Mục lục
Lời mở đầu
[01] Khổ -
Phật giáo và vấn đề đau khổ
[02] Ái dục - Nguyên nhân sanh đau
khổ
[03] Niết bàn - Chấm dứt đau khổ
[04] Bát chánh đạo - Con đường dứt
khổ |
Lời mở đầu
Vào một thuở nọ Đức
Thế Tôn ngự trong khu rừng của ông Jeta (Kỳ Đà), Jetavanna, gần thành
Sàvatthi (Xá Vệ). Khi đêm về khuya, có một vị trời dung nhan lộng lẩy, hào
quang tỏa ra sáng rực toàn thể khu tịnh xá, tên Rohitassa, đến hầu Phật.
Lúc đến gần Đức Phật vị trời Rohitassa kính cẩn đảnh lễ Ngài, xong đứng
qua một bên. Rồi vị trời Rohitassa bạch hỏi Đức Thế Tôn:
"Bạch Hóa Đức Thế Tôn, có thể được chăng,
bằng cách đi mãi, đi mãi, ta biết được, thấy được, hoặc đến được, mức tận
cùng của thế gian. Nơi mà không có sanh, không có già, không có chết,
không từ giả cõi nầy và không tái sanh trở lại?"
-- Không thể được, nầy đạo hữu, Như Lai
tuyên ngôn rằng bằng cách đi mãi, đi mãi, ta không thể biết được, thấy
được, hoặc đến được, mức tận cùng của thế gian, nơi mà không có sanh,
không có già, không có chết, không từ giả cõi nầy và không tái sanh trở
lại.
-- Quả thật tuyệt luân, Bạch Hóa Đức Thế
Tôn, thật là phi thường, Bạch Hóa Đức Thế Tôn, Ngài đã ban dạy một cách
tuyệt vời rằng không thể nào biết, thấy, hoặc đến, tận mức cùng tột của
thế gian bằng cách đi, đi mãi.
Trong một tiền kiếp của tôi, lúc ấy là đạo
sĩ tên Rohitassa, con của Ông Bhoja, nhờ có thần thông, có thể đi trên
không trung. Bạch Hóa Đức Thế Tôn, tôi đi mau như thế nầy. Thí dụ như có
người kia, một tay thiện xạ, đã dày công tập luyện, có tài, và đã thuần
thục trong nghề bắn cung. Người ấy giương một cây cung thật cứng và bắn
một mũi tên nhẹ, toàn hảo, xuyên qua một khoảng dài bằng bề ngang của cái
bóng cây kè, thì trong khoảng thời gian mà mũi tên lướt xuyên qua bóng cây
kè, tôi có thể bước một bước dài từ biển Đông sang biển Tây. Đi nhanh và
bước dài như vậy, lúc ấy tôi nguyện đi, đi mãi cho đến mức cùng tột của
thế gian. Và xuyên qua những ngày tháng còn lại của đời tôi -- cả trăm năm
-- ngoài những thời gian cần thiết để ăn uống, đi giải và nghỉ ngơi, tôi
đi trọn cả trăm năm, nhưng cũng không đến được mức tận cùng của thế gian,
và phải chết dọc đường. Thật là tuyệt diệu, Bạch Hóa Đức Thế Tôn, quả thật
là phi thường, Bạch Hóa Đức Thế Tôn, Ngài đã ban dạy một cách tuyệt vời
rằng không thể nào biết, thấy, hoặc đến, mức tận cùng của thế gian bằng
cách đi mãi, đi mãi.
-- Quả thật vậy, nầy đạo hữu, Như Lai
tuyên ngôn đúng như vậy. Không phải bằng cách đi mãi, đi mãi, mà có thể
đến tận mức cùng tột của thế gian, chấm dứt đau khổ."
*
Để tìm hiểu chân lý về bản chất của đời sống, thông thường người ta
hướng tầm mắt ra bên ngoài hay lên trên. Phật Giáo dạy ta nhìn vào bên
trong chính bản thân mình. Đức Phật thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, Chánh
Đẳng Chánh Giác cũng nhờ tìm hiểu chân lý nơi bản thân Ngài. Một mình giữa
rừng sâu, ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất
và tinh thần của bản thân mình, Đức Phật đã tìm ra ánh Sáng Chân Lý. Vì
thế, Ngài dạy rằng tất cả chân lý của thế gian đều nằm vỏn vẹn trong tấm
thân (nhỏ bé) dài một sải nầy.
Đức Phật luôn luôn đề cập đến các vấn đề có liên quan đến đời sống con
người, và những lời dạy quý báu của Ngài luôn luôn căn cứ trên những sự
kiện và những chân lý thực tiễn mà mọi người đều có thể quan sát, chứng
nghiệm, và kiểm soát. Phật Giáo là một tôn giáo căn cứ trên lý trí.
Phật Giáo đặt nền tảng trên bốn chân lý
gọi là Tứ Diệu Đế, tiếng Phạn là Ariya Sacca.
Ariya, bậc Hiền Thánh, là người hoàn toàn
trong sạch, người đã gội rửa mọi ô nhiễm, mọi tham vọng, đã thành đạt
Thánh Đạo và Thánh Quả, bậc Thánh Nhân. Đạo Quả Phật cao thượng hơn tất cả
các Thánh Quả.
Sacca (sanskrit: Satya) là chân lý, cái gì
thật sự có, sự thật hiển nhiên, tuyệt đối, vĩnh cửu, bất di dịch, một sự
kiện không còn bàn cãi hay tranh luận nữa. Chân lý không thể bị hoàn cảnh,
thời gian, hay sự vật chi phối. Chân lý không thể biến đổi.
Ariya Sacca, bao gồm bốn chân lý cao siêu
thâm diệu, Tứ Diệu Đế, là những chân lý mà bậc Thánh Nhân hoàn toàn trong
sạch, tức Đức Phật, đã tìm ra. Ariya Sacca hay Tứ Diệu Đế cũng có nghĩa là
những chân lý khả dĩ đưa chúng sanh đến nơi hoàn toàn trong sạch của các
bậc Thánh Nhân. Tứ Diệu Đế là những chân lý thiên nhiên, sẵn có từ muôn
đời, không phải do Đức Phật tạo ra. Dầu có Đức Phật hay không, những chân
lý ấy vẫn hiện hữu. Đức Phật chỉ là người đã khám phá những chân lý ấy và
truyền dạy lại cho thế gian, vốn bị màn vô minh bao phủ. Bốn chân lý ấy
là:
Khổ Đế (Dukkha Ariya Sacca),
Tập Đế (Samudaya Ariya Sacca),
Diệt Đế ( Nirodha Ariya Sacca), và
Đạo Đế (Magga Ariya Sacca).
Tập sách nầy là những bài viết riêng rẻ
bao gồm những thành phần khác nhau của Tứ Diệu Đế.
-ooOoo-
[I]
Khổ
Phật giáo và vấn đề đau khổ
Đ ức Phật, lúc sanh ra là Thái Tử
Siddhartha (Sĩ Đạt Ta, hay Tất Đạt Đa), một người như tất cả mọi người.
Vào năm 35 tuổi Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện
ngọc và trở thành Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm). Sau sáu năm theo học với các vị
đạo sư trứ danh thời bấy giờ và thực hành các pháp tu khổ hạnh đến mức
cùng cực mà không thâu đạt được kết quả mong muốn, Đạo Sĩ Gotama tìm đến
nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh
một dòng sông ngoạn mục, rồi ngày đêm gom tâm quan sát từng yếu tố vật
chất và tinh thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra ánh Sáng Chân Lý,
trở thành Phật, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha). Từ đó, trong
45 năm trường, Đức Phật Gotama đi cùng khắp miền Bắc xứ ấn Độ, từ làng nầy
đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường lớn và các
nẽo nhỏ, để ban bố cho nhân loại bức thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa
rộng vừng hào quang từ bi và trí tuệ vô lượng vô biên của Ngài bao trùm
tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật Giáo.
Như vậy, Phật Giáo xuất phát từ nhân sinh,
hướng về nhân sinh, và nhằm phục vụ nhân sinh.
Đức Phật không đặt nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực siêu thế
huyền bí nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ
bên ngoài, hay trông đợi một sự cứu rỗi từ trên ban xuống. Trong kinh
Kalàma Sutta (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A-Hàm, quyển 1) Đức Phật dạy
chẳng nên vội vã tin chắc một điều gì mà phải luôn luôn dùng lý trí quán
trạch, quan sát, xét đoán tỉ mỉ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi
mới quyết định tin cùng không. Ngài dạy người Kalàma, "Không nên chấp nhận
điều gì là chân lý chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế, chỉ vì có
lời đồn đãi như vậy, chỉ vì điều ấy đã có ghi chép trong kinh sách, chỉ vì
mình ức đoán hay suy diễn như thế. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình
thấy bề ngoài hình như nó là vậy, chỉ vì điều ấy thích hợp với thành kiến
của mình, hay chỉ vì vị tu sĩ đã thốt ra điều ấy đã được ta kính trọng từ
trước ...
"Tuy nhiên ... khi tự các con hiểu rõ
rằng, 'Những điều nầy hợp luân lý, những điều nầy không đáng bị khiển
trách, những điều nầy được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện
những điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc', thì hẳn các con phải hành động
đúng như vậy."
Để tìm hiểu chân lý về bản chất của kiếp nhân sinh thường người ta nhìn
ra bên ngoài và nhìn lên trên -- hướng ngoại và hướng thượng. Phật Giáo
dạy hướng nội, hãy nhìn vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
"Trong tấm thân nhỏ bé nầy (nguyên văn:
tấm thân dài một sải nầy), cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên bố
thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian, và con đường dẫn
đến chấm dứt thế gian." -- Kinh Rohitassa Sutta.
Danh từ loka mà ở đây được phiên dịch là
"thế gian" hàm xúc ý nghĩa thế gian đau khổ, và đau khổ là kinh nghiệm của
thế gian bên trong ta.
Dukkha là danh từ Pàli mà Đức Phật dùng để
chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn, ta
hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ dukkha.
Trong quyển "The Buddha and His
Teachings", Ngài Đại Đức Nàrada giải thích: "Đứng về phương diện cảm giác,
dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("du" là khó, "kha" là chịu
đựng). Nếu xem như một chân lý trừu tượng, dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh
miệt, "du", và trống rỗng, "kha". Thế gian nằm trong sự đau khổ, và như
vậy là đáng khinh miệt, không đáng cho ta bám níu. Thế gian là một ảo ảnh,
không có thực chất. Do đó thế gian là rỗng không, hư vô. Vậy, dukkha có
nghĩa là một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái và bám
níu."
Trong bài thuyết trình về Tứ Diệu Đế, "The
Significance of The Four Noble Truths" -- The Wheel Publication No.123),
ông V.F. Gunaratna giải thích danh từ dukkha như sau:
"...Danh từ Dukkha gồm hai thành phần, "du"
và "kha". "Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa xấu, thấp kém, đê tiện,
hèn hạ, hay tầm thường. "Kha" là trống rỗng, nông cạn. Hai thành phần nầy
hợp chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa thích, bởi vì nó
trống rỗng, huyền ảo, không có thực chất, không làm thỏa mãn, và thường
được phiên dịch là "đau khổ", hay "khổ não". Tuy nhiên hai chữ, đau khổ và
khổ não, chỉ bao hàm những ý niệm về một trạng thái khó chịu, tinh thần
hay vật chất, mà không diễn đạt trạng thái rỗng không, huyền ảo và không
thực của Phạn ngữ dukkha. Dukkha không những phải gợi trong tâm ta những ý
niệm không làm thỏa mãn của sự vật trên thế gian, trạng thái không thực,
và dĩ nhiên, đưa đến thất vọng, phiền muộn và bất ổn của tất cả những gì
tạo nên môi trường sống của chúng ta. Dukkha bao gồm trạng thái chênh
lệch, chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả chúng sanh phải
chịu vì không tìm được trong thế gian nầy trạng thái vững bền, ổn định và
thường còn. Tất cả sự vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái
luôn luôn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên cảnh "bất
toại nguyện" và "bất ổn định" của toàn thể vũ trụ."
Trong Bài Pháp Đầu Tiên, gọi là Kinh
Chuyển Pháp Luân, Đức Phật mô tả cái khổ như sau:
"Hởi nầy các Tỳ Khưu, bây giờ, đây là chân
lý thâm diệu về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là
khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào ngũ uẩn là khổ."
Một câu chuyện thuật lại như sau:
Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng
mênh mông đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất định anh sực
nhìn lại phía sau, và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt
chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn, anh định nhảy xuống để
tránh voi. Nhưng thấy dưới đáy giếng có con rắn độc. Thớt voi lù lù trờ
tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng phía trên
miệng giếng và vội vã trèo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây,
quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên,
thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con
chuột, một trắng một đen, đang cặm cụi gậm nhấm sợi dây mà anh đang đeo
trên đó. Vừa lúc ấy một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh.
Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng,
sợi dây đầy gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bày ong đang vây đánh, và hai
con chuột đang gậm nhấm sợi dây, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách
thỏa thích..."
Đó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang
lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá
nhọn là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử
Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai
nhọn là sự sanh. Bầy ong là những nổi khổ đau luôn luôn đe dọa tình trạng
an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời
sống. Hai con chuột, một trắng, một đen, là ngày và đêm...
Quả thật vậy, cuộc sống của chúng ta trong
vòng luân hồi không giống như một vườn hoa hồng tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc
và bát ngát hương thơm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông, đầy chông
gai và đá nhọn. Trên bước viễn du trong vòng luân hồi từ vô lượng kiếp,
chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn
mà không tìm được lối thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ
là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta
lại ước mơ điều khác, và cứ thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ thỏa
mãn trọn vẹn, vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không
được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa,
ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong cảnh cơ hàn
ta ước mong được sang trọng giàu có, rồi khi được giàu sang ta lại lo sợ
phải nghèo đói cơ cực. Nhưng trong cuộc sống vô thường tạm bợ nầy có thú
vui nào tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào vĩnh tồn. Mặt trời mọc ở phương
Đông chỉ để lặn ở phương Tây, hoa nở tốt tươi buổi sáng để rồi tàn úa về
chiều, mọi cuộc sum họp vui vầy đều phải chấm dứt trong cảnh phân tán chia
ly, vừa lúc sanh ra đời đã mang theo mầm mống chết. Chừng ấy nổi sầu muộn
càng sâu đậm. Trong thế gian huyền ảo, tạm bợ và vô thường, ngã chấp, và
đầy tham vọng nầy, chúng ta không thể tìm được hạnh phúc thật sự, trường
tồn vĩnh cửu.
Sanh, già, bệnh, chết, là những gì mà
trong đời sống không ai có thể tránh khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy
được tượng trưng trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn độc, gai nhọn trên
sợi dây, và thớt voi.
Cái sanh mà trong câu chuyện được tượng
trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn phải được hiểu là sự sống, và sự sống
trong một kiếp bắt đầu lúc vừa được bà mẹ thọ thai, không phải lúc con lọt
lòng mẹ. Vài người tưởng tượng thai bào như một nơi chốn ấm cúng đầy đủ
tiện nghi, hay như một tịnh thất đượm nhuần tình thương mà con người ẩn
rút vào đó một thời gian để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế, được thọ
thai vào lòng mẹ không giống như hiện thân vào nằm trong một đóa hoa sen
đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi thơm ngọt ngào êm dịu. Trái lại, tứ bề là
những gì nhơ nhớp, tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn cho cả mẹ lẫn con. Sau
chín tháng mười ngày chịu đựng mọi khổ đau nằm trong một cái bọc, em được
kéo lôi, thoát ra khỏi lòng mẹ, và đưa vào đời. Một lần nữa, mẹ và con vô
cùng đau đớn. Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng giọng la
khóc ... trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích đón mừng.
Khi nói sanh là khổ, không phải chúng ta
chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc và hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau,
mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ,
là khởi duyên, tạo cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự
sống, và không sống tức không có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người
Phật tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ
đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống
như anh chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc sợi dây, vì ái
dục là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm trong
tất cả mọi người. Chính ái dục -- thô kịch hay vi tế -- thúc đẩy ta đeo
níu, cố bám chắc vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi
mãi phiêu bạt trong biển trầm luân.
Đã sanh ra, tất trưởng thành và đi dần đến cảnh già nua. Trong câu
chuyện, con rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng trưng cho tuổi già. Danh từ
"jarà" mà Đức Phật dùng ở đây không phải chỉ riêng tuổi già, mà hàm xúc ý
niệm "đi dần đến tuổi già", hay "hư hoại" đi dần đến "diệt vong". Như vậy
có sự biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ không đợi đến lúc lọt lòng
mẹ. Lẽ dĩ nhiên, tóc bạc răng long, lưng còm gối mỏi, là cảnh già nua phát
lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển nhiên, tất cả mọi người đều thấy.
Nhưng từ khi được mẹ thọ thai, trong từng phút, từng giây, từng khoảnh
khắc, chúng ta luôn luôn biến đổi, liên tục trưởng thành, không ngừng trở
thành một cái gì mới, rồi đi dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã.
Tất cả mọi sự vật được cấu thành
(sankhàra, hành) đều phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ nhiên, cơ thể vật
chất của chúng ta -- do nhiều thành phần lớn nhỏ cấu hợp -- ắt phải hoại
diệt. Đó là dukkha, đau khổ, đối với những ai hằng bám níu vào thân của
mình, chấp rằng đây là "tôi", cái nầy "của tôi". Chúng ta có thể nhìn sự
hư hoại của thân và tâm dưới ba phương diện. Trước tiên là một phần của
thân hư hoại, không thể hoạt động như ý ta muốn, như một cánh tay hay một
cái chân bại xụi, một bộ phận trong mình bị tê liệt v.v. ... và hằng trăm
triệu chứng ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư hỏng, như
đui mù, câm điếc chẳng hạn. Và thứ ba là tâm thần hư hoại, như thần kinh
rối loạn, mất trí nhớ, trở nên lãng trí, không còn hiểu biết rõ ràng. Tất
cả những trạng thái hư hoại ấy đều đưa đến đau khổ. Nhưng nếu so sánh, hai
phương diện hư hoại đầu, dầu rất khó chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng
phương diện thứ ba. Ta có bị tật nguyền thế nào, trạng thái đau khổ chỉ
kéo dài trong một kiếp sống, trong khi người mà tâm thần hư hoại ắt không
đủ sáng suốt để đi theo con đường của Giáo Pháp, và như vậy, phải chịu khổ
đau triền miên trong nhiều kiếp sinh tồn.
Nhiều bạn trẻ rất hãnh diện với thân hình
cường tráng, phương phi khỏe mạnh, của mình, vẫn không thích nghĩ hay nói
đến tuổi già, để trọn vẹn thọ hưởng những thú vui của thời niên thiếu.
Nhưng dầu ta có nghĩ đến cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc vẫn
luôn luôn nằm dưới đáy giếng. Tình trạng già nua đến với ta từng giây,
từng phút, và thâu ngắn đời sống của chúng ta trong từng chặp tư tưởng
(sát-na). Bao nhiêu người trong chúng ta chịu bình tâm suy niệm về hiện
tượng chết?
Có sanh, có sống là có bệnh. Bệnh hoạn dĩ
nhiên hiện hữu trong đời sống, và trong câu chuyện, được tượng trưng bằng
những gai nhọn trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa tuổi nào,
ta cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược nầy chỉ là nơi nương tựa của bao
nhiêu bệnh hoạn tật nguyền. Đức Phật dạy: " Hãy nhìn cái thân đẹp đẻ nầy,
một khối đau đớn, một ổ bệnh tật, được người ta bận tâm đến nhiều, nhưng
không chứa đựng gì bền vững, không có gì tồn tại."
Có những bệnh của cơ thể, cũng có những
bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh tinh thần hay bệnh của cơ thể vật chất, đều
là nguyên nhân sanh khổ. Vào thời Đức Phật, có một cụ già tên Nakulapita,
một hôm đến bạch với Ngài:
--"Bạch Hóa Đức Thế Tôn, nay con đã già
yếu, thân thể gầy còm, đi đứng lụm cụm, tuổi quá cao. Con đã đến mức tận
cùng của kiếp sống, thường bệnh hoạn và luôn luôn ương yếu. Cúi xin Đức
Thế Tôn mở lượng từ bi khuyên dạy, an ủi thế nào để con có thể an hưởng
phước báu lâu dài."
--" Đúng vậy, nầy ông Thiện Nam, quả thật
thân thể của ông đã yếu đuối mỏi mòn. Tuy nhiên, nầy ông Thiện Nam, người
nào mang thân nầy mà khoe khoang rằng mình hoàn toàn mạnh khoẻ, chỉ trong
chốc lát thôi, người ấy cũng là điên cuồng. Như vậy nầy ông Thiện Nam, ông
hãy tu tập suy niệm như sau, 'dầu thân nầy có ương yếu, ta sẽ không để cho
tâm bệnh hoạn."
Cụ già Nakulapita nghe được lời dạy của
Đức Phật thì lòng phấn khởi, hoan hỷ đảnh lễ Ngài rồi ra đi. Và cụ đến
bạch với Ngài Sàriputta (Xá Lợi Phất), xin Ngài giải thích thêm, thế nào
là thân thể bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn, và thế nào là thân bệnh mà
tâm không bệnh. Đức Sàriputta dạy:
"Nơi đây (trong trường hợp nầy), nầy ông
Thiện Nam, người không phân biện rõ ràng Giáo Pháp, không tu tập theo lời
dạy của Giáo Pháp, xem thân thể nầy là chính mình (là tự ngã), thấy tự ngã
nằm trong thân thể, thân thể trong tự ngã. Người ấy nói, "tôi là thân nầy,
thân nầy là của tôi", và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như
vậy. Đến khi cơ thể biến đổi, tàn tạ và ngày càng trở nên tồi tệ thêm,
theo định luật vô thường, bất ổn định, dính liền với mọi sự vật, mọi kiếp
sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu sầu đau khổ. Người ấy ta thán, than
van, tuyệt vọng.
"Người ấy xem thọ, tưởng, hành, thức là tự
ngã, xem chính mình nằm trong thọ, tưởng, hành, thức, hoặc xem thọ, tưởng,
hành, thức nằm trong chính mình, và nói, "chính ta là ngũ uẩn, ngũ uẩn là
ta, cái nầy là thọ, tưởng, hành, thức, của ta, và cứ thế, ý niệm tự đồng
hóa với ngũ uẩn thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi thọ, tưởng, hành, thức
biến đổi -- vì bản chất của nó là bất ổn định và luôn luôn biến đổi -- thì
người ấy buồn rầu, ta thán, âu sầu và tuyệt vọng. Đó, nầy ông Thiện Nam,
là thân bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn.
"Và bây giờ, thế nào là thân ương yếu bệnh
hoạn mà tâm cường tráng khoẻ mạnh? Người được giáo dục đầy đủ, tu tập
thuần thục trong Giáo Pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy xem thân nầy không
phải là tự ngã, và tự ngã không nằm trong thân nầy. Người ấy không nói,
"Tôi là thân nầy, thân nầy là tôi", mà cũng không bị ý niệm ấy thâm nhiễm.
Như vậy, khi thân biến đổi và tàn tạ, người ấy không âu sầu, không phiền
muộn v.v... Cùng thế ấy, người ấy không xem thọ, tưởng, hành, thức, là
chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong bốn uẩn ấy. Người ấy
không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói, "thọ, tưởng, hành, thức, là
tôi, tôi là thọ, tưởng, hành, thức". Vì không thâm nhiễm những ý niệm sai
lạc ấy, khi thọ, tưởng, hành, thức, biến đổi, người ấy không âu sầu, không
phiền muộn v.v..."
Một nguyên nhân khác đưa đến đau khổ
(dukkha) mà không ai có thể tránh là cảnh sanh tử biệt ly, bởi vì chết là
nghìn thu vĩnh biệt. Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi đã bao
nhiêu lần ta chết, và đã bao nhiêu lần ta khóc cái chết của một người
thân.
Chúng ta hãy lắng tai nghe Đạo Hữu Huỳnh
Thanh Long ngỏ lời nhắn nhủ người khách lữ hành đang lạc lối giữa rừng:
"Hởi người khách lữ hành trên cõi thế
Đi lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử-sanh sanh-tử, nẽo luân hồi
Trong Tam Giới xoay đi rồi chuyển lại!
Vô lượng kiếp khóc cha rồi khóc mẹ
Khóc vợ con, quyến thuộc, kẻ thân yêu,
Khóc cửa nhà, tài sản sớm tiêu điều!
Từ vô thỉ khóc than bao cảnh khổ.
Những giọt lệ đắng cay người đã đổ
Còn nhiều hơn nước mặn khắp trùng dương!
Hởi người khách lữ hành trên cõi thế
Đi lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử-sanh sanh-tử, nẽo luân hồi
Trong Tam Giới kiếp nầy rồi kiếp khác!
Từ vô thỉ mỗi đời người bỏ xác
Khắp địa cầu phủ trắng đống xương khô!
..."
Sanh, trụ, diệt, là định luật chung của
muôn loài vạn vật. Trong thế gian hiện tượng nầy có cái chi luôn luôn tồn
tại? Có cuộc sum họp nào mãi mãi vững bền? Có cuộc sống nào không đi dần
đến cái chết? Cứng rắn như sắt đá, to lớn như hành tinh, hung dữ như ác
thú, khôn ngoan như loài người, tất cả đều phải hoại diệt. Cũng như từ
cành cây có nhiều trái rơi rụng, trái non có, trái già có, trái chín mùi
có, cùng thế ấy, từ cành cây của đời sống ta có thể rơi lìa bất luận ở lứa
tuổi nào, từ sơ sinh, thiếu sinh, tráng niên v.v... chí đến khi niên cao
tuổi lớn. Già chết, trẻ chết, giàu sang chết, quyền quý chết, bần hàn
chết, tối tăm ngu muội chết, thông minh sáng suốt chết ... cái chết không
dành riêng cho một người, một gia đình, một xóm làng, một quốc gia hay dân
tộc nào, mà đó là số phần của tất cả mọi chúng sanh trong Tam Giới, từ Dục
Giới, Sắc Giới, đến Vô Sắc Giới, từ hạng ngạ quỷ, cầm thú, đến chư Thiên,
chư Phạm Thiên. Chúng ta bước vào đời và trưởng thành giữa những người
thân yêu: nào ông bà, cha mẹ, nào cô bác, cậu dì, nào anh chị em, nào thân
bằng quyến thuộc, thầy cô, xóm giềng v.v... Chúng ta thương yêu nhau, vui
cười với nhau, chia xẻ ngọt bùi với nhau, rồi lần lượt mỗi người ra đi một
ngã tùy theo cái nghiệp của mình đã tạo. Đến như thế nào ra đi dường thế
ấy. Chúng ta đến một thân một mình, với hai bàn tay trắng. Cũng một thân
một mình, chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay không.
Đối với phần đông chúng ta, chết là diễn biến đau khổ trọng đại nhất
trên đời, vì chúng ta suy tư sai lạc. Trong thực tế, cái chết không giống
như một chằn tinh hung dữ ẩn núp đâu đây trong lùm bụi bên đàng, chực hờ
lúc ta trờ tới là chụp lấy ăn thịt. Cái mà ta gọi là chết chỉ là cái gì đã
xảy đến ta vô số lần trong kiếp sống, chỉ khác ở một điều là lần nầy hiện
tượng chết biểu lộ dưới một hình thức hiển hiện hơn. Sách Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhi Magga) dạy rằng trong ý nghĩa cùng tột, chúng sanh chỉ sống
trong thời gian một chặp tư tưởng [1]:
"Tựa hồ như bánh xe lăn trên mặt đất,
trong một điểm thời gian vòng bánh xe chỉ chấm đất ở một điểm. Cùng thế
ấy, kiếp sống của chúng sanh chỉ tồn tại trong khoảnh khắc của một chặp tư
tưởng, hay như ta thường gọi, một sát-na tâm. Khi chặp tư tưởng ấy chấm
dứt, chúng ta nói rằng chúng sanh ấy chấm dứt".
Như vậy trong từng khoảnh khắc của kiếp
sống, chúng ta đang chết và đang tái sanh. Vì mê muội, không phân biệt
được bản chất thật sự của cái chết tạm thời trong mỗi khoảnh khắc, nên
chúng ta lo sợ một cái chết đặc biệt, xảy đến vào phút cuối cùng của kiếp
sống, mà không thấy rằng đó chỉ là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng
tạm thời. Trong câu chuyện kể trên, cái chết được hình dung như thớt voi
luôn luôn theo bén gót "khách lữ hành" đang "lang thang vô định" giữa khu
rừng bát ngát mênh mông của đời sống.
Sanh, già, bệnh, chết, là những cái khổ
mà, mặc dầu không ai tránh khỏi, chỉ đến với ta vào một giai đoạn nào. Ta
chỉ sanh một lần và chết một lần, chỉ trở nên già nua vào lúc xế chiều của
cuộc sống và, trừ phi phải bị một chứng bệnh kinh niên bất khả trị, ta chỉ
lâm bệnh từng lúc. Nhưng còn những đau khổ khác có tánh cách thường xuyên
hơn, được Đức Phật mô tả trong bài kinh Chuyển Pháp Luân như sau:
"... sống chung với người mình không ưa
thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là
khổ. Tóm lại, bám níu và ngũ uẩn là khổ."
Đó là những phiền phức và đau khổ khác không ngớt ve vãn để phá tan
tình trạng an lành của ta. Trong câu chuyện, đó là bầy ong không ngừng bay
vo vo bao phủ khách lữ hành đang lạc lối trên cõi thế.
Phải sống chung với người mình không ưa
thích là một điều khổ. Chung sống với một người điên, với kẻ sát nhân hung
bạo, tàn ác, với một tên trộm luôn luôn chực hờ để đánh cắp vật gì của
mình, với người có tánh lăng loàn lang chạ, người gian dối, thô lỗ cộc
cằn, người có tánh đâm thọc, đem chuyện đầu nầy nói xấu ở đầu kia, rồi đem
chuyện đầu kia về dèm pha ở đầu nầy, sống với người rượu chè say sưa, hư
hèn mất nết v.v... đều là khổ. Vả lại đoạn "người mình không ưa thích" ở
đây, có thể là một con thú hay một vật làm cho mình khó chịu, cũng có thể
là thời tiết quá lạnh hay quá nóng, hoặc nữa là một công ăn việc làm để
sinh sống mà mình không thích.
Tất cả những hoàn cảnh ấy đều là nguyên
nhân đưa đến đau khổ.
Cùng một thế ấy, phải xa lìa người thân kẻ
yêu là nguyên nhân gây đau khổ khác không thể tránh. Con xa cha mẹ, cha mẹ
xa con, chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, bạn bè xa cách, quyến thuộc chia ly,
đều là khổ. Nhưng có hợp là có tan, đó là lẽ tự nhiên. Cảnh sum hợp trên
thế gian là tạm bợ. Và đời sống của chúng ta, gặp gỡ nhau trên thế gian
cũng không bền bỉ lâu dài. Tất cả những mối liên hệ trong gia đình, trong
xã hội, như cha mẹ, anh chị em, chồng vợ, bạn bè quyến thuộc v.v... tất cả
đều tạm bợ.
Sống với người không ưa thích ta bị mũi
tên có tẩm thuốc độc "sân hận" gây thương tích. Xa lìa người thân kẻ yêu,
ta sẽ bị mũi tên tẩm thuốc độc "tham ái" bắn vào mình. Chúng ta mến yêu,
muốn mãi mãi sống bên cạnh những người, những sinh vật, hay những vật dụng
mà ta thương mến hay ưa thích, nhưng rồi tham vọng ấy không được thỏa mãn
trọn vẹn và chúng ta thất vọng và đau khổ. Trong một thế gian mà tính khát
khao ham muốn và gắn bó luyến ái luôn luôn ngự trị và cảnh phân tán chia
lìa là điều không thể tránh thì làm thế nào chúng ta có thể vượt thoát ra
khỏi được hai hình thức đau khổ nầy? Chúng ta hằng ngày lặn hụp bơi lội
trong biển vô thường và trong lúc ấy, chính ta cũng không ngừng biến đổi,
thì chắc chắn là phải chịu hai loại đau khổ thường xuyên nầy.
Như vậy, bằng cách nầy hay cách khác,
chúng ta không thể tránh khỏi cảnh "mong muốn mà không được". Điều mong
ước mà không thành tựu làm cho ta đau khổ. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch
lòng hay những điều mà ta ít mong mỏi nhất, lắm khi đến với ta một cách
đột ngột. Những trường hợp nghịch cảnh tương tợ trở thành không thể chịu
đựng và đau khổ đến đổi vài người yếu tánh và kém hiểu biết phải nghĩ đến
việc quyên sinh tánh mạng, tưởng chừng như chết là giải quyết mọi vấn đề
đau khổ.
Về điểm nầy Đức Phật dạy rằng chúng sanh
phải chịu cảnh già, bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu,
tuyệt vọng. Chúng ta lại mong muốn "phải chi ta khỏi bị cảnh già, bệnh,
chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và tuyệt vọng! Phải chi những
hoàn cảnh bất hạnh kia đừng bao giờ đến với ta!" Nhưng không phải chỉ bằng
cách mong muốn suông mà ta có thể chận đứng, làm cho những hoàn cảnh bất
hạnh ấy không đến với ta. Và điều ước muốn mà không thành tựu là nguyên
nhân đưa đến đau khổ. Đức Phật nhiều lần nhấn mạnh rằng mong ước suông
không thể nào bảo vệ chúng ta. Đường lối duy nhất để thoát khỏi đau khổ là
thực hành Giáo Pháp, phát triển tuệ minh sát.
Để chấm dứt đoạn mô tả đau khổ (dukkha) Đức Phật dạy: "...
sankhittena pancupàdànakkhandhà dukkhà" có nghĩa "tóm tắt, ngũ uẩn
thủ là khổ". "Ngũ uẩn thủ" là bám níu (upàdàna, thủ) vào ngũ uẩn
(pancàkkhandha).
Thủ (upàdàna) là ái dục tăng cường đến mức
cao độ. Chấp thủ ngũ uẩn, là sai lầm xem ngũ uẩn là "tôi" và "của tôi",
những thực thể không biến đổi, rồi ôm chặt, cố bám vào, và đó là nguyên
nhân sanh khổ.
Đây là sắc thái rất tế nhị của dukkha (khổ), và cũng là sắc thái bền bĩ
dính liền và gần gủi nhất với chúng ta. Năm nhóm bám níu nầy -- sắc, thọ,
tưởng, hành, thức -- là những thành phần cấu hợp nên chúng sanh. Do nghiệp
đã tạo trong tiền kiếp, tức do khuynh hướng tâm tánh (anusaya) ngủ ngầm
trong luồng nghiệp, chúng ta bám níu vào ngũ uẩn từ thuở bắt đầu kiếp sống
hiện tại. Và trong kiếp hiện tại ta tiếp tục tạo nghiệp bằng cách luôn
luôn ham muốn, khát khao ôm vào, hoặc ghét bỏ xua đuổi, điều nầy vật nọ.
Cả hai trường hợp, ham muốn ôm vào và ghét bỏ xua đuổi, đều là hai hình
thức bám níu (thủ) khác nhau. Nhưng bản chất của cái mà ta bám níu -- ngũ
uẩn -- là bất ổn định, không ngừng sanh rồi diệt, và như vậy bám níu vào
nó không khác nào lấy tay hốt lên một nắm nước và mong rằng nước sẽ ở lại
mãi trong tay. Chắc chắn là ta phải thất vọng, đau khổ. Điểm nầy sẽ được
đề cập đến ở phần sau, đoạn Sankhàra dukkhatà, Hành-khổ. [2]
Trên đây là phần đen tối của cuộc sống mà
chúng ta đang sống. Tuy nhiên, trong khu rừng của đời sống không phải chỉ
có chông gai và đá nhọn. Thỉnh thoảng ta cũng gặp một vài kỳ hoa dị thảo,
một vài bông hoa tươi đẹp, hay một vài giọt mật ngọt ngào. Chính những
giọt mật hiếm hoi ấy làm cho ta say đắm, quên hẳn mọi sầu khổ và hiểm
nguy. Và trong khi chúng ta mãi mê thọ hưởng giọt mật thì hai con chuột,
một trắng một đen, tượng trưng ngày và đêm, không ngừng gặm nhấm sợi dây
đời sống. Mỗi ngày qua đưa ta đến gần cái chết hơn một ngày. Mỗi đêm qua
đưa chúng ta đến gần cái chết hơn một đêm.
Phật Giáo đặt trọng tâm vào sự đau khổ
(dukkha) nhằm chấm dứt đau khổ. Trong khi dạy rằng đau khổ là đặc tánh nổi
bật của đời sống, Phật Giáo nhìn dukkha dưới ba sắc thái:
a. Khổ-khổ (dukkha-dukkhatà) -- đời sống
hiển nhiên là đau khổ. Đau khổ là trạng thái hiển nhiên mà mọi người đều
có thể trông thấy.
b. Vô-thường-khổ (viparanàma dukkhatà),
đau khổ vì vô thường. Viparanàma là thay đổi, biến chuyển, thay hình đổi
dạng. Bản thể của đời sống là đau khổ vì bản thể của vạn pháp là vô
thường.
c. Hành-khổ (sankhàra-dukkhatà) Trạng
thái đau khổ cố hữu dính liền với chúng sanh trong sự cấu thành chúng
sanh. Chính bản chất của chúng sanh là đau khổ. Tự chúng sanh là đau
khổ. Chính ngũ uẩn là đau khổ.
Khổ-Khổ (dukkha-dukkhatà)
Trong quyển "The Buddha's Ancient Path"
Ngài Đại Đức Piyadassi Mahà Thera viết:
"Đối với người có quan kiến chân chánh,
tức hiểu biết và không luyến ái, một sự kiện nổi bật rõ ràng minh bạch là
trong toàn thể thế gian chỉ có một vấn đề: vấn đề đau khổ, bất toại nguyện
(dukkha). Tất cả những vấn đề khác, đã được hay chưa được biết, đều trọn
vẹn nằm trong vấn đề có tánh cách phổ cập nầy. Nếu vạn nhất có việc gì trở
thành vấn đề, thì đương nhiên việc ấy phải dính liền với trạng thái bất
toại nguyện, hay nếu muốn dùng một danh từ khác, trạng thái xung đột, bất
ổn. Xung đột giữa ý muốn của ta và các diễn biến của đời sống. Và lẽ dĩ
nhiên, mọi người đều cố gắng giải quyết vấn đề. Nói cách khác, nỗ lực của
mọi người là chấm dứt trạng thái bất toại nguyện ấy, là kiểm soát, chế ngự
cuộc xung đột đã làm cho ta ưu phiền, đau khổ.
"Chúng ta nhìn vấn đề duy nhất ấy dưới
nhiều khía cạnh khác nhau, vấn đề kinh tế, vấn đề xã hội, vấn đề chánh
trị, vấn đề tâm lý, chí đến vấn đề tôn giáo. Phải chăng tất cả các vấn đề
ấy đều phát nguyên từ dukkha, đau khổ, bất toại nguyện? Nếu không phải
vậy, nếu các vấn đề ấy không phải là đau khổ, bất toại nguyện, tại sao ta
cố gắng giải quyết? Giải quyết một vấn đề phải chăng là để làm giảm suy
trạng thái bất toại nguyện? Tất cả các vấn đề đều tạo nên bất toại nguyện,
và nỗ lực của ta nhằm chấm dứt tình trạng ấy."
Đối với V.F. Gunaratna, một vị cư sĩ Phật tử người Tích Lan, chỉ cần
nhìn quanh ta với cặp mắt quan sát và tâm suy tư là ta sẽ thấy hiển nhiên
nổi bật đặc tánh đau khổ của đời sống. Trong một bài thuyết trình về Tứ
Diệu Đế ông nói:
"Có đời sống của người nào từ bé đến già
mà phẳng lặng im lìm như mặt nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ sệt, buồn
rầu, làm chao động? Có gia đình nào chưa từng khóc cái chết của một người
thân? Tìm ở đâu ra một trái tim chưa từng bóp siết nhói đau và chưa bao
giờ sầu muộn? Và chính trong giờ phút nầy -- ngay lúc tôi đang nói và quý
vị đang nghe -- có bao nhiêu trăm, bao nhiêu ngàn, hơn nữa, bao nhiêu
triệu người đang trằn trọc hay nằm vùi trên giường bệnh, ở nhà hay ở trong
các bệnh viện, trong thế gian rộng lớn và dẩy đầy đau khổ nầy? Bao nhiêu
triệu bệnh nhân khác, cũng trong giờ phút nầy, đang nằm trải mình trên bàn
mổ, giữa hai trạng thái sống và chết? Bao nhiêu người khác nữa đã đến mức
tận cùng của cuộc đời, cũng trong giờ phút nầy, đang cố bám lấy hơi thở mà
hầu như không còn trở lại nữa, và cố hớp lấy từng hớp, hơi thở cuối cùng?
Và bao nhiêu triệu cha mẹ, con cái, bạn bè, đang than khóc sự ra đi của
thân bằng quyến thuộc?
"Không thấy tức không biết, ngoại trừ
người suy tư. Vậy thử nhìn qua thế gian chung quanh ta để nhận thấy đến
mức độ nào đói rét và nạn thất nghiệp đã gây đau khổ cho nhân loại? Có
phải chăng đó là dấu hiệu không thể lầm lẫn chỉ rõ tánh cách phổ cập của
dukkha, đau khổ?"
Đó là sắc thái đau khổ hiển nhiên (dukkha-dukkhatà) của đời sống mà mỗi
người đều có thể nhận thấy.
Vô-Thường-Khổ (viparanàma dukkhatà)
"Đau khổ vì đời sống là vô thường", là sắc
thái thứ nhì của dukkha.
Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi,
không có gì ổn định, không có gì vững bền, không có gì tồn tại giống hệt
nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp, thì hậu quả dĩ nhiên là có trạng thái
vô thường, bất ổn định, bất điều hòa, những khía cạnh khác nhau của
dukkha.
Đau khổ là một cảm giác, danh từ Phật Giáo là thọ (vedanà). Theo, Vi
Diệu Pháp (abhidhamma), sách tâm lý học Phật Giáo, có năm loại thọ.
a. Somanassa, thọ hỷ, là cảm giác thích
thú về tinh thần, tức hạnh phúc, như cảm nghe hoan hỷ khi nhận được một
tin lành, nghe một thời Pháp thích thú, xem một bức tranh đẹp v.v...
b. Domanassa, thọ khổ, là cảm giác đau
khổ về tinh thần, như khi nhận một bạo tin, nghe những lời nói hung ác,
thấy những cảnh tượng bạo tàn v.v...
c. Sukha, thọ lạc, là cảm giác thích thú
về vật chất, như khi dùng một bửa ăn ngon, nằm giường êm, đi xe tốt
v.v...
d. Dukkha, cảm giác đau đớn, thiếu tiện
nghi, như uống thuốc đắng, đi ngoài trời nắng nóng v.v...
e. Upekkha, thọ xả, là cảm giác vô ký,
không lạc không khổ.
Trong thực tế, khi tinh thần được hạnh
phúc thì vật chất cũng được vui thích và trái lại, khi cơ thể vật chất
được thoải mái thì tinh thần cũng được khoan khoái yên vui. Vậy, ta có thể
gom hai cảm giác hoan hỷ thỏa thích -- tinh thần và vật chất -- làm một,
gọi chung là sukha, lạc.
Cùng một thế ấy, ta gom hai cảm giác đau
khổ khó chịu -- tinh thần và vật chất - làm một, gọi là dukkha.
Đến đây thọ hay cảm giác còn ba: sukkha, cảm giác vui thích, tinh thần
và vật chất; dukkha, cảm giác đau khổ, tinh thần và vật chất; và upekkha,
cảm giác vô ký.
Trong ba loại thọ nầy, upekkha, thọ vô ký,
rất yếu ớt, hầu như không có. Ta có thể xem như không có thọ vô ký. Còn
lại hai loại, thọ lạc và thọ khổ (sukha và dukkha), cảm giác vui thích và
cảm giác đau khổ, tinh thần và vật chất. Nhưng trong trạng thái luôn luôn
biến đổi của mọi sự vật bên trong và bên ngoài ta không thể có hạnh phúc
vững bền, tức không có hạnh phúc thật sự. Trong khi hoàn cảnh biến đổi --
và tất cả đều phải biến đổi -- chính cái hương vị ngọt bùi của hạnh phúc,
sukha, cũng trở thành vị đắng cay của đau khổ, dukkha.
Vậy, rốt cùng chỉ còn lại cảm giác đau
khổ, tinh thần và vật chất.
Thú vui được có tài sản sự nghiệp, thú vui
được lợi lộc, thú vui được danh thơm tiếng tốt, được vinh quang phú quý,
thú vui gia đình, thú vui với thân bằng quyến thuộc v.v... thật là dễ
chịu, thích thú. Tuy nhiên, tất cả đều biến đổi, và cuối cùng cái chết
phải đến sẽ chia rẽ tất cả. Đến chừng ấy nỗi sầu muộn cũng sẽ sâu đậm
tương đương với thú vui trước kia. V.F. Gunaratna viết:
"Có người nào dám bảo rằng điều may mắn sẽ
không trở thành rủi ro và những điều kiện thuận lợi, thỏa đáng, sẽ tiếp
tục còn thoả đáng? Đặc tánh vô thường luôn luôn tiềm tàng trong mọi sự
vật. Chừng nào mà đặc tánh nầy còn tồn tại thì chừng ấy còn lo sợ, còn làm
cho chúng ta đau khổ, vì chúng ta không muốn những điều kiện thỏa đáng ấy
bị chấm dứt hay gián đoạn. Đó là sắc thái viparanàma của đau khổ. Từ thuở
bình minh của lịch sử nhân loại, tình trạng bất an toàn của những gì tốt
đẹp trong đời sống đã nói lên tình trạng đau khổ."
Vua chúa lo sợ cho tình trạng an toàn của
ngôi vị mình. Người thường dân lo sợ cho tình trạng an toàn của mạng sống
mình. Người cao sang quyền quý lo sợ cho địa vị mình. Người tư bản lo sợ
cho sự an toàn của sự nghiệp mình. Người làm công lo sợ cho sự an toàn của
công ăn việc làm của mình. Nếu mọi sự vật đều biến đổi thì không thể có
thanh bình an lạc. Nếu không thể có thanh bình an lạc tức có xáo trộn, bất
ổn, và lo sợ. Và đó là dukkha, đau khổ.
Chẳng những sự vật tạo thú vui phải biến
đổi mà chính người thọ hưởng thú vui ấy cũng luôn luôn biến đổi. Như vậy,
chúng ta đang mục kích cảnh tượng buồn cười, những chúng sanh luôn luôn
biến đổi cố gắng rượt theo, bám lấy những vật cũng luôn luôn biến đổi:
hình ảnh một cái bóng chạy đuổi theo và cố chụp cho được một cái bóng
khác, trong lúc ấy mong rằng sẽ chiếm được một điều gì có thực chất. Về
điểm nầy, Ngài Piyadassi Mahà thera giải thích:
"Xuyên qua khả năng nhạy của giác quan
(lục căn), con người bị ngoại cảnh, đối tượng của giác quan (lục trần) thu
hút và thích thú trong ấy. Do đó có sự thọ hưởng, hay trạng thái hoan hỷ
trong lục trần. Đó là sự kiện hiển nhiên, không thể phủ nhận, vì tất cả
chúng ta đều thường xuyên chứng nghiệm. Tuy nhiên cả hai, sự thọ hưởng và
đối tượng thích thú của nó, đều không thể tồn tại lâu dài. Cả hai đều phải
biến đổi. Bây giờ, khi người kia không thể giữ lại, hay bị mất đi những
lạc thú, theo lẽ thông thường thì người ấy buồn rầu, sầu muộn, thất vọng.
Người ấy cũng không thích cái gì mình đã nhàm chán và luôn luôn đi tìm
những thích thú mới, giống như những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn
đi tìm bãi cỏ mới. Tuy nhiên, đặc tánh của những thích thú mới cũng là vô
thường, phù du tạm bợ, chỉ tồn tại nhất thời rồi trôi qua. Như thế, những
lạc thú của đời sống, dầu ta có thích thú nó cùng không, vẫn là bước đầu,
mở đường vào trạng thái đau khổ."(The Buddha's Ancient Path)
Trong quyển "The Buddha and His
Teachings", Ngài Đại Đức Nàrada viết:
"Hạng người thường chỉ thấy lớp mặt bên
ngoài, nhưng bậc Thánh Nhân thì có khả năng thấy thực tướng của sự vật.
Đối với các Ngài, tất cả đời sống đều là khổ và các Ngài nhận thấy rằng
không thể có hạnh phúc thật sự, hoàn toàn bền vững, trong một thế gian
huyền ảo, tạm bợ, và vô thường.
"Không thể có hạnh phúc trường tồn vĩnh
cửu trong một thế gian luôn luôn biến đổi. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự
thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa
bỏ ta. Dục vọng không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn. Không bao giờ ta cho
là đủ."
Hành-Khổ (sankhàra-dukkhatà)
Sắc thái thứ ba của đau khổ là sankhàra
dukkhatà, hành-khổ. Sankhàra, hành, là một danh từ có rất nhiều ý nghĩa.
Nơi đây danh từ nầy bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do nhiều nguyên
nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối. Theo Phật Giáo con
người là sự cấu hợp của hai phần, danh và sắc, phần tâm linh và phần vật
chất.
Về phần vật chất, với khoa học hiện đại ta
biết rằng cơ thể vật chất của chúng ta là sự cấu hợp của nhiều tế bào, tế
bào là sự cấu hợp của nhiều nguyên tử, và nguyên tử bao gồm âm điện tử,
dương điện tử, trung hòa điện tử, những thành phần luôn luôn biến đổi,
từng giây, từng khoảnh khắc, và không ngừng di động. Như vậy, con người,
sự cấu hợp của vô số những thành phần luôn luôn biến đổi, tức cũng không
ngừng biến đổi.
Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước Đức
Phật dạy rằng hai thành phần danh và sắc, tâm linh và vật chất, ở trong
trạng thái luôn luôn di động. Dựa theo Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka) ngài
Đại Đức Nàrada giải thích sự biến đổi của vật chất như sau: "Từ ngàn xưa
những nhà hiền triết Ấn Độ cũng tin có một nguyên tử bất khả phân tán gọi
là "Paramànu". Theo sự tin tưởng thời bấy giờ, 36 Paramànus hợp thành một
anu; 36 Anus hợp thành một Tajjàri; 36 Tajjàris hợp thành một Ratharenu.
Một hột bụi nhỏ mà ta thấy vởn vơ trong làn ánh sáng được gọi là
"Ratharenu". Như vậy, một Paramànu là một phần 46,656 (1/46,656) của một
ratharenu.
Với nhãn quan siêu phàm, Đức Phật phân
tách Paramànu và tuyên ngôn rằng Paramànu bao gồm những năng lực tương
quan với nhau gọi là Paramathas, hay thành phần chánh yếu của vật chất.
Những Paramathas ấy là Pathavi (Đất), Ópo (Nước), Tejo (Lửa), và Vàyo
(Gió), được gọi là Tứ Đại Chánh Yếu, hay gọi tắt là Tứ Đại. Tứ Đại là
những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa
của nó là màu sắc, hương, vị và bản chất dinh dưỡng.
Tứ Đại và bốn chuyển hóa luôn luôn dính
liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật
chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất
thành phần Pathàvi (Đất) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước, thì thành
phần Ópo (Nước) trội hơn. Trong lửa thì thành phần Tejo (Lửa) trội hơn. Và
trong không khí thì thành phần Vàyo (Gió) trội hơn. Như vậy, vật chất gồm
có những năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi,
luôn luôn trôi chảy như một dòng suối.
Về phần tâm linh, Ngài Đại Đức Nàrada
viết:
"Tâm, thành phần quan trọng hơn trong
guồng máy phức tạp của con người, gồm có 52 trạng thái tâm gọi là tâm sở,
luôn luôn biến đổi. Thọ (vedanà) hay cảm giác, là một. Tưởng (sannà) hay
tri giác, là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại được gọi chung là sankhàra
(hành), hay những sinh hoạt có tác ý của tâm. Tất cả 52 tâm sở đều phát
sanh trong thức (vinnàna). Theo triết học Phật Giáo, không có khoảnh khắc
nào mà tâm có thể trống không, nghĩa là không có khoảnh khắc nào mà không
có một loại tâm duyên theo một đối tượng, vật chất hay tinh thần. Thời
gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chặp tư tưởng, hay sát-na
tâm. Khi một chặp tư tưởng diệt, tức khắc có một chặp mới phát sanh. Như
vậy, những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn tại của một
chặp tư tưởng thật ngắn, khó có thể quan niệm.
"Mỗi chặp tư tưởng gồm ba giai đoạn: sanh
(uppàda), trụ (thiti) và diệt (bhanga). Ngay khi một chặp tư tưởng vừa
trải qua giai đoạn diệt (bhanga), tức khắc giai đoạn sanh (uppàda) của
chặp tư tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời
sống, mỗi chặp tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả những
cảm giác đã thâu nhận cho chặp tư tưởng kế. Một chập tư tưởng mới bao gồm
những tiềm năng do chặp tư tưởng trước trao lại và thêm vào đó, còn cái gì
khác, và cái gì khác đó là kinh nghiệm và cảm giác riêng của nó. Như vậy
có sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm giống như dòng suối, luôn
luôn trôi chảy. Chặp tư tưởng mới không hoàn toàn giống như chặp trước,
bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới, mà cũng không hoàn toàn khác, bởi vì
cả hai đều cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời. Không có chúng
sanh đồng nhất, nhưng có sự đồng nhất trong tiến trình đời sống của chúng
sanh."
Bốn loại hiện tượng tâm linh -- thọ,
tưởng, hành, thức -- hợp với một hiện tượng vật chất, sắc, tạo nên ngũ
uẩn, năm nhóm, năm khối, năm thành phần cấu thành một chúng sanh. Mỗi cá
nhân là sự cấu tạo của năm nhóm ấy.
Như vậy, cơ thể vật chất của con người
không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, mà là
một tiến trình luôn luôn tiếp diễn. Tâm cũng luôn luôn biến đổi như một sự
tiếp nối liên tục, giống như một dòng sông không ngừng trôi chảy và không
bao giờ tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Mỗi giây,
mỗi khắc trôi qua thì ở một điểm nào trên dòng sông, nước cũng trôi đi,
nhường chỗ cho nước từ một điểm khác trôi đến. Điều nầy đưa ta đến két
luận: Danh-sắc -- hay sự cấu thành của tâm và thân -- cấu thành chúng sanh
phức tạp mà ta gọi là con người không phải là một thực thể tự mình có khả
năng tồn tại vĩnh cửa, mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Chính
vì lẽ ấy mà nó là dukkha, đau khổ.
Vậy, sự đau khổ cố hữu dính liền với con
người trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối ngũ uẩn là
dukkha, đau khổ. Đó là sắc thái sankhàra dukkhatà, hành-khổ.
Từ ngàn xưa, tất cả chúng sanh đều mưu tìm
hạnh phúc và cố tránh đau khổ. Từ thế hệ nầy đến thế hệ khác con người cố
gắng khắc phục cảnh vật bên ngoài, điều chỉnh những điều kiện thiên nhiên
để tạo tiện nghi, làm cho cuộc sống của mình thoải mái dễ chịu. Trong
nhiều lãnh vực con người đã thành công. Tuy nhiên, với bao nhiêu cố gắng
và thành công, con người ngày nay có hạnh phúc thật sự và không còn đau
khổ nữa không? Bao nhiêu cố gắng có giúp ta chận đứng, làm cho thân nầy
đừng bệnh hoạn, đừng đi đến cảnh già nua và mãi mãi sống đời không? Ta có
còn phải sống chung với người, với vật, hay sống trong hoàn cảnh mà mình
không ưa thích không? Ta có còn phải xa lìa người hay vật thân yêu nữa
không? Ta có luôn luôn thành đạt những điều mong mỏi không?
Lẽ dĩ nhiên, cũng giống như củ cải mà
người ta treo lủng lẳng trước đầu con lừa. Lừa nỗ lực bước tới để táp lấy
cải, nhưng không bao giờ được. Con người luôn luôn cố gắng điều chỉnh
thiên nhiên để tạo hạnh phúc và chữa trị chứng bệnh đau khổ cho mình,
nhưng không bao giờ viên mãn thành công.
Tại sao? Vì con người chỉ tìm cách trị
bệnh trên bề mặt mà không đi sâu đến tận căn nguyên. Hạnh phúc và đau khổ
phát sanh từ đâu, và được duy trì tại đâu? Hạnh phúc và đau khổ phát sanh
và được duy trì trong tâm. Vấn đề phát sanh nơi nào thì ta phải giải quyết
ngay tại đó. Ta phải giải quyết vấn đề hạnh phúc và đau khổ ngay chính
trong tâm nầy. Thay vì tìm cách sửa đổi hoàn cảnh bên ngoài để thích hợp
với mình, việc làm vượt qua khỏi khả năng của mình, Phật Giáo dạy nên tự
sửa đổi chính mình để sống thích ứng, điều hòa với thiên nhiên, phải điều
chỉnh cái nhìn của mình đối với sự vật để có một quan niệm sống điều hợp
với hoàn cảnh, nhằm sữa dọn thân tâm hoàn toàn trong sạch, và cuối cùng
thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ.
Hầu như tất cả mọi người đều nhận thức
rằng hạnh phúc quả thật hiếm hoi mà đời sống thì dẩy đầy đau khổ. Nhưng
trước cái khổ, mỗi người, mỗi giới có thái độ khác nhau. Có hạng người lý
trí hóa sự khổ, dùng lý trí phân tách, suy luận, giải thích cái khổ. Có
hạng người khác thần thánh hóa sự khổ, cho rằng khổ là điều kiện tất yếu
để con người vươn mình lên như những đóa hoa sen từ bùn nhơ nước đục vượt
đến chỗ thanh khí an lành và rực rỡ nở tung trong ánh sáng ban mai. Có
người cố tình lãng quên những nỗi khổ đau để yên tâm thọ hưởng chút ít lạc
thú của đời. Cũng có người nhận thấy cái khổ rồi ủ dột âu sầu, sanh ra yếm
thế bi quan. Chúng ta không nên tự lường gạt mình, cố tình hiểu rằng không
bao giờ có hoàn cảnh khổ đau trên thế gian. Đó là phương cách lánh khổ của
chim đà điểu. Khi thấy có hoàn cảnh hiểm nguy sắp đến thì vội vã cắm mỏ
lùi trong cát để không thấy. Chúng ta phải mở rộng mắt nhìn thẳng vào vấn
đề. Khi ta chấp nhận rằng đã từ lâu mình mãi cặm cụi vát trên vai bao
nhiêu ưu phiền và đau khổ thì chừng đó ta sẵn sàng đặt xuống gánh nặng để
khoan thai rảo bước trên con đường đưa đến tự do và hạnh phúc thật sự
trường cửu.
Phật Giáo nhận cái khổ như một sự kiện
hiển nhiên sẵn có và dính liền với đời sống. Nhưng Đức Phật không dừng
bước tại đây để buồn rầu, hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương
y, khi nhận thấy và xác nhận rằng thật sự có bệnh, thì tìm phăng lên
nguyên nhân của chứng bệnh, và sau khi xác nhận rằng chứng bệnh có thể
chữa trị, kê toa và chỉ dạy bệnh nhân phương thức trị liệu thích hợp. Cùng
thế ấy, Đức Phật xác nhận đau khổ là chứng bệnh trầm kha của chúng sanh,
ái dục là nguyên nhân làm phát sanh đau khổ, và ta có thể nhổ tận gốc rễ,
diệt trừ ái dục. Rồi Ngài chỉ dạy phương thức diệt trừ ái dục, chấm dứt
đau khổ. Đó là Bát Chánh Đạo, bao gồm Giới, Định, Tuệ.
Như vậy, Phật Giáo không bi quan, cũng
không lạc quan, mà thực tiễn. Người Phật tử không tự dối mình, cho rằng
thế gian nầy quả thật là cảnh giới mong mỏi, và hạnh phúc vẫn phảng phất
đâu đây. Phật Giáo không hề khuyên bảo chúng ta phải tin rằng mọi việc đều
tốt đẹp trong kiếp sống nầy hay trong kiếp tới. Phật Giáo không mê hoặc
con người bằng những liều thuốc ngủ: "Con hãy uống viên thuốc nầy. Khi Tử
Thần đến, liều thuốc nầy sẽ cứu con tỉnh dậy và con sẽ sống vĩnh viễn, mãi
mãi đẹp đẽ và vinh quang."
Người Phật tử có thái độ của người thấy
con rắn bò dưới chân, tự nhủ rằng đây là một sinh vật nguy hiểm, rồi tìm
cách lánh xa, không âu sầu ủ dột, ngồi yên một chỗ để than khóc vái van,
hoặc tự dối mình, mãi mê vui chơi, lờ hẳn thực tế. Người Phật tử hành động
như vậy cũng không phải là đào tẩu, vì đào tẩu là lẫn trốn, sợ bỏ chạy,
không dám ứng phó với những bất hạnh của đời sống. Người đào tẩu khác hẳn
với người biết suy tư, đang nỗ lực chạy thoát ra khỏi cảnh hiểm nguy.
Hằng ngày ta có thể kinh nghiệm và nhận
thức tánh cách vô thường của vạn pháp. Hoa nở rồi tàn. Con người sanh ra,
trưởng thành, rồi chết. Mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái gì
tồn tại vững bền trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô thường có đau
khổ. Đau khổ là một thực tại của đời sống. Đau khổ dính liền với đời sống,
Phật Giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng để quan sát, suy luận, và đối phó
với thực tế.
Trong bộ Samyutta Nikàya, Tạp A-Hàm có
đoạn như sau:
Một lần nọ, Đức Thế Tôn ngự tại Kosambi,
trong khu rừng cây simsapa. Lúc ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài hỏi các
vị tỳ khưu: "Các con nghĩ thế nào, nầy chư Tỳ Khưu, số lá nằm trong bàn
tay Như Lai và số lá trên cây trong khắp khu rừng nầy, số lượng nào nhiều
hơn?
-- Bạch Hoá Đức Thế Tôn, số lá nằm trong
tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu, nhưng lá trên cây trong khắp khu rừng
nầy thì rất nhiều.
-- Cùng thế ấy, nầy chư Tỳ Khưu, những gì
Như Lai chứng ngộ mà không truyền dạy, quả thật là nhiều, như số lá trên
cây. Như Lai chỉ truyền dạy một ít.
Tại sao? Nầy chư Tỳ Khưu, tại sao Như Lai
không truyền dạy tất cả?
Nầy chư Tỳ Khưu, là bởi vì có những điều
quả thật vô ích, không thiết yếu để có đời sống thanh cao trong sạch,
những điều không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt
trọn vẹn, giác ngộ, Niết Bàn. Vì vậy, nầy chư Tỳ Khưu, Như Lai không công
bố những điều ấy.
Và nầy chư Tỳ Khưu, Như Lai công bố những
gì?
Đây là đau khổ;
Đây là nguyên nhân sanh đau khổ;
Đây là sự chấm dứt đau khổ;
Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.
Đó là những điều mà Như Lai công bố. Và tại sao, nầy chư Tỳ Khưu, Như
Lai công bố những chân lý ấy? Bởi vì các chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để
có đời sống thanh cao, trong sạch, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an
tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ, Niết Bàn. Vì vậy, nầy chư Tỳ Khưu, Như
Lai công bố các chân lý ấy."
-ooOoo-
Chú thích:
[1] Chặp tư tưởng, hay sát-na tâm, được
giải thích là một phần triệu, triệu của khoảng thời gian một cái chớp.
[2] Xem đoạn về Hành Khổ
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 | 02 |
03 | 04.a |
04.b |