BuddhaSasana Home Page
Tứ Diệu
Đế
Phạm Kim Khánh [IV] Bát chánh
X
Dựa trên triết thuyết nầy, Đức Phật vạch
ra một lối sống thích nghi để đi đến chỗ trong sạch tuyệt đối và
trí tuệ toàn hảo, Đó là Bát Chánh
Đạo, con đường dẫn thoát ra khỏi vòng
luân hồi sanh tử triền miên, và đưa chúng
sanh vượt ra ngoài mọi hình thức đau
khổ. Bát Chánh Đạo là phần thực hành của Phật Giáo. Kinh Dhammacakkappavattana Sutta, Chuyển Pháp Luân, có
đoạn như sau:
"Bây giờ, hởi nầy các tỳ khưu, đây là
chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đó là
Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và
Chánh Định."
Như vậy Bát Chánh Đạo là con
đường chia làm tám chi, bao gồm tám năng
lực hùng mạnh có tánh cách thiện. Tám chi nầy phải
được tập trung lại để đánh đỗ một năng lực
bất thiện là ái dục, dai dẳng ngủ ngầm bên trong ta. Giờ
đây chúng ta hãy tìm hiểu từng chi
một, và sau đó, nhìn chung vào toàn
thể Con Đường.
Chánh Kiến Chánh Kiến (sammà ditthi) là tri kiến chân chánh, hiểu biết
đúng. Sự vật như thế nào, hiểu sự vật
đúng như vậy. Hiểu sâu vào bên trong
thực tướng của sự vật chớ không phải hiểu phớt trên bề mặt.
Đến mức cùng tột, Chánh Kiến là thấu
triệt thực tướng của ngũ uẩn, tức thấu triệt bản chất thật sự của chính
mình. Nói theo một cách, Chánh Kiến là chứng ngộ Tứ Diệu
Đế. Tuy nhiên, trước khi
đạt đến mức độ hiểu biết cao siêu ấy,
trong nghĩa thông thường, Chánh Kiến là phân biệt chánh tà, biết
điều nào là thiện, và
điều nào bất thiện. Muốn thực hành
Giáo Pháp mà không có nền tảng Chánh Kiến vững chắc, lắm khi phải lầm
đường lạc nẻo, thay vì hướng về mục
tiêu, càng tách rời ra xa. Quan kiến hướng dẫn hành động. Sự hiểu
biết luôn luôn nằm phía sau những nỗ lực. Nếu hiểu biết sai lầm, tà
kiến sẽ dẫn dắt đến những hành
động lầm lạc có tác dụng tạo đau khổ. Ngược
lại, nếu hiểu biết chân chánh, Chánh Kiến sẽ đưa đến hành
động chân chánh và do
đó, hướng dẫn về con đường thoát khổ. Mặc dầu
sự hướng dẫn sơ khởi nầy vẫn còn là khái niệm mù mờ, hình như không
đưa đến hậu quả quan trọng, nhưng nhìn
lại tận tường, đó là bước
đầu có tánh cách quyết định cho toàn
thể tiến trình phát triển tinh thần. Ngài Ledi Sayadaw, một vị cao tăng người
Miến Điện, phân Chánh Kiến làm ba giai
đoạn. Chánh Kiến là: 1) Sự hiểu biết chân chánh rằng ta là sở hữu chủ của của cái nghiệp
mà ta đã tạo. 2) Sự hiểu biết chân chánh về thiện và bất thiện nghiệp, về hậu quả
của nghiệp đã tạo, về sự hiện hữu
của những cảnh giới ngoài cảnh người, về sự hiện hữu của những năng
lực siêu phàm. 3) Sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế.
1. Hiểu biết chân chánh rằng ta là sở hữu chủ của cái nghiệp mà ta
đã tạo.
Đức Phật dạy: "Tất cả chúng sanh là sở hữu chủ của cái nghiệp của mình, là thừa kế
của cái nghiệp của mình, sanh ra do cái nghiệp của mình, ẩn náu trong, và
nâng đỡ bởi, cái nghiệp của mình. Bất
luận nghiệp nào mà ta đã tạo, dầu
thiện hay bất thiện, thì ta sẽ là thừa kế (lãnh trọn hậu quả) của nó." Trong đời sống, ta có thể cần cù
làm lụng, kiệm cần dành để, và tạo nên
nhà cửa, sự nghiệp, vòng vàng, trang sức v.v... Ta cũng có thể thừa hưởng
những vật trên do ông bà, cha mẹ, truyền lại. Ta gọi
đó là "của mình", hay nói mình là sở
hữu chủ của những vật đó. Tuy nhiên,
dầu ta có cố bám chắc và tận lực gìn giữ đến
đâu, nó vẫn ở với ta một cách tạm thời. Bao nhiêu yếu tố như hỏa
hoạn, bão lụt, trộm cướp, kẻ thù nghịch, chiến tranh v.v... và cuối cùng,
cái chết phải đến, luôn luôn sẵn sàng
để tước đoạt quyền làm chủ của ta. Chỉ
có một điều -- nghiệp thiện hay bất thiện mà
ta đã tạo -- sẽ không bao giờ rời ta,
dầu ở trong kiếp sống nầy hay trong nhiều kiếp tương lai. Không có kẻ thù
nghịch hay trộm cướp nào tranh đoạt, không có
chiến tranh hay thiên tai nào tiêu hủy
được cái nghiệp của ta. Do vậy Đức Phật dạy rằng, "Tất cả chúng sanh là
sở hữu chủ của cái nghiệp của mình." Vì cái nghiệp mà ta
đã tạo theo dính liền với ta, ta sẽ
thừa hưởng hậu quả của nó như phần gia sản, sẽ tái sanh vào trạng thái nào
cũng do nó, nó là những người họ hàng quyến thuộc không bao giờ rời ta. Ta
sẽ ẩn náu an toàn trong thiện nghiệp và nhờ thiện nghiệp nâng
đỡ. Vậy ta phải chăm sóc, giữ gìn cái
nghiệp cho được luôn luôn tốt đẹp, phải biết
thương, biết bảo tồn thiện nghiệp hơn là thương yêu và bảo tồn
chính mạng sống của ta. Ta phải biết sợ, biết lánh xa bất thiện nghiệp hơn
là ta sợ và lánh xa cái chết của ta. Thế thường, ta muốn sống, và sợ chết.
Để bảo tồn sự sống và ngăn
chận cái chết, lắm khi ta hành động
bất chánh và do đó, tạo những nghiệp
bất thiện vô cùng tai hại mà trong nhiều kiếp sống chính ta sẽ phải
gánh chịu hậu quả. Nên nhớ rằng chết ở đây là
tái sanh, sống ở một nơi khác, và khi rời bỏ cảnh giới hiện tại ta cũng
lìa bỏ tất cả, chỉ mang theo cái nghiệp mà ta
đã tạo. Trong quyển "The Buddha and His Teachings" Ngài
Đại Đức Nàrada viết: "Tài sản sự nghiệp mà ta trìu mến bao nhiêu, thân bằng quyến thuộc mà
ta yêu quý bao nhiêu, sẽ không đi theo ta.
Chắc chắn như vậy. Cho đến cái thân nầy mà ta gọi là "của ta" cũng
vậy. Từ cát bụi nó đến, nó sẽ trở về với cát
bụi. Danh vọng ảo huyền, vinh quang trống rỗng, tất cả đều tiêu tan
theo mây, theo gió. Chúng ta đến đây một
thân, một mình. Vẫn một thân một mình, chúng ta sẽ phiêu bạt trong
cơn bão táp, giữa đại dương của vòng
luân hồi, trôi giạt đó đây theo cái nghiệp
..."
2. Hiểu biết chân chánh về thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, về hậu
quả của nghiệp đã tạo, về sự hiện hữu
của những cảnh giới ngoài cảnh người, về sự hiện hữu của những năng
lực siêu phàm.
Nghiệp là gì và tạo nghiệp bằng cách nào? Nghiệp là hành
động có tác ý. Tạo nghiệp bằng ba đường lối là
tư tưởng, lời nói và việc làm. Tất cả những hành
động có tác ý, thực hiện bằng thân, khẩu, ý,
dầu thiện hay bất thiện, đều tạo nghiệp. Những hành
động không cố ý, không có chủ tâm, nghĩa là
không có tác ý (cetanà), mặc dầu là đã
biểu hiện ra ngoài bằng lời nói hay việc làm,
đều không tạo nghiệp. Hành động thiện
tạo thiện nghiệp và đưa đến hậu quả là
hạnh phúc, tinh thần hay vật chất. Hành động
bất thiện đưa đến quả đau khổ, vật chất hay tinh thần.
Ba hành động bằng thân tạo nghiệp bất
thiện là: sát sanh, trộm cắp, và tà dâm. Bốn hành động bằng lời nói tạo nghiệp bất
thiện là: nói dối, nói đâm thọc, nói
thô lỗ cộc cằn, nói nhảm nhí.
Ba hành động bằng ý tạo bất thiện nghiệp là:
tư tưởng tham lam, sân hận, và tà kiến. Những hành động đối nghịch với mười điều
trên, được biểu hiện qua ba đường lối
thân, khẩu, ý, dầu nhằm mục đích tạo dựng tài sản,
để sinh sống, hay để vun bồi kiến thức, đều
được coi là thiện nghiệp. Người có Chánh Kiến hiểu biết chân chánh rằng những hành
động như bố thí vật thực cho thú, cho đến
người cư sĩ, hay dâng cúng đến chư tăng, nếu làm với tâm từ, sẽ
đem lại hậu quả tốt đẹp trong kiếp sống nầy và
nhiều kiếp khác. Dầu cúng dường đông đảo chư
tăng với nhiều lễ vật quý giá, hay bằng một món quà nhỏ mọn, nếu
làm với tình thương, với tâm từ, vì lòng tốt muốn giúp người, vì lòng
thành thật muốn đem phúc lợi đến người, hành
động ấy sẽ đem lợi ích cho người làm.
Cùng thế ấy, những hành động như giữ Bát Quan
trong những ngày giới, hằng ngày trong sạch giữ gìn năm
giới, hành thiền, quy y Tam Bảo v.v...
đều là thiện nghiệp. Hiểu rằng mọi hành động thiện hay bất
thiện đều tạo quả; hiểu rằng phụng dưỡng cha mẹ , làm cho cha mẹ
được hữu phúc, là tạo thiện nghiệp và
sẽ được phước báu về sau; hiểu rằng thật sự
có những chúng sanh hóa sanh, đột nhiên
được sanh ra, bỗng nhiên xuất hiện mà
không phải trải qua hình thức thai bào; hiểu rằng có cảnh giới nầy, mà
cũng có những cảnh giới khác ... những hiểu biết như vậy là chân chánh.
Người có Chánh Kiến cũng hiểu biết rằng trong thế gian có những bậc cao
minh có khả năng siêu phàm như các bậc
Thánh Tu-Đà-Huờn, Tư-Đà-Hàm,
A-La-Hán. 3. Hiểu biết chân chánh về Tứ Diệu Đế.
Đến mức c
Chánh Kiến ở mức sơ khởi là hiểu biết đúng
con đường. Như người kia lạc lối, bỡ ngỡ trước nhiều ngã
đường vì không biết chọn ngã nào, may
thay chợt nhận ra tấm bảng chỉ đàng
bên cạnh một con đường mòn xưa cũ.
Bảng chỉ đàng là Giáo Pháp của
Đức Phật, khách lữ hành thênh thang
lạc bước là phần đông chúng ta, những người
sơ cơ. Đường mòn là con đường cũ xa
xưa mà chư Phật và chư vị A-La-Hán đã
trải qua. Giai đoạn đầu tiên của Chánh
Kiến là nhận ra Con Đường, tức hiểu biết chân
chánh đưa hành giả đến hành
động trong sạch, tạo thiện nghiệp để thọ
hưởng những trạng thái nhàn lạc trong vòng luân hồi. Rồi từ
đó, đặt chân lên Con
Đường, và tiến dần
đến mức cùng tột là chứng ngộ thực
tướng của vạn pháp. Cũng có người đã lãnh hội
đầy đủ luật nhân quả, mà vẫn còn hạn
chế ước vọng của mình trong những thành tựu của thế gian. Những người nầy
có những hành động đạo đức thanh cao để tích
trữ phước báu và thọ hưởng khoái lạc, danh vọng, quyền thế v.v...
trần gian, trong cảnh người hoặc những cảnh trời nhàn lạc. Tuy nhiên,
trong sự hiểu biết bằng lý trí -- Chánh Kiến ở tầm mức tại thế -- không có
gì để đưa con người vượt khỏi định luật
nghiệp báo, thoát ra khỏi vòng tạo nhân và gặt quả.
Để giải thoát hoàn toàn ra khỏi vòng
sanh tử luân hồi, cần phải có sự hiểu biết sâu sắc, nhận chân thực tướng
của vạn pháp, Chánh Kiến siêu thế. Chánh Kiến cao siêu có khả năng đưa đến
giải thoát là thấu đạt Tứ Diệu Đế. Đức
Phật dạy:
"Bây giờ, Chánh Kiến là gì? Đó là
hiểu biết đau khổ, hiểu biết nguyên
nhân sanh đau khổ, hiểu biết sự chấm dứt đau
khổ, và hiểu biết con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ." (Digha Nikàya, Trường A-Hàm, bài kinh số 22) Bát Chánh Đạo bắt đầu với một khái niệm về
Tứ Diệu Đế, chỉ hiểu biết mù mờ xuyên qua lý trí, rồi tiến dần
đến tuyệt đỉnh là trực giác chứng
nghiệm, thấu triệt những chân lý cao siêu thâm diệu ấy và trở nên hoàn
toàn giác ngộ. Như vậy có thể nói rằng hiểu biết Tứ Diệu
Đế là bước
đầu mà cũng là mục tiêu tối hậu của
con đường thoát khổ.
Chánh Kiến về Tứ Diệu Đế phát triển qua
hai giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên được
gọi là Chánh Kiến phù hợp với chân lý (saccanulomika sammàditthi.
Sammàditthi là chánh kiến. Sacca là chân lý. Anuloma là thuận chiều với,
đúng với, phù hợp với). Giai
đoạn thứ nhì là chánh kiến thâm sâu
vào chân lý, thấm nhuần chân lý (saccapativeda sammàditthi. Pativeda là
đi sâu vào, tiến thâm sâu vào bên
trong). Chánh Kiến phù hợp với chân lý là hiểu biết rõ ràng ý nghĩa của
bốn chân lý cao siêu thâm diệu của đời sống
(Tứ Diệu Đế). Sự hiểu biết nầy phát sanh do nhờ học hỏi và nghiên
cứu những chân lý ấy (văn tuệ). Sau đó, nhờ
suy tư sâu vào mà ánh sáng của kinh nghiệm rạng chói dần dần
đến lúc vững chắc tin tưởng như vậy (tư tuệ).
Tuy nhiên, đến mức độ nầy hành giả
cũng chưa hoàn toàn thấm nhuần chân lý. Sự hiểu biết của hành giả
đến lúc bấy giờ chưa tuyệt đối là hoàn
bị, vì đó chỉ là một quan niệm rõ
ràng, thay vì là tri giác. Muốn tiến đến mức
độ thật sự chứng nghiệm phải trải qua thời gian tu tập, thực hành
pháp môn hành thiền (tu tuệ). Trước tiên, an trụ tâm vững chắc, và sau
đó, trau giồi và phát triển tuệ Minh
Sát (vipassanà nàna). Tuệ Minh Sát phát sanh do công trình quán chiếu và sáng suốt suy niệm
về ngũ uẩn, những yếu tố của kiếp sinh tồn, nhằm phân biện rõ ràng những
đặc điểm của nó. Đến mức tuyệt đỉnh của công
trình suy niệm nầy hành giả tách rời cái nhìn của mình ra khỏi
những hiện tượng hữu lậu của ngũ uẩn và nhắm vào trạng thái vô lậu, Niết
Bàn. Lúc bấy giờ, nhờ tuệ Minh Sát đã
trở nên sắc bén thâm sâu, hành giả có thể thành tựu mục tiêu, chứng ngộ
Niết Bàn. ái dục chấm dứt. Trí tuệ bừng sáng và hành giả rõ ràng thấy rằng
ái dục thật sự là nguyên nhân của mọi hình thức
đau khổ và Bát Chánh
Đạo thật sự là con
đường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Như vậy,
Chánh Kiến thấm nhuần Tứ Diệu Đế phát sanh vào giai
đoạn cuối cùng của con
đường chớ không phải vào lúc sơ khởi. Giai đoạn đầu tiên của người có
Chánh Kiến là nhận ra Con Đường. Rồi từ đó,
đặt chân lên Con Đường và nhờ
Chánh Kiến soi đường chỉ lối, tiến dần đến
mục tiêu cùng tột, chứng ngộ thực tướng của vạn pháp. Chánh Tư Duy Chi thứ nhì của Bát Chánh Đạo là
Chánh Tư Duy, suy tư đúng đắn (sammà
sankappa. Sammà là đúng, chân chánh. Sankappa
là suy tư, ước nguyện, có ý định).
Chánh Tư Duy (sammà sankappa) là suy tư chân chánh, trong ý nghĩa
có những tư tưởng hướng đến hành
động chân chánh, hay quyết định, lập tâm
quyết đến hành động tạo thiện nghiệp.
Khi căn bản của sự hiểu biết đúng đắn và
vững chắc, ta suy tư đúng đắn. Như vậy, Chánh
Kiến dẫn đến Chánh Tư Duy. Tư tưởng chân chánh bắt nguồn từ sự hiểu biết
chân chánh, và dẫn đến hành
động chân chánh.
Người hiểu biết chân chánh (Chánh Kiến) ắt suy tư chân chánh (Chánh Tư
Duy). Đàng khác người suy tư chân
chánh cũng hiểu biết chân chánh. Hai chi đầu
tiên của Bát Chánh Đạo liên
quan với nhau rất mật thiết và ảnh hưởng với nhau rất chặt chẽ. Tri kiến
thâm diệu về bản chất thật sự của kiếp sinh tồn
được hoàn mãn thành tựu nhờ suy tư sâu
sắc, và quán trạch tận tường, suy tư cặn kẻ sẽ
đưa đến giá trị tinh thần hướng đến hành
động chân chánh tương xứng với tri kiến. Hai
chi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy hợp thành giai
đoạn "Tuệ" của Con Đường Giải Thoát.
Chánh Tư Duy nằm khoảng giữa, nối liền một bên là Chánh Kiến và bên
khác là bộ ba Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Do hiểu biết chân chánh
phát sanh những tư tưởng chân chánh, tư tưởng chân chánh dẫn
đến hành
động chân chánh biểu hiện bằng lời nói chân chánh, tạo nghiệp chân chánh và
nuôi mạng chân chánh. Điều nầy cho thấy rằng
Chánh Tư Duy không phải là những suy tư riêng rẻ,
độc lập, mà là suy tư bắt nguồn từ
hiểu biết chân chánh và đưa đến hành
động chân chánh.
Chúng ta tạo nghiệp bằng thân, khẩu, ý. Tuy nhiên, cho
đặng đi đến hành
động bằng thân phải có ý muốn hành
động, trước khi nói ra lời phải có tư tưởng.
Như vậy, chính cái tâm là nơi bắt nguồn tất cả hành
động tạo nghiệp. Do đó Kinh Pháp Cú bắt đầu
bằng hai câu,
"Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ.
Tâm tạo tác tất cả. "Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ.
Tâm tạo tác tất cả. Theo triết học Phật Giáo, một hành động
biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý, chỉ tạo nghiệp khi nào hành
động ấy được thực hiện với "ý muốn làm",
hay nói cách khác, được thực hiện với tâm sở
"tác ý" (cetanà). Một em bé cầm giàn thun nhắm bắn trái xoài trên
cây. Rủi ro cục đá không trúng trái xoài
mà bay thẳng, trúng ngay vào con chim đậu gần
đó. Chim chết, nhưng em bé không tạo nghiệp sát sanh. Tại sao? Vì
em không cố tình bắn chết con chim, trong tâm của em lúc ấy không có tâm
sở "tác ý", em không cố ý sát hại một sinh vật. Một người khác, khoét
vách, đào ngạch,
định vào trộm của trong nhà kia. Chủ
nhà hay được, người ấy bỏ chạy. Tuy không lấy
trộm được gì nhưng người ấy đã
tạo nghiệp trộm cắp vì lúc ấy anh cố tâm trộm cắp. Trong tâm anh lúc ấy có
tâm sở "tác ý" lấy trộm của người. Vi Diệu Pháp cũng dạy rằng trong một loại tâm, có một số nhiều hay ít
các tâm sở đồng phát sanh, đồng hoại diệt, và
cùng hướng về một đối tượng. Như vậy, khi Đức
Phật dạy rằng "tâm dẫn đầu các pháp", một cách chính xác ta nên
hiểu rằng "tâm dẫn đầu các tâm sở". Thí dụ
như khi mắt (nhãn căn) nhìn một
tượng Phật (nhãn trần), tức có sự thấy (nhãn thức). Nhãn thức chỉ là "sự
thấy", không có sự phân biệt. Chính tâm sở "thọ" phân biệt hình dáng, màu
sắc v.v... mà không hiểu biết đó là
gì, và tâm sở "tưởng" nhận ra, hay biết đó là
tượng Phật. Cùng lúc, trong số 50 tâm sở còn lại (ngoài thọ và tưởng), có
một số tâm sở đồng phát sanh như: tín, niệm,
xả, an khinh, tinh luyện, nhu thuận, tác ý, v.v... và trong số các
tâm sở nầy chính cetana, tâm sở "tác ý", tạo nghiệp. Do
đó Đức Phật dạy: "Như Lai tuyên bố,
chính tác ý là nghiệp." Trong trường hợp câu Pháp Cú số (1) -- tâm dẫn
đầu các pháp -- danh từ "pháp" có nghĩa là
những tâm sở bất thiện, và trong câu (2), pháp là tâm sở thiện. Nếu không
có tâm, ắt không có sự thấy tượng Phật (nhãn thức), tức nhiên các tâm sở
khác như thọ, tưởng, tín, niệm, tác ý, v.v... không phát sanh. Do
đó tâm là cái
đến trước. Tâm dẫn đầu tất cả những tâm sở
thiện và bất thiện. Và trong số ấy, tâm sở tác ý, hay ý muốn làm,
là quan trọng hơn tất cả vì chính tác ý tạo nghiệp. Tâm dẫn
đầu mọi hành
động và tác dụng như thành phần chánh
yếu trong khi tác hành cũng như trong khi quyết
định tác động. Chính tâm điều khiển và
tạo tác hành động -- biểu hiện dưới hình
thức thân, khẩu, hay ý. Trong cặp song yếu nầy Đức Phật nhấn mạnh
vào vai trò rất quan trọng của tâm suy tư chân chánh (Chánh Tư Duy)
trong kiếp sống con người. Và từ đó Đức Thế
Tôn giải thích bằng cách nào hành động
có thể trở nên thiện hay bất thiện, tùy theo các tâm sở
đồng phát sanh đưa đến hành
động. Cuối cùng Ngài nhắc
đến hậu quả dĩ nhiên phải có của những
hành động tương tợ.
Tâm có khả năng kiến tạo vô bờ bến, mà
cũng có sức phá hoại không thể lường được.
Tâm tạo thiên đàng mà cũng tâm,
tạo địa ngục. Tâm có thể dẫn dắt ta đi rất xa
trên con đường thiện, mà cũng
có thể đưa ta xuống thật sâu trong vực thẩm
của tội ác. Giống như lưỡi dao bén. Ta có thể dùng nó
để tự cạo râu tóc hay tự khứa cổ mình.
Chính ta phải quyết định dùng nó vào
việc nào. Chánh Tư Duy là có tư tưởng đúng, là
quyết định chân chánh, có tâm hướng thiện.
Chánh Tư Duy gồm ba loại:
1) Tâm dứt bỏ. Đức Phật dùng danh
từ nekkhama, có nghĩa là xuất gia, hàm xúc sự từ khước những dục vọng
trần tục, và nghịch nghĩa với tham dục, tâm luyến ái, vị kỷ, bám níu vào
tư sản. 2) Tâm không thù hận, avyàpada, tức từ ái, thiện ý, hảo tâm, nghịch
nghĩa với sân hận, ác ý, oán ghét. 3) Tâm không hung bạo, avihimsa, tức ôn hòa, hiền lương, lòng bi mẫn,
không hung ác, bạo tàn. 1. Tâm dứt bỏ
Nguồn gốc của đau khổ là ái dục, và
luyến ái là một hình thức ái dục. Do đó loại
tư tưởng chân chánh đầu tiên là khước từ, dứt bỏ, không luyến ái. Do màn vô minh che lấp, chúng ta tự đồng
hóa với ngũ uẩn, và lầm lạc chấp rằng thân nầy là "ta", thọ nầy là
"ta" v.v... "ta" là thân nầy, "ta" là thọ nầy v.v... và từ vô lượng kiếp
chúng ta gia công vun quén đấp bồi cái ảo
kiến "ta" một cách kiên cố. Chúng ta thỏa thích thọ hưởng những gì
thuận ứng với những đòi hỏi của cái
được gọi là "ta", và bám chặt, ôm sát,
níu chắc, những dục vọng. Chúng sanh mê muội trong
đám mây vô minh, lấy cái "ta" làm
trung tâm của mọi sự vật và cố đem vào
càng nhiều càng tốt, bám lấy càng chặt càng hay. Nhưng khổ thay! dục vọng không bao giờ
được thỏa mãn trọn vẹn, vì bản chất tham dục của con người là không
bao giờ biết đủ. Khi một điều mong muốn được
thành đạt, thì có một mong muốn
mới phát sanh. Con người luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới,
cố rượt theo để bám lấy những ảo ảnh, để cố
chụp cho được cái mà thật sự chỉ là những hình bóng ảo huyền, và
như thế con người luôn luôn châm nhiên liệu
để dưỡng nuôi và bảo trì ngọn lửa tham ái của kiếp sinh tồn. Chính
sự tham muốn ích kỷ, sự luyến ái vô độ lượng,
và sự bám níu đam mê dính chặt
vào những sự vật trên thế gian đã lôi
cuốn con người mãi mãi lặn hụp trong biển trầm luân. Vì thế, món thuốc
đầu tiên
để làm giảm suy căn nguyên
luyến ái của chứng bệnh đau khổ là tâm
dứt bỏ, khước từ, mà danh từ được Đức Phật dùng
là nekkhama, xuất gia, hàm ý là từ khước những dục lạc trần tục
để chọn lấy đời tu sĩ.
Dĩ nhiên, nhận thức rằng xa hoa vật chất là ảo huyền, và thú vui trần
tục không tạo hạnh phúc thật sự, rồi tự nguyện lìa bỏ tất cả sự nghiệp
trên đời để khoác lấy tấm y vàng làm
người không nhà cửa, không gia đình,
tự ý sang đời nghèo nàn,
đơn giản, để cố gắng sống hoàn toàn
trong sạch, là hình thức khước từ cao thượng nhất. Tuy nhiên,
Đức Phật không bao giờ khuyên dạy tất
cả mọi người đều nên ly gia cắt ái.
Ngài chỉ dạy rằng dầu xuất gia hay tại gia cư sĩ, chúng ta nên thận trọng
nhận thức mối nguy hại của nhục dục ngũ trần mà Ngài ví như cục xương khô,
như ngọn đuốc mà ta cầm
đi ngược chiều gió, như hầm than cháy đỏ, như
vật vay mượn, như một giấc mơ v.v... và Ngài dạy: "Nầy chư tỳ khưu, thú vui của nhục dục ngũ trần quả thật là tạm bợ, vô
thường, là trống rỗng, giả tạo, là không thực ... " Có những tư tuởng buông bỏ, từ khước những dục vọng trần tục, không vị
kỷ luyến ái tài sản sự nghiệp, xa lánh cuộc
đời phồn hoa đô hội và khoái lạc vật chất, không bám níu vào cái
"ta", không đeo níu theo đời sống, là
loại Chánh Tư Duy đầu tiên. Đức Phật mô tả giáo lý của Ng
"Chắc như vậy, con đường dẫn đến lợi lộc
trần gian là một, và con đường dẫn đến
Niết Bàn là con đường khác. Thông hiểu
như vậy, thầy tỳ khưu đệ tử Phật không nên thỏa thích trong mùi
danh bã lợi của thế gian mà phải trau giồi hạnh buông xả." (Kinh Pháp Cú,
câu 75) Con đường của thế gian là con
đường tham ái, dục vọng. Con người thế gian
đi dài, thuận chiều theo con đường ấy,
nhằm mưu tìm hạnh phúc trong sự thỏa mãn nhục dục của mình. Giáo
Huấn Buông Bỏ mà Đức Thế Tôn ban truyền kháng
cưỡng, chống lại sức lôi cuốn như thác lũ của tham vọng, đi dần đến mức
chấm dứt ái dục và tìm hạnh phúc, không phải trong sự thỏa mãn, mà
trong sự dứt bỏ, khước từ ái dục. Dầu là bậc xuất gia hay hàng tại gia cư sĩ, nguyên tắc chỉ
đạo chánh yếu vẫn được ghi nhận là
phải hoàn toàn tận diệt mọi hình thức tham ái mới có thể trọn vẹn thành
tựu mục tiêu giải thoát. Biết rằng ái dục là nguyên nhân phát sanh
đau khổ (tập đế), và biết rằng chấm
dứt hay làm giảm suy đau khổ đến mức độ nào
tùy thuộc ở sự chấm dứt hay mức độ làm
giảm suy ái dục, người Phật tử thuần thành cố gắng phát triển tâm buông
bỏ. Nhưng chính tại điểm nầy ta gặp phải sức
kháng cự mạnh mẽ từ bên trong. Từ lâu, tâm của chúng ta
đã quen thâu thập, cố bám, nắm giữ, và
tích trữ. Thói quen ấy đã trở thành
bản tánh tự nhiên, không dễ gì dùng ý chí mà thay
đổi. Dầu lý trí có ưng thuận buông bỏ nhưng
tâm, chịu ảnh hưởng của ái dục, vẫn khư khư chấp thủ, không khứng chịu
khước từ. Do đó vấn đề bây giờ là làm thế nào
để gỡ cái tâm ra khỏi sự chi phối của ái dục.
Đức Bổn Sư không dạy phải đè nén hay cưỡng bách, xua
đuổi ái dục ra khỏi tâm, vì
đó chỉ là giải pháp tạm thời. Công cụ
mà Đức Thế Tôn trao truyền để diệt trừ ái dục
là tri kiến, hiểu biết chân chánh bản chất của sự vật, Chánh Kiến
và Chánh Tư Duy. Dứt bỏ, từ khước, thật sự không phải là vấn
đề tự ép buộc mình cố gắng buông bỏ
những gì mà sâu kín trong lòng mình vẫn còn tưng tiu, ôm ấp, mà là vấn
đề tự mình thay
đổi quan kiến của mình, nhìn sự vật
dưới ánh sáng trí tuệ. Khi chúng ta quán trạch tận tường và thấu triệt
đầy đủ bản chất thật sự của ái dục và
những đối tượng của nó thì chính nó sẽ
tan biến mà không cần phải chiến đấu.
Một em bé đang say mê giữa
đám đồ chơi của em. Nếu có ai đến xin, hoặc
giựt của em một món, ắt là em khóc la và tranh
đấu cố giành lại cho kỳ
được. Nhưng khi em bé lớn dần. Đến một ngày
nào, em sẽ không còn bám níu vào những món đồ
chơi ấy nữa, mà để mặc tình ai
lấy đi hay làm gì cũng
được.
Tại sao? -- Vì em đã trưởng thành. Cũng dường thế ấy, ngày nào ta nhận thức rằng ái dục là nguồn gốc của
đau khổ, và
đau khổ luôn luôn dính liền với ái dục, bởi vì
ái dục là khát khao và bám chặt vào một cái gì không ngừng biến chuyển,
một cái gì không thật sự có, thì làm sao tránh khỏi sầu muộn,
đau buồn, thất vọng. Đến chừng ấy ta sẽ không
còn luyến ái và cố bám, cố giữ những gì mà lúc nào tưởng chừng như
đó là nguồn hạnh phúc duy nhất trên
đời.
Ta có thể tưởng tượng rằng từ bỏ ham muốn
để vượt đến buông bỏ là một hình thức khổ hạnh, là từ hoàn cảnh
sung sướng trở thành gian khổ, từ phong phú dồi dào trở nên nghèo nàn
thiếu thốn, từ hạnh phúc thành sầu muộn. Nhưng trong thực tế
đó là đi
từ thỏa thích thô kịch đến hạnh phúc tinh vi tế nhị, êm dịu và thâm
trầm, từ những thú vui đầy phiền lụy và
cạm bẩy đến an lạc, thanh bình và thật
sự châu toàn -- từ nô lệ đến tự do.
Biến chuyển nầy không xảy diễn một cách nhanh chóng hay
đột ngột. Nhưng nếu ta chuyên cần tu
niệm ắt một ngày nào nó sẽ đến ... như một ngày
nào em bé trưởng thành. 2. Tư tưởng không thù hận
Tư tưởng không thù hận hàm ý là tâm từ. Tâm từ trong Phật Giáo không có
bất luận giới hạn hay sự phân biệt nào mà cũng thâm diệu
đậm đà như tình thương của bà từ mẫu
đối với người con duy nhất của bà. Có những lời dạy nên thương người láng giềng, người
đồng đạo, người đồng chủng, người đồng hương,
người đồng chí, người đồng loại v.v... Tất cả những tình thương ấy
đều trong sạch, tốt đẹp, và cần thiết
trong xã hội. Nhưng đó không phải là
tâm từ trong Phật Giáo, vì có sự phân biệt và có giới hạn trong tình
thương. Đó là những thứ tình thương
giới hạn trong ý nghĩa có cái gì "đồng ..."
Đây là "ta". Giữa đây và chúng
sanh nào đó ... có một điểm gì chung,
một điểm gì "đồng"
với "ta" thì có tình thương. Đồng thời
có sự phân biệt với những người khác, những người không có gì "đồng".
Thương người láng giềng của "ta", người có chung một tôn giáo với "ta", cùng
một chủng tộc với "ta", cùng xứ sở với "ta" v.v... Lấy cái "ta" làm trung
tâm điểm, rồi từ đó tình thương phát
tủa ra như ánh sáng một ngọn đèn trong
căn phòng, giới hạn bên trong bốn
vách. Đó là bản chất tự nhiên của con
người. Tình thương vẫn là tình thương, với tất cả những gì tốt
đẹp, dịu hiền, dễ mến của nó. Xã hội
không thể tồn tại nếu không có những tình thương ấy. ở
đây chỉ muốn nói rằng tâm từ trong Phật Giáo
không phải như vậy. Tâm từ trong Phật Giáo bao trùm toàn thể chúng
sanh, toàn thể càn khôn vũ trụ, vô lượng vô biên, không có sự phân biệt
nào. Người có tâm từ phải vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ, riêng tư,
không bị giam hảm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của
tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng
tộc, tôn giáo, mà nhìn tất cả thế gian là quê hương của mình, và
mỗi người, mỗi chúng sanh, là bạn đồng hành
trong đại trùng dương mà ta gọi là
đời sống của muôn loài vạn vật. Người
có tâm từ hòa đồng với tất cả, tự mình
chan hòa trong toàn thể, xem vạn vật và mình là một. Một loại tâm như vậy quả thật là cao thượng. Nhưng cũng rất khó thực
hành. Đúng như vậy. Vì lẽ ấy chúng ta
còn là phàm nhân. Chúng ta còn phân biệt đây
là "ta", kia là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con, là cháu "của
ta". Cái nầy là tiền của, sự nghiệp, cái kia là danh vọng, quyền thế "của
ta" v.v..., chư vị A La-Hán đã tận
diệt ngã chấp. Tâm của các Ngài như vừng thái dương, bao trùm vạn vật mà
không có sự phân biệt nào. Đức Phật là
kết tinh, là hiện thân của tâm từ vô lượng vô biên ở mức
độ cùng tột.
Đó là những gương lành trong sạch
để ta noi theo, là lý tưởng thanh cao
tuyệt đỉnh để ta hướng tâm về. Suy tư nào,
tư tưởng nào hướng về tâm từ vô lượng ấy là Chánh Tư Duy. 3. Tư tưởng không hung bạo
Hung bạo là gây tổn thương cho người khác mà không xót thương, không
động lòng trắc ẩn trước tình trạng
đau khổ của người khác. Nghịch nghĩa của hung
bạo là bi mẫn, động lực làm cho
ta rung động trước cảnh khổ của người khác, là
cái gì thoa dịu lòng khổ đau của người, là
thiện ý muốn giúp người lâm nạn thoát một cảnh khổ. Tâm không hung bạo là
tâm bi. Cũng như tâm từ, tâm bi phải vô lượng vô biên, không bị hạn
định trong một gia đình, một xóm, một
làng, một quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp, hay một loại chúng sanh
nào. Đối tượng của tâm từ l
Thấy người hoạn nạn rồi âu sầu ủ dột, phiền muộn khóc than.
Đó không phải là tâm bi, mà giống như
"người thù mang lốt bạn" của tâm bi. Tâm bi trong Phật Giáo không phải là
những giọt nước mắt nhỏ suông trước sự đau
khổ của kẻ khác. Đặc tánh của tâm bi là ý muốn giúp người khác
thoát khỏi một cảnh khổ, chớ không phải là phiền muộn âu sầu với họ. Thọ
ưu (domanassa, cảm giác buồn khổ) thuộc về tâm sân (dosa hay patigha) một
trong ba căn bất thiện.
Tâm bi giống như tình thâm của bà từ mẫu thương xót
đứa con đang lâm bệnh. Bao nhiêu tâm
trí, lời nói, và hành động đều tập trung lại
để chuyên chú tìm phương thế làm cho con
đỡ đau khổ. Lòng của người có tâm bi
thật là mềm dịu, hơn cả những tai hoa mềm mại, không bao giờ hành
động hay làm
điều chi gây tổn hại cho người khác. Chính
nhờ tâm bi mà con người có thể phục vụ một cách hoàn toàn vị tha.
Người có tâm bi không sống cho mình mà sống cho kẻ khác, và luôn luôn tìm
cơ hội giúp người, nhưng không bao giờ mong
đợi được đền ơn đáp nghĩa. Có những suy tư hướng về tâm bi là Chánh
Tư Duy. Bản chất của chúng sanh là tham lam, sân hận và hung bạo, phát sanh do
ái dục, vì khư khư cố chấp đây là
"ta", cái nầy là "của ta". Chúng ta vui thích với những gì vừa ý, và ghét
bỏ những gì phật lòng cái "ta". Vui thích thì
đâm ra luyến ái, đeo níu, cố bám chắc, tức tham. Phật lòng thì bất
mãn, xua đuổi, giận dữ, oán ghét, tức sân,
lắm khi đưa đến hung bạo, tàn ác. Khi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy dần dần phát triển, hiểu biết và suy tư
chân chánh hỗ trợ lẫn nhau đưa đến nhận thức
ngày càng rõ rệt bản chất rỗng không của cái gọi là "ta". Chừng ấy
tâm luyến ái, sân hận và hung bạo dần dần suy giảm, nhường chỗ cho tâm
buông bỏ, khước từ, tâm từ và tâm bi. Chánh Ngữ Chánh Ngữ là có lời nói chân chánh, tức không tạo nghiệp bất thiện bằng
lời nói, trái lại, trau giồi thiện khẩu nghiệp. Lời nói là một khả năng của con người có
giá trị vô cùng trọng đại. Bằng lời
nói, ta diễn đạt những tư tưởng thầm kín để chia xẻ với người khác. Người
có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy tức nhiên cũng có Chánh Ngữ. Những
người khác, dầu chưa đạt đến mức cao thượng
ấy, vẫn có thể tu tập, thận trọng chú tâm vào những gì mình sắp
nói. Nếu con người có thể kiểm soát cái lưỡi không xương của mình, nhân
loại ắt tránh khỏi bao nhiêu phiền phức, và
đời sống trên thế gian sẽ tốt đẹp hơn
biết bao nhiêu. Lời nói trong sạch sẽ không
đượm nhuần những tâm sở bất thiện như tham
lam, sân hận, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ v.v... Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là: nói dối, nói
đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn và nói
nhảm nhí. 1. Không nói dối, mà luôn luôn nói lời chân thật là
đức hạnh đầu tiên của Chánh Ngữ. Người
nghiêm trì giới nầy cố tránh nói lời giả dối, tức chuyện có nói không,
chuyện không nói có. Người ấy nói lời chân thật, sống chân thật,
đáng được tín cẩn. Tâm sở bất thiện nằm phía
sau lời nói giả dối, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự thật,
có thể khác nhau, như khi nói dối để được lợi
về tài sản vật chất, địa vị xã
hội, quyền thế, danh vọng v.v... cho mình hay cho người thân mình, thì
đó là tâm tham. Nói dối với ý
định làm hại người khác là tâm sân
v.v... Nói lời giả dối tác hại cho người mà cũng làm hại chính mình. Xã hội
chỉ có thể tồn tại êm thấm trong sự tín cẩn lẫn nhau, khi mà người nầy có
lý do để tín nhiệm người khác. Tật nói dối còn
ảnh hưởng tai hại đến tâm tánh tự nhiên
của mình. Khi đã nói dối một lần ta bị
bắt buộc phải nói dối nữa để che đậy cái dối
trước và như vậy, gài chặt người nói dối vào một loại cạm bẩy rất
chằng chịt, không lối thoát, Lắm lúc, đến độ
nào, chính người nói dối cũng không còn biết sự thật. Giả dối là một trở ngại quan trọng trên
đường giác ngộ, vì giác ngộ là thấu triệt chân lý, thấy rõ thực
tướng của sự vật, còn nói dối là nói sai sự thật, cố tình làm cho người
khác hiểu sai sự thật. Chứng ngộ Chân Lý là trọn vẹn tự hòa
đồng với sự thật, tự đồng hóa với cái gì
thật sự là như vậy. Người giả dối nghĩ một đàng
nói ra một nẻo, lấy giả làm thật. Con đường
giả dối hẳn ngược chiều với con đường giác ngộ. Vấn đề ở đây là
trọn vẹn hòa đồng với Chân Lý.
Đến mức c
"Giống như sao mai mà ta thấy trên trời vào buổi sáng. Ngày nào như
ngày nấy, lặng lẽ xuất hiện nơi vị trí của nó, không mảy may sai chạy. Năm
tháng trôi qua, sao mai vẫn y hẹn. Lời nói của bậc thiện trí cũng phải
đúng như vậy, không khi nào lệch khỏi sự thật. Không bao giờ sai
hẹn." Một chuyện khác thuật rằng sau khi Ràhula [10] xuất gia, bài pháp
đầu tiên mà
Đức Thế Tôn dạy chú sa-di bảy tuổi ấy là
bài Ambalatthika Ràhulovàda Sutta, được ghi
lại trong bộ Majjhima Nikàya, Trung A-Hàm, số 61. Chuyện rằng ngày
kia thấy Đức Phật từ xa đến, sa-di Ràhula
dọn dẹp chỗ ngồi và để sẵn nước cho Ngài
rửa chân. Khi rửa xong, Đức Phật chừa lại một ít
nước trong thau và hỏi, "Ràhula, con thấy còn lại một chút nước
trong thau không? -- Bạch Đức Thế Tôn, có.
-- Cùng thế ấy, nầy Ràhula, đời sa-di quả
thật không nghĩa lý gì, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn. Rồi Đức Phật tạt hết nước trong thau ra và
dạy, "Đời sa-di quả thật như bỏ đi, nếu còn
nói dối mà không biết hổ thẹn." Rồi Đức Phật lật úp cái thau xuống và
dạy, "Đời sa-di quả thật đảo lộn nếu còn
nói dối mà không biết hổ thẹn." Cuối cùng, Đức Phật lật cái thau trở lên,
để ngay ngắn rồi dạy,
"Đời sa-di quả thật rỗng không và
vô vị, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn. Với người nói dối mà không
biết hổ thẹn, Như Lai tuyên bố, không có điều
tội lỗi xấu xa nào mà người ấy có thể không làm. Do
đó, Ràhula, con phải cố gắng lập tâm:
Dầu trong lúc chơi đùa, tôi cũng không
nói dối." Dầu có phải hy sinh mạng sống, Bồ Tát không hề nói lời giả dối. Chư vị
Bồ Tát rất quan tâm đến lời chân thật vì
ảnh hưởng của sự giả dối rất sâu đậm.
2. Không nói đâm thọc mà chỉ có
những lời đem lại tình thân hữu, sự
hòa hợp. Danh từ "pisunàvàcà" được
Đức Thế Tôn dùng ở đây có nghĩa là
lời nói nhằm bẻ gảy tình bằng hữu. Thành ngữ mà người thế gian thường dùng
là "đâm bị thóc, chọc bị gạo", trong ý nghĩa
đi đầu nầy nói xấu đầu kia rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha
người nầy, nhằm tạo tình trạng thù hằn, hờn giận hay chia rẽ.
Đức Phật dạy:
"Người trì giới nầy cố tránh và kiêng cữ, không dùng lời lẽ có tánh
cách đâm thọc. Điều gì nghe ở
đây người ấy không lặp lại ở nơi khác nhằm
tạo chia rẽ, hoặc nghe ở nơi khác, người ấy không lặp lại ở đây với ý định
làm cho hai đàng hờn giận lẫn
nhau. Người ấy đoàn kết những ai chia
rẽ và khuyến khích những ai đoàn kết.
Không khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa thích
và phấn khởi trong sự hòa hợp, và bằng lời nói, cố gắng gieo trồng mầm
mống thuận hòa." (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt
A-Hàm, 176) Động cơ thúc đẩy đưa đến lời nói đâm thọc thường l Đứng về phương diện nghiệp báo, quả của lời nói đâm thọc rất l Người nói đâm thọc giống như loài
muổi, hút nọc độc đầu nầy rồi đến ve vãn
đầu khác, hút một ít máu và trong lúc
ấy, không quên để lại phần nào nọc
độc. Miệng nói ngọt ngào như mật,
nhưng tâm đượm nhuần chất độc. Lời chân chánh
(Chánh Ngữ) không tạo phiền phức cho ai mà chỉ
đem lại hòa hợp và an tĩnh. Thay vì
gieo rắc mầm mống chia rẽ, người ấy luôn luôn tạo hòa khí giữa những người
bất đồng ý kiến, xây dựng tình bằng
hữu giữa những người thù nghịch. Trong xã hội loài người, chúng ta không thể sống riêng rẽ một mình mà
phải tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi ích kế cận nhất của mỗi người,
chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau trong bầu không khí thuận
hòa, trong tình huynh đệ, và trong sự
điều hòa. 3. Không nói lời thô lỗ cộc cằn, mà chỉ ăn
nói thanh tao nhã nhặn, là đức
hạnh thứ ba trong Chánh Ngữ.
Lời thô tiếng cộc biểu lộ ra ngoài tâm hung bạo thô tục lỗ mãng bên
trong, và được thốt ra trong cơn nóng giận.
Tánh cách thô bạo của lời nói như thế có thể biểu hiện dưới nhiều hình
thức như la rầy, mắng nhiếc, chưởi rủa hay nói xiêng nó xỏ, soi bói v.v...
tất cả đều phát sanh từ tâm bất mãn,
sân hận và nhằm gây phiền muộn khổ đau cho
người khác. Những cơn nóng giận thường bộc phát đột ngột, không có sự
nghiền ngẫm suy tính, do đó hậu quả không đến nỗi trầm trọng lắm. Tuy nhiên,
vì nó có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ
đểnh để lặp đi lặp lại thành thói quen
và từ đó trở thành tâm tánh sân hận,
hung bạo, mỗi lần mở miệng là thốt ra những lời cộc cằn thô tục thì
đó rõ ràng là một hiểm họa. Lời nói
thô bạo biểu lộ sự nóng giận, lúc nào cũng là một tai hại cho người nghe
cũng như cho người nói, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vào thời Đức Phật có vài vị tỳ khưu
thường nặng lời lăng mạ một vị khác, và
vị nầy trả lời lại. Đức Phật khuyên:
"Không nên dùng lời thô lỗ cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô.
Những lời gây thù trả oán thô tục thật là đau
đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn thương như gây thương tích."
(Kinh Pháp Cú, câu 133)
Ngài dạy về lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng
mạ của kẻ khác như sau: "Nếu có thể giữ im lặng như cái mỏ bể, con đã
đắc Quả Niết Bàn", ý nói người hành
đúng như vậy, dầu còn tại thế, cũng
được xem là cao thượng như
đã chứng
đắc Niết Bàn. Tự kềm chế, cố tránh, và kiêng cữ những lời thô bạo trong cơn nóng giận
là trau giồi hạnh nhẫn nhục, cũng là một ba-la-mật -- khanti paramita,
ba-la-mật nhẫn nhục. Đó là nhẫn nhục
chịu đựng những lời khiển trách khắt khe và
khoan hồng bỏ qua những sai lầm của người khác, tôn trọng những quan
điểm dị đồng và cảm thông những thiếu
sót của người. Tự kiểm soát thân tâm là cái chìa khóa mở cửa
đưa vào hạnh phúc và
để cho những cảm xúc vô độ lượng, vô trật tự,
đượm nhuần sân hận, điều khiển mình, tức là tự
đặt mình vào tình trạng nô lệ tệ hại
nhất. Túc Sanh Truyện số 269 có thuật chuyện Bồ Tát, tiền thân của
Đức Thế Tôn, là vua xứ Benares (Ba La
Nại) trong một kiếp sống. Đức Hoàng
Thái Hậu mẹ Ngài là người hiền lương nhưng
đôi khi ăn nói cộc cằn. Hôm nọ, Vua cùng
đi với Hoàng Thái Hậu và
đoàn tùy tùng, dạo chơi trong ngự
uyển. Bên đàng có con chim ác là, màu
sắc xanh tươi lộng lẩy, nhưng mỗi khi cất tiếng lên thì giọng kêu chát
chúa, ai nấy cũng bịt tai, ngoảnh mặt than phiền. Một lúc sau
đến nơi khác, có con chim chích chòe,
lông đen xấu xí mà tiếng hót lãnh lót
thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích nghe, ai cũng trông cho nó hót thêm nữa
để nghe.
Nhân cơ hội, Vua mở lời khuyên nhủ mẹ: "Kính thưa Mẫu Hậu thân mến, tiếng kêu của con chim ác là thật chát
chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh. Thật không ai thích nghe lời thô lỗ.
Chim chích chòe trái lại, mặc dầu đen đúa xấu
xa nhưng đã thu hút được mọi người
bằng giọng hót thanh nhã dịu hiền. Như vậy, lời nói của ta phải là
cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa
v.v..." Do lời khuyên của người con sáng suốt, kể từ
đó về sau Hoàng Thái Hậu giữ gìn lời
ăn tiếng nói và trở nên thanh nhã dịu
hiền. 4. Không nói nhảm nhí mà chỉ nói lời hữu ích. Pháp học nầy
được Đức Phật dạy như sau:
"Người (nghiêm chỉnh thọ trì phẩm hạnh nầy) cố tránh và kiêng cữ nói
lời nhảm nhí, vô ích. Người ấy nói đúng lúc,
đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo Pháp và
Giới Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra
đúng lúc, hữu lý, hòa nhã, và
đầy ý nghĩa." (Anguttara Nikàya, Tăng
Nhứt A-Hàm, số 176) Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông cạn và không mang lại lợi ích nào.
Những lời lẽ như thế chỉ khơi động vọng tâm.
Đức Phật khuyên nên hạn chế những ngôn từ thuộc loại nầy.
Đối với bậc xuất gia, lời nói phải thật là
cẩn ngôn, phải được chọn lọc, và chỉ
nói những gì thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy: "Nầy chư Tỳ Khưu, khi các con tụ họp
đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm:
hoặc thảo luận về Giáo Pháp, hoặc giữ im lặng cao thượng." (Majjhima
Nikàya, Trung A-Hàm, số 26)
Thảo luận Giáo Pháp là đề cập đến bản chất
thật sự của vạn pháp, của Con Đường dẫn đến chứng ngộ Chân Lý cùng
tột, Niết Bàn, và do đó quả thật là
hữu ích. Đàng khác, trầm lặng là một
hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Lại nữa, khi ẩn rút trong im lặng ta
hoàn toàn đơn độc để nhìn vào bên
trong chúng ta, vào bản chất thật sự của chúng ta,
để tận tường thấy rõ mình như thật sự
mình là vậy. Chừng đó ta có thể học được
phương cách vượt qua những khuyết điểm và giới hạn của cuộc sống
bình thường. Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn phải cần nói năng
lịch thiệp trong câu chuyện giao dịch hằng ngày. Mặc dầu vậy,
Đức Phật dạy không nên lơ
đễnh để buông trôi quá xa, vì người có
ý nguyện đi trên con
đường giải thoát phải hết sức thận trọng phân
biện điều nào sẽ dẫn đi đâu và
phải chuyên cần canh chừng "anh chàng nói dối", sâu ẩn lẫn trốn bên trong
chúng ta một cách rất là kín đáo.
Không nên nói nhảm nhí mà luôn luôn có lời hữu ích. Vào thời
Đức Phật, có tên sát nhân khát máu nọ
gia nhập vào đảng cướp, gây nhiều tội ác và
về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình.
Nhờ Đức Sàriputta cảm hóa, tánh tình
anh đổi hẳn từ hung tàn bạo ngược trở
nên hiền lành lương thiện và sau khi chết, tái sanh vào cảnh trời.
Đức Phật giải thích rằng sở dĩ anh tái sanh
tốt đẹp là nhờ lời khuyên hữu hiệu
đượm nhuần từ bi của bậc đạo đức cao thượng. Ngài dạy: "Chỉ một lời nói hữu ích, làm cho người nghe an tĩnh, Không phải nói nhiều mà chứng tỏ rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng
không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích cho mình hoặc cho ai khác. Kinh
sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi
đưa đến hậu quả tai hại, như trường hợp con
két, vì ham nói mà phải chịu cảnh chim lồng. Chánh Nghiệp Chánh Nghiệp là tạo nghiệp chân chánh, tức không sát sanh, không trộm
cắp và không tà dâm, ba điều tu tập đầu tiên
trong ngũ giới. Giới thứ tư, vọng ngữ, đã
được đề cập đến trong phần Chánh Ngữ. Phần
lớn các kinh sách không đề cập đến giới thứ năm -- không dùng chất
say -- trong Chánh Nghiệp. Nên biết rằng không dể duôi uống rượu và dùng
các chất say là giữ gìn tâm cho được luôn
luôn sáng suốt để luôn luôn quyết định chân chánh.
1. Không sát sanh, là không cố ý cắt
đứt, ngăn chận, tiêu diệt, hay làm trở
ngại sức tiến triển của năng lực một đời
sống, không cho nó liên tục trôi chảy, là không làm tổn thương cuộc
sống của bất luận sinh vật nào, cũng không sai biểu, xúi giục hay quyến dụ
người khác làm những điều nầy. Trong hình
thức thô sơ nhất, hành động sát sanh gồm đủ
năm yếu tố là: Có một sinh vật đang
sống; có sự hiểu biết rằng sinh vật ấy đang sống; có ý định cắt đứt sự
sống của sinh vật ấy; có sự chú tâm cố gắng làm cho con vật chết;
và chính tác động sát sanh. Đức Phật dạy: "Ai
cũng run sợ trước gậy gộc. Tất cả đều quý trọng đời sống. Hãy lấy
bụng ta suy lòng người. Không nên giết, cũng không nên làm cho người khác
giết." (Kinh Pháp Cú, câu 129) Một ngày nọ, khi vào thành Sàvatthi (Xá Vệ)
để trì bình,
Đức Phật thấy một nhóm trẻ con cầm gậy xúm
đập một con rắn. Ngài dừng chân lại hỏi, -- Nầy các con, các con đang làm gì
đó?
-- Bạch Ngài, chúng con đập con rắn.
-- Tại sao các con đập nó?
-- Bạch Ngài, vì chúng con sợ nó cắn. Đức Phật mở lời khuy
Khi giảng về ba-la-mật Trì Giới (sila paramita) Ngài Nàrada có lời
khuyên như sau: "Mọi người đều quý trọng đời
sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát
rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, chí đến
những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại,
hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tánh
xúi giục giết hại những chúng sanh khác để ăn
thịt mà không chút thương hại. Cũng có khi sát sanh, như săn
bắn hay đi câu, để tiêu khiển thì giờ. Dầu
để nuôi sống thân mạng mình hay
để tìm thú vui, không có lý do nào
chánh đáng để giết một sanh linh hay làm
bất luận cách nào khác để cho một sanh linh
bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, ghê tởm, cũng có những
phương pháp mà người ta gọi là "nhân đạo" để
sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng
sanh khác là thiếu lòng từ ái. Giết một con thú
đã là hành
động bất chánh, nói chi đến giết một người,
mặc dầu nhiều lý do đã được viện ra
gọi là chánh đáng, có khi gọi là
cao quý, để con người tàn sát con
người." Để giải thích cho một thanh ni
"Nếu người kia trọn đời chỉ biết sát sanh,
người thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn
đẩm máu, hằng ngày sống trong sự giết
chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tánh hiếu sát ấy, nếu
tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ yểu mạng. "Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xúc phạm
đến cuộc sống của ai, sống xa gươm đao giáo
mác và các loại vũ khí, lấy lòng từ ái
đối xử với tất cả chúng sanh. Do sự không sát sanh ấy, nếu tái sanh trong
cảnh người, người ấy sẽ trường thọ.
"Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm
cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và
gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung dữ
bạo tàn ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ ương yếu
bệnh hoạn. "Nếu người kia không bao giờ làm tổn thương ai. Do
đức tánh hiền lương nhu hòa ấy, nếu
tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ mạnh khỏe ..." (Majjhima Nikàya,
Trung A-Hàm, Kinh Cullakammavibhanga Sutta, số 135) Quả của nghiệp sát sanh nặng hay nhẹ tùy theo tầm quan trọng của chúng
sanh bị giết, vì sự cố gắng để thực hiện hành
động sát sanh và tai hại gây ra khác
nhau. Sát hại một người thánh thiện hẳn là gây nhiều tai hại hơn là giết
một tướng cướp. 2. Không trộm cắp là không có ý lấy, hoặc xúi giục người khác
lấy một vật có chủ mà không được cho đến mình.
"Lấy một vật không được cho đến mình"
có thể bao gồm nhiều hình thức khác nhau như trộm cắp, tức lén lút lấy của
người; như móc túi, khoét vách đào
ngạch vào nhà lấy trộm v.v... ; như cướp giựt, tức công khai lấy của người
bằng võ lực, hoặc bằng cách hăm dọa, hoặc lẹ
làng giựt lấy một món đồ rồi bỏ chạy,
làm cho người ta không kịp trở tay; như gian lận, giả dối tráo trở
giành quyền sở hữu của một người khác; như lường gạt, buôn bán của ít nói
nhiều, giá thấp nói cao, đo lường cân thiếu,
của hư xấu nói tốt v.v... Tất cả những hình thức trên
đều tạo nghiệp trộm cắp.
Một khi đã gieo nhân ắt có ngày
phải gặt quả, sớm hay chầy, nơi nầy hay nơi khác. Theo
đúng giáo huấn của Đức Bổn Sư, không thể van
lơn cầu cạnh, hối lộ hoặc gian lận bằng bất luận phương cách nào mà
ta có thể biến chuyển được định luật nhân
quả, cũng không thể lẫn trốn nơi nào, dầu bay lên trời rộng mênh
mông, giữa đại dương sâu thẩm, hoặc ở nơi
thâm sâu cùng cốc, mà ta có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp bất
thiện đã tạo. Không có vị trời nào,
chí đến Đức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào
sự báo ứng của nghiệp. Quả của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn thiếu thốn,
khốn khổ, thất vọng, và làm thân nô lệ. Năm chi tạo nghiệp trộm cắp là: Có
một vật thuộc sở hữu của người khác; mình hiểu biết như vậy; có ý
định thâu đoạt vật ấy làm sở hữu của
mình; cố gắng trộm cắp; và chính hành động
trộm cắp.
Người thực hành Chánh Nghiệp lánh xa mọi hình thức trộm cắp, dầu là sự
trộm cắp hiển nhiên, lộ liễu hay vi tế, kín
đáo, ẩn núp dưới một lớp gì khác. Trái lại, luôn luôn cố gắng phát
triển những đức hạnh thanh bạch, liêm
khiết, chân thật và chánh trực. 3. Không tà dâm, tức là giữ gìn
đời sống gia đình trong sạch, không lang chạ phóng túng. Về phương
diện luân lý, giới nầy nhằm bảo vệ hạnh phúc gia
đình, không
để cho người ngoài xâm phạm vào tình
trạng an lạc trong nhà, tạo sự tín cẩn lẫn nhau và siết chặt tình nghĩa
giữa vợ và chồng. Về mặt đạo đức, giới nầy
giúp làm giảm thiểu năng lực tự nhiên
có chiều hướng lan rộng của dục vọng và đàng
khác, tăng trưởng hạnh từ khước buông bỏ và
tự chế của lối sống thanh cao. Lẽ dĩ nhiên,
đời sống độc thân của các vị tu sĩ chân chánh là hình thức trong
sạch đáng quý trọng nhất, vì các Ngài
có thể tận dụng tất cả năng lực và thì
giờ của mình để phục vụ kẻ khác. Tuy nhiên,
Đức Phật là vị giáo chủ thực tế, Ngài
không bao giờ trông chờ hàng tín đồ tại gia
cư sĩ sống cuộc sống của các bậc xuất gia. Hiểu biết những kích thích của
đời sống, khát vọng và những thúc giục của con người,
Đức Bổn Sư không dạy bảo người Phật tử cư sĩ
phải sống tuyệt đối độc thân như các vị tỳ khưu. Nhưng Ngài khuyên
chúng ta nên thận trọng, đừng để sai lầm làm
nô lệ cho cơ thể vật chất và do đó, làm
giảm suy phẩm giá con người. Quả của nghiệp tà dâm là có nhiều kẻ thù và
đời sống gia đình, giữa vợ và chồng,
không có hạnh phúc. Chánh Mạng Chánh Mạng là hành nghề chân chánh để nuôi
mạng. Kinh sách thường đề cập đến năm nghề không nên làm là: Buôn
bán khí giới, chăn nuôi hay bán thú để làm
thịt, buôn bán người để làm nô lệ,
buôn bán độc dược, buôn bán rượu và
các chất say. Tinh thần của năm điều kiêng
cữ nầy là không nên nuôi mạng sống của mình bằng cách hành những nghề có
thể trực tiếp hay gián tiếp làm cho ta tạo nghiệp bất thiện. Trong một bài
thuyết trình về Tứ Diệu Đế V.F. Gunaratna
viết:
"Cuộc chiến đấu để sống và những
nhu cầu khẩn thiết được tạo nên
để bảo tồn đời sống cá nhân và nuôi
sống gia đình bắt buộc con người phải
xem công cuộc làm ăn sinh sống là một
vấn đề quan trọng và do
đó, có một thúc giục cấp bách đẩy con người
đi dài theo kiếp sống để thành
tựu điều nầy.
"Xét rằng những gì công bằng và lịch sự
đều bị vứt bỏ, biến tan theo chiều gió, và xét rằng những hậu quả
tai hại xảy đến cho kẻ khác sẽ bị lãng
quên, không ai nghĩ tới hay nhắc đến, con
người có thể bị quyến rũ đi vào con
đường bất chánh. Đó là điều mà
chúng ta phải thận trọng giữ mình, đừng để bị
rơi vào những quyến rũ tương tợ. Bằng mọi giá chúng ta phải giữ cho
Chánh Mạng của mình được trong sạch. Yếu tố
Chánh Mạng dẫn đến giới đức trong sạch, người hành nghề theo
đúng Chánh Mạng mới có thể nghiêm trì
giới luật, bằng cách tránh xa sự buôn bán khí giới, bán thú
để làm thịt, bán người làm nô lệ, bán
rượu, bán độc dược.
"Thông thường ta nghĩ rằng phải tránh, không nên hành chỉ có bao nhiêu
nghề đó để giữ cho Chánh Mạng được trong
sạch. Không phải chỉ có vậy. Trong bộ Majjhima Nikàya, Trung A-Hàm,
có đoạn ghi rằng hành những nghề có
"sự lường gạt, nịnh bợ, mờ ám, chia rẽ, cố
ăn", đều được xem là không Chánh Mạng. Một cách tổng quát, như có
ghi trong Digha Nikàya, Trường A Hàm, Chánh Mạng
được xem là tránh xa những lối sống
bất chánh, và sống đời chân chánh."
Các vị tỳ khưu sống không nhà cửa, không gia
đình, và tất cả tài sản chỉ bao gồm có
bộ y và bình bát. Các Ngài không phải buôn bán hay làm lụng
để sinh sống như người tại gia cư sĩ, nhưng
cũng có giới Chánh Mạng. Đối với hàng tu sĩ, Ngài Ledi Sayadaw phân
làm bốn loại Chánh Mạng là: 1. Tránh xa, không nuôi mạng bằng những phẩm hạnh sai lạc như phạm
một trong ba thân bất thiện nghiệp và bốn khẩu bất thiện nghiệp. 2. Tránh xa sự nuôi mạng bằng những phương pháp bất chánh như nịnh
bợ, đưa thơ từ qua lại v.v...
3. Tránh xa sự nuôi mạng bằng cách gạt gẩm người khác, như dụ dỗ
người theo mình tu học để được thần thông,
hay khoe khoang mình đã
đắc Thánh Quả, hay nói cho người ta bực mình
phải cho ra một vật gì để mình
đi cho rồi, hoặc nữa, bỏ ra một món quà
nhỏ để câu lấy một món quý giá hơn.
4. Tránh xa sự nuôi mạng bằng những kiến thức trần tục, như coi tướng
số, bói quẻ v.v... Tóm lại, Chánh Mạng tạo tình trạng điều hòa
trong đời sống xã hội và
đem lại trạng thái an lành hạnh phúc
cho từng cá nhân. Nếu người sống tà mạng hằng ngày gạt gẫm, giết chóc,
hoặc say sưa, trộm cắp, và do đó, gây xáo
trộn cho toàn thể cộng đồng, thì
người có Chánh Mạng đem lại tình trạng
an toàn, hòa hợp, cho tất cả mọi người. * Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng hợp thành phân hạng "Giới",
hay phần luân lý trong Bát Chánh Đạo. Giới là
những quy tắc đạo đức có tác dụng như những
tấm bảng màu đỏ dựng bên lề
đường để cảnh báo hiểm họa sa đọa, những gì
không nên làm, những điều nên tránh
(varitta). Đàng khác, Giới cũng là nếp
sống kỷ cương được xem như những tảng đá vững
chắc cẩn trên con đường đưa đến an
tĩnh hoàn toàn, hạnh phúc tuyệt đối,
những gì nên làm (caritta). Giới được ban hành nhằm tạo thân và
khẩu nghiệp trong sạch, nhưng chính phẩm hạnh tuyệt hảo tự nó chỉ là
phương tiện. Mục tiêu tối hậu của Giới -- hiểu theo Bát Chánh
Đạo -- là thoát ra khỏi mọi hình thức
khổ đau của đời sống, và vượt
đến hạnh phúc trường cửu, Niết Bàn. -ooOoo- Chú thích: [10] Ràhula là con của Đức Phật khi còn
là Thái Tử Siddhatta, xuất gia lúc bảy tuổi. -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Con
đường dứt khổ
Nếu nói hay làm với tâm bất thiện, đau khổ sẽ
theo liền với ta như bánh xe lăn theo dấu chân con bò." (câu 1)
Nếu nói hay làm với tâm trong sạch, hạnh phúc sẽ theo liền với ta như bóng
không bao giờ rời hình." (câu 2)
còn quý hơn cả ngàn tiếng nói vô ích." (Kinh Pháp Cú, câu 100)
last updated: 22-02-2003