BuddhaSasana Home Page
Tứ Diệu
Đế
Phạm Kim Khánh [IV.b] Chánh Tinh Tấn Chánh Tinh Tấn là nỗ lực chân chánh. Không mục tiêu tốt
đẹp nào có thể thành tựu
được một cách mỹ mãn nếu không có sự
cố gắng. Thoát ra khỏi những đau khổ của vòng
luân hồi mà từ vô lượng kiếp chúng ta mãi thênh thang lê bước là một công
trình vô cùng quan trọng, thì sự cố gắng cũng phải ở một mức
độ tương đương, nghĩa là phải tột bực
kiên trì và tận lực dũng mãnh cố gắng. Phật Giáo không chủ trương rằng chỉ van vái nguyện cầu suông mà có thể
giải thoát. Kinh Pháp Cú dạy: "Làm điều ác, do ta. Quả thật vậy, ô nhiễm
do ta. Cũng do ta, không làm điều ác.
Quả thật vậy, được thanh lọc do ta. Đức Phật chỉ có thể vạch ra cho chúng ta con đường. Phần chúng ta l
"Chính tự các con phải kiên trì cố gắng. Các
đấng Như Lai chỉ là những vị thầy."
(Kinh Pháp Cú, câu 276) Tinh tấn là yếu tố vô cùng quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Trong ba
mươi bảy bodhipakkhiya sangaho, Phẩm Trợ Đạo,
tức ba mươi bảy phẩm hạnh khả dĩ đưa chúng sanh từ bờ mê
đến bến giác, hay ba mươi bảy yếu tố hỗ trợ hành
giả đi trên Con
Đường đưa đến giác ngộ, Tinh Tấn được nhắc
đến tới chín lần, nhiều hơn các hạnh khác.
Đời sống của Đức Phật l Chánh Tinh Tấn có bốn phần, hai liên quan
đến bất thiện pháp và hai liên quan
đến thiện pháp. Bốn tác dụng của sự nỗ lực chân chánh là ngăn
ngừa và dứt bỏ bất thiện pháp, phát triển và củng cố thiện pháp.
Trong bộ Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A-Hàm,
quyển II, trang 15, bài kinh số 13 và 14, có ghi như sau: 1. Cái gì là tinh tấn ngăn ngừa?
"Nơi đây (trong trường hợp nầy) vị tỳ khưu
đặt hết ý chí mình vào công phu ngăn
ngừa, không để phát sanh bất thiện pháp, những tư tưởng bất thiện chưa
phát sanh. Vị nầy cố gắng phát triển năng lực và dũng mãnh củng cố
tâm của mình (để ngăn ngừa).
"Nơi đây, khi vị tỳ khưu thấy một hình
thể, nghe một âm thanh, hưởi một mùi, nếm một vị, xúc chạm một vật, hay
biết một ý tưởng, vị nầy không bị những đối
tượng ấy -- xem như một toàn thể hay từng chi tiết -- làm xúc
động. Vị tỳ khưu chăm chú kiểm soát, cẩn mật
gìn giữ và điều phục lục căn, không để
cho những cảm xúc như ưa thích hay ghét bỏ, những tư tưởng tội lỗi và
bất thiện, xâm nhập vào như người không thu thúc lục căn
(bị nó xâm nhập). Đó là tinh tấn ngăn
ngừa."
2. Cái gì là tinh tấn dứt bỏ? "Nơi đây, vị tỳ khưu đặt hết ý chí vào
công phu dứt bỏ các pháp bất thiện, những tư tưởng bất thiện
đã phát sanh. Vị nầy cố gắng phát
triển năng lực và dũng mãnh củng cố
tâm mình (để dứt bỏ).
"Nơi đây, vị tỳ khưu không chấp nhận,
không dưỡng nuôi, những dục vọng đã phát sanh, mà dứt bỏ, tránh xa
và xua đuổi, làm cho nó chấm dứt và
tan biến. Cùng thế ấy, dứt bỏ những tư tưởng sân hận và hung bạo
đã phát sanh.
Đó là tinh tấn dứt bỏ." 3. Cái gì là tinh tấn phát triển? "Nơi đây, vị tỳ khưu đặt hết ý chí mình
vào công phu tạo nên (làm cho phát sanh) và phát triển thiện pháp, những
tư tưởng thiện chưa phát sanh. Vị nầy cố gắng phát triển năng
lực và dũng mãnh củng cố tâm của mình (để
phát triển).
"Nơi đây, vị tỳ khưu phát triển những yếu
tố của sự giác ngộ (Thất Giác Chi) căn cứ trên sự ẩn dật, trên sự
dứt khoát từ bỏ, trên sự chấm dứt cuối cùng,
đưa đến giải thoát. Những yếu tố ấy là niệm, trạch pháp, tấn, phỉ,
an, định, xả. Đó là tinh tấn phát
triển." 4. Cái gì là tinh tấn củng cố? "Nơi đây,vị tỳ khưu củng cố một đề mục
(hay công án) hành thiền thuận lợi ...
Đó là tinh tấn củng cố. "Đây là bốn tinh tấn: Ngăn
ngừa, dứt bỏ, phát triển và củng cố.
Đó là bốn tinh tấn mà Đức Thế Tôn đã
ban truyền. Nơi đây vị tỳ khưu, nhờ kiên
trì tinh tấn, thành tựu chấm dứt đau khổ."
Trong bài kinh nầy, "pháp bất thiện" là những tư tưởng phát khởi từ ba
căn bất thiện là tham, sân, si. Trên
phương diện thực hành trong đời sống hằng ngày,
bất thiện pháp là mười nghiệp bất thiện đã
được đề cập đến trong phần Chánh Kiến. [11]
"Thiện pháp" ở đây không những chỉ là
thập thiện nghiệp mà còn là những yếu tố của sự Giác Ngộ (Thất Giác Chi),
những yếu tố của Tuệ Minh Sát, đưa chúng sanh
đến chỗ giải thoát toàn vẹn ra khỏi mọi khổ
đau của biển trầm luân. Theo Ngài Ledi
Sayadaw, "thiện nghiệp" là bảy giai đoạn của
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga, con đường trong sạch dẫn đến Niết Bàn):
Giới Tịnh, Tâm Tịnh, Kiến Tịnh, Đoạn Nghi
Tịnh, Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh, Đạo Tri Kiến Tịnh và Tri Kiến
Tịnh. Trong guồng máy phức tạp của con người có cái tâm vô cùng quan trọng.
Tâm chứa đựng một kho tàng những
đức tánh tốt đẹp và một hầm những tật
xấu. Chánh Tinh Tấn là nỗ lực loại bỏ dần những tật xấu, và phát triển
những đức tánh tốt đẹp. Cũng như trên
một đám đất hoang, muốn thành công
gieo trồng giống tốt thì trước tiên phải tiêu diệt cỏ dại, và canh chừng
không cho nó mọc lên trở lại. Rồi trên thủa
đất sạch tốt ấy ta mới gieo giống, thận trọng vun bón và theo dõi
sức trưởng thành của cây. Đó là Chánh
Tinh Tấn. Chánh Niệm Chánh Niệm là chi thứ bảy trong Bát Chánh
Đạo. Khi đề cập đến "niệm" một số người trong chúng ta liên tưởng
đến hình ảnh một nhà sư
đạo mạo đang trầm ngâm lặng lẽ ngồi đâu đó
trong rừng sâu hay hang thẩm, hoặc trong một ngôi chùa xa xôi hẻo
lánh, dưới lùm cây rậm rạp. Vài người vẫn nghĩ rằng "tu niệm" là một công
trình có tánh cách huyền bí, dành riêng cho một hạng người
đặc biệt nào. Thật ra "niệm" hết sức
đơn giản, rất phổ thông. Tất cả chúng ta đều
có niệm, mặc dầu chúng ta niệm trong hình thức sơ khai nhất và gọi
đó là chú tâm, hay lưu ý
đến, nghĩa là chăm
chú hướng tâm về đối tượng. Tâm hay biết nầy, nếu ta giữ được bèn
lâu trên đối tượng thì
đó là niệm. Tâm có chiều hướng phóng
ra ngoài, chạy đầu nầy nhảy đầu kia, luôn
luôn chao động. Kéo tâm lại và đặt nó
vào một đối tượng, chỉ hay biết đối
tượng đó thôi. Đó là niệm. Danh từ Pàli mà ta thường phiên dịch là niệm, "sati", Sanskrit là smrt,
có nghĩa là trí nhớ. Tuy nhiên, sati không chính xác giống như quan niệm
về trí nhớ của người Tây Phương. Sati, niệm, là trạng thái chú tâm, sự
hiện hữu của tâm trên đối tượng. Đôi khi sati
được dùng trong ý nghĩa hay biết, nhưng ở
đây danh từ sati, niệm, không phải là
sự hay biết như thường được hiểu, ít nhiều
bao hàm những ý nghĩ, những cảm tưởng v.v... Nơi
đây sati là sự hay biết suông, trơ
trọi, hoàn toàn tách rời ra khỏi mọi suy tư, tưởng tượng, hồi nhớ. Ngoài
đối tượng, không hay biết gì khác xảy
ra bên trong hay bên ngoài ta. Niệm là sự hay biết không có lựa chọn, chỉ
ghi nhận đối tượng mà không vướng víu
vào màn lưới của tư tưởng. Như vậy, hành chú niệm không phải là vấn
đề "làm một
điều gì" mà thật sự là không làm.
Không suy tư, không xét đoán, không liên
tưởng, không sắp xếp kế hoạch, không tưởng tượng, không ước muốn. Chỉ có
ghi nhận, quan sát, chú tâm nhìn vào đối
tượng. Trong khi hành Chánh Niệm, tâm thức tỉnh quan sát
điều gì
đang xảy ra một cách rõ ràng an tĩnh. Chỉ ghi nhận rồi buông bỏ cho
nó trôi qua, không xét đoán hay diễn dịch. Sự
vật đến rồi đi, sanh rồi diệt, hành giả ghi nhận diễn tiến trong
thời điểm hiện tại, luôn luôn sống trong hiện
tại.
Trong Bát Chánh Đạo, đi kèm theo
danh từ sati có chữ sàmma, có nghĩa chân chánh,
đúng. Sammà sati là niệm, hoặc có sự
chú tâm hay biết chân chánh, ta gọi là Chánh Niệm. Một cách rốt ráo, thực
hành Chánh Niệm là hành Tứ Niệm Xứ. Có bốn loại niệm chân chánh là: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm
pháp. được gọi là Tứ Niệm Xứ
(Satipatthàna). "Patthàna" hay "upatthàna" là
đem lại gần, kềm giữ chắc tình trạng hiện hữu, giữ tâm hay biết,
hay thiết lập cơ sở. Tứ Niệm Xứ, là bốn xứ, tức bốn nơi chánh yếu
để hành giả
đặt sự chú tâm hay biết vào. Kinh Tứ Niệm Xứ được Đức Thế Tôn thuyết
giảng cho người dân Kuru tại thị trấn Kammasadamma và
được ghi chép ở hai nơi trong Tam Tạng kinh
điển. Một nơi là bài kinh số 10 trong bộ Majjhima Nikàya, Trung
A-Hàm, dưới tựa đề Satipatthàna Sutta.
Bài kinh kia mang số 22, trong Digha Nikàya, Trường A-Hàm dưới tựa
đề Mahà Satipatthàna Sutta.
Điểm khác biệt giữa hai bài là trong
kinh Mahà Satipatthàna, Đại Niệm Xứ, của
Trường A-Hàm phần Tứ Diệu Đế được giải
thích dài dòng và đầy đủ chi tiết hơn
trong đoạn Niệm Pháp. Cả hai bài kinh
đều khởi đầu như sau:
"Có con đường duy nhất nầy để chúng sanh
tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành
đạt trí tuệ và
để chứng ngộ Niết Bàn --
đó là Tứ Niệm Xứ." Tứ Niệm Xứ là thế nào? Là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm và Niệm Pháp. a. Niệm Thân, hay Thân Quán Niệm Xứ Là chú tâm hay biết vào những hiện tượng vật chất trong cơ thể. Pháp
Niệm Thân có 14 phần gồm: 1. Chú tâm vào hơi-thở-vào-thở-ra. Đây là
pháp hành rất phổ thông, và mọi người có thể áp dụng làm nền tảng cho công
phu hành thiền. Không nên lầm hiểu rằng đây
chỉ là lối tu tập cho người sơ cơ. Vì pháp niệm hơi thở chính nó có
thể dẫn hành giả đi dài theo con
đường, qua suốt tất cả những giai đoạn khác
nhau của Con Đường, đến tận điểm cùng tột là hoàn toàn giác ngộ.
Lại nữa, tiến trình hơi thở theo dính liền với ta chí
đến lúc lìa
đời và do
đó, luôn luôn hiện hữu. Lúc nào ta cũng có thể xử dụng
để chú tâm hay biết vào. Hành giả
không cố ý kiểm soát, làm cho nó phải như thế nào, dài hay ngắn, mạnh hay
yếu, mà để nó trôi chảy tự nhiên và
theo dõi, ghi nhận, chú tâm hay biết. 2. Chú tâm hay biết mọi cử động của thân,
như đi, đứng, nằm, ngồi v.v... Hành giả chú tâm hay biết vào mọi cử
động của thân. Khi đi, hay biết mình
đang đi, khi đứng, hay biết mình
đang đứng, khi nằm, hay biết mình
đang nằm, khi ngồi, hay biết mình
đang ngồi, khi đổi tư thế, hay biết mình
đang chuyển mình, thay
đổi tư thế.
3. Có sự hay biết rõ ràng (satisampajanna. Sati là niệm + sampajanna là
hay biết rõ ràng) về mục đích và về
tính cách thích nghi của hành động bằng thân,
như khi nằm, khi nhìn về phía trước hay nhìn quanh, khi co hay duỗi
tay, chân, khi đắp y mang bát, khi ăn, uống,
nhai, nếm, khi đi đại tiện hay tiểu tiện, khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi
ngủ, khi thức, khi nói, và khi giữ im lặng. Phần nầy cũng
đưa đến trạng thái định tâm và hiểu
biết thấu đáo và tận tường rằng không
có một "người" mà chỉ có những cử động sanh
khởi do nhân duyên. 4. Quán tưởng tánh cách ô trược của thân. Quán sát thâm sâu vào thực
tướng của thân nầy để nhận thức rằng nó không
có chi là hấp dẫn để ta luyến ái. Đức
Phật dạy rằng ham mê nhục dục ngũ trần là một hình thức của ái dục,
tức nguyên nhân sanh đau khổ, và như
vậy, phải cố gắng giảm bớt và tiêu trừ. Thông thường, khi nhìn bề ngoài, ta thấy rằng thân nầy
đẹp đẽ và hấp dẫn, rồi ngưng tại
đó, không nhìn vào và quan sát một lớp
sâu hơn. Pháp hành nầy mổ xẻ, phân tách, nghiên cứu từng bộ phận và thấy
rằng cái mà ta gọi là sắc đẹp chỉ là
một ảo ảnh, chỉ sâu dầy như một lớp da. Dưới lớp da mỏng manh ấy thì không
có gì là hấp dẫn. Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng pháp hành nầy nhằm làm
cho ta nhờm gớm hay bất mãn với cơ thể, mà giúp ta thấy
đúng sự thật rồi buông bỏ, không luyến ái,
không bám níu vào thân, nghĩa là từ từ dập tắt ngọn lửa tham dục
bằng cách giảm dần nhiên liệu. 5. Quán tưởng về bốn thành phần chánh yếu (Tứ
Đại chánh yếu) cấu thành cơ thể vật
chất nầy. Thông thường ta có khuynh hướng xem thân nầy là chính mình, là
của mình. Nhưng khi mổ xẻ, phân tách tận tường, ta nhận thức rằng nó chỉ
là sự cấu hợp của những nguyên tố đất, nước,
lửa, gió, luôn luôn biến chuyển, cũng như những gì vật chất ở quanh
ta, thì có gì là "ta", xem như một đơn vị
nguyên vẹn, thường còn, không biến
đổi, có gì đặc biệt là "của
ta". 6. Quán tưởng chín loại tử thi, suy niệm về chín giai
đoạn tan rã của xác chết. Hành giả tưởng tượng một xác chết lần lần sình thúi và trải qua những
giai đoạn tan rã, rồi liên tưởng
đến thân mình. Giờ
đây khỏe mạnh, đầy sinh lực, nhưng một ngày
nào rồi cũng chịu chung một số phận, xuôi chiều theo
định luật thiên nhiên. "Thật vậy, thân
nầy cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy, và sẽ không
thể tránh khỏi trạng thái như vậy. "Một lần nữa, ta không nên hiểu lầm tác dụng của pháp hành nầy.
Đây không nhằm làm cho ta lo sợ chết
hay sợ xác chết, mà giúp ta suy niệm rõ ràng thực tướng của sự vật là vô
thường và buông bỏ, không núm níu kiếp sinh tồn. Tử thi ở
đây là vị thầy
đang dỏng dạc nói lên một cách hùng
hồn, khẳng định rằng:
"Tất cả các pháp hữu vi thật không bền vững. Nó có tánh cách sanh diệt
là thường, vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh... " b. Niệm Thọ, hay Thọ Quán Niệm Xứ Là chú tâm hay biết vào những cảm giác hạnh phúc hay
đau khổ, hoặc vô ký
(không-hạnh-phúc-không-đau-khổ), khi những cảm giác ấy vừa sanh khởi.
Thọ là một tâm sở. Theo (Abhidhamma), Vi Diệu Pháp, tâm sở thọ là một
trong bảy tâm sở phổ thông (biến hành), có mặt trong tất cả các loại tâm.
Như vậy, mỗi khi chứng nghiệm một loại tâm nào cũng có tâm sở thọ, mạnh
hay yếu, rõ ràng rành mạch hay mù mờ, nhưng có sự hay biết là có thọ. Thí
dụ như có một hình thể (sắc trần), có mắt (nhãn căn),
khi sắc trần tiếp xúc (xúc) với nhãn căn
là có nhãn thức. Nhãn thức là sự thấy, sự hay biết hình thể xuyên
qua mắt. Một sự hay biết tức là một loại tâm vương, thì trong
đó có tâm sở thọ, mạnh hay yếu. Có sáu căn:
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức có sáu loại hay biết: nhãn thức,
nhĩ thức v.v... Mỗi lần có sự hay biết, mỗi lần có thức, là có thọ. Tùy
theo "xúc" ở căn nào có sáu loại thọ
khác nhau. Thọ sanh khởi cùng lúc với thức. Thọ rất quan trọng, vì do thọ ái phát sanh, và từ
đó, liên tục diễn tiến vòng quanh
những kiếp sống khổ đau. Thọ có thể phát sanh
rõ ràng, dễ nhận ra, có khi kín đáo và
mù mờ, tế nhị đến độ có đó mà ta không
nhận diện. Thọ lạc thì ta luyến ái rồi chấp thủ, một loại tâm tham. Thọ
khổ thì ta bất mãn, buồn phiền, một hình thức của tâm sân. Thọ vô ký thì
ta buông trôi, để cho nó mặc tình lôi
cuốn, tức ít nhiều có tâm si. Tham. sân, si, là căn nguyên từ
đó xuất phát tất cả những loại tâm bất thiện.
Nhìn theo Thập Nhị Nhân Duyên: ... lục căn
tạo duyên cho xúc phát sanh, xúc tạo duyên cho thọ phát sanh, thọ
tạo duyên cho ái phát sanh, do ái tạo duyên thủ phát sanh, và do thủ, hữu
phát sanh v.v..., cứ thế vòng quanh sanh tử-tử sanh tiếp diễn vô cùng tận. Thông thường, nếu không có kiểm soát, tiến trình của luồng tâm diễn
tiến như thế. Những ưa thích và ghét bỏ của ta phần lớn tùy thuộc nơi trần
cảnh và phát sanh hầu như máy móc, một cách tự
động. Chúng ta không chủ động mà chỉ
phản ứng. Một cảnh đẹp làm cho ta muốn
thưởng ngoạn. Một bản nhạc hay làm cho ta muốn nghe. Một thức
ăn ngon khiêu gợi lòng muốn
ăn v.v... Trong quyển The Simpler Side of the
Buddhist Doctrine, Ngài Kassapa Thera viết: "... Từ lâu, giác quan
ta đòi hỏi
được thỏa mãn.
Đã lâu rồi, giác quan ta
được phụng sự đầy đủ, và sẽ còn
được phụng sự cho đến khi trở thành
quá đổi khó chịu. Cái gì phụng sự giác
quan? Chính cái tâm phải phục vụ giác quan như người nô lệ phục vụ cùng
lúc năm vị hoàng
đế khó tánh. Tâm, vị chúa tể, đã bị
truất phế, và chính năm tên quân hầu
-- năm giác quan -- soán ngôi. Người Phật tử
chúng ta có bổn phận phục hồi ngôi vị lại cho tâm, vì tâm là nguồn
năng lực duy nhất có thể giúp ta vạch ra và
khai triển con đường."
Làm cách nào kềm chế những đòi hỏi
của giác quan? Nơi đây là vai trò của
pháp hành "Niệm Thọ", hay Thọ Quán Niệm Xứ. Thọ lạc không
đương nhiên dẫn
đến tâm tham, cũng như thọ khổ không nhất
thiết phải dẫn đến tâm sân, và thọ vô ký
đến tâm si. Bằng cách vận dụng ý chí, đôi khi
ta có thể quyết định loại thọ mà không bị
đối tượng chi phối. Khi nhờ niệm thọ ta hay
biết kịp thời, nhìn, hiểu biết, và
điều khiển nó mà không để nó dẫn đi.
Như có người kia mà từ lâu ta hằng có cảm tình và giúp
đỡ, một ngày nọ bỗng nhiên trở mặt
mắng nhiếc ta thậm tệ. Lời thô lỗ đến tai, có
nhĩ thức. Thông thường, nếu "niệm" không đủ bén nhạy, không nhận thức kịp
thời, tức nhiên có đau khổ. Tâm sân
liền phát khởi, đưa đến những lời nói hay hành
động kém thanh lịch. Nếu có niệm thọ, và
nếu "niệm" đủ bén nhạy, vừa hay có thọ khổ và
tâm bất mãn khởi sanh ta liền kịp thời suy tư như sau: Lời nói thô lỗ cộc
cằn là xấu và sẽ tạo nghiệp bất thiện. Nó là của ai? Không phải của ta.
Của người kia. Của họ thì để họ lo, mình
không thể giúp gì thì không nên gánh chịu. Bây giờ, cái gì là của ta? Phản ứng của ta như thế nào
đối với lời nói nặng ấy sẽ là của ta.
Trong trường hợp nầy có thể có ba cách phản ứng. Một là ăn miếng trả miếng. Họ mắng chưởi mình
thì mình mắng chưởi lại. Đó là phản
ứng tự nhiên, dễ dàng, thông thường nhất, và
đương nhiên đưa đến tâm sân, đau khổ.
Hai là nhịn. Ta suy nghĩ rằng lời nói chỉ là những âm thanh. Nếu
để những âm thanh ấy lọt vào tâm thì
nó sẽ gây phiền giận, đau khổ, mà
không lợi ích gì. Hãy để cho nó bay qua như
gió thoảng qua màn lưới. ý tưởng ấy sẽ
đưa ta đến tâm xả, quân bình, bình thản. Ba là thương hại anh ta.
"tội cho cái nghiệp" của anh. Đã gieo
nhân bất thiện ắt sẽ gặt quả bất thiện, anh sẽ chịu hậu quả
đau khổ mà không biết. Rồi ta rải tâm
từ đến anh. Hành
động như vậy thì chính ta sẽ hưởng thọ
lạc. Lẽ dĩ nhiên, thái độ thứ nhất là
thấp kém và thái độ thứ ba là cao
thượng hơn hết, nhưng ít khi ta làm được. Tại
sao? Vì niệm của ta chưa đủ bén nhạy
để hay biết kịp thời, và tâm từ của ta còn yếu,
để cơn giận nổi lên như ngựa chạy
điên, có
đụng đầu mới chịu ngừng. Nếu niệm của ta đã
được rèn luyện thuần thục ắt bén nhạy
hơn và sẽ hay biết kịp thời. Lúc ban sơ trong pháp Niệm Thọ, ta chú tâm hay biết những cảm giác vừa
phát khởi và phân biệt rõ ràng bản chất của nó là lạc, khổ, hay vô ký. Ghi
nhận loại thọ, nhưng không tự đồng hóa mình
với nó, không xem nó là "ta" hay "của ta", hoặc là cái gì xảy
đến cho "ta". Thọ chỉ là cảm giác
suông. Sự hay biết được giữ ở tầng lớp chỉ
ghi nhận thọ, không có lẫn lộn với bất luận cảm giác buồn vui, hay ưa
thích, ghét bỏ nào. Đó là ý
nghĩa đoạn "niệm thọ trong thọ" trong câu
kinh, Chỉ ghi nhận loại thọ -- lạc, khổ, hay vô ký. Hành giả chỉ
hay biết có sự hiện hữu của thọ và giác tỉnh theo dõi, nhìn nó tan biến.
Lâu ngày tự rèn luyện như thế sẽ đến lúc có
thể ghi nhận từng thọ cảm của mình sanh khởi và hoại diệt, diệt rồi
sanh. Chỉ có một luồng những thọ cảm diễn tiến vô cùng nhanh chóng. Trong
tiến trình sanh diệt ấy không có chi tồn tại, và không có chi có thể là
một cái "ta" đơn thuần, nguyên vẹn,
tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Không có chi
để tham, để sân, hay để si. Không có chi đáng
được ưa thích hay ghét bỏ. Không có chi đáng bám níu, hay xua đuổi . Ta hoàn
toàn buông bỏ. Cùng lúc ấy niệm của ta sẽ bén nhạy thêm dần và có thể dễ
dàng hơn, ngưng lại kịp thời những cảm xúc, những ý nghĩ và những tác ý
bất thiện. Ta tinh tấn ngăn ngừa không để
những cảm xúc ấy khởi sanh mà buông bỏ, chận
đứng "ái" ngay tại đây.
c. Niệm Tâm Là chỉ chú tâm hay biết về những tư tưởng của mình. Thí dụ như có những
tư tưởng tham ái phát sanh, hành giả hay biết có tâm tham; có tâm quảng
đại thiên về bố thí, hành giả hay biết
có tâm bố thí v.v... Khi những tư tưởng nầy phát hiện, hành giả ghi nhận
sự phát hiện. Khi nó tan biến, hành giả hay biết nó tan biến. Theo Phật Giáo, tâm không phải là một thực thể
đơn thuần, nguyên vẹn, và không biến
đổi, mà là những chặp tư tưởng liên
tục nối tiếp trôi chảy. Ngài Nàrada giải thích: "Theo triết học Phật Giáo, không có khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống
rỗng, nghĩa là không có một lúc nào mà không có một loại tâm duyên theo
một đối tượng vật chất hay tinh thần. Thời
gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chặp tư tưởng, hay
sát-na tâm. Khi một chặp tư tưởng diệt, tức khắc có một chặp mới phát
sanh. Như vậy, những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn tại
của một chặp tư tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm
được. Mỗi chặp tư tưởng gồm ba giai đoạn,
sanh, trụ, và diệt. Ngay khi một chặp tư tưởng vừa trải qua giai
đoạn diệt, tức khắc giai đoạn sanh của chặp
tư tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến
đổi của đời sống, mỗi chặp tư tưởng khi diệt,
chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chặp
tư tưởng kế tiếp. Một chặp tư tưởng mới gồm những tiềm năng
do chặp tư tưởng trước trao lại, và thêm vào
đó có cái gì khác nữa. Như vậy có sự
luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi
chảy. Chặp tư tưởng mới không hoàn toàn giống như chặp tư tưởng trước, bởi
vì thành phần cấu tạo đã
đổi mới, mà cũng không tuyệt
đối là khác, bởi vì cả hai
đều cùng nằm trong một luồng sống, một
dòng đời.
"... Hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm xem sự liên tục
giả tạo như cái gì vững bền, vĩnh viễn, không
đổi thay, và còn đi xa đến đổi đưa một
linh hồn trường tồn bất biến -- giả định là người vừa hành
động, vừa quan sát hành
động-- vào trong cái tâm luôn luôn
biến đổi."
Khi niệm thọ, ta chú tâm hay biết vào một tâm sở
đặc biệt, tâm sở "thọ". Niệm tâm, ta chú tâm
hay biết vào tâm vương. Tâm vương gồm 52 tâm sở, trong
đó thọ là một. Trong pháp niệm tâm, do
những tâm sở liên quan Đức Phật chỉ dạy 16
loại tâm để hành giả chú niệm là : Tâm có tham và tâm không-tham,
tâm có sân và tâm không-sân, tâm có si và tâm không-si, tâm uể oải. liên
hệ đến dã dượi hôn trầm, tâm loạn
động, tâm phát-triển-cao-thượng (tức các loại
tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới), tâm không-phát-triển-
cao-thượng (tức các tâm thuộc Dục Giới), tâm hữu hạn (tức còn có thể hơn),
tâm vô thượng, tâm định, tâm không định, tâm
giải thoát, và tâm không giải thoát. Dầu tâm trong sạch hay ô nhiễm, ta nên giữ chỉ có sự hay biết rõ ràng
mà không phấn khởi kích thích, cũng không chán nản ngã lòng. Chỉ ghi nhận
loại tâm, rồi để nó trôi qua, không luyến ái,
bám níu, cũng không ghét bỏ, đuổi xua, mà hoàn toàn buông bỏ. c. Niệm Pháp Là chú tâm hay biết vào những đối tượng
của tâm. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, phần Niệm Pháp chia làm năm
phần: Năm pháp triền cái, ngũ uẩn thủ, sáu nội và ngoại xứ, thất
giác chi và tứ diệu đế.
Năm pháp triền cái, hay năm
chướng ngại cản trở con đường hành đạo
là: tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu, và hoài
nghi. Trong bộ Samyutta Nikàya Đức Phật dạy: "Có
năm chướng ngại làm hoen ố tâm. Do các chướng ngại nầy, tâm không
ôn thuận, không mềm dẽo, không sáng suốt, không thể
được phân tách dễ dàng, cũng không thể
được cấu hợp hoàn bị
để tiêu trừ ô nhiễm." Người hành thiền phải hay biết rõ ràng mỗi khi nó phát sanh và khi nó
hoại diệt. Để dễ dàng kiểm soát, hành
giả phải hiểu rõ năm chướng ngại tinh thần
khởi phát như thế nào, phải làm thế nào cho nó tan biến, và làm thế
nào để ngăn ngừa, không cho nó sanh khởi
trong tương lai.
Ngũ Uẩn Thủ là chấp thủ rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
"ta", là "của ta" rồi cố bám vào. Hành giả chú tâm hay biết vào sự khởi
sanh và sự phân tán của từng uẩn và nhận thức rằng nó luôn luôn biến
đổi, không có thực chất, và không có
uẩn nào là "ta" và "của ta". Bộ Samyutta Nikàya, Tạp A-Hàm, ghi lại lời Ngài Sàriputta (Xá Lợi Phất)
khuyên dạy cụ già Nakulapità như sau: "Người không phân biện Giáo Pháp rõ ràng, không tu tập theo lời dạy của
Giáo Pháp, xem thân (sắc) nầy là tự ngã của mình, thấy tự ngã của mình nằm
trong thân, thân là tự ngã. Người ấy nói, "Tôi là thân nầy, thân nầy của
tôi", và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày, nhiều kiếp như vậy.
Đến khi thân thể biến đổi, tàn tạ, và
ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật
vô thường, bất ổn định, dính liền với mọi sự vật, mọi kiếp sinh tồn, thì
cảm nghe buồn rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy
ta thán, than van, tuyệt vọng.
"Người ấy xem thọ, tưởng, hành, thức, là tự ngã, xem chính mình nằm
trong thọ, tưởng, hành, thức, hoặc xem thọ, tưởng, hành, thức, nằm trong
chính mình và nói, "chính ta là ngũ uẩn, ngũ uẩn là ta, cái nầy là thọ,
tưởng, hành, thức, của ta. Và cứ thế, ý niệm tự
đồng hóa với ngũ uẩn thâm nhiễm người ấy. Do
đó, khi thọ, tưởng, hành, thức biến
đổi, vì bản chất của nó là bất ổn định
và luôn luôn biến đổi, thì
người ấy buồn rầu, ta thán, âu sầu và tuyệt vọng..." Và Ngài dạy tiếp: "...Người được giáo dục đầy đủ, người có
tu tập thuần thục trong Giáo Pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy không xem
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là chính mình, cũng không xem tự ngã
mình nằm trong năm uẩn ấy. Người ấy không bị
ý niệm kia thâm nhiễm và không nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là
tôi, tôi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì không thâm nhiễm những ý nghĩ
sai lạc ấy, khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức biến
đổi, người ấy không âu sầu, phiền muộn
v.v..."
Sáu nội xứ và sáu ngoại xứ, tức là lục căn
và lục trần. Hành giả chú niệm và hiểu biết nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý; hiểu biết sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp và hiểu biết dây trói
buộc nào trong mười thằng thúc, phát sanh tùy thuộc nơi nội và ngoại xứ
nào; hành giả hiểu biết một thằng thúc chưa phát sanh sẽ phát sanh như thế
nào; hành giả hiểu biết sự dứt bỏ một thằng thúc
đã phát sanh như thế nào; và hành giả
hiểu biết sự không phát sanh trở lại trong tương lai, một thằng thúc
đã bị dứt bỏ là thế nào. Thất Giác Chi, là: niệm, trạch pháp, tinh tấn, phỉ, an,
định, và xả. Mỗi khi một trong bảy yếu
tố của giác ngộ nầy khởi phát, hành giả liền ghi nhận rồi quán trạch, khảo
sát, khám phá xem nó khởi phát như thế nào, và trở nên lớn mạnh như thế
nào. Khi mới phát sanh, giác chi niệm còn yếu ớt. Dần dần, nhờ công phu tu
tập của hành giả, niệm trở nên vững mạnh. Khi niệm kiên cố vững mạnh, giác
chi trạch pháp hoạt động, khảo sát, tìm
hiểu. Trạch pháp làm khởi dậy tinh tấn, tinh tấn
đưa đến phỉ, phỉ đến an, an đến định, và
định đưa đến xả. Toàn thể tiến trình
đưa đến giác ngộ bắt đầu bằng niệm, và
niệm là năng lực hỗ trợ trên suốt con
đường.
Tứ Diệu Đế. Nơi
đây hành giả hiểu biết
đúng theo thực tại, "đây là khổ";
đúng theo thực tại, hiểu biết "đây là
nguồn gốc của khổ"; đúng theo thực tại hiểu
biết, "đây là sự chấm dứt đau khổ", và
đúng theo thực tại, hiểu biết , "đây là
con đường đưa đến chấm dứt đau khổ".
* Tâm chứa đựng những tiềm năng vô cùng
hùng mạnh, những xu hướng thiện cũng như bất thiện mà, khi hội
đủ cơ duyên, có thể bộc phát một cách
bất ngờ, bất luận lúc nào. Chánh Tinh Tấn là nỗ lực ngăn chận và
diệt trừ ác pháp, đồng thời phát triển và
củng cố thiện pháp. Tuy nhiên, để nỗ lực hữu
hiệu, tâm phải hay biết kịp thời lúc tư tưởng thiện hay bất thiện sắp sửa
hoặc vừa phát hiện. Đó là nhiệm vụ của Chánh Niệm. Như tên lính
canh, từng phút từng giây, từng khoảnh khắc trong cái hiện tại vĩnh cửu,
luôn luôn canh phòng nghiêm nhặt. Quân thù cũng như bạn lành, có thể xuất
đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Canh phòng
và phát giác ra bạn hay thù là Chánh Niệm. Ngăn
chận quân gian không cho vào thành, hay
đánh đuổi những kẻ thù
đã lọt
được vào thành và đàng khác
đón tiếp bạn lành vào, hay cố giữ bạn
lành trong thành là Chánh Tinh Tấn. Chánh
Định
Chánh Định là chi cuối cùng của Bát
Chánh Đạo. Định là tập trung, gom tâm
vào một điểm duy nhất và hoàn toàn
không hay biết gì khác ngoài đề mục.
Theo sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo),
của Ngài Buddhagosa, Chánh Định là
tập trung chân chánh và đồng đều tâm vương và
các tâm sở đồng phát sanh vào một
đối tượng duy nhất. Như vậy, tâm định là
trạng thái tinh thần khi các thành phần của tâm
được đặt trên một
đối tượng duy nhất một cách đồng đều và
chân chánh, không giao động và không
phân tán. Cũng theo sách nầy, đặc tánh của
tâm định là không xê dịch ra khỏi đối
tượng; tác dụng của tâm định là loại trừ phóng tâm; tâm
định biểu hiện bằng trạng thái không lay
chuyển; và nhân kế cận nhất tạo duyên sanh
định là phỉ. Tâm ta vốn chứa đựng ít nhiều bợn nhơ. Nếu
để nó trôi chảy theo dòng diễn tiến tự nhiên mà không có sự cố gắng
nào để khắc phục, kiểm soát và chuyển
hướng nó, cái tâm -- dưới sự chi phối của tham ái, sân hận, và si mê -- sẽ
lôi cuốn chúng ta vào những hoàn cảnh khó khăn
rất phiền phức và ô nhiễm bởi vì, "Tâm dẫn
đầu tất cả những hành
động. Tâm là chủ. Tâm tạo tác tất cả
hành động biểu hiện bằng thân, khẩu, ý."
Theo Ngài Nyanaponika, điều trọng yếu là
ta phải: 1) Hiểu biết cái tâm. Tâm rất gần với ta, nhưng
được chúng ta biết rất ít.
2) Uốn nắn cái tâm. Tâm rất buông lung, nặng nề, khó dạy, nhưng ta có
thể rèn luyện cho nó thuần thục, mềm dẽo, dễ uốn nắn. 3) Giải phóng cái tâm. Tâm bị đeo níu
quấn quít, bị trói chặt vào đủ loại
phiền não, nhưng ta có thể giải phóng cho nó trở nên tự do, tại
nơi đây và trong hiện tại. 1. Hiểu biết cái tâm. Bản chất tự nhiên của tâm là luôn luôn di
động, phóng đầu nầy, nhảy đầu kia, không ngừng nghỉ.
Vào thời Đức Phật có chàng thanh
niên con nhà khá giả, đến nghe Đức Thế Tôn
thuyết pháp, và sau đó xin xuất gia
với Ngài, được gọi là Tỳ Khưu
Sangharakkhita. Một ít lâu, sau những ngày tháng tích cực chuyên cần hành
thiền, Đức Sangharakkhita chứng đắc Đạo Quả
A-La-Hán.
Lúc ấy có người em gái của Ngài Đại Đức
vừa hạ sanh được một trai và lấy tên Ngài
đặt cho con mình là "Cháu của
Sangharakkhita". Khi cháu lớn khôn, xin xuất gia với Sư Cậu. Vào mùa an cư
kiết hạ, vị tỳ khưu cháu nhập Hạ trong một làng hẻo lánh. Sau khi ra Hạ,
trong một buổi lễ Dâng Y, Sư Cháu thọ nhận hai bộ y và phát tâm muốn dâng
đến Sư Cậu một bộ. Từ làng, Sư về
đến chùa trước khi Sư Cậu
đi bát về nên lo quét dọn tịnh thất
sạch sẽ, gánh nước đầy lu, sửa soạn tọa cụ
ngay ngắn và chờ Sư Cậu. Khi thấy Đức
Sư Cậu về, Sư liền đến đảnh lễ, rước bát, thỉnh ngồi, và lấy quạt,
quạt cậu. Khi làm xong bổn phận người đệ tử, Sư Cháu
cầm bộ y trên hai tay, quỳ trước Sư Cậu,
đảnh lễ và dâng lên. Nhưng Sư Cậu từ
chối, bảo rằng, "Sư đã có một bộ y, và
như vậy là đủ rồi, con hãy giữ lấy mà
dùng." Sư Cháu hết lời kính xin Sư Cậu thọ nhận, nhưng Sư Cậu một mực từ
chối vì Ngài nói rằng một bộ y đã
đủ dùng rồi. Vị tỳ khưu Cháu lấy làm
buồn, nghĩ rằng, "Ngoài đời Sư với mình
có tình cậu cháu. Khi xuất gia lại thêm có nghĩa thầy trò, cùng tu chung
một chùa. Nay mình có được bộ y, phát tâm
chia xẻ quả phúc nầy đến Sư mà Ngài không nghĩ tình cậu cháu nghĩa
thầy trò, nỡ đành từ chối như vậy thì
mình còn ở lại chùa làm gì? Hãy huờn tục, đi
về nhà sống cho rồi." Và, trong khi cầm quạt quạt Sư Cậu, vị tỳ
khưu Cháu tiếp tục suy tư: "Sống ngoài đời
lúc nầy làm ăn cũng khó khăn lắm chớ
không phải dễ đâu! Nếu ta huờn tục thì về nhà sẽ làm sao sinh sống
đây?"
Rồi Sư nghĩ tiếp: "Mình có hai bộ y, dâng lên Sư Cậu một bộ mà Sư không
nhận, vậy mình có dư bộ y ấy. Khi về nhà mình sẽ bán bộ y, lấy tiền mua
một con dê cái. Giống dê nó đẻ nhiều lắm,
không bao lâu con dê cái của mình sẽ
đẻ con. Chờ khi con nó lớn, mình bán luôn cả mẹ và con, ắt có
được một số vốn để làm
ăn. Chừng đó có công ăn việc làm,
đời sống thoải mái, mình sẽ cưới vợ.
Vợ mình sẽ đẻ con, và mình sẽ lấy tên
Sư Cậu đặt tên cho con mình. Ngày nọ
mình để con trên một cái xe
đẩy, rồi cùng vợ
đẩy con đến chùa,
đảnh lễ Sư Cậu. Đi một đổi xa, mình
bảo vợ đem con lại cho mình bồng vì
mình muốn bồng con. Vợ mình trả lời, "Tại sao anh bồng nó làm gì, hãy
đẩy xe đi, để tôi bồng con." Vừa lúc ấy, vợ mình
bồng xóc con lên. Nhưng vì sức yếu, loanh quanh một hồi làm té
đứa nhỏ ngay trước bánh xe, và xe cán
thằng nhỏ. Lúc ấy mình giận quá, la vợ, "Thấy chưa? Sức
đã yếu mà còn dành bồng con
để nó té, bị xe cán. Chết tôi rồi!" Tức quá,
sẵn cây gậy cầm trên tay, mình đập
mạnh gậy trên lưng vợ". Đang lúc đứng quạt Sư Cậu, nghĩ đến đó Sư Cháu cầm quạt đập mạnh v
Đến đây Tỳ Khưu Cháu giựt m Tâm là vậy. "Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên
đất khô, vùng vẩy như thế nào thì tâm
chao động cũng dường thế ấy."
Trong guồng máy phức tạp của con người, cái tâm quả thật vô cùng quan
trọng. Con người trong sạch do tâm, mà nhơ bẩn cũng do tâm. Chính tâm tạo
thiên đàng, cũng chính tâm tạo
địa ngục. Tâm nâng cao, đưa con người lên,
cũng chính tâm hạ thấp, đưa con người xuống.
Và cũng như nước có chiều hướng tự nhiên là từ trên cao trôi chảy
xuống thấp, tâm con người, nếu không kiểm soát, cũng tự nhiên có khuynh
hướng xuôi chiều về ác pháp. Lời khuyên dạy của Đức Bổn Sư là:
"Hãy gắp rút làm việc thiện. Hãy chế ngự
điều ác trong tâm vì tâm của người buông lung, dể duôi bê trể trong
việc tạo thiện nghiệp sẽ ưa thích làm việc ác." (Kinh Pháp Cú, câu 116) Tâm ô nhiễm sẽ thỏa thích trong ác pháp. Lời dạy nầy khuyên nên vận
dụng mọi nỗ lực để theo dõi, hay biết,
tìm hiểu và thanh lọc tâm mỗi khi nó ve vãn gần
điều ác.
2. Uốn nắn cái tâm Hành thiền là thanh lọc tâm, là kiểm soát, rèn luyện, trau giồi và phát
triển, uốn nắn tâm. Phương pháp luyện tâm cũng giống như đường
lối tập thú, luyện tập bò chẳng hạn. Bò nghé vừa lớn lên, muốn rèn
luyện cho nó đủ thuần thục để kéo xe hay kéo
cày, trước tiên người ta thả nó nhập đàn:
sáng theo bầy đi ăn, tối lùa trở về
chuồng. Khi nó quen sống chung với những con khác trong khuôn khổ tập thể,
người ta bắt đầu xỏ mũi, tức xỏ sợi dây xuyên
qua lỗ mũi rồi choàng vòng lên sừng. Trên sợi dây, mỗi bên có thắt một lỗ
nhỏ. Sau đó, người ta cột hai sợi dây dàm,
mỗi sợi vào một lỗ của dây mũi. Đầu kia của
sợi dây dàm thì quấn vào một cột trụ trồng vững dưới
đất.
Hằng ngày người ta dùng dây dàm để điều
khiển bò. Tập như vậy cho đến khi có
thể gát cái ách lên cỗ nó và sai khiến nó làm theo ý mình. Bò chỉ
có thể hữu dụng khi đã
được rèn luyện tinh thục. Chừng
đó có thể dùng nó
để kéo xe, kéo cày, hay làm bất luận
công việc nào khác. Trong phương pháp luyện tâm, tinh nghiêm trì giới, tự khép mình vào nếp
sống giới đức, cũng như thả bò nhập
bầy, sáng theo đàn
đi ăn, chiều trở về chuồng. Nếu để bò
nghé sống buông lung hoang dại, có thể nó sẽ phá khuấy mùa màng hay làm hư
hại cây cối, vườn tược của người khác. Cùng thế ấy, con người buông lung,
không giới đức, có thể bị ba nghiệp -- thân,
khẩu, ý -- hoang dại của mình gây tổn hại cho người khác và cho
mình, rất nguy hiểm. Tinh tấn chuyên niệm cũng giống như xỏ mũi bò và cột
dây dàm vào trụ. Người hành thiền dùng sợi dây "niệm" (sati)
để điều khiển tâm mình, không
để nó phóng túng buông lung, chạy nhảy một
cách hoang dại, mà giữ nó lại và sai khiến,
đặt nó vào
đối tượng (đề mục, hay công án) nào mà
mình muốn. Trạng thái luôn luôn khuấy động và
phóng dật mà tâm đã quen thuộc từ vô
lượng kiếp bây giờ đã
được điều phục, lắng dịu và an trụ.
Cũng như bò đã
đựợc rèn luyện thuần thục
để kéo xe hay kéo cày, tâm
đã sẵn sàng nhu thuận
để hành thiền -- Vắng Lặng hay Minh
Sát. Nếu hành giả không bắt đầu công phu hành
thiền của mình bằng pháp chú niệm, làm cho tâm an trụ và nhu thuận, thì
không khác nào người chủ bò thiếu kinh nghiệm, gát ách con bò hoang dại
chưa hề bao giờ được huấn luyện. Khi bắt nó
kéo xe hay kéo cày ắt nó chạy loạn, không thể kềm giữ
được. Đàng khác, người
đã chú tâm an trụ có thể dễ dàng nhập
định và
đắc các tầng Thiền, hoặc khai thông tuệ Minh Sát và tiến
đến các Thánh Đạo và Thánh Quả. Năm pháp Triền Cái.
Trong khi chuyên cần chú niệm, người hành thiền có thể gặp nhiều trở
ngại, nhưng đặc biệt có năm, ngăn chận công
phu gom tâm và cản ngăn con đường giải
thoát, được gọi là Chướng Ngại Tinh Thần, hay Triền Cái (Nivarana).
"Ni + var" là gây trở ngại, ngăn chận, cái gì
gây chướng ngại cho tiến bộ tinh thần. Năm chướng ngại tinh thần là: Tham
dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu, và hoài nghi. a. Tham dục (kàmacchanda) là ham muốn duyên theo nhục dục, luyến ái ngũ
trần -- sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Một người ở mức
độ trung bình thường có khuynh hướng
chạy theo những ham muốn có tánh cách huyền ảo phù du của thân, nếu không
đủ khả năng để kiểm soát và khắc phục
ắt sẽ bị sa đọa, chìm
đắm trong dục vọng.
b. Oán ghét (vyàpàda) là bất mãn, bất toại nguyện. Những gì ưa thích
dẫn đến luyến ái. Những gì trái ngược
với sở thích của mình thì đưa đến ghét bỏ,
giận hờn, thù hận, không bằng lòng, bất toại nguyện v.v... Luyến ái
và ghét bỏ, tham và sân, là hai ngọn lửa to lớn thiêu
đốt thế gian. Chính hai loại tâm nầy, được vô
minh hỗ trợ, đã gây tất cả những điều
bất hạnh trong đời.
c. Hôn trầm dã dượi, là một cặp hai yếu tố dính liền nhau, do
đặc tính chung của nó là trạng thái uể
oải. Hôn trầm (thina) là trạng thái uể oải của tâm vương. Dã dượi (middha)
là trạng thái uể oải của tâm sở. Một trạng thái tâm nhuể nhoại như chất
nhựa dẻo của một loại gỗ, hay một miếng bơ cứng, khó trét ra. Nên ghi
nhận, đây chỉ là trạng thái tâm, chớ
không phải là tình trạng mệt mỏi, lười biếng cử
động tay chân. Một vị A-La-Hán, đã tận
diệt mọi triền cái, đôi khi vẫn còn
cảm nghe cơ thể mệt mỏi. Đối nghịch với hôn
trầm là kiên trì tinh tấn. d. Phóng dật lo âu. Phóng dật (uddhacca) là trạng thái bất ổn của tâm
luôn luôn chao động, không yên.
Đó là tâm trạng liên quan
đến tất cả những loại tâm bất thiện. Thông
thường, khi hành động bất thiện thì
tâm không yên mà luôn luôn chao động. Lo âu
(kukkucca) là tâm trạng lo lắng, hối tiếc một hành
động bất thiện đã làm, hoặc một hành
động thiện đã bị bỏ lãng không làm,
hay làm không hoàn bị. Đúng theo tinh thần
Phật Giáo, chính sự ăn năn hối tiếc một hành
động xấu đã làm, không ngăn
cản được hậu quả không tốt của nó. Hối tiếc tốt đẹp nhất là quyết
tâm không lặp lại hành động bất thiện ấy nữa.
e. Hoài nghi (vicikicchà. Do hai căn, "vi"
là không chứa đựng + cikiccha là
trí tuệ) là tâm bất định. Hoài nghi ở
đây không phải là ý muốn tìm hiểu --
điều mà Phật Giáo luôn luôn khuyến
khích nên làm -- mà là tâm trạng lưng chừng, không quyết
định. Hoài nghi ở
đây cũng không phải là thiếu niềm tin
nơi Phật, Pháp, Tăng, vì một người
không phải Phật tử, không có niềm tin nơi Tam Bảo, vẫn có thể khắc phục
vicikicchà (hoài nghi) và đắc Thiền (Jhàna).
Hoài nghi là một chướng ngại tinh thần vì nó là tâm trạng lỏng lẻo, không
nhất quyết về điều đáng làm. Năm triền cái kể trên là những
chướng ngại tinh thần làm phân tán sự chú tâm và lu mờ sự bén nhạy của
trạng thái thức tỉnh. Một cái tâm mà bị các trở lực tệ hại ấy ngăn
chận ắt không thể thành công tập trung vào
đề mục nào có bản chất trong sạch. Nếu
không có Chánh Tinh Tấn, hay nỗ lực chân chánh, không thể
điều phục năm chướng ngại nầy.
Năm Chi Thiền.
Trong lúc ngồi thiền, chuyên chú gia công như vậy, thì từ
đáy sâu của luồng nghiệp năm triền cái có thể
phát hiện dưới hình thức ý nghĩ, hình ảnh, hoặc cảm xúc, như ý muốn
thiên về tham dục, hay cảm nghe bực tức, buồn phiền, dã dượi lười biếng,
chao động không yên, hay hoài nghi.
Hành giả phải hết sức khéo léo, nhẹ nhàng nhưng nhất quyết, kiên trì tinh
tấn, gia công đem tâm về đề mục, đồng thời
phát triển năm yếu tố tinh thần gọi là chi thiền (jhànanga), có thể
tạm thời khắc phục các triền cái. Những yếu tố nầy vẫn hiện hữu lúc bình thường, nhưng khi hành thiền, nó
trở nên dũng mãnh, linh động, và có
khả năng chuyển tâm đến trạng thái định.
Năm chi thiền ấy là: Tầm, sát, phỉ,
lạc, trụ. a. Tầm (vitakka = "vi"+ căn "takk). Phạn
ngữ nầy thường được dùng trong ý nghĩa suy tư. Nơi
đây là yếu tố hướng những tâm sở
đồng phát sanh về đối tượng. Theo Bản Chú
Giải, ông quan đại thần hướng dẫn một nông dân quê mùa vào hoàng
cung yết kiến vua như thế nào thì, cùng thế ấy, chi thiền "tầm" hướng dẫn
tâm đến đề mục.
Bình thường tầm là một tâm sở không có tánh cách
đạo đức, tức không thiện cũng không bất
thiện. Khi liên hợp với tâm thiện (kusala citta) thì nó là thiện,
và khi liên hợp với tâm bất thiện (akusala citta) nó là bất thiện. Chi thiền "tầm" tạm thời khắc phục triền cái hôn trầm dã dượi. b. Sát, cũng được gọi là "tứ"
(vicàra= "vi" + căn "car") là di
động, hay di chuyển bất định. "Sát", hay
"tứ", là quan sát hay dò xét, có nghĩa là liên tục áp
đặt tâm trên
đối tượng.
Theo Bản Chú Giải, "sát" là cái gì di động
quanh quẩn đối tượng và có đặc tánh dò
xét. "Tầm" giống như con ong bay hướng về hoa. "sát"như ong bay quanh quẩn
vo vo trên cái hoa. Hai chi thiền "tầm" và "sát" liên quan với nhau rất
mật thiết. Chi thiền "sát" tạm thời khắc phục triền cái hoài nghi. c. Phỉ, piti, xuất nguyên từ căn "pi", là
thích thú, hoan hỷ. "Phỉ" không phải là một loại thọ (vedana) như thọ lạc
(sukha). Một cách chính xác, "phỉ" là tâm sở
đến trước, và trong khi xuất hiện, báo hiệu rằng sắp có thọ lạc. Có
năm loại phỉ là: cái vui làm rùn mình,
rởn óc, hay nổi da gà; cái vui thoáng qua mau lẹ như trời chớp; cái vui
tràn ngập như sóng biển trườn lên bãi; cái vui thanh thoát
đem lại hành giả cảm giác nhẹ nhàng
như bông gòn lững lờ bay theo chiều gió; và cái vui thấm nhuần toàn thể
châu thân như bong bóng được thổi phồng hay
trận lụt tràn ngập cả ao vũng. Chi thiền "phỉ" tạm thời khắc phục triền cái oán ghét, bất mãn, bất
toại nguyện, d. Lạc (sukha), là cảm giác an lạc, hạnh phúc.
Đặc tánh của "lạc" là thỏa thích hưởng
thụ điều gì mình mong muốn. Khách lữ hành mệt mỏi đi trong sa mạc,
thấy xa xa có cụm cây và ao nước. Trạng thái vui mừng cảm nhận
triển vọng tốt đẹp trước khi thọ hưởng là
"phỉ". Khi đến tận ao nước, trạng thái thỏa
thích tắm rửa và uống nước là "lạc". Ta nên phân biệt trạng thái thích thú tinh thần (sukha) nầy với khoái
lạc vật chất. Đây là trạng thái thích
thú không liên quan đến thú vui vật chất mà
trái lại, là hậu quả dĩ nhiên của sự từ bỏ thú vui vật chất. Hạnh phúc
Niết Bàn càng tế nhị và sâu xa, cao thượng hơn nhiều hạnh phúc của Thiền
(Jhàna). Hạnh phúc Niết Bàn không còn là một loại cảm giác (thọ) nữa mà là
sự giải thoát trọn vẹn ra khỏi mọi hình thức
đau khổ, giống như trạng thái thoải mái dễ chịu của một người tàn
phế được hoàn toàn phục hồi trở lại và
mạnh khỏe như thường. Chi thiền "lạc" tạm thời khắc phục triền cái phóng dật lo âu. e. Trụ (ekaggata = Eka + agga + ta), đúng
theo ngữ nguyên, là sự an trụ tâm vào một
điểm duy nhất, hay nhất điểm tâm. Hành
giả chuyên chú gom tâm vào đề mục cho đến khi
tâm hoàn toàn vững chắc an trụ vào đó,
bao nhiêu tư tưởng khác đều bị gạc bỏ
ra ngoài. Chi thiền "trụ" tạm thời khắc phục triền cái tham dục. 3. Giải phóng cái tâm Để kiểm soát, uón nắn, v Theo một lối thiền, hành giả gom tâm vào một
điểm và cột chặt tâm lâu dài vào
điểm duy nhất ấy để phát triển trang thái
vắng lặng, an lạc. Danh từ Pàli gọi thiền nầy là samatha bhàvanà,
có nghĩa phương pháp trau giồi tâm nhằm làm cho nó trở nên vắng lặng. Ta
gọi là thiền chỉ, thiền định, hay thiền vắng
lặng.
Lối thiền kia là vipassanà, thiền minh sát -- cũng gọi là thiền quán,
hay thiền tuệ. Hành giả hướng tâm định soi vào
đời sống, nhằm chứng ngộ thực tướng của vạn
pháp. Ngài Piyadassi giải thích như sau: "Danh từ vipassanà ("vi" + "passanà"), trong một biến thể, có nghĩa là
"thấy một cách khác thường", thấy khác với lối thấy thông thường, do hai
thành phần "passanà" là thấy và "vi" hàm ý
đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy sáng
tỏ, thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường mình thấy, là minh tuệ.
Đây không phải là nhìn thoáng qua,
không phải chỉ nhìn trên bề mặt, nhìn ở mặt ngoài mà nhìn sâu vào bên
trong "Thực Tại" của đời sống. Chính nhờ cái
nhìn sâu sắc dựa trên nền tảng tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành
giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm,
để thành
đạt mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát (vipassanà
bhàvanà) là loại thiền mà chính Đức Phật đã
tìm ra, đã thực hành,
đã thành công, và
đã ban truyền. Trước kia chưa từng có,
và ngoài Phật Giáo không có." Thiền Vắng Lặng. Thí dụ như hành giả lấy hơi-thở-vô-thở-ra làm
đề mục, gom trụ tâm vào
điểm mà luồng hơi thở-vô-thở-ra chạm
đến -- có thể là chót mũi, hoặc phía
trên môi trên, tùy theo người. Khi hành như thế, ít lâu hành giả có thể
hình dung rõ ràng cảm giác xúc chạm của luồng gió vào nơi
đụng. Đó là aggaha nimitta, ấn tượng
hình dung. Không để gián đoạn, hành
giả cố gom tâm vào cái hình ảnh phát hiện trong tâm ấy một cách liên tục
đến khi phát triển ấn tượng khái niệm (patibhàga
nimitta). Sự khác biệt giữa ấn tượng hình dung (aggaha nimitta) và ấn
tượng khái niệm (patibhàga nimitta) là trong ấn tượng khái niệm hình ảnh
phát sanh do tri giác, được thanh lọc trong
sạch, sáng sủa như mặt trăng không bị mây che, còn trong ấn tượng
hình dung, hình ảnh mù mờ như mặt trăng nhìn
xuyên qua một lớp mây. Trong lúc chuyên chú gom tâm vào khái niệm trừu tượng như vậy năm
pháp triền cái tạm thời được khắc phục, hành giả
đạt đến mức độ gọi là cận
định (upàcàra samàdhi). Vẫn tiếp tục gia công, vào một lúc nào, hành giả có thể nhập
định (appanà samàdhi,
định trọn vẹn, hay toàn
định), và
đắc Thiền (Jhàna), thọ hưởng trạng thái an tĩnh và vắng lặng của
tâm an trụ. Hai trạng thái, cận định và
định, chỉ khác nhau ở năng lực của các chi
thiền. Lúc cận định vẫn có đầy đủ năm chi thiền, nhưng năng lực của các
chi thiền chưa được vững chắc, giống như em bé tập đi, khập khiễng bước vài
bước rồi té xuống. Đứng dậy đi nữa, rồi té
xuống nữa. Khi nhập định thì giống như người lớn, mạnh khỏe,
đi đứng ngay thẳng vững vàng. Năm
chi thiền -- tầm, sát, phỉ, lạc, trụ -- đồng thời phát sanh mạnh mẽ bao
gồm cái được gọi là Thiền (Jhàna), và năm
pháp triền cái tạm thời được chế ngự.
Hành giả tiếp tục gia công và phát triển Nhị Thiền.
Đến đây hai chi thiền đầu tiên, tức
tầm và sát, bị loại đi. Hành giả
đã quen thuộc, không còn phải qua hai
giai đoạn tầm và sát, mà thẳng vào
phỉ, lạc, rồi đến trụ. Đến Tam Thiền, chi
thiền "phỉ" bị loại. Và cuối cùng đến
Tứ Thiền, luôn cả "lạc" cũng không còn mà chỉ có "xả" (upekkhà) và
"trụ". Chi thiền "xả" có tầm quan trọng đặc
biệt về mặt đạo đức và tâm lý. Đây
không phải là thọ xả, tức thọ vô ký, cảm giác không-vui-không-buồn.
Chi thiền "xả" là trạng thái tâm bình thản giữa những hoàn cảnh thăng
trầm của đời sống, phải do một ý chí mạnh mẽ phát triển. Nhận định rằng
chi thiền "lạc" vẫn còn thô kịch, hành giả loại trừ luôn chi thiền
ấy như đã loại trừ ba chi thiền trước
để trau giồi, phát triển chi thiền "xả",
chứng đắc Tứ Thiền, tầng cao nhất của Thiền Sắc Giới.
Đ "Vị hành giả đã có phát triển Thiền
Sắc Giới (Rupa Jhàna) và bây giờ muốn trau giồi Thiền Vô Sắc, bắt
đầu gom tâm vào ấn tượng khái niệm
(patibhàga nimitta). Khi chuyên chú gom tâm như vậy một ít lâu hành giả
thấy một đớm sáng nhỏ, yếu, giống như con đơm
đớm, phát ra từ đối tượng. Hành giả ước nguyện rằng ánh sáng nhỏ
nầy sẽ lớn dần lên cho đến độ bao trùm
toàn thể không gian. Đến đây hành giả
không còn thấy gì khác ngoài ánh sáng nầy, cùng khắp mọi nơi. Không gian
đầy ánh sáng nầy không có thiệt, không thật
sự hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ là một khái niệm.
Gom tâm vào đối tượng nầy, hành giả
niệm "akàsa ananto", không gian vô tận vô biên, cho
đến khi phát triển Sơ Thiền Vô Sắc, tầng
Thiền Vô Sắc đầu tiên, Không Vô Biên Xứ, cảnh giới không gian vô
biên. "Lấy Sơ Thiền làm đề mục, hành giả
tiếp tục gom tâm vào đó và niệm
"vinnanam annantam" , thức vô tận vô biên, cho
đến lúc phát sanh Nhị Thiền Vô Sắc, Thức Vô
Biên Xứ, cảnh giới thức vô biên. "Để phát triển Tam Thiền Vô Sắc, Vô Sở Hữu
Xứ, hành giả lấy tâm Sơ Thiền Vô Sắc làm
đề mục và niệm "natthi kinci", không
có gì hết. "Tứ Thiền Vô Sắc được phát triển bằng cách
lấy Tam Thiền Vô Sắc làm đề mục. Tam
Thiền Vô Sắc nầy vi tế đến độ ta không thể quả quyết rằng có tâm hay không
có tâm. Khi chăm chú ít lâu vào Tam Thiền, hành giả phát triển Tứ
Thiền, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. "Bốn tầng Thiền Sắc Giới khác nhau do các chi thiền. Bốn tầng Thiền Vô
Sắc Giới thì khác nhau do đề mục gom tâm. Sơ
Thiền và Tam Thiền Vô Sắc có hai khái niệm (pannati).
Đó là khái niệm về tánh cách vô biên
của không gian và khái niệm về hư vô. Tâm Nhị Thiền lấy tâm Sơ Thiền làm
đề mục. Tâm Tứ Thiền lấy tâm Tam Thiền làm
đề mục."
Hành giả đã tiến
đến tuyệt đỉnh của thiền Vắng Lặng. Tuy nhiên,
đến tầng vắng lặng cao siêu cùng tột
nầy hành giả vẫn còn chưa trọn vẹn phát triển
đủ ánh sáng trí tuệ để đánh tan đêm tối vô minh ngủ ngầm trong
luồng nghiệp. Vô minh và ái dục giống như hai con thú dữ, hành giả chỉ
nhốt trong chuồng mà không tiêu diệt. Ngày nào sút chuồng nó sẽ còn là tai
hại lớn lao. Vì lẽ ấy hành giả chưa tuyệt đối
châu toàn, chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử tử sanh trong Tam Giới
(Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới), chưa hoàn toàn giải thoát. Trước ngày Bồ Tát Gotama Thành Đạo, chỉ có
thiền Vắng Lặng (samatha bhàvana). Hai vị
đạo sư lỗi lạc thời bấy giờ, thầy của Bồ Tát,
là những vị đắc Thiền cao nhất, lúc ấy
chưa ai đạt đến. Các Ngài đã
tiến đến mức cùng tột của thiền Vắng
Lặng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Chắc chắn
đây là mức rất cao của tâm định khi hành
giả tạm thời trọn vẹn đè nén, khắc
phục năm triền cái. Các chi thiền "phỉ" và
"lạc" phát sanh, đưa đến trạng thái tâm tuyệt
đối vắng lặng và an lạc. Nhưng Bồ Tát không thỏa mãn với những
thành quả ấy. Đã kiểm soát và khắc
phục tâm, tạm thời làm chủ mình, nhưng Ngài nhận
định rằng bấy nhiêu
đó chưa đủ. Thú dữ vẫn còn
đó. Phải tận diệt mọi nhiễm ô và mọi
hoặc lậu mới dứt hậu hoạn. Mục tiêu cứu cánh của Ngài chỉ là chứng ngộ
Chân Lý Cùng Tột, thấy sự vật đúng như sự vật
là vậy, tức chứng ngộ ba đặc tướng của
các pháp hữu vi: vô thường, khổ, vô ngã. Chính nhờ trí tuệ trực
giác nầy mà Bồ Tát đập vỡ tung cái vỏ Vô Minh
dày cứng đã bao phủ Ngài từ vô
lượng kiếp để vượt đến Thực Tại, chứng ngộ
tận tường và trọn vẹn Bốn Chân Lý Thâm Diệu "trước kia chưa từng
được nghe."
Thiền Minh Sát. Đến đây, pháp h Khác biệt giữa Thiền Vắng Lặng và Thiền Minh Sát. Thiền Vắng Lặng là
pháp môn nhằm đè nén năm
triền cái và định tâm trong một đối
tượng nhất định. Tâm phỉ lạc đưa đến chứng đắc các tầng Thiền (Jhàna)
Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thiền Minh Sát đưa
đến một loại trí tuệ nhận thức rõ ràng ba
đặc tướng của các pháp hữu vi là vô
thường, khổ, và vô ngã. Trong thiền Vắng Lặng, hành giả chọn và xử dụng một trong các căn
môn như nhãn môn hay nhĩ môn chẳng hạn. Còn các môn khác thì không
dùng. Trong thiền Minh Sát hành giả không nhất thiết chọn một môn nào làm
đề mục mà dùng cả sáu môn cùng với sáu
đối tượng của nó.
Trong thiền Vắng Lặng, khi hành giả đã
chọn đề mục thì gom tâm vào
đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực đè
nén năm triền cái. Năm chi thiền dần dần hiện
rõ, tâm an trụ vững chắc trong đề mục,
và cuối cùng chứng đắc các tầng Thiền
(Jhàna). Năm triền cái đối nghịch với
thiền Vắng Lặng vì là chướng ngại, cản trở tâm an trụ, nhưng không
đối nghịch với thiền Minh Sát. Niệm về năm
triền cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần nầy làm
đề mục thiền là một phần của Niệm
Pháp. Đối tượng của thiền Minh Sát l
Dầu thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát có sự khác biệt nhau song thiền
Vắng Lặng có thể làm nền tảng cho thiền Minh Sát, như trường hợp
Đức Phật. Ngài tiến cao
đến mức cùng tột của thiền Vắng Lặng
là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng rồi xả thiền, quán chiếu thân và tâm, dùng chi
thiền phỉ, lạc v.v...làm đối tượng và
thấy rõ vô thường, khổ, vô ngã. Đó là
"thiền Minh Sát dùng thiền Vắng Lặng làm nền tảng". Ta cũng có thể trực
tiếp hành thiền Minh Sát mà không qua thiền Vắng Lặng như chỉ quán niệm
theo bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi.
Để giải đáp một câu hỏi về sự khác biệt giữa thiền Vắng Lặng v "Thật dễ hiểu. Thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát cùng
đi chung với nhau. Trước tiên, do nhờ
pháp hành gom tâm an trụ vào đề mục, tâm trở
nên an tĩnh, vắng lặng. Tâm chỉ vắng lặng trong khi ta ngồi thiền.
Đó là thiền Vắng Lặng. Căn
bản tâm định nầy sẽ khởi duyên, tạo
điều kiện cho trí tuệ, tuệ Minh Sát phát sanh. Đến mức độ nầy tâm luôn
luôn vẫn an tĩnh, dầu ta ngồi nhắm mắt hành thiền nơi vắng vẻ hay
đi bách bộ giữa phố phường nhộn nhịp. Nó là
vậy. "Ngày nào còn là trẻ con, giờ đây lớn
khôn. Ta đã là người đứng tuổi. Em bé
thuở nào và người đứng tuổi hiện nay
có phải là một không? Có thể nói là một. Hoặc, theo một lối nhìn
khác, có thể nói là hai người khác biệt. Cùng thế ấy, ta có thể tách rời
thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát. "Chớ tin Sư bằng lời. Hãy thực hành đi rồi
sẽ thấy. Không cần phải làm gì đặc
biệt. Nếu chăm chú quán sát, nhìn xem trạng thái vắng lặng và trí
tuệ phát sanh thế nào, quý vị sẽ tự bản thân thấu
đạt chân lý. Trong những năm sau nầy, người
ta quá chú trọng đến danh từ. Họ gọi pháp hành của họ là Minh Sát
và coi rẻ thiền Vắng Lặng. Hoặc họ gọi thiền của họ là Vắng Lặng và hãnh
diện nói rằng muốn thành công hành thiền Minh Sát phải trải qua giai
đoạn hành thiền Vắng Lặng. Tất cả
những lời qua tiếng lại ấy là điên
cuồng. Chớ nên bận tâm suy tư. Chỉ giản dị thực hành. Tự mình sẽ thấy." * * * Đặc Tánh Của Con Đường Đến đây chúng ta đ
Bát Chánh Đạo không phải là tám con
đường chánh, cũng không phải là con
đường chia làm tám giai
đoạn nối tiếp nhau từ xa đưa đến gần mục tiêu,
mà giống như một sợi giây thừng do tám tao nhợ se lại. Người muốn nương
nhờ dây thừng để leo lên cao, mỗi lần
chỉ nắm chặt lấy một số tao nhợ. Khi bỏ tay kia lên lại nắm vào một số tao
nhợ khác, cao hơn. Hiểu theo nghĩa cùng tột, mỗi chi của Bát Chánh
Đạo là một tâm sở. Một loại tâm vương
tại thế chỉ bao gồm một số nhiều hay ít các tâm sở nầy. Chí
đến khi chứng ngộ Thánh Quả thì toàn
thể tám tâm sở đồng phát sanh cùng một
lúc trong loại tâm siêu thế. Đứng về phương diện thực h 1. Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng
đề cập đến những lời không nên nói,
những việc không nên làm, và những nghề không nên hành.
Đó là giới luật, nêu lên những sai lầm
nên tránh. Nên hiểu biết rằng đây chỉ là
khía cạnh tiêu cực, những gì không nên làm. Tuy nhiên, giới luật trong
Phật Giáo cũng bao hàm phần tích cực. Thí dụ như không nên nói dối, nói
đâm thọc, nói thô lỗ, nói nhảm nhí, cũng hàm
ý là nên nói lời chân thật, nói lời đem lại hòa
hợp, lời thanh tao nhã nhặn, lời hữu ích v.v... 2. Ba chi Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh
Định đề cập đến công phu thanh lọc tâm bằng
pháp môn hành thiền: Thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát. 3. Hai chi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy vừa là bảng chỉ
đường, lúc sơ khởi đưa khách lữ hành
vào đúng con đường chân chánh, vừa là
đuốc tuệ soi sáng con đường theo từng bước
một của hành giả, vừa là ánh Đạo Vàng,
ánh Sáng Chân Lý Cùng Tột, sau khi hành giả viên mãn trải qua suốt Con
Đường, là thành quả của công phu hoàn
tất tốt đẹp cuộc hành trình. ánh sáng
trí tuệ đến đâu thì
đêm tối của Vô Minh lui dần khỏi
đó. Mãi
đến khi chỉ còn Chánh Kiến. Vô Minh hoàn toàn tan biến. Ta có thể
sắp xếp như sau: GIỚI: Chánh Ngữ, ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn
TUỆ: Chánh Kiến Giới, Định, Tuệ là
Con Đường Giải
Thoát.
Khi kể tám chi của Bát Chánh Đạo thì
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy đứng đầu. Đến lúc
xem như một pháp tu tập thì ba phần của Bát Chánh
Đạo được kể theo thứ tự Giới, Định, Tuệ. Tuệ,
vốn bao gồm Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, lại
được kể sau cùng. Như vậy, nhìn vào toàn diện, có phải đây là
một lối trình bày thiếu nhất trí hay không? Không phải thiếu nhất trí mà
hợp lý. Chánh Kiến ở mức sơ khởi là hiểu đúng
con đường. Như người kia lạc nẻo, bỡ ngỡ trước nhiều ngã
đường vì không biết chọn ngã nào, thì
may thay, chợt thấy tấm bảng chỉ đường bên
cạnh con đường mòn. Bảng chỉ
đường là Chánh Kiến. ở giai
đoạn đầu tiên Chánh Kiến là ánh sáng
rọi vào chánh đạo, là sự hiểu biết
chân chánh dẫn dắt hành giả sơ cơ vào đúng
con đường, và người có Chánh Kiến là người
đã nhận ra con
đường. Chánh Kiến, sự hiểu biết chân chánh,
hay khả năng phân biệt chánh tà, phải dẫn
đầu, phải hướng đạo toàn thể các chi
khác của con đường, vì Chánh Kiến giúp
hành giả hiểu biết về con đường, về khởi
điểm, về hướng đi, và về mức đến cuối
cùng của con đường. Muốn thực hành
Giáo Pháp mà không có Chánh Kiến cũng giống như người kia leo lên xe, mở
máy cho xe chạy, mà không biết phải đi về ngã
nào vì chưa xem bản đồ, cũng không hỏi han ai
trước.
Người ấy sẽ gặp nguy cơ là không đi về
hướng mà mình muốn đi, hoặc đi ngược
chiều. Chánh Kiến cho hành giả một ý niệm về con
đường. Chánh Tư Duy đặt hành giả vào
con đường và chỉ hướng
đi cho hành giả. Nhưng vai trò của
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy không chấm dứt tại
đó. Khi hành giả vững bước trải qua suốt con
đường từ Giới, Định, đến Tuệ, thì giai
đoạn Tuệ cuối cùng nầy là Chánh Kiến
và Chánh Tư Duy cao siêu, có hiệu năng đưa hành
giả vượt thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi: Giải Thoát. Phương pháp tu tập được trình bày
theo thứ tự ba giai đoạn Giới, Định, Tuệ có
thuận lý không?
Để giải đáp thắc mắc nầy chúng ta h
Tại sao đau khổ? Vì ái dục. Và ái
dục vì vô minh. Vậy, muốn chấm dứt đau khổ phải phá tan vô
minh. Vô minh là tối tăm, không thấy,
không biết thực tướng của sự vật. Trí tuệ là tri kiến, là ánh sáng,
là thấy và hiểu biết sự vật, thấu triệt sự vật như thật sự sự vật là như
vậy, là thấu đạt thực tướng của vạn pháp. Do
đó, phương pháp tu tập của Phật Giáo nhằm phát triển trí tuệ, đối trị và
phá tan vô minh. Đây l Muốn thành đạt trí tuệ phải có tâm định. Và
muốn định tâm, giới đức phải trang nghiêm.
Một người hung dữ, thường gây nhiều tội ác, làm tổn thương, sát hại sanh
linh, người trộm cắp, người dâm loàn, người gian dối, người có tánh ưa
đâm thọc, thô lỗ, nhảm nhí, người có tật rượu
chè hút xách say sưa tức nhiên không thể làm cho tâm mình an tĩnh.
Tâm chao động không thể an trụ. Tâm không an
trụ sẽ không định. Trí tuệ không thể phát sanh nếu tâm không định.
Bước đầu của phương pháp tu tập là
Giới. Nhờ có giới đức làm nền tảng,
hành giả trau giồi tâm trí, tiến đến Định và
dùng tâm định soi sáng sự vật, phát triển trí
tuệ. Trí tuệ phá tan vô minh. Không vô minh tức không ái dục, và
không ái dục tức không đau khổ. Vì lẽ
ấy, Giới, Định, Tuệ là phương cách cởi
mở trói buộc, tận diệt mọi ô nhiễm, mọi hoặc lậu,
để thoát ra khỏi khổ đau phiền lụy. Giới,
Định, Tuệ là con đường giải thoát,
Pháp nầy có công hiệu không, có ai kinh nghiệm thực hành chưa, và có
phải dành riêng cho một hạng người tốt số nào không? Trong lịch sử được ghi nhận, Đức Phật là
người đầu tiên khám phá và thực hành
Bát Chánh Đạo. Ngài sanh ra là một
người và không bao giờ tự xưng là Thần Linh hay hiện thân của Thần Linh.
Một ngày tươi đẹp kia, tại Bodh-Gaya (Bồ Đề
Đạo Tràng), Ngài tận diệt mọi ô nhiễm, chứng ngộ thực tướng của vạn
pháp và thành đạt Đạo Quả Phật.
Sau ngày Thành Đạo, trọn 45 năm trường Ngài
đi từ làng nầy
đến làng khác, từ tỉnh nọ
đến tỉnh kia, trên những con
đường lớn và các nẻo nhỏ, cùng khắp
miền Bắc xứ Ấn Độ để mang lại cho nhân loại
bức thông điệp hòa bình và phúc lợi và
để truyền dạy giáo lý cao siêu. Các môn
đệ Ngài đã
đến với Ngài từ mọi từng lớp xã hội,
giàu sang quyền quý cũng như nghèo nàn khốn khổ, học rộng hiểu nhiều cũng
như tối tăm dốt nát, đạo đức thánh thiện cũng
như tội lỗi hư hèn, cả nam lẫn nữ, từ lão
đến ấu, tất cả đều được Ngài thâu nhận
như nhau và nhiều vị nhờ tinh tấn chuyên cần tu tập,
đã thành
đạt nhiều Đạo Quả cao thượng.
Bát Chánh Đạo là con
đường cũ xa xưa mà bao nhiêu vị Phật
đã trải qua trong quá khứ. Trên con
đường ấy bao nhiêu vị
Độc Giác Phật và bao nhiêu vị A-La-Hán
đã trải qua.
Đức Phật chỉ khám phá chớ không tạo nên
con đường.
Bằng Cách Nào Bát Chánh
Đạo Là Con
Đường Giải Thoát?
Bằng cách nào chúng sanh bị trói buộc vào những kiếp sống
đau khổ trong vòng luân hồi? Nguồn gốc của mọi đau khổ là ái
dục. ái dục nằm trong vô minh, và phát sanh do vô minh tạo
điều kiện. Bị ái dục và vô minh bao
phủ che lấp, chúng ta nhìn sự vật xuyên qua lớp mây mờ ấy và không thấy
đúng sự thật. Vì không thấy
đúng thực tướng của sự vật, chúng ta lầm lạc
tự đồng hóa mình với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xem ngũ uẩn là
"ta", là "của ta". Với sự lầm lạc ấy chúng ta hành
động, tạo nghiệp. Nghiệp quá khứ (hành)
đưa đến quả hiện tại là thức,
danh-sắc, lục căn, xúc, thọ. Trong hiện tại,
do nơi thọ, ái phát sanh. Do ái, thủ, rồi hữu phát sanh, đưa đến sanh rồi
lão, tử trong tương lai. Và như thế, vòng lẩn quẩn liên tục diễn
tiến, mãi mãi từ vô lượng kiếp. (Xem sách Đức
Phật và Phật Pháp, tác giả Nàrada Mahà Thera, chương 25, Thập Nhị
Nhân Duyên) Chúng ta tạo nghiệp bằng thân, khẩu, ý. Trong ba
đường ấy ý dẫn đầu, tâm là chủ. Có ý
nghĩ trước mới có hành động bằng thân, hay
bằng khẩu. ý nghĩ phát sanh do lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) và chịu ảnh
hưởng của những khuynh hướng tâm tánh (anusaya) ngủ ngầm trong luồng
nghiệp. Khuynh hướng tâm tánh nầy nằm trên nền tảng vô minh. Như vậy, trong tiến trình đưa đến hành
động chúng ta thấy có ba tầng lớp:
a. Sâu thẩm dưới đáy là lớp tâm
tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp mà ta đã
mang theo từ vô lượng tiền kiếp. Khuynh hướng tâm tánh nầy nằm trên nền
tảng vô minh và gây ảnh hưởng đến tư tưởng.
b. Tầng lớp kế đó là tư tưởng
(ý), những ý nghĩ, phát sanh do lục căn
tiếp xúc với lục trần, và chịu ảnh hưởng của tâm tánh ngủ ngầm
trong luồng nghiệp. c. Tầng lớp cuối cùng, biểu hiện ra ngoài bằng việc làm (thân) hay
lời nói (khẩu). Lấy cây quẹt làm hình ảnh cụ thể. Trên đầu
cây quẹt có chất diêm, chứa đựng tiềm
năng phát hỏa. Nếu để cây quẹt nằm yên, thì không có gì xảy ra.
Nhưng chất diêm có thể phực cháy bất luận lúc nào khi có người cầm cây
quẹt, quẹt trên hộp diêm. Cũng giống như vậy, tiềm tàng sâu ẩn bên trong
tâm tánh chúng ta có những năng lực ngủ ngầm
như vô minh, ái dục, tham, sân v.v... Những năng lực nầy ngủ ngầm, bất
động, nhưng có thể khởi phát trổi dậy bất cứ lúc nào hội
đủ cơ duyên.
Đó là tầng lớp dưới
đáy sâu.
Khi lục căn tiếp xúc với lục trần tức có
lục thức. Thí dụ như mắt tiếp xúc với hình thể, hay tai tiếp xúc
với âm thanh v.v... tức có sự thấy, sự nghe v.v... và từ
đó phát sanh những ý nghĩ. Bản chất của những
tư tưởng nầy như thế nào tùy nơi khuynh hướng tâm tánh vốn sẵn ngủ
ngầm trong luồng nghiệp mà ta đã mang
theo từ trong quá khứ. Như cùng trong một cảnh ngộ, người bẩm tánh nóng
nảy thì giận dữ, còn người tâm tánh từ ái nhu hòa thì có những tư tưởng
dịu hiền. Cùng đứng trước một pho tượng Phật,
người Phật tử thuần thành thì có những tư tưởng tôn kính, người
thường, không phải Phật tử, thì dửng dưng, bình thản, còn người
đã sẵn có ác cảm với Phật Giáo thì
sanh tâm bất mãn. Dầu sao, ngày nào chưa chứng
đắc Đạo Quả A-La-Hán thì khuynh hướng
tâm tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp vẫn còn nằm trong vô minh, và sẻ gieo
ảnh hưởng đến ý nghĩ, việc làm và lời
nói. Đó là tầng lớp thứ nhì, có thể ví
với ý tưởng muốn quẹt cây quẹt trên hộp diêm. Cuối cùng, do sự thúc đẩy của những tư
tưởng vừa phát sanh -- như những ý nghĩ thấm nhuần từ, bi, hỷ, xả hay
những tư tưởng tham lam, sân hận, ganh tỵ v.v... -- ta có những hành
động thanh cao, hiền dức hay hung ác, bạo tàn.
Hành động nầy cũng như ngọn lửa phực lên
vì có người cầm quẹt, quẹt vào hộp diêm. Người ấy sẽ dùng lửa
để thắp đèn, nấu bếp hay thiêu
đốt một vật gì.
Đây là tầng lớp hiển hiện ra ngoài,
lớp thứ nhất, ví như băng tuyết trên
mặt biển, chỉ để lộ trên mặt nước một
phần nhỏ mà mọi người đều thấy. Phần lớn thì
chìm đắm trong nước, ta không thấy.
Giới có khả năng kiểm soát việc làm
và lời nói, tầng lớp trên hết. Chánh Ngữ kiểm soát khẩu nghiệp. Chánh
Nghiệp và Chánh Mạng kiểm soát thân nghiệp. Định thanh lọc tư tưởng, tầng lớp thứ nh
Tuệ diệt trừ những ô nhiễm tiềm tàng ngủ ngầm trong luồng nghiệp, tầng
lớp cuối cùng dưới đáy sâu. ánh sáng của
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy lấn dần bóng tối của vô minh cho
đến ngày tuyệt
đối chỉ còn hào quang rực rỡ của trí
tuệ. Với trí tuệ siêu phàm hành giả đã
chứng ngộ thực tướng của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã. Nhận thức
chắc thật rằng không có cái gì có thể là "ta" và "của ta", tự nhiên hành
giả không còn thương hay ghét, không "ái", và do
đó không "thủ", không "hữu", chấm dứt tiến trình
sanh tử, thoát ra khỏi vòng luân hồi, thành tựu trạng thái Vô Sanh Bất
Diệt, Tịch Tịnh Trường Cửu, Niết Bàn. Đứng về phương diện Thanh Tịnh Đạo, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp v Trong kinh Mahà Parinibbàna (Đại Niết Bàn),
để trả lời một câu hỏi của Đạo Sĩ Subhadda,
Đức Thế Tôn có lời dạy:
"Trong bất luận giáo đoàn nào,
nếu không có Bát Chánh Đạo thì cũng
không có hạng nhất đẳng sa-môn (Tu Đà
Huờn), cũng không có nhị đẳng sa-môn (Tư Đà
Hàm), tam đẳng sa-môn (A-Na-Hàm),
hay tứ đẳng sa-môn (A-La-Hán). Trong giáo
đoàn nào có Bát Chánh Đạo, nầy
Subhadda, thì cũng có hạng nhất
đẳng, nhị đẳng, tam đẳng và tứ đẳng
sa-môn. Bát Chánh Đạo là con đường
duy nhất."
Vì là Con Đường Duy Nhất (ekayana), Bát
Chánh Đạo cũng là Con Đường Cũ Xa Xưa
mà tất cả chư Phật và chư vị A-La-Hán quá khứ
đều phải trải qua.
Bát Chánh Đạo là con
đường. Đức Phật là người
đã khám phá con
đường, đã vạch ra và rọi sáng con
đường cho chúng sanh. Chư Tăng, những vị hội
viên của Giáo Hội Tăng Già là
những người đi trước, bước theo dấu chân của
Đức Bổn Sư, và dẫn dắt chúng ta noi theo con
đường. Nhưng phần chúng ta là phải
kiên trì nỗ lực, tiến bước trên con đường.
Trong toàn thể Bát Chánh Đạo không có
lời nào dạy ta van vái nguyện cầu để
được giải thoát.
Hãy lắng nghe lời dạy của Đức Kassapa (Ca
Diếp):
"Những bộ chân cường tráng dũng mãnh tiến bước trên con
đường gay go cam khổ, giữa đám giông to bão
lớn, và trải qua bao nguy hiểm gian lao, để
lần hồi trèo lên đỉnh núi. Người yếu
sức nghiêng ngã bên nầy bên kia theo chiều gió, vẫn còn quanh quẩn
dưới chân đồi và vì quá mệt mỏi, dừng
bước lại nhiều lần để nghỉ.
"Con Đường Tám Chi (Bát Chánh Đạo) dẫn đến
nơi an vui hạnh phúc cũng dường thế ấy. Người mạnh, kẻ yếu, người cao
thượng kẻ thấp hèn, chúng ta cùng nỗ lực lần hồi tiến bước trên con
đường ấy. Có những bẩm tánh cương quyết,
không ngại bão bùng giông gió. Cũng có những tâm hồn ươn yếu, mỏi
mệt, dừng bước nghỉ chân bên đàng. "Tất cả chúng ta đều có đủ tiềm năng vượt
qua cơn giông tố để rồi một ngày kia, bước chân lên tận
đỉnh núi cao, nơi tuyết phủ trắng trong rực
rỡ chói lọi, trong ánh sáng mặt trời."
-ooOoo- Chú thích: [11] Xem trang trước [12] Xin xem lại đoạn Tứ Niệm Xứ trong
phần Chánh Niệm.
-ooOoo- Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim
Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(tiếp theo)
Trong sạch hay ô nhiễm đều tùy nơi ta. Không ai có thể làm cho
người khác trở nên trong sạch," (câu 165)
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
Chánh Niệm
Chánh Định
Chánh Tư Duy
last updated: 22-02-2003