BuddhaSasana Home Page
Tứ Diệu
Đế
Phạm Kim Khánh [II] Ái dục M
Đúng vậy, Ngài là một vì lương y, là vị chúa tể của tất cả những vị
lương y trên thế gian, vị đại vương cao siêu nhất, tài giỏi nhất trong các
vị lương y. Ngài không điều trị từng cá nhân, cũng không chữa trị những
chứng bệnh -- vật lý hay tinh thần -- trong một kiếp sống. Bệnh nhân của
Ngài là toàn thể nhân loại, hơn nữa, toàn thể chúng sanh trong ba giới bốn
loài. Chứng bệnh mà Ngài nhắm chữa trị là một chứng bệnh trầm kha dính
liền với mọi kiếp sinh tồn, dầu ở trong cảnh giới nào, là một chứng bệnh
mà mỗi cá nhân mang theo từ kiếp nầy sang kiếp khác trong chuỗi dài những
kiếp sống đó đây trong vòng luân hồi. Trước tiên, Ngài xác nhận là chúng sanh
đang lâm bệnh đau khổ (dukkha). Sau khi quan sát, nghiên cứu và phân tách
tỉ mỉ tận tường chứng bệnh đau khổ, Ngài tìm ra nguyên nhân của nó và
tuyên bố rằng nguồn gốc của mọi hình thức đau khổ là ái dục (tanhà). Vào lúc bình minh sau đêm thành đạt Đạo
Quả Vô Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammà Sambodhi), để mô tả cuộc chiến
thắng tinh thần vô cùng rực rỡ vẻ vang, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ
như sau: Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng
luân hồi, Đức Thế Tôn nhìn nhận cuộc đi thênh thang trong nhiều kiếp sống quá khứ
dẩy đầy khổ đau phiền lụy. Ngài đi bất định và do đó, phải chịu trăm bề
khổ nhọc vì chưa tìm ra người thợ đã xây dựng ngôi nhà, tức thân nầy.
Trong kiếp sống cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng
thiêng, lúc đi sâu vào pháp hành thiền mà Ngài đã dày công trau giồi từ xa
xôi trong quá khứ, xuyên qua suốt cuộc hành trình bất định, Ngài khám phá
ra anh thợ cất nhà hằng mong mỏi muốn biết. Anh thợ nầy không phải ở đâu
xa lạ bên ngoài mà ẩn tàng sâu kín bên trong Ngài. Đó là ái dục, sự tự
tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi
người.
Ái dục là gì? Phạn ngữ mà thường được
phiên dịch là "ái", hay "ái dục" là tanhà (Bắc Phạn là trushna). Tanhà, ái
dục, bao gồm những hình thức thèm khát, tham ái, khát vọng, nóng lòng ước
mong, dục vọng, ham muốn, bám níu, luyến ái. Các danh từ trên đây diễn đạt
những khía cạnh khác nhau nhưng không nói lên đầy đủ ý nghĩa của danh từ
tanhà. Tanhà luôn luôn bao hàm một ý niệm vị kỷ. Con người mê muội chấp
giả là thiệt, khư khư bám chặt vào ngũ uẩn vô thường mà cho đó là "ta",
một cái "ta" trường tồn không biến đổi, rồi ham muốn, khát khao v.v... lấy
cái ta làm trung tâm của mọi sự vật, và cố đem vào càng nhiều càng tốt, và
ôm lấy càng chặt càng hay. Vì lẽ ấy, khi phiên dịch là ham muốn, ước vọng
v.v... ta nên hiểu rằng tanhà chỉ nằm trong phần xấu của những danh từ
nầy. Thí dụ như nói ham muốn, ta có thể ham muốn điều xấu xa, nhưng cũng
có thể ham muốn những việc tốt đẹp, đáng được ngợi khen và khuyến khích,
như muốn phục vụ, muốn bố thí, muốn có đời sống đạo đức v.v... Như vậy,
tanhà chỉ diễn đạt phần vị kỷ của lòng ham muốn, khát khao, ước muốn cho
chính mình, luyến ái bám níu, cố giữ cho cái "ta". Chính yếu tố vị kỷ trong tanhà, ái dục, đã
gây bao nhiêu tai hại cho con người. ái dục không bao giờ được thỏa mãn
hoàn toàn. Khi một điều mong muốn vừa được thành tựu thì có một mong muốn
mới khởi sanh. Con người luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới,
cố rượt đuổi theo để bám lấy những ảo ảnh, chụp nắm cho được cái mà thật
sự chỉ là hình bóng ảo huyền và như thế, con người luôn luôn châm nhiên
liệu để dưỡng nuôi và bảo trì ngọn lửa tham ái của kiếp sinh tồn. Chính
lòng tham muốn ích kỷ, tính luyến ái vô độ lượng, vô trật tự, và sự đam mê
bám níu vào những sự vật trên thế gian đã lôi cuốn và đẩy đưa con người
lăn trôi đó đây trong đại trùng dương của đời sống.
Đó là tác động của ái dục bên trong con người nuôi dưỡng nó. Còn tác
động của nó ở bên ngoài người ôm ấp nó, ở người khác, thì sao? Trong bộ Majjhima Nikàya, Trung A-Hàm, Đức
Phật dạy:
"Nầy chư Tỳ Khưu, do ái dục vua nầy gây
chiến với vua kia, hoàng tử với hoàng tử, tu sĩ với tu sĩ, dân với dân, mẹ
gây gỗ với con, con gây mẹ, cha cãi vã với con, con cãi cha, anh chị với
em, em với anh chị, bạn bè với bạn bè." Trong bài thuyết trình "The Significance
of the Four Noble Truths" V.F. Gunaratna viết: "Ái dục là một sự thúc đẩy hùng mạnh, một
thúc đẩy nguy hiểm, tai hại. ái dục là nguyên nhân của hầu hết những tệ
hại trên đời. Hầu hết những xáo trộn chánh trị trong nhiều quốc gia và
những vấn đề xã hội và kinh tế rất phiền phức chỉ có thể giải thích bằng
ảnh hưởng nguy hại của tanhà. ái dục vị kỷ là động cơ chính yếu đưa đến
hầu hết những cuộc tranh chấp, và thúc đẩy mọi cố gắng của con người mê
muội. "... Đôi khi, trong ái dục sự biểu hiện
của lòng vị kỷ có phần lộ liễu, hiển nhiên. Lắm khi rất tế nhị,... tình
thương không mấy khi không đượm nhuần tính chất vị kỷ. Đó là một thứ tình
thương thiết tha mong muốn được nhận ra và đòi hỏi được đáp lại. Tóm tắt,
đó là tự thương mình, là tình thương của mình đối với mình. Trong phần lớn
các trường hợp, người nầy thương người kia là để tự thương mình nhiều hơn,
là bởi vì mình thiết tha mong muốn tự cho mình cái vui được thương người
và cái vui được người thương trở lại. Như vậy, tiềm tàng dính liền theo
tình thương người có một ẩn ý muốn tự thỏa mãn, và tình thương kẻ khác chỉ
là tình thương mình trá hình." Ái dục bắt nguồn từ đâu? Trong bộ Digha
Nikàya, Trường A-Hàm có đoạn:
"Ái dục bắt nguồn từ đâu, và phát sanh ở
đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và
phát sanh. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, có thỏa thích và dục lạc.
Vậy ái dục bắt nguồn từ đó, và phát sanh ở đó."
Có sáu loại dục lạc, bắt nguồn từ lục trần
là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, liên quan đến lục căn là nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý. Mắt muốn thấy hình sắc đẹp đẽ. Tai muốn nghe âm thanh
êm dịu. Mũi muốn hửi mùi thơm. Lưỡi muốn nếm món ngon vật lạ. Thân muốn
cảm xúc thỏa thích về nhục dục. Tâm muốn có những cảm nghĩ dễ chịu, những
tư tưởng làm thỏa mãn giác quan. Loại ái dục đầu tiên phát sanh do nhãn
quan. Nhãn căn rất khó kiểm soát và thu thúc, vì bao nhiêu hình sắc đẹp đẽ
của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho ta chao động. Đức Phật dạy rằng
trên đời không có chi làm cho tâm một người đàn ông chao động dễ dàng bằng
hình dáng người đàn bà. Và không có chi làm cho tâm người phụ nữ rung động
dễ dàng bằng hình dáng của người đàn ông. Lịch sử nhân loại đã từng chứng
tỏ rằng bao nhiêu cơ đồ đã sụp đổ và bao nhiêu công nghiệp đã suy tàn chỉ
vì sắc đẹp mỹ miều của người phụ nữ. Cũng vì lẽ ấy Đức Phật hằng khuyên
dạy hàng tín đồ nên luôn luôn thận trọng, từng ly từng tý, trong việc kiểm
soát nhãn quan. Phải hành động như người lính gác cửa thành, từng giây
từng phút, canh chừng quân địch. Một khoảnh khắc lơ đểnh có thể gây ảnh
hưởng tai hại vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên, dạy như thế Đức Phật không khi
nào có ý khuyên tất cả mọi người nên từ khước mọi lạc thú trần gian để vào
rừng tìm nơi thanh vắng tu hành. Đức Phật đặt toàn thể giáo lý của Ngài
trên nền tảng dukkha, đau khổ, nhưng không bao giờ phủ nhận những lạc thú
trong đời. Bộ Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A-Hàm, có liệt kê dong dài những
hạnh phúc mà chúng sanh có thể thọ hưởng. Chúng ta không tìm cách xa lánh
những hạnh phúc vật chất mặc dầu biết rằng nó tạm bợ, nhưng cũng không làm
nô lệ cho cơ thể vật chất. Ta cảm nghe hạnh phúc khi một điều mong mỏi
được thỏa mãn. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là không khi nào
hoàn toàn mãn nguyện. Khi một điều mong mỏi được thỏa mãn là mong muốn
điều khác, và không khi nào biết là đủ. Bởi thế Phật Giáo dạy ta nên tận
lực cố gắng, kiên trì nỗ lực, luôn luôn giữ tâm trong sạch và thận trọng
thu thúc dục vọng. Đại Đức Khantipalo, người Anh tu tại Thái Lan và Sri Lanka, khuyên ta
như sau: "Điều cần thiết ở đây là luôn luôn giữ chánh niệm (sammà sati),
vì nếu không chú niệm thì không Giáo Pháp nào có thể thực hành được. Và
trong lúc không thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ bị sức mạnh của thói quen
trong quá khứ lôi cuốn. Cùng lúc ấy ái dục và vô minh tiếp tục tăng trưởng
bên trong chúng ta. Khi tâm chú niệm, ta có khả năng và phương tiện để
hiểu biết "đây là cảm giác vui thích", "đây là cảm giác đau khổ", "đây là
cảm giác không-đau-khổ-cũng-không-vui-thích". Quan sát, ghi nhận và hiểu
biết như thế (tức niệm và hay biết rõ ràng) giúp ta hay biết lúc nào có
tham, sân, si liên hợp với các cảm giác ấy. Với sự thấu hiểu hay biết như
thế ta có thể phá vỡ bánh xe sanh-tử và thoát ra khỏi vòng luân hồi. Nhưng
nếu không thực hành Giáo Pháp, chắc chắn những thọ cảm kia sẽ tiếp tục dẫn
dắt chúng ta đến các ái dục khác, và quay cuồng chúng ta theo bánh xe dẩy
đầy đau thương và khổ nhọc như Ngài Nagarjuna dạy, ái dục chỉ ngọt ngào ở
lớp mặt, bên trong thì khô cứng đắng cay." Nhằm làm giảm suy tình trạng bám níu duyên
vào hình sắc, Ngài Đại Đức Nàrada khuyên ta nên quán tưởng về tánh cách ô
trược của cơ thể vật chất. Ngài viết: "Quán tưởng về tánh cách ô trược của
thân giúp hành giả khắc phục tâm luyến ái đối với thân mình. Vào thời Đức
Phật nhiều vị tỳ khưu đã chứng ngộ Đạo Quả A La Hán nhờ hành thiền về đề
mục nầy. Người không thích hợp với tất cả ba mươi hai phần ô trược có thể
chọn một vài phần như xương, thịt, da cũng được. Hành giả tưởng niệm:
"Xương (atthi), thịt (màmsam), da
(taco)".
Thành trì nầy được dựng lên bằng xương,
đắp thịt và máu bên ngoài, trong đó tích trữ bệnh tật, chết chóc, ngã mạn,
phỉ báng. Trong khi niệm như vậy hành giả quán tưởng: bên trong thân nầy
là bộ xương. Đầy bên ngoài bộ xương là thịt, và bên ngoài nữa có lớp da,
bao trùm tất cả. Cái mà ta gọi là dung mạo đẹp đẽ của con người chỉ là lớp
da bao bọc lấy thịt và xương." Mắt bị chao động vì hình sắc. Tai bị cảm
xúc vì âm thanh. Mũi bị kích thích vì hương, lưỡi vì vị, Thân của ta cũng
là một nhịp cầu để cho trần cảnh thâm nhập và làm cho ta say mê, sa đọa.
Tâm cũng bị ảnh hưởng xấu xa của những tư tưởng tham ái, sân hận, si mê. Theo triết học Phật Giáo, Abhidhamma, (Vi
Diệu Pháp), có ba loại ái dục: a. Ái dục duyên theo nhục dục ngũ trần
(kàma tanhà) b. Ái dục duyên theo những khoái lạc vật
chất liên quan đến chủ trương thường kiến (bhava tanhà). Trong lúc thọ
hưởng, nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu, những khoái lạc sẽ mãi
mãi tồn tại. c. Ái dục duyên theo những khoái lạc vật
chất có liên quan đến chủ trương đoạn kiến (vibhava tanhà). Trong lúc
thọ hưởng, nghĩ rằng tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Chết là hết. Bhava tanhà có khi được giải thích là sự
luyến ái đeo níu theo Sắc Giới, và vibhava tanhà là luyến ái đeo níu theo
Vô Sắc Giới. Hai Phạn ngữ ấy thường được xem là ái dục đeo níu theo sự
"sống", và ái dục đeo níu theo sự "không-sống", không sinh tồn.
Về điểm nầy Ngài Đại Đức Piyadassi viết
trong quyển The Buddha's Ancient Path như sau:
"Kẻ thù của toàn thể nhân loại là ái dục,
lòng ham muốn, luyến ái, bám níu, khát vọng, và xuyên qua đó, tất cả những
điều bất hạnh đến với chúng sanh. Đây không những chỉ là lòng ham muốn hay
luyến ái duyên theo nhục dục ngũ trần như tiền của, tài sản, tham vọng
đánh bại kẻ thù, lấn lướt người khác, hay xâm lăng những quốc gia khác, mà
cũng là sự cố chấp, khư khư dính mắc trong những lý tưởng hay ý niệm, quan
kiến và tín ngưỡng, thường dẫn đến phỉ báng và tiêu diệt, và đem lại đau
khổ không thể tả đến toàn thể quốc gia, hay trong thực tế, toàn thể thế
gian." Tại sao ái dục là nguồn gốc của mọi hình
thức đau khổ? Không có người suy tư nào phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ,
hay bất toại nguyện, trên thế gian. Nhưng về nguyên nhân làm phát sanh đau
khổ thì các hệ thống tín ngưỡng khác nhau đã giải thích bằng nhiều phương
cách khác nhau. Trong tư tưởng Phật Giáo, không có một siêu lực huyền bí
cầm quyền tưởng thưởng công đức và hình phạt những tội ác của con người.
Không có sự thưởng phạt từ bên ngoài hay bên trên ban đến, mà có định luật
nhân quả, từ bên trong, tức hành động và phản ứng của hành động. Chính
mình hành động và chính mình nhận lãnh hậu quả của hành động. Theo chiều
hướng nầy, mỗi người, mỗi chúng sanh, là vị kiến trúc sư xây đấp số phận
của mình. Chính ta tạo thiên đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho
ta. Đau khổ mà con người phải gánh chịu ngày hôm nay là hậu quả dĩ nhiên
của những nghiệp bất thiện mà con người đã tạo trong quá khứ, và chính ái
dục là động cơ chính yếu thúc đẩy đến hành động, tạo nghiệp bất thiện bằng
thân, khẩu, hay ý. Cũng chính ái dục thúc đẩy con người luyến ái, bám níu,
và dai dẳng đeo đuổi theo sự sống. Lòng khát khao ham muốn ấy lôi cuốn con
người từ kiếp sống nầy đến kiếp khác. Và sanh ra đời là khởi duyên dẫn đến
đau khổ, như đã được đề cập dong dài ở bài viết trước. Đau khổ dính liền
với đời sống, là bản chất của cái được gọi là chúng sanh. [3] Trong Bài
Pháp Đầu Tiên, hay Kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Thế Tôn dạy:
"Chính ái dục là nguyên nhân của sự tái sanh
(ponobhavika). ái, hợp với tâm thiết tha khao khát, bám níu vào cái nầy
hay cái kia (đời sống). Chính ái đeo níu theo nhục dục ngũ trần, ái đeo
níu theo sự sinh-tồn, và ái đeo níu theo ý niệm không-sinh-tồn."
Ái dục là nguồn gốc của đau khổ cũng vì
chính trong ái dục đã có mầm mống đau khổ. Trong quyển Paticca Samuppàda,
Pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, Ngài Piyadassi viết: "Con người luôn luôn bị thích thú và dục
lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thú và dục lạc, con người không ngớt
chạy theo và cố bám lấy những đối tượng tương ứng của lục căn (tức bám vào
lục trần). Nhưng ít khi con người nhận thức rằng không có số lượng sắc,
thinh, hương, vị, xúc, hay pháp nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu,
hay được thỏa mãn tham vọng, con người còn tự ràng buộc mình vào bánh xe
luân hồi, càng bị giày vò xô xát và khổ sở quằn quại, vướng mắc trong
những cây căm của vòng bánh xe." Kinh Pháp Cú dạy: "Ái dục sanh sầu muộn. ái dục sanh lo sợ.
V.F. Gunaratna viết: "Bây giờ ta có thể tự
hỏi tại sao ái dục luôn luôn mang đau khổ (dukkha) theo vết chân của mình?
Bởi vì ái dục là khát khao ham muốn một cái gì tự nó không ngừng biến đổi,
là chạy theo và cố bám vào cái gì tự nó không thực có. Khi con người cố
gắng đuổi bắt một mục tiêu huyền ảo, lờ lững như thực như hư, một cái gì
không thể bắt được, một mục tiêu luôn luôn thụt lùi hay tan biến khi ta
đến gần nó, thì con người còn có thể mong mỏi điều gì hơn là thất vọng,
điều gì hơn là trạng thái bất ổn, không điều hòa, tức dukkha, đau khổ."
Và Ông tiếp: "Tại sao ta lại khát khao mong muốn cái
không thực có? Vô minh của chúng ta làm cho chúng ta lầm tưởng cái không
thực là thực, thấy bóng tưởng hình, và mãi mãi chạy theo rượt bắt cho được
cái bóng."
Kết Luận Trong khi phần lớn những tư tưởng gia tìm
đến một thần lực huyền bí, hay một nguyên lý bên ngoài, bên trên con
người, để giải thích nguồn gốc đau khổ của nhân loại, thì Đức Phật hướng
cái nhìn trở vào bên trong con người để tìm nguyên nhân chứng bệnh đau khổ
của con người. Và Ngài đi đến kết luận: Những đau khổ "của tôi" là do hành
động "của tôi". Và hành động "của tôi" do ái dục "của tôi" thúc đẩy. ái
dục trong quá khứ làm nguyên nhân đưa đẩy tôi đến đây, nhưng chính trong
hiện tại, và chỉ trong hiện tại, tôi có thể khắc phục ái dục bằng cách
thực hành Giáo Pháp, để thoát ra khỏi vòng luân hồi đau khổ.
Vài Tích Chuyện Liên Quan Đến Ái Dục Chuyện Con Cá Vàng Giáo lý sau đây được Đức Bổn Sư truyền dạy
khi Ngài ngự tại Jetavanna Vihàra (Tịnh Xá Kỳ Viên). Chuyện rằng vào một thời xa xôi trong quá
khứ, hai anh em trong một gia đình nọ xuất gia với các vị đệ tử của Đức
Phật Kassapa (Ca Diếp). Ông anh tên Sodhana và người em là Kapila. Cả hai
đều thi hành đầy đủ bổn phận đối với thầy tế độ. Một hôm, hai vị bạch hỏi
thầy, "Kính Bạch Ngài, trong giáo lý nầy có tất cả bao nhiêu gánh nặng
(tức bao nhiêu pháp tu tập), và được giải thích là có hai, "pháp học và
pháp hành". Pháp học là công trình chuyên học về giáo lý và giới luật, và
pháp hành là thực hành thiền tập. Sư Sodhana, người anh, chọn pháp hành.
Sau năm năm thọ huấn với thầy, Ngài vào rừng sâu tận lực kiên trì tinh tấn
hành thiền và sau cùng chứng đắc Đạo Quả A-La-Hán.
Người em, Sư Kapila, nghĩ mình còn trẻ,
chọn pháp học với ý định về lúc niên cao tuổi lớn sẽ thực hành thiền tập.
Ngài chuyên cần tu học và thuộc nằm lòng Tam Tạng Pháp Bảo. Nhờ học sâu
hiểu rộng kinh điển, Ngài giải thích rành rẽ Giáo Pháp và thâu nạp đông
đảo đệ tử và thiện tín. Tuy nhiên, đam mê trong chất say của danh vọng mà
sức học uyên thâm của Ngài đã tạo, Ngài đâm ra tự cao ngã mạn. Lắm khi có
vị nào nói điều gì mặc dầu đúng, Ngài cũng ỷ mình giỏi, bác bỏ và cho là
sai. Nhiều lần chư sư huynh đệ khuyên nhủ, "Nầy Sư Huynh, không nên làm
như thế" và nhắc nhở Ngài giữ gìn giới luật trong sạch. Nhưng Ngài trả
lời, "Sư cũng giống như bàn tay nắm lại, trống rỗng, không có gì hết, biết
gì mà nói." Đại Đức Sodhana nghe được lời tường thuật và hay biết tác
phong bất nhã của em cũng trở về khuyên lơn, "Nầy Sư Đệ, người tu hành như
Sư phải có tác phong xứng đáng và một đời sống đạo đức trong sạch". Nhưng
Sư Kapila cũng không quan tâm đến lời anh. Ngày nọ, trong khi chư Tăng tụ
họp ở chánh điện để hành lễ Pàtimokkha (lễ tuyên đọc Giới Bổn), Đại Đức
Kapila hiên ngang lên ngồi trên pháp tọa tay cầm quạt, đọc lên những câu
hỏi vị nào có gì sám hối, như thường lệ. Nhưng chư tăng nghĩ rằng Sư
Kapila không có tác phong đạo đức trong sạch thì sám hối có ích gì. Vì lẽ
ấy ai nấy ngồi im. Sau cùng Sư Kapila tuyên bố, "Nầy chư Huynh, không có
Giáo Pháp, không có Giới Luật, vậy chư Huynh có nghe đọc Pàtimokkha (Giới
Bổn) hay không thì cũng vậy, không có gì khác." Do những hành động tương
tợ, Đại Đức Kapila đã làm hại rất nhiều những lời dạy của Đức Phật Kassapa
và gây trở ngại không ít cho công cuộc truyền bá Giáo Pháp. Do nhân bất
thiện đã gieo ấy sau khi viên tịch, Đại Đức Kapila tái sanh vào khổ cảnh
và đến thời Đức Phật Gotama, làm cá trong dòng sông Aciravati. Một hôm có người chài lưới bắt được một
con cá đẹp lạ thường, màu vàng óng ánh trông như một khối vàng sáng rực.
Ngư ông dâng cá đến vua để được lãnh thưởng. Vua nghĩ rằng Đức Bổn Sư sẽ
biết lý lịch con cá, và đem cá đến chùa để bạch hỏi Đức Thế Tôn vì lý do
nào cá được có màu vàng tươi đẹp lạ thường như vậy. Khi cá vừa mở miệng ra
thì mùi tanh hôi bay tỏa, thúi cùng khắp ngôi tịnh xá. Đức Thế Tôn dạy: -- Tâu Đại Vương, vào thời kỳ mà giáo lý
do Ngài Kassapa truyền dạy được hoằng khai trên thế gian thì cá nầy là một
vì sư tên Kapila, có sức học kinh điển uyên thâm và thâu nạp đông đảo
thiện tín. Nhưng vì đắm say theo danh lợi, nhà sư Kapila có nhiều hành
động khinh người và lời nói bất nhã, khinh miệt những ai không theo sư, do
đó làm trở ngại cuộc hoằng dương Giáo Pháp của Đức Phật Kassapa, tạo nhiều
nghiệp bất thiện. Vì lẽ ấy, sau khi viên tịch, Sư Kapila tái sanh vào khổ
cảnh và khi dứt nghiệp ở khổ cảnh, tái sanh làm cá nầy. Nhờ lâu ngày có
học và giảng dạy Giáo Pháp nên Kapila tái sanh làm con cá có màu vàng tươi
đẹp. Nhưng do nghiệp ngã mạn, mạ lỵ chư Tăng và gây trở ngại cuộc hoằng
pháp, cá có hơi thở hôi thúi như vậy. Vào lúc ấy, khi thấy trạng thái tâm
của đông đảo chư tăng và thiện tín hiện diện đã được chuẩn bị đầy đủ, sẵn
sàng để lãnh hội Giáo Pháp, Đức Thế Tôn mở lời:
"Một đời sống thanh cao, đạo đức và thánh
thiện
Rồi Ngài giảng dạy trọn vẹn bài kinh mà
sau nầy được ghi chép dưới tựa đề Kapila Sutta, nằm trong bộ Sutta Nipàta
của Tạng Kinh, Sutta Pitàka. Khi chấm dứt, Ngài đọc những câu kệ ngôn
sau đây:
"Bên trong con người dể duôi, ái dục tăng
trưởng nhanh chóng như loại dây leo. Nó nhảy chuyền từ kiếp nầy sang kiếp
khác như loài khỉ tìm trái cây trong rừng." (câu 334) "Trên thế gian nầy, sầu muộn của người bị
khát vọng khắng khít và đê hèn ấy tràn ngập, sẽ sinh sôi nảy nở tựa hồ như
cỏ birana được tưới nước đầy đủ." (câu 335)
"Những sầu muộn sẽ lăn tròn, tách rời
người đã khắc phục ái dục khó trị và đê hèn ấy như giọt nước rời lá sen."
(câu 336) "Như vậy, Như Lai khuyên dạy: may mắn thay
cho các con, tất cả các con đang tụ họp tại đây! Hãy đào xới ái dục tận
gốc rễ như người ta đào lấy rễ ngọt ngào của cỏ birani. Chớ để Ma Vương
mãi mãi đè bẹp các con như trận lụt làm rạp đám lát." (câu 337)
Chuyện Con Heo Nái Giáo lý nầy do Đức Bổn Sư tuyền dạy khi
Ngài lưu ngự tại VeÄuvana Vihàra (Trúc Lâm Tịnh Xá). Chuyện thuật rằng ngày kia, trên đường đi
vào thành Ràjagaha (Vương Xá) trì bình, khi nhìn thấy một con heo nái, Đức
Phật mĩm cười.[4] Đức Ànanda nhìn thấy vừng hào quang phát tủa ra từ miệng
Đức Phật liền bạch hỏi, "Bạch Hóa Đức Thế Tôn, vì lý do nào Ngài mĩm
cười?" Đức Phật trả lời, "nầy Ónanda, hãy nhìn con heo nái kia." -- "Bạch
Ngài con thấy." "Trong thời kỳ của Đức Phật Kakusandha,
heo nái kia là con gà mái thường sống quanh quẩn trong chùa. Hằng ngày gà
tìm thức ăn bên ngoài chánh điện, trong khi một vài vị sư tu thiền đọc lên
những bài kinh về thiền Minh Sát. Chỉ nhờ nghe những âm thanh mà không
hiểu ý nghĩa của lời kinh, sau khi chết gà tái sanh vào hoàng cung làm
công chúa có tên là Ubbari. Ngày nọ Công Chúa Ubbari nhìn thấy một đống
vòi. Ngay lúc ấy bà liền tập trung tư tưởng, chú tâm niệm vào đống vòi và
chứng đắc Sơ Thiền. Trong phần còn lại của kiếp ấy bà sống trong Sơ Thiền,
và do đó, sau khi qua đời, tái sanh vào cảnh trời. Lúc tuổi thọ ở cảnh
trời chấm dứt vì nghiệp lực tốt được tích trữ đã hết, nghiệp bất thiện đã
gieo trong những tiền kiếp xa xưa giờ đây trổ sanh, bà tái sanh trở lại
làm con heo nái." Khi nghe Đức Phật thuật lại lý lịch heo
nái như vậy chư tăng, do Ngài Ànanda hướng dẫn theo trì bình với Đức Phật
lấy làm xúc động, nhận thức rằng cho đến khi thành đạt Đạo Quả Tu Đà Huờn,
cuộc đi thênh thang trong vòng luân hồi quả thật là bấp bênh, bất ổn định.
Nhân cơ hội nầy Đức Phật truyền dạy:
"Như cái cây mà rễ còn vững chắc và không
bị động đến mặc dầu bị chặt ngã, vẫn còn đâm chồi nở tược, cùng thế ấy,
bao giờ lòng ái dục tiềm ẩn chưa bị tận diệt, sầu muộn ấy còn phát sanh
trở đi trở lại triền miên." (câu 338) "Bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục
[5]
tuôn chảy mạnh mẽ đến tâm hỷ lạc,
[6] tham ái cuồn cuộn lôi cuốn kẻ
si mê ấy đi như một luồng thác lũ." (câu 339)
"Luồng ái dục tràn ngập khắp nơi. Loài dây
leo ái dục đâm chồi [7]
và bám vững. Đã thấy loài dây leo đâm chồi, hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc
rễ." (câu 340)
"Giữa chúng sanh, hỷ lạc phát khởi, cuộn
chảy đến ngũ trần, và những chúng sanh ấy say mê chìm đắm trong ái dục.
Thiên về dục lạc, chúng đi tìm dục lạc. Đúng vậy, người như thế đi đến
sanh và diệt." (câu 341) "Kẻ bị bao trùm trong ái dục kinh hoàng
như thỏ nằm trong rọ. Bị thằng thúc và trói buộc
[8]
siết chặt, kẻ ấy chịu đau khổ triền miên, trở đi, trở lại." (câu 342)
"Kẻ bị bao trùm trong ái dục kinh hoàng
như thỏ nằm trong rọ. Vậy, thầy tỳ khưu có ý nguyện thành đạt trạng thái
không dục vọng (Niết Bàn) phải xa lìa ái dục." (câu 343) Kinh sách ghi rằng sau kiếp tái sanh làm
heo nái bà tái sanh trở đi trở lại mười ba kiếp, và vào thời Đức Mahà
Tissa bà xuất gia. Sau khi nghe Đức Mahà Tissa giảng kinh Mahà
Satipatthàna (Đại Niệm Xứ) bà chứng đắc Đạo Quả Tu Đà Huờn và về sau, khi
nghe kinh Asivipassa Sutta tại chùa Kallaka Mahà Vihàra, bà thành đạt Đạo
Quả A-La-Hán. Trong ngày nhập Đại Niết Bàn, theo lời yêu cầu của đông đảo
chư tăng, ni, bà thuật lại những kiếp sau cùng của bà và chấm dứt bằng lời
khuyên nhủ. "Mỗi người hãy kiên trì tinh tấn tu tập để thành đạt mục tiêu
cứu cánh." Vị Sư Huờn Tục Giáo lý nầy được Đức Bổn Sư truyền dạy khi
Ngài lưu ngự tạiVeÄuvana Vihàra (Trúc Lâm Tịnh Xá). Chuyện thuật rằng có vị sư kia đã từng
xuất gia với Ngài Kassapa, và chứng đắc Tứ Thiền. Ngày kia đến nhà người
cậu làm nghề thợ bạc, sư thấy nhiều món đồ đẹp, phát tâm ham muốn nên
không tiếp tục đời sống xuất gia nữa mà huờn tục. Nhưng lúc trở về đời
sống tại gia cư sĩ ông lại biếng nhác nên không có công ăn việc làm. Do đó
ông kết hợp với bạn xấu, đi trộm cắp, cướp giựt của người, và một hôm nọ
bị bắt. Lính trói tay dẫn đi khắp đường phố, dừng
lại ở mỗi ngã tư đường để dùng roi đánh đập ông, và sau cùng đến pháp
trường để hành quyết. Đức Kassapa trì bình đi ngang qua thấy vậy xin cho
ông được tháo dây trói buộc, rồi bảo ông hãy nhớ lại đề mục hành thiền mà
trước kia đã giúp ông đắc Tứ Thiền, và tận lực chuyên niệm. Ông nghe lời,
làm theo lời nhắc nhở của thầy, và nhập trở lại vào Tứ Thiền. Khi đến giờ
hành quyết, lính đem sắt nướng đỏ chỉa vào người ông từ bốn phía, và gươm
đao giáo mác tứ bề sẵn sàng đâm chém. Nhưng tội nhân vẫn bình thản như
thường, không tỏ ra vẻ gì rung động hay lo sợ. Hằng trăm lính bao quanh,
hung hăng tay cầm khí giới, nhưng tên cướp vẫn ung dung tự tại. Bao nhiêu
người hiện diện lấy làm kinh ngạc. Lính hoản cuộc hành quyết để tâu lại tự
sự cho vua. Vua truyền lệnh tha bổng tội nhân. Trong lúc ấy có người bạch
lại với Đức Thế Tôn. Ngài liền hiện đến ngay trước mặt ông sư huờn tục và
thuyết giảng Giáo Pháp, xong đọc câu:
"Người không còn ham muốn đời sống tại
gia, tìm thỏa thích trong cảnh rừng hoang vắng vẻ và, mặc dầu thoát ra
khỏi ham muốn đời sống tại gia, vẫn chạy trở về chính cái nhà ấy. Hãy đến
đây, nhìn xem con người ấy! đã thoát ly còn chạy trở vào vòng trói buộc."
(câu 344) Lúc bấy giờ, mặc dầu đang lâm nguy, ông sư
huờn tục chăm chú nghe Giáo Pháp và hướng tâm niệm về ba đặc tướng vô
thường, khổ, vô ngã của đời sống, đắc Quả Tu-Đà-Huờn. Trong khi thọ hưởng
phỉ lạc của Đạo Quả ông bay bổng lên không trung, đảnh lễ Đức Bổn Sư và,
giữa đám đông gồm cả vua, ông chứng ngộ Đạo Quả A-La-Hán.
Dây Trói Buộc Giáo lý nầy do Đức Bổn Sư truyền dạy khi
Ngài ngự tại Jetavana Vihàra (Kỳ Viên Tịnh Xá). Chuyện rằng vào thuở ấy những người phạm
tội ác như cướp của giết người hay phá khuấy cư dân, thì bị dẫn đến Vua xứ
Kosala. Vua truyền lệnh dùng dây thừng, dây gai, để xích trói các tội nhân
ấy.
Vào lúc bấy giờ có ba mươi vị sư từ thôn
quê đến hầu Phật, vào đảnh lễ Ngài xong, các sư xin kiếu về tịnh thất. Qua
ngày hôm sau các vị ấy vào thành Sàvatthi (Xá Vệ) trì bình, đi ngang qua
khám đường và thấy các tù nhân. Lúc trở về chùa vào buổi chiều, các vị sư
đến hầu Phật và bạch hỏi Ngài, "Bạch Hóa Đức Thế Tôn, hôm nay, trong khi
đi trì bình, chúng con đi qua khám đường và thấy các tù nhân. Những người
nầy bị trói bằng dây thừng, dây gai và xích lại chặt chẽ. Trông hình như
họ đang chịu đau khổ vô cùng. Họ không thể phá vỡ gông cùm để thoát thân.
Bạch Hóa Đức Thế Tôn, có chăng những trói buộc chặt chẽ hơn?"
Đức Phật giải thích: "Nầy chư tỳ khưu, các dây trói buộc ấy
thật không chặt chẽ lắm đâu, nếu so với trói buộc của những đam mê xấu xa
đê tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của tâm luyến ái, bám níu vào tài
sản, sự nghiệp, con cái, vợ, chồng. Đó là dây trói buộc cả trăm lần, hơn
nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các loại dây mà các con thấy.
Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có chặt chẽ đến đâu, bậc thiện trí vẫn có
đủ khả năng để phá vỡ, và Ngài dạy: "Dây làm bằng sắt, gỗ, hay gai, ràng buộc
không bền chặt. Bậc thiện trí dạy như thế. Tâm luyến ái, bám níu vào kim
cương, đồ trang sức, vợ, con, là trói buộc bền chắc hơn nhiều." (câu 345) "Trói buộc ấy thật bền chắc, bậc thiện trí
dạy như vậy. Nó trì xuống, tuy mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính loại
dây ấy, bậc thiện trí cũng cắt lìa và, từ bỏ thế gian, không luyến ái, từ
khước mọi dục lạc." (câu 346) -ooOoo- Chú thích: [3] Xem Hành Khổ, Phần I [4] Sách Compendium of Philosophy ghi nhận
rằng kinh sách Phật Giáo phân biệt sáu hạng cười: 1. sita, là nụ cười tế
nhị, chỉ biểu hiện niềm vui trên gương mặt; 2. hasita, nụ cười nhếch môi
vừa để lộ chót răng; 3. vihasita, cười khẻ, tạo nên một tiếng động nhỏ; 4.
upahasita, cười đến nhúc nhích đầu, vai, và tay; apahasita, cười hỷ hạ đến
ra nước mắt; 6. atihasita, cười ngã nghiêng ngã ngữa, từ đầu đến chân đều
di động. Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác mĩm cười với bốn loại tâm Hành Đẹp
(sobhana kiriya citta) hợp với trí tuệ và cảm giác hạnh phúc. (Trích dịch
từ quyển A Manual of Abhidhamma, tác giả Nàrada Mahà Thera) [5] Ba mươi sáu loại ái dục -- xem bài
viết nầy, từ trang 41. Có sáu loại ái dục liên quan đến sáu căn là nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, và sáu loại liên quan đến sáu trần, là sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, tính chung tất cả là mười hai. Nếu tính luôn
ba loại được kể trong bài viết, trang 41, thì có ba mươi sáu. Và nếu tính
luôn ái dục trong ba thời, quá khứ, hiện tại, và tương lai thì có tất cả
là một trăm lẻ tám (108).
[6] Tư tưởng hỷ lạc -- xuyên qua lục căn.
[7] Dây leo ... đâm chồi, từ lục căn và
bám vững, dính mắc theo lục trần. [8] Thằng thúc và trói buộc -- có năm
thằng thúc, hay chướng ngại tinh thần (nivarana) là tham dục, oán ghét,
hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu, và hoài nghi. Có năm loại trói buộc
(sanga) là tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn và tà kiến. -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Nguyên nhân sanh đau khổ
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp,
Như Lai tìm người thợ cất nhà nầy,
Lặp đi lặp lại cuộc sống quả thật là phiền muộn.
Nầy hởi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa,
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt,
Và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục."
Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục không còn sầu muộn, càng ít lo sợ."
Viết Theo Những Quyển "Buddhist Legends" (Harward Oriental Series)
Đó là châu ngọc quý báu nhất trên đời."
last updated: 22-02-2003