín mươi hai điều pācittiya, giữ lại bốn điều pāṭidesanīya, các điều c̣n lại là các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng.”
10. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Có các điều học của chúng ta có liên quan đến hàng tại gia và hàng tại gia cũng biết rằng: ‘Điều này là được phép đối với các Sa-môn Thích tử, điều này là không được phép.’ Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có những người nói rằng: ‘Các điều học đă được Sa-môn Gotama quy định cho các đệ tử đến lúc người được hỏa táng. Khi nào bậc Đạo Sư của họ c̣n tồn tại khi ấy họ c̣n học tập các điều học. Bởi v́ bậc Đạo Sư của họ đă Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây họ không c̣n học tập các điều học nữa.’ Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng không nên quy định thêm điều chưa được quy định, không nên bỏ đi điều đă được quy định, nên thọ tŕ và thực hành các điều học theo như đă được quy định. Đây là lời đề nghị.
Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Có các điều học của chúng ta có liên quan đến hàng tại gia và hàng tại gia cũng biết rằng: ‘Điều này là được phép đối với các Sa-môn Thích tử, điều này là không được phép.’ Nếu chúng ta bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, sẽ có những người nói rằng: ‘Các điều học đă được Sa-môn Gotama quy định cho các đệ tử đến lúc người được hỏa táng. Khi nào bậc Đạo Sư của họ c̣n tồn tại khi ấy họ c̣n học tập các điều học. Bởi v́ bậc Đạo Sư của họ đă Vô Dư Niết Bàn nên giờ đây họ không c̣n học tập các điều học nữa.’ Hội chúng không quy định thêm điều chưa được quy định, không bỏ đi điều đă được quy định, thọ tŕ và thực hành các điều học theo như đă được quy định. Đại đức nào đồng ư việc không quy định thêm điều chưa được quy định, không bỏ đi điều đă được quy định, thọ tŕ và thực hành các điều học theo như đă được quy định xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Hội chúng không quy định thêm điều chưa được quy định, không bỏ đi điều đă được quy định, thọ tŕ và thực hành các điều học theo như đă được quy định. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
11. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lăo đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này sư đệ Ānanda, đây là tội dukkaṭa cho ngươi về việc ngươi đă không hỏi đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch ngài, vậy các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng là các điều nào?’ Ngươi hăy tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Thưa các ngài, v́ không lưu ư nên tôi đă không hỏi đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch ngài, vậy các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng là các điều nào?’ Tôi không nh́n thấy tội dukkaṭa ấy, nhưng v́ niềm tin đối với các đại đức tôi xin tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Này sư đệ Ānanda, đây cũng là tội dukkaṭa cho ngươi về việc ngươi đạp lên y tắm mưa của đức Thế Tôn rồi may. Ngươi hăy tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Thưa các ngài, không phải v́ không kính trọng mà tôi đă đạp lên y tắm mưa của đức Thế Tôn rồi may. Tôi không nh́n thấy tội dukkaṭa ấy, nhưng v́ niềm tin đối với các đại đức tôi xin tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Này sư đệ Ānanda, đây cũng là tội dukkaṭa cho ngươi về việc ngươi cho phép phụ nữ đảnh lễ nhục thân của đức Thế Tôn trước tiên; trong khi họ khóc lóc nhục thân của đức Thế Tôn đă bị lấm lem bởi nước mắt. Ngươi hăy tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Thưa các ngài, (nghĩ rằng): ‘Những người nữ này không nên ở lại vào ban đêm,’ nên tôi đă cho phép phụ nữ đảnh lễ nhục thân của đức Thế Tôn trước tiên. Tôi không nh́n thấy tội dukkaṭa ấy, nhưng v́ niềm tin đối với các đại đức tôi xin tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Này sư đệ Ānanda, đây cũng là tội dukkaṭa cho ngươi về việc trong khi được ra dấu hiệu rơ ràng, trong khi được làm biểu hiện rơ rệt bởi đức Thế Tôn, ngươi đă không cầu khẩn đức Thế Tôn rằng: ‘Xin đức Thế Tôn hăy tồn tại trọn kiếp, xin đấng Thiện Thệ hăy tồn tại trọn kiếp v́ sự lợi ích cho nhiều người, v́ sự an lạc cho nhiều người, v́ ḷng bi mẫn đối với thế gian, v́ sự tấn hoá, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của chư Thiên và nhân loại.’ Ngươi hăy tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Thưa các ngài, v́ tâm đă bị Ma Vương ám ảnh nên tôi đă không cầu khẩn đức Thế Tôn rằng: ‘Xin đức Thế Tôn hăy tồn tại trọn kiếp, xin đấng Thiện Thệ Tôn hăy tồn tại trọn kiếp v́ sự lợi ích cho nhiều người, v́ sự an lạc cho nhiều người, v́ ḷng bi mẫn đối với thế gian, v́ sự tấn hoá, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của chư Thiên và nhân loại.’ Tôi không nh́n thấy tội dukkaṭa ấy, nhưng v́ niềm tin đối với các đại đức tôi xin tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Này sư đệ Ānanda, đây cũng là tội dukkaṭa cho ngươi về việc ngươi đă nỗ lực cho sự xuất gia của phụ nữ trong Pháp và Luật đă được đức Như Lai công bố. Ngươi hăy tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
- “Thưa các ngài, (nghĩ rằng): ‘Bà Mahāpajāpatī Gotamī này là d́ ruột của đức Thế Tôn, là người chăm sóc, là người nuôi dưỡng, là người cho sữa, khi người mẹ ruột qua đời bà đă cho đức Thế Tôn bú sữa’ nên tôi đă nỗ lực cho sự xuất gia của phụ nữ trong Pháp và Luật đă được đức Như Lai công bố. Tôi không nh́n thấy tội dukkaṭa ấy, nhưng v́ niềm tin đối với các đại đức tôi xin tŕnh báo tội dukkaṭa ấy.”
12. Vào lúc bấy giờ, đại đức Purāṇa đi du hành ở Dakkhiṇāgiri[1] cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu. Khi ấy, trong lúc Pháp và Luật đang được trùng tụng bởi các tỳ khưu trưởng lăo, đại đức Purāṇa sau khi trú ở Dakkhiṇāgiri theo như ư thích đă đi đến thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, chỗ các tỳ khưu trưởng lăo, sau khi đến đă thân thiện chào hỏi các tỳ khưu trưởng lăo rồi ngồi xuống một bên. Khi đại đức Purāṇa đă ngồi xuống một bên, các tỳ khưu trưởng lăo đă nói với đại đức Purāṇa điều này: - “Này đại đức Purāṇa, Pháp và Luật đă được trùng tụng bởi các vị trưởng lăo. Ngươi hăy hành theo sự trùng tụng ấy.” - “Này các đại đức, Pháp và Luật đă được các vị trưởng lăo trùng tụng một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi chỉ ghi nhận chính những ǵ tôi đă được nghe từ miệng và đă được thọ lănh từ miệng của đức Thế Tôn thôi.”
13. Sau đó, đại đức Ānanda đă nói với các vị tỳ khưu trưởng lăo điều này: - “Thưa các ngài, vào thời điểm Vô Dư Niết Bàn đức Thế Tôn đă nói với tôi như vầy: ‘Này Ānanda, chính v́ điều ấy khi ta không c̣n, hội chúng hăy áp đặt h́nh phạt Phạm Thiên[2] đối với tỳ khưu Channa.’” - “Này sư đệ Ānanda, vậy ngươi có hỏi đức Thế Tôn: ‘Bạch ngài, vậy h́nh phạt Phạm Thiên là như thế nào’ không?” - “Thưa các ngài, quả tôi đă hỏi đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch ngài, vậy h́nh phạt Phạm Thiên là như thế nào?’ ‘Này Ānanda, tỳ khưu Channa muốn điều ǵ th́ có thể nói điều ấy, c̣n các tỳ khưu không được nói chuyện, không được nhắc nhở, không được chỉ dạy tỳ khưu Channa.’” - “Này sư đệ Ānanda, chính v́ điều ấy chính sư đệ hăy áp đặt h́nh phạt Phạm Thiên đối với tỳ khưu Channa.”
- “Thưa các ngài, làm thế nào tôi áp đặt h́nh phạt Phạm Thiên đối với tỳ khưu Channa được? Vị tỳ khưu ấy dữ tợn và thô lỗ.” - “Này sư đệ Ānanda, chính v́ điều ấy ngươi hăy đi cùng với nhiều vị tỳ khưu.” - “Thưa các ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda ngheo theo các tỳ khưu trưởng lăo đă cùng với đại chúng tỳ khưu có số lượng năm trăm vị tỳ khưu đáp thuyền ngược gịng nước đi Kosambi. Sau khi rời thuyền, đại đức Ānanda đă ngồi xuống ở gốc cây nọ không xa vườn thượng uyển của đức vua Udena.
14. Vào lúc bấy giờ, đức vua Udena đi dạo quanh tại công viên cùng với đám hầu thiếp. Đám hầu thiếp của đức vua Udena đă nghe rằng: “Nghe nói giáo thọ sư của chúng ta là ngài Ānanda đang ngồi ở gốc cây nọ không xa công viên lắm.” Khi ấy, đám hầu thiếp của đức vua Udena đă tâu với đức vua Udena điều này: - “Tâu chúa thượng, nghe nói giáo thọ sư của chúng tôi là ngài Ānanda đang ngồi ở gốc cây nọ không xa công viên lắm. Tâu chúa thượng, chúng tôi muốn viếng thăm ngài Ānanda.” - “Chính v́ điều ấy, các khanh hăy thăm viếng Sa-môn Ānanda.”
Sau đó, đám hầu thiếp của đức vua Udena đă đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Khi đám hầu thiếp ấy đă ngồi xuống một bên, đại đức Ānanda đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đám hầu thiếp của đức vua Udena bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đại đức Ānanda chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đám hầu thiếp của đức vua Udena đă dâng lên đại đức Ānanda năm trăm thượng y. Sau đó, khi đă được hài ḷng và hoan hỷ với lời dạy của đại đức Ānanda, đám hầu thiếp của đức vua Udena đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Ānanda, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi trở về lại đức vua Udena.
Đức vua Udena đă nh́n thấy đám hầu thiếp đang đi lại từ đàng xa, sau khi nh́n thấy đă nói với đám hầu thiếp điều này: - “Thế các khanh có viếng thăm Sa-môn Ānanda không vậy?” - “Tâu chúa thượng, chúng tôi đă viếng thăm ngài Ānanda.” - “Thế các khanh đă dâng vật ǵ cho Sa-môn Ānanda vậy?” - “Tâu chúa thượng, chúng tôi đă dâng cho ngài Ānanda năm trăm thượng y.” Đức vua Udena phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao Sa-môn Ānanda lại thọ lănh quá nhiều y như vậy? Không lẽ Sa-môn Ānanda sẽ làm nhà buôn vải hay bày ra gian hàng tơ lụa?”
15. Sau đó, đức vua Udena đă đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đă bày tỏ sự thân thiện với đại đức Ānanda, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện đă ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đức vua Udena đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Thưa ngài Ānanda, có phải đám hầu thiếp của chúng tôi đă đến đây?”
- “Tâu đại vương, đám hầu thiếp của ngài đă đến đây.”
- “Vậy chớ họ đă dâng vật ǵ đến ngài Ānanda?”
- “Tâu đại vương, họ đă dâng đến tôi năm trăm thượng y.”
- “Vậy chớ ngài Ānanda sẽ làm ǵ với nhiều y đến thế?”
- “Tâu đại vương, các vị tỳ khưu nào có y bị tàn tạ tôi sẽ chia sẻ với các vị ấy.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những y cũ và tàn tạ?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ dùng chúng làm khăn trải.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những khăn trải bị cũ đi?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ dùng chúng làm vải bọc nệm.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những vải bọc nệm bị cũ đi?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ dùng chúng làm thảm lót sàn.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những thảm lót sàn bị cũ đi?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ dùng chúng làm giẻ chùi chân.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những giẻ chùi chân bị cũ đi?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ dùng chúng làm giẻ lau bụi.”
- “Thưa ngài Ānanda, vậy các vị sẽ làm ǵ với những giẻ lau bụi bị cũ đi?”
- “Tâu đại vương, chúng tôi sẽ nghiền nhỏ chúng ra trộn với bùn đất rồi trét làm bục nền xung quanh.”
Khi ấy đức vua Udena (khởi ư rằng): ‘Chính tất cả các Sa-môn Thích tử này xử sự hợp lư, không phung phí kiểu trưởng giả’ rồi đă dâng lên đại đức Ānanda năm trăm xấp vải khác nữa. Như vậy, đây là lần đầu tiên vật thí về y đă phát sanh đến đại đức Ānanda một ngàn y.
16. Sau đó, đại đức Ānanda đă đi đến tu viện Ghosita, sau khi đến đă ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đại đức Channa đă đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Khi đại đức Channa đă ngồi xuống một bên, đại đức Ānanda đă nói với đại đức Channa điều này: - “Này sư đệ Channa, hội chúng đă áp đặt h́nh phạt Phạm Thiên đối với sư đệ.” - “Thưa sư huynh Ānanda, vậy h́nh phạt Phạm Thiên là như thế nào?”
- “Này sư đệ Channa, điều ǵ sư đệ muốn với các tỳ khưu th́ sư đệ có thể nói điều ấy. C̣n các tỳ khưu chẳng những không được nói chuyện, c̣n không được nhắc nhở, không được giảng dạy sư đệ.” - “Thưa sư huynh Ānanda, như vậy không phải sư đệ đă bị giết chết hay sao, bởi v́ các tỳ khưu chẳng những không được nói chuyện, c̣n không được nhắc nhở, không được giảng dạy sư đệ nữa?” rồi bị ngất xỉu ngă xuống ngay tại chỗ ấy.
17. Sau đó, trong khi bị dằn vặt bởi h́nh phạt Phạm Thiên, trong khi bị khổ sở, trong khi bị hổ thẹn, trong khi chán ghét, đại đức Channa một ḿnh đă tách riêng, rồi trong khi sống không bị xao lăng, có sự nỗ lực, có sự quyết tâm nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại này, nhờ vào thắng trí của ḿnh đă chứng ngộ, đă đạt đến, và an trú vào mục đích tối thượng ấy của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đă biết rơ rằng: “Sự tái sanh đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không c̣n ǵ khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và thêm một vị nữa là đại đức Channa đă trở thành vị A-la-hán.
Sau đó, khi đă chứng đạt phẩm vị A-la-hán đại đức Channa đă đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Thưa sư huynh Ānanda, hôm nay xin hăy thu hồi h́nh phạt Phạm Thiên cho đệ.” - “Này sư đệ Channa, kể từ khi sư đệ chứng ngộ phẩm vị A-la-hán, kể từ thời điểm ấy h́nh phạt Phạm Thiên của sư đệ đă được thu hồi.”
Trong cuộc kết tập về Luật này đă hiện diện năm trăm vị tỳ khưu, không thiếu không dư. Do đó, cuộc kết tập về Luật này được gọi là “Liên quan năm trăm vị.”
Chương Liên Quan Năm Trăm Vị là thứ mười một.
*****
Trong chương này gồm có hai mươi ba sự kiện.
1. Khi đấng Toàn Giác đă Vô Dư Niết Bàn, vị trưởng lăo tên Kassapa, người bảo vệ chánh Pháp, đă bảo với nhóm tỳ khưu rằng:
2. Trong cuộc hành tŕnh đường xa từ Pāvā, có điều đă được phát biểu bởi Subhadda. Chúng ta hăy trùng tụng Chánh Pháp trước khi phi Pháp phát triển.
3. Năm trăm c̣n thiếu một, và vị ấy đă chọn cả Ānanda, cuộc kết tập về Pháp và Luật, trong khi cư trú ở hang động tối thượng.
4. Vị ấy đă hỏi Upāli về Luật, (đă hỏi) bậc trí Ānanda về Kinh. Các vị đệ tử của đấng Chiến Thắng đă thực hiện việc kết tập Tam Tạng.
5. Các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng, nhiều loại, sự thực hành theo như sự quy định, vị đă không hỏi, và đă đạp lên, đă cho đảnh lễ, và đă không cầu khẩn, việc xuất gia cho người nữ, các tội dukkaṭa của tôi là v́ niềm tin.
6. Vị Purāṇa, và h́nh phạt Phạm Thiên, các hầu thiếp cùng với đức vua Udena, như vậy quá nhiều, và bị tàn tạ, các khăn trải, và vải bọc nệm.
7. Các thảm lót sàn, các giẻ chùi chân, lau bụi, trộn với bùn đất, vị đă phát sanh một ngàn y lần đầu có tên gọi là Ānanda.
8. Bị sợ hăi bởi h́nh phạt Phạm Thiên, vị đă đạt được bốn Chân Lư, các vị có năng lực là năm trăm, v́ thế gọi là “Năm Trăm Vị.”
--ooOoo--
1. Vào lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn được một trăm năm, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc là: “Quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép, quy định hai ngón tay là được phép, quy định trong làng là được phép, quy định về chỗ trú ngụ là được phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là được phép, quy định chưa được khuấy là được phép, quy định uống nước trái cây lên men là được phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là được phép.”[3]
2. Vào lúc bấy giờ, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka trong khi du hành ở xứ Vajji đă đến trú tại Vesāli. Tại nơi đó ở Vesāli, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă trú tại Mahāvana, nơi giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli vào ngày Uposatha sau khi đổ đầy nước vào cái chậu đồng rồi đặt ở giữa hội chúng tỳ khưu và nói với các cư sĩ ở Vesāli đang đi qua lại như vầy: - “Này các đạo hữu, hăy bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Hội chúng sẽ có việc phải làm về vật dụng.” Khi được nói như vậy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă nói với các cư sĩ ở Vesāli điều này: - “Này các đạo hữu, chớ có bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đă từ bỏ ngọc ma-ṇi và vàng ṛng, đă xa ĺa vàng bạc.”
Trong khi được đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka nói như vậy, các cư sĩ ở Vesāli vẫn bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Sau đó, vào cuối đêm ấy các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă xác định phần chia tùy theo số lượng tỳ khưu rồi đă phân chia số tiền vàng ấy.
Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Này đại đức Yasa, phần chia tiền vàng này thuộc về đại đức.” - “Này các đại đức, phần chia tiền vàng này không thuộc về tôi, tôi không thích thú tiền vàng.”
Sau đó, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka này quở trách, chê bai, làm giảm đức tin các cư sĩ có niềm tin đă mộ đạo, vậy chúng ta hăy thực hiện hành sự ḥa giải đến vị ấy.” Họ đă thực hiện hành sự ḥa giải đến vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă nói với các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli điều này: - “Này các đại đức, đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị sứ giả cùng đi nên được ban đến vị tỳ khưu thực hiện hành sự ḥa giải.’ Này các đại đức, hăy cho tôi vị tỳ khưu làm sứ giả cùng đi.” Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă chỉ định một vị tỳ khưu và cho làm sứ giả cùng đi với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
4. Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka cùng với vị tỳ khưu là sứ giả cùng đi đă vào thành Vesāli và đă nói với các cư sĩ ở Vesāli điều này: - “Nghe nói tôi quở trách, chê bai, làm giảm đức tin quư vị là những cư sĩ có niềm tin đă mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’’
Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Này các đạo hữu, ở nơi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - ‘Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi. Bốn vật ấy là ǵ? Này các tỳ khưu, mây là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi. Này các tỳ khưu, sương mù là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, khói bụi là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, Rāhu chúa loài Asura (hiện tượng nguyệt và nhật thực) là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi.
Này các tỳ khưu, tương tợ y như thế đây là bốn điều làm ô nhiễm đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi. Bốn điều ấy là ǵ? Này các tỳ khưu, có những Sa-môn và Bà-la-môn uống rượu, uống men say, không chừa bỏ việc uống rượu và men say. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ nhất đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn thực hiện việc đôi lứa, không chừa bỏ việc đôi lứa. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ nh́ đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn thích thú vàng bạc, không chừa bỏ việc thọ nhận vàng bạc. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ ba đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn chấp nhận cuộc sống bằng sự nuôi mạng không chân chánh, không chừa bỏ sự nuôi mạng không chân chánh. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ tư đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, đây là bốn điều làm ô nhiễm đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi.’ Này các đạo hữu, đức Thế Tôn đă nói điều ấy, đấng Thiện Thệ đă nói điều ấy, rồi bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
‘Có những Sa-môn và Bà-la-môn bị ô nhiễm bởi ái dục và sân, là những người bị che áng bởi vô minh, có sự thỏa thích ở các h́nh dáng đáng yêu.
Họ uống rượu, men say, theo đuổi việc đôi lứa, thích thú bạc và vàng, họ là những kẻ ngu si tăm tối.
Có những Sa-môn và Bà-la-môn sống bằng tà mạng. Những sự ô nhiễm này đă được nói lên bởi đức Phật, là vị thân quyến của mặt trời.
Những Sa-môn và Bà-la-môn đă bị ô nhiễm bởi những ô nhiễm ấy th́ không c̣n cháy sáng, không c̣n rực rỡ, không c̣n chói lọi, không trong sạch, có nhiễm bụi, như là loài thú.
Bị bao phủ bởi bóng đêm, họ là những nô lệ của tham ái, là những kẻ bị (tham ái) dẫn đi, họ làm tăng trưởng nghĩa địa kinh hoàng, họ bám lấy sự tái sanh lần nữa.’
Có lời nói như vầy: Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quư vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’
5. Này các đạo hữu, vào một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Này các đạo hữu, vào lúc bấy giờ, trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đă sanh khởi: ‘Vàng bạc được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử thọ nhận vàng bạc.’ Này các đạo hữu, vào lúc bấy giờ vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đang ngồi trong nhóm người ấy.
Này các đạo hữu, khi ấy vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đă nói với nhóm người ấy điều này: ‘Quư vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đă từ bỏ ngọc ma-ṇi và vàng ṛng, đă xa ĺa vàng bạc.’ Này các đạo hữu, vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đă có thể thuyết phục được nhóm người ấy.
6. Này các đạo hữu, sau đó, khi đă thuyết phục được nhóm người ấy vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Này các đạo hữu, khi đă ngồi xuống một bên vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, ở đây trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đă sanh khởi: ‘Vàng bạc được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử thọ nhận vàng bạc.’ Bạch ngài, được nói như vậy, con đă nói với nhóm người ấy điều này: ‘Quư vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đă từ bỏ ngọc ma-ni và vàng ṛng, đă xa ĺa vàng bạc.’ Bạch ngài, con đă có thể thuyết phục được nhóm người ấy. Bạch ngài, trong khi nói như thế, có phải con là người đă nói đúng lời của đức Thế Tôn và con không vu khống đức Thế Tôn một cách sai trái? Có phải con đă nói theo lư lẽ của Giáo Pháp? Và có phải người nào có lời nói hợp với giáo lư, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế bị chê trách?”
- “Này Thôn trưởng, đúng vậy. Trong khi nói như thế, ngươi là người đă nói đúng lời của ta và ngươi không vu khống ta một cách sai trái. Ngươi đă nói theo lư lẽ của Giáo Pháp và người nào có lời nói hợp với giáo lư, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế đáng bị chê trách. Này Thôn trưởng, bởi v́ vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử, các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc, các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc, các Sa-môn Thích tử đă từ bỏ ngọc ma-ni và vàng ṛng, đă xa ĺa vàng bạc. Này Thôn trưởng, đối với kẻ nào vàng bạc là được phép th́ đối với kẻ ấy năm phần dục lạc cũng là được phép. Này Thôn trưởng, đối với kẻ nào năm phần dục lạc là được phép th́ ngươi có thể nắm chắc về điều này là: ‘Không phải là pháp của Sa-môn, không phải là pháp của Thích tử.’ Này Thôn trưởng, và ta c̣n nói như vầy: Người mong muốn cỏ th́ tầm cầu cỏ, người mong muốn củi th́ tầm cầu củi, người mong muốn xe cộ th́ tầm cầu xe cộ, người mong muốn đàn ông th́ tầm cầu đàn ông. Này Thôn trưởng, nhưng ta không có nói rằng: ‘Bằng bất cứ phương tiện ǵ, vàng bạc nên được thích thú, nên được tầm cầu.’
Có lời nói như vầy: Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quư vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’
7. Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, ở ngay chính nơi ấy tại thành Rājagaha đức Thế Tôn đă từ chối vàng bạc và quy định điều học có liên quan đến đại đức Upananda ḍng dơi Sakya. Có lời nói như vầy: “Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quư vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’” Khi được nói như thế, các cư sĩ ở Vesāli đă nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Thưa ngài, chỉ có một ḿnh ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka là Sa-môn Thích tử, chính tất cả các vị kia đều không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử. Thưa ngài, xin ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka hăy ngụ tại Vesāli. Chúng tôi sẽ nỗ lực về vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh đối với ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.” Sau đó, khi đă khiến cho các cư sĩ ở Vesāli nhận thức được, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka với vị tỳ khưu sứ giả cùng đi đă trở về tu viện.
8. Sau đó, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă hỏi vị tỳ khưu sứ giả cùng đi rằng: - “Này sư đệ, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă yêu cầu các cư sĩ ở Vesāli thứ lỗi chưa vậy?” - “Chúng ta gặp điều xúi quẩy với các cư sĩ rồi. Chỉ một ḿnh Yasa con trai của Kākaṇḍaka được xem là Sa-môn Thích tử. C̣n chính tất cả chúng ta đă bị xem không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử.”
Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli (đă bàn bạc rằng): “Này các đại đức, Yasa con trai của Kākaṇḍaka này chưa được chúng ta chỉ định đă giảng giải cho hàng tại gia, vậy chúng ta hăy thực hiện hành sự án treo đối với vị ấy.” Họ đă tụ họp lại với ư định thực hiện hành sự án treo đối với vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă bay lên không trung và xuất hiện ở Kosambi. Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu ở Pāvā, Avanti, và khu vực phía nam (nói rằng): “Xin các đại đức hăy đến, chúng ta cần nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đang ngụ tại núi Ahogaṅga. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă đi đến núi Ahogaṅga gặp đại đức Sambhūta Sāṇavāsī, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Sambhūta Sāṇavāsī rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă nói với đại đức Sambhūta Sāṇavāsī điều này:
- “Thưa ngài, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji này ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc: ‘Quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép, quy định hai ngón tay là được phép, quy định trong làng là được phép, quy định về chỗ trú ngụ là được phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là được phép, quy định chưa được khuấy là được phép, quy định uống nước trái cây lên men là được phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là được phép.’ Thưa ngài, vậy chúng ta sẽ nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” - “Này đại đức, đúng vậy.” Đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
9. Sau đó, các tỳ khưu ở Pāvā có số lượng sáu mươi vị tất cả là những vị sống trong rừng, tất cả là những vị hành hạnh khất thực, tất cả là những vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, tất cả là những vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đă tụ hội ở núi Ahogaṅga. Các tỳ khưu ở Avanti và khu vực phía nam có số lượng tám mươi tám vị, một số vị sống trong rừng, một số vị hành hạnh khất thực, một số vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, một số vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đă tụ hội ở núi Ahogaṅga.
Khi ấy, trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo hội ư, điều này đă khởi lên: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Làm thế nào chúng ta có thể đạt được nhóm, nhờ thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn?” Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lăo đă khởi ư rằng: “Chính vị đại đức Revata này ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ đạt được đại đức Revata chung nhóm, như thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn.”
Trong khi các tỳ khưu trưởng lăo đang hội ư, đại đức Revata nhờ vào Thiên nhĩ thông thanh tịnh vượt trội loài người đă nghe được, sau khi nghe được đă khởi ư điều này: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Điều không thích đáng cho ta là việc ta lại tránh né các sự tranh tụng như thế này. Và rồi đây, các vị tỳ khưu ấy sẽ đi đến, bị lấn cấn bởi các vị ấy, ta đây sẽ đi không thoải mái. Hay là ta nên đi trước?” Khi ấy, đại đức Revata từ Soreyya đă đi đến Saṅkassa.
10. Sau đó, các vị tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến Soreyya hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đă nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đă đi Saṅkassa rồi.” Rồi đại đức Revata từ Saṅkassa đă đi Kaṇṇakujja. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến Saṅkassa hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đă nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đă đi Kaṇṇakujja rồi.” Rồi đại đức Revata từ Kaṇṇakujja đă đi Udumbara. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến Kaṇṇakujja hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đă nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đă đi Udumbara rồi.” Rồi đại đức Revata từ Udumbara đă đi thành phố Aggaḷa. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến Udumbara hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đă nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đă đi thành phố Aggaḷa rồi.” Rồi đại đức Revata từ thành phố Aggaḷa đă đi Sahajāti. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến thành phố Aggaḷa hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đă nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đă đi Sahajāti rồi.” Rồi các tỳ khưu trưởng lăo đă gặp được đại đức Revata ở Sahajāti.
11. Khi ấy, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Này sư đệ, đại đức Revata này là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta hỏi đại đức Revata câu hỏi, đại đức Revata có khả năng tŕnh bày trọn đêm chỉ với một câu hỏi ấy. Và giờ đây, đại đức Revata sẽ gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Khi chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, chính sư đệ nên đi đến gặp đại đức Revata và hỏi về mười sự việc ấy.”
- “Thưa ngài, xin vâng.” Đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă trả lời đại đức Sambhūta Sāṇavāsī. Khi ấy, đại đức Revata đă gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Vào lúc chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, khi ấy đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă đi đến gặp đại đức Revata, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Revata rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đă nói với đại đức Revata điều này:
12. i. - “Thưa ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là mang theo muối bằng ống sừng (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp (thức ăn) thiếu muối,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
ii. - “Thưa ngài, quy định hai ngón tay là được phép?” - “Này sư đệ, quy định hai ngón tay ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là thọ dụng vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu ở trên đất) đă quá hai ngón tay, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
iii. - “Thưa ngài, quy định trong làng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định trong làng ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là vị đă ăn xong, đă ngăn vật thực (nghĩ rằng): ‘Bây giờ, ta sẽ đi vào trong làng’ rồi thọ dụng thức ăn không phải là c̣n thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
iv. - “Thưa ngài, quy định về chỗ trú ngụ là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về chỗ trú ngụ ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là nhiều trú xứ có chung ranh giới thực hiện lễ Uposatha riêng biệt, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
v. - “Thưa ngài, quy định về sự thỏa thuận là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về sự thỏa thuận ấy là ǵ?” - “Thưa ngài là thực hiện hành sự với hội chúng không đủ số lượng (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thuyết phục các tỳ khưu đi đến,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
vi. - “Thưa ngài, quy định theo tập quán là được phép?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán ấy là ǵ?” - “Thưa ngài là (vị nghĩ rằng): ‘Điều này đă được thực hành bởi thầy tế độ của ta, điều này đă được thực hành bởi thầy giáo thọ của ta’ rồi thực hành theo, có được phép không?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán có điều được phép, có điều không được phép.”
vii. - “Thưa ngài, quy định chưa được khuấy là được phép?” - “Này sư đệ, quy định chưa được khuấy ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, có loại sữa đă qua khỏi trạng thái sữa nhưng chưa đạt đến trạng thái sữa đông, vị đă ăn xong, đă ngăn vật thực, uống loại sữa ấy không phải là c̣n thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
viii. - “Thưa ngài, quy định uống nước trái cây lên men là được phép?” - “Này sư đệ, nước trái cây lên men ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là loại rượu vừa mới lên men nhưng chưa đạt đến trạng thái rượu mạnh, uống loại ấy có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
ix. - “Thưa ngài, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.”
x. - “Thưa ngài, vàng bạc là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ấy ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc này. Thưa ngài, chúng ta hăy nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” - “Này sư đệ, đúng vậy.” Đại đức Revata đă trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
*****
13. Các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă nghe rằng: “Nghe nói Yasa con trai của Kākaṇḍaka có ư định nắm lấy sự tranh tụng này nên tầm cầu phe nhóm, và nghe nói đă đạt được phe nhóm.” Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă khởi ư điều này: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Người nào mà chúng ta có thể đạt được chung nhóm, nhờ thế chúng ta trong sự tranh tụng này sẽ là lực lượng mạnh hơn?” Rồi các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă khởi ư điều này: “Chính vị đại đức Revata này ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta có thể đạt được đại đức Revata chung nhóm, như thế chúng ta trong sự tranh tụng này sẽ là lực lượng mạnh hơn.”
Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă chuẩn bị nhiều vật dụng cần thiết cho Sa-môn là b́nh bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đồ lược nước, và đồ lọc nước thông thường. Sau đó, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă mang theo vật dụng cần thiết cho Sa-môn ấy đáp thuyền ngược gịng đi Sahajāti. Sau khi rời thuyền, họ thực hiện việc chia phần thức ăn ở gốc cây nọ.
14. Khi ấy, đại đức Sāḷha trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng đă có tư tưởng suy tầm khởi lên như vầy: “Những ai là người nói đúng Pháp, các tỳ khưu ở về hướng Đông hay là các tỳ khưu ở Pāvā?” Sau đó, đại đức Sāḷha trong khi quán xét về Pháp và Luật đă khởi ư điều này: “Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói đúng Pháp.” Khi ấy, có vị Trời nọ ở cơi Tịnh Cư dùng tâm biết được tư tưởng suy tầm của đại đức Sāḷha, rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đă được co lại, hoặc có thể co lại cánh tay đă được duỗi ra, tương tợ y như thế, vị ấy đă biến mất giữa chư Thiên ở cơi Tịnh Cư và hiện ra trước mặt đại đức Sāḷha. Khi ấy, vị Trời ấy đă nói với đại đức Sāḷha điều này: - “Thưa ngài Sāḷha, đúng vậy. Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói đúng Pháp. Thưa ngài Sāḷha, chính v́ điều ấy ngài hăy duy tŕ theo đúng Pháp.” - “Này vị Trời, ngay cả trước đây và bây giờ ta luôn duy tŕ theo đúng Pháp; nhưng ta không bộc lộ quan điểm cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định ta trong sự tranh tụng này.”
15. Sau đó, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli sau khi cầm lấy số vật dụng cần thiết cho Sa-môn ấy đă đi đến gặp đại đức Revata, sau khi đến đă nói với đại đức Revata điều này: - “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là b́nh bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đồ lược nước, và đồ lọc nước thông thường.” - “Này các đại đức, thôi đi. Ta đă đầy đủ ba y.” Và đă không muốn thọ nhận.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu được hai mươi năm tên Uttara là thị giả của đại đức Revata. Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă đi đến gặp đại đức Uttara, sau khi đến đă nói với đại đức Uttara điều này: - “Xin đại đức Uttara hăy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là b́nh bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đồ lược nước, và đồ lọc nước thông thường.” - “Này các đại đức, thôi đi. Ta đă đầy đủ ba y.” Và đă không muốn thọ nhận.
- “Này đại đức Uttara, dân chúng thường dâng vật dụng cần thiết cho Sa-môn đến đức Thế Tôn. Nếu đức Thế Tôn thọ nhận, chính v́ điều ấy họ trở nên hoan hỷ. Nếu đức Thế tôn không thọ nhận, họ dâng đến đại đức Ānanda: ‘Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là b́nh bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đồ lọc nước, và b́nh đựng nước. Như thế sẽ xem như vật ấy đă được đức Thế Tôn thọ lănh.’ Xin đại đức Uttara hăy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn; như thế sẽ xem như vật ấy đă được ngài trưởng lăo thọ lănh.”
16. Khi ấy, đại đức Uttara bị ép buộc bởi các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă nhận lấy một y (nói rằng): - “Này các đại đức, hăy nói lư do về việc này.” - “Xin đại đức Uttara hăy nói với ngài trưởng lăo chỉ có một điều này: ‘Thưa ngài, xin ngài trưởng lăo hăy nói giữa hội chúng chỉ có một điều này: Chư Phật Thế Tôn đều sanh lên trong các xứ sở ở hướng đông. Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói đúng Pháp, c̣n các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói phi Pháp.’” - “Này các đại đức, được rồi.” Rồi đại đức Uttara nghe theo các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă đi đến gặp đại đức Revata, sau khi đến đă nói với đại đức Revata điều này: - “Thưa ngài, xin ngài trưởng lăo hăy nói giữa hội chúng chỉ có một điều này: ‘Chư Phật Thế Tôn đều sanh lên trong các xứ sở ở hướng đông. Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói đúng Pháp, c̣n các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói phi Pháp.’”
- “Này tỳ khưu, ngươi đă xúi giục ta trong việc phi Pháp.” Vị trưởng lăo đă đuổi đại đức Uttara đi. Khi ấy, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji ở Vesāli đă nói với đại đức Uttara điều này: - “Này đại đức Uttara, ngài trưởng lăo đă nói ǵ?” - “Này các đại đức, chúng ta đă làm điều tầm bậy. Ngài trưởng lăo đă đuổi tôi đi (nói rằng): ‘Này tỳ khưu, ngươi đă xúi giục ta trong việc phi Pháp.’”
- “Này đại đức Uttara, không phải đại đức đă thâm niên hai mươi năm rồi hay sao?” - “Này các đại đức, đúng vậy. Tuy nhiên, chúng tôi c̣n giữ sự nương nhờ với vị thầy.”
17. Sau đó, hội chúng có ư muốn phân xử sự tranh tụng ấy đă tụ hội lại. Khi ấy, đại đức Revata đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu chúng ta giải quyết sự tranh tụng này ở nơi đây, các tỳ khưu là những vị khởi sự có thể nêu lại vấn đề một lần nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này ở ngay tại nơi mà sự tranh tụng này đă sanh khởi.” Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo có ư muốn phân xử sự tranh tụng ấy đă đi đến Vesāli.
18. Vào lúc bấy giờ, vị trưởng lăo của hội chúng trên trái đất có tên Sabbakāmī đă tu lên bậc trên được một trăm hai mươi năm, là đệ tử của đại đức Ānanda, đang trú ở Vesāli. Khi ấy, đại đức Revata đă nói với đại đức Sambhūta Sāṇavāsī điều này: - “Này sư đệ, tôi sẽ đi đến trú xá nơi trưởng lăo Sabbakāmī đang trú ngụ; sư đệ đây nên đi đến gặp đại đức Sabbakāmī vào đúng lúc để hỏi về mười sự việc ấy.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă đáp lại đại đức Revata. Sau đó, đại đức Revata đă đi đến trú xá nơi trưởng lăo Sabbakāmī đang trú ngụ.
Chỗ nằm ngồi của đại đức Sabbakāmī là được sếp đặt ở pḥng trong, c̣n của đại đức Revata ở mặt tiền của pḥng trong. Khi ấy, đại đức Revata (nghĩ rằng): ‘Vị trưởng lăo cao niên này không nằm’ nên không nằm xuống. Đại đức Sabbakāmī (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu văng lai này đang mệt vẫn không nằm’ rồi đă không nằm xuống.
Sau đó, trong đêm vào lúc hừng sáng, đại đức Sabbakāmī sau khi đứng dậy đă nói với đại đức Revata điều này: - “Này sư đệ mến, hiện nay ngươi thường xuyên an trú với sự an trú nào?” - “Thưa ngài, hiện nay tôi thường xuyên an trú với sự an trú tâm từ.” - “Này sư đệ mến, nghe nói hiện nay ngươi thường xuyên an trú với sự an trú c̣n nông cạn. Này sư đệ mến, sự an trú c̣n nông cạn ấy tức là tâm từ.”
- “Thưa ngài, trước đây khi tôi c̣n là người tại gia, tâm từ đă được thực hành. V́ thế, hiện nay tôi thường xuyên an trú với sự an trú tâm từ, hơn nữa tôi đă chứng đạt phẩm vị A-la-hán lâu nay. Thưa ngài, hiện nay ngài trưởng lăo thường xuyên an trú với sự an trú nào?” - “Này sư đệ mến, hiện nay ta thường xuyên an trú với sự an trú trạng thái không?”
- “Thưa ngài, nghe nói hiện nay ngài trưởng lăo thường xuyên an trú với sự an trú của bậc đại nhân. Thưa ngài, sự an trú của bậc đại nhân ấy tức là trạng thái không.” - “Này sư đệ mến, trước đây khi ta c̣n là người tại gia, trạng thái không đă được thực hành. V́ thế, ngay cả bây giờ ta thường xuyên an trú với sự an trú trạng thái không, hơn nữa ta đă chứng đạt phẩm vị A-la-hán lâu nay.” Lúc bấy giờ, cuộc nói chuyện trao đổi này của hai vị tỳ khưu trưởng lăo là chưa chấm dứt.
19. Rồi đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă ngự đến nơi ấy. Khi ấy, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă đi đến gặp đại đức Sabbakāmī, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Sabbakāmī rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đă nói với đại đức Sabbakāmī điều này: - “Thưa ngài, các tỳ khưu ḍng dơi Vajji này ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc: ‘Quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép, quy định hai ngón tay là được phép, quy định trong làng là được phép, quy định về chỗ trú ngụ là được phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là được phép, quy định chưa được khuấy là được phép, quy định uống nước trái cây lên men là được phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là được phép.’ Thưa ngài, ngài trưởng lăo đă học tập được nhiều Pháp và Luật ở chân của thầy tế độ; thưa ngài, khi ngài trưởng lăo quán xét về Pháp và Luật th́ khởi ư thế nào? Những ai là người nói đúng Pháp, các tỳ khưu ở về hướng Đông hay là các tỳ khưu ở Pāvā?”
- “Này sư đệ, ngươi cũng đă học tập được nhiều Pháp và Luật ở nguồn gốc của thầy tế độ; này sư đệ, khi ngươi quán xét về Pháp và Luật th́ khởi ư thế nào? Những ai là người nói đúng Pháp, là các tỳ khưu ở về hướng Đông hay là các tỳ khưu ở Pāvā?” - “Thưa ngài, khi tôi quán xét về Pháp và Luật th́ khởi ư như vầy: ‘Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói đúng Pháp;’ tuy nhiên tôi không bộc lộ quan điểm cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định tôi trong sự tranh tụng này.”
- “Này đệ, ngay cả ta khi quán xét về Pháp và Luật cũng khởi ư như vầy: ‘Các tỳ khưu ở về hướng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu ở Pāvā là các vị nói đúng Pháp;’ tuy nhiên ta không bộc lộ quan điểm cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định ta trong sự tranh tụng này.”
20. Sau đó, hội chúng có ư muốn phân xử sự tranh tụng ấy đă tụ hội lại. Trong khi sự tranh tụng ấy đang được phân xử, các lời bàn căi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ư nghĩa. Khi ấy, đại đức Revata đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn căi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ư nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Hội chúng đă chọn bốn vị tỳ khưu ở hướng Đông, bốn vị tỳ khưu ở Pāvā: Đại đức Sabbakāmī, đại đức Sāḷha, đại đức Ujjasobhita, đại đức Vāsabhagāmika là (đại biểu) của các tỳ khưu ở hướng Đông, đại đức Revata, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka, và đại đức Sumana là (đại biểu) của các tỳ khưu ở Pāvā.”
Sau đó, đại đức Revata đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn căi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ư nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định bốn vị tỳ khưu ở hướng Đông, bốn vị tỳ khưu ở Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn căi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ư nghĩa. Hội chúng chỉ định bốn vị tỳ khưu ở hướng Đông, bốn vị tỳ khưu ở Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Đại đức nào thỏa thuận sự chỉ định bốn vị tỳ khưu ở hướng Đông, bốn vị tỳ khưu ở Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Bốn vị tỳ khưu ở hướng Đông, bốn vị tỳ khưu ở Pāvā đă được hội chúng chỉ định để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Hội chúng thỏa thuận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
21. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu tên Ajita, được mười năm, là vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, hội chúng cũng đă chỉ định đại đức Ajita là vị sắp xếp chỗ ngồi cho các tỳ khưu trưởng lăo. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lăo đă khởi ư điều này: “Chúng ta nên giải quyết sự tranh tụng này ở đâu?” Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lăo đă khởi ư điều này: “Tu viện Vālika này xinh xắn ít tiếng động, ít ồn ào; hay là chúng ta nên giải quyết sự tranh tụng này ở tu viện Vālika?” Sau đó, các tỳ khưu trưởng lăo có ư muốn phân xử sự tranh tụng ấy đă đi đến tu viện Vālika. Sau đó, đại đức Revata đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đại đức Sabbakāmī về Luật.” Đại đức Sabbakāmī đă thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được vị Revata hỏi về Luật, tôi sẽ trả lời.” Sau đó, đại đức Revata đă hỏi đại đức Sabbakāmī điều này:
i. - “Thưa ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là mang theo muối bằng ống sừng (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp (thức ăn) thiếu muối,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn).” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực đă được tích trữ.”[4] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ nhất này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ nhất này.”
ii. - “Thưa ngài, quy định hai ngón tay là được phép?” - “Này sư đệ, quy định hai ngón tay ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là ăn vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu ở trên đất) đă quá hai ngón tay, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở thành Rājagaha, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực sái giờ.”[5] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ nh́ này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ nh́ này.”
iii. - “Thưa ngài, quy định trong làng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định trong làng ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là vị đă ăn xong, đă ngăn vật thực (nghĩ rằng): ‘Bây giờ, ta sẽ đi vào trong làng’ rồi thọ dụng thức ăn không phải là c̣n thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực không phải là c̣n thừa.”[6] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ ba này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ ba này.”
iv. - “Thưa ngài, quy định về chỗ trú ngụ là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về chỗ trú ngụ ấy là ǵ?” - “Thưa ngài là nhiều trú xứ có chung ranh giới thực hiện lễ Uposatha riêng biệt, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Rājagaha, trong phần liên quan đến lễ Uposatha.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội dukkaṭa về việc vượt quá Luật.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ tư này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ tư này.”
v. - “Thưa ngài, quy định về sự thỏa thuận là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về sự thỏa thuận ấy là ǵ?” - “Thưa ngài là thực hiện hành sự với hội chúng không đủ số lượng (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thuyết phục các tỳ khưu đi đến,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở trong câu chuyện về Luật của các vị ở Campā.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội dukkaṭa về việc vượt quá Luật.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ năm này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ năm này.”
vi. - “Thưa ngài, quy định theo tập quán là được phép?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán ấy là ǵ?” - “Thưa ngài là (vị nghĩ rằng): ‘Điều này đă được thực hành bởi thầy tế độ của ta, điều này đă được thực hành bởi thầy giáo thọ của ta’ rồi thực hành theo, có được phép không?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán có điều được phép, có điều không được phép.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ sáu này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ sáu này.”
vii. - “Thưa ngài, quy định chưa được khuấy là được phép?” - “Này sư đệ, quy định chưa được khuấy ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, có loại sữa đă qua khỏi trạng thái sữa nhưng chưa đạt đến trạng thái sữa đông, vị đă ăn xong, đă ngăn vật thực, uống loại sữa ấy không phải là c̣n thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực không phải là c̣n thừa.”[7] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ bảy này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ bảy này.”
viii. - “Thưa ngài, quy định uống nước trái cây lên men là được phép?” - “Này sư đệ, nước trái cây lên men ấy là ǵ?” - “Thưa ngài, là uống loại rượu vừa mới lên men nhưng chưa đạt đến trạng thái rượu mạnh, uống loại ấy có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Kosambi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về việc uống rượu và chất say.”[8] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ tám này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ tám này.”
ix. - “Thưa ngài, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về vật cần được cắt bỏ.”[9] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ chín này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ chín này.”
x. - “Thưa ngài, vàng bạc là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Rājagaha, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội ǵ?” - “Phạm tội pācittiya về việc thọ nhận vàng bạc.”[10] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, sự việc thứ mười này đă được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ mười này.”
“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi, mười vấn đề này đă được hội chúng xác định. Như thế, mười sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Luật, đi sái lời dạy của bậc Đạo Sư.” - “Này sư đệ, sự tranh tụng này đă được kết thúc, đă được yên lặng, đă được giải quyết, đă được giải quyết tốt đẹp. Này sư đệ, tuy nhiên sư đệ nên hỏi ta về mười sự việc này ở ngay giữa hội chúng để các tỳ khưu ấy cùng nhau hiểu rơ.”
22. Sau đó, đại đức Revata đă hỏi đại đức Sabbakāmi về mười sự việc ấy ở ngay giữa hội chúng. Mỗi khi được hỏi, đại đức Sabbakāmi đă trả lời. Trong cuộc kết tập về Luật này đă hiện diện bảy trăm vị tỳ khưu không thiếu không dư. Do đó, cuộc kết tập về Luật này được gọi là ‘Liên quan bảy trăm vị.’”
Chương Liên Quan Bảy Trăm Vị.
*****
Trong chương này có hai mươi lăm sự việc.
1. Mười sự việc, sau khi đổ đầy, hành sự, cùng với sứ giả, vị đă đi vào, bốn (vật làm ô nhiễm), c̣n nữa, và vàng, Kosambi, và vị ở Pāvā.
2. Đường đi, Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, Udumbara, Aggaḷa, và Sahajāti, vị đă nghe, người nào mà chúng ta?
3. B́nh bát, bằng thuyền, đă đi ngược gịng, vị ở nơi thanh vắng, dâng đến, vị thầy, và hội chúng, thành Vesāli, tâm từ, hội chúng, các đại biểu.”
*****
4. Hành sự, và h́nh phạt parivāsa, tích lũy (tội), và luôn cả dàn xếp, các tiểu sự, và sàng tọa, chia rẽ (hội chúng), phận sự, (đ́nh chỉ) lễ Uposatha, tỳ khưu ni, năm trăm, bảy trăm, là các chương ở Tiểu Phẩm.
[Mười hai chương đă được đề cập đến]
TIỂU PHẨM ĐƯỢC CHẤM DỨT.
--ooOoo--
[1] Dakkhiṇāgiri là tên của ngọn núi ở phía nam thành Rājagaha và cũng có nghĩa Việt là ‘ngọn núi ở phía nam’ (ND).
[2] Brahmadaṇḍa (h́nh phạt Phạm Thiên): từ này đă được dịch âm là Phạm Đàn (ND).
[3] Mười sự việc này có ư nghĩa như sau: Được phép cất giữ muối trong ống sừng, được phép ăn khi bóng mặt trời đă hai ngón tay, được phép đi vào làng rồi ăn thêm lần nữa, được phép hành lễ Uposatha riêng rẽ, được phép hành sự không đủ tỳ khưu, được phép thực hành theo tập quán, được phép uống sữa chua lúc quá ngọ, được phép uống nước trái cây lên men, được phép sử dụng vật lót ngồi không có viền quanh, được phép tích trữ vàng bạc (ND).
[4] Điều học pācittiya 38.
[5] Điều học pācittiya 37.
[6] Điều học pācittiya 35.
[7] Điều học pācittiya 35.
[8] Điều học pācittiya 51.
[9] Điều học pācittiya 89.
[10] Điều học nissaggiya pācittiya 18.