BuddhaSasana Home Page Đạo đức Phật giáo và Hạnh
phúc con người
Hòa thượng Thích Minh Châu
Phần II
[3] ĐẠ
N Trước đó, nhân dân Việt Nam đã xây dựng
được một nền văn hóa rực rỡ, độc đáo, có bản sắc riêng, mà hiện nay các
nhà sử học và khảo cổ học gọi là "Nền văn minh sông Hồng". Đó là một nền
văn minh xóm làng dựa trên một nông nghiệp trồng lúa trước với kỹ thuật
luyện đồng và luyện sắt đã phát triển từ rất sớm. Phong kiến phương Bắc đã
tiến hành một sự đồng hóa cưỡng bức về văn hóa nhưng dân chúng Việt Nam
phải đấu tranh quyết liệt để bạo vệ nền văn hóa truyền thống và cũng là để
bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc. Người Việt Nam vốn có một thái độ bao dung
cởi mở về văn hóa và tín ngưỡng, ít có những thành kiến tôn giáo, sẵn sàng
chọn lọc trong những nền văn hóa bên ngoài những yếu tố làm phong phú nền
văn hóa độc đáo của họ. Người Việt Nam cũng có thể chấp nhận những tín
ngưỡng khác nhau từ bên ngoài và dung hòa chúng với tín ngưỡng cổ truyền. Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất
Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải
thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên. Các nhà sư Ấn Độ và Trung Á đã đến Việt
Nam vào khoảng đầu công nguyên. Giao Châu - Việt Nam thời đó
- đã là nơi dừng chân của nhiều khách thương Ấn Độ cũng như các Tăng sĩ Ấn
Độ. Thương gia Ấn Độ thường phải ở lại đây cho đến năm sau, chờ gió mùa
đông bắc để trở về Ấn Độ . Còn một số nhà sư Ấn Độ có thể ở lại lâu hơn.
Cũng từ đây, một số thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn
Độ được người Việt tiếp thu, trong đó có Phật giáo. Sự tiếp nhận này dường như không gây ra sự
thay đổi nào đột ngột trong đời sống tinh thần của người Việt. Họ thờ cúng
Chư Phật cũng như đã thờ cúng các vị thần vốn có của họ. Trung tâm Phật giáo cổ nhất ỏ Việt Nam là
Luy Lâu, cách Hà Nội khoảng 30 km về phía Bắc. Ở đây có bốn ngôi chùa được
dựng từ thời các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đến đây, có tên là Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức Mây, Mưa, Sấm, chớp. Bốn ngôi chùa này đồng
thời thờ bốn vị nữ thần là Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Đàn, Bà Tướng. Rõ ràng đó là
các nữ thần nông nghiệp. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn thờ các loại
nữ thần đó trong các chùa này. Như vậy là ngay trong bước du nhập đầu
tiên, Phật giáo đã được những người nông dân trồng lúa Việt Nam dung hòa
với các tín ngưỡng cổ truyền của họ. Từ thế kỷ hai trở đi. Phật giáo Giao Châu
đã có những bước phát triển đáng kể. Tăng đoàn đã khá đông. Nhiều chùa
tháp được dựng. Các nhà sư Ấn Độ và Trung Á đã bắt đầu tổ chức việc dịch
kinh ở Luy Lâu. Ngoài nhiều bộ kinh đã được dịch, đã xuất hiện những quyển
sách bàn luận về Phật giáo. Những trung tâm dịch kinh và nghiên cứu Phật
giáo đồng thời cũng là những trung tâm giáo dục. Những thế hệ Tăng sĩ
người Việt dần dần được hình thành. Chẳng hạn như Đạo Thanh là học trò của
Chi Cương Lương Tiếp (Kalàsìvi) trong thế kỷ III, và Huệ Thắng là học trò
của Đạt-Ma-Đề-Bà (Dharmadeva) trong thế kỷ V... Từ thế kỷ VI trở đi, Phật
giáo ở Việt Nam càng phát đạt. Các phái Thiền Tông Trung Quốc đã du nhập
vào Việt Nam trong thế kỷ VI và thế kỷ IX. Cũng vào thời gian này, xuất
hiện nhiều cao tăng người Việt, có đạo đức sâu rộng, trong số đó có những
người như Phụng Đình Pháp sư, Duy Giám Pháp sư, được vua nhà Ðường mời
sang Trường An (Chánh An) để giảng kinh luận. Nhiều cao tăng Việt Nam khác
cũng đã đến Ấn Độ như Vận Kỳ Giải Thoát Thiên (tên Sanskrit là Moksadeva),
Khuy Xung (tên Sanskrit là Prajnadeva). Đặc biệt là ngài Đại Thừa Đăng
(tên Sanskrit là Mahayànapradìpa), đã nhiều năm tu hoc ở Ấn Độ, tinh thông
tiếng Sanskrit, đã chú giải tác phẩm Duyên Sinh Luận (Nidàna-sastra). Vị
này đã tới học ở tự viện Nalanda và cuối cùng mệnh chung ở chùa
Parinirvana tại Kusinara vào thế kỷ VII. Cũng một phần qua các hoạt động của các
tăng sĩ như vậy mà văn hóa Việt Nam đón nhận ảnh hưởng của văn hóa thế
giới. Nhưng điều quan trọng trong thời kỳ này là Phật giáo đã góp phần
phát triển và bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Khi đã thấm sâu vào tín ngưỡng của nhân
dân, Phật giáo đã có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người
Việt. Các ngôi chùa lại trở thành các trung tâm văn hóa giáo dục trong các
làng xã. Chùa không phải chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là nhà
trường. Các em bé đến chùa không phải chỉ để sau này trở thành các Tăng sĩ
mà là để học chữ. Chư Tăng không những làm việc tôn giáo mà còn là thầy
học hoặc thầy thuốc ở nông thôn. Chư Tăng là người hiểu biết trong xóm
làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân kính
trọng. Chính vì vậy, rất tự nhiên, trong cuộc đấu
tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đúng vào phía những người yêu
nước. Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một
tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp cầm đầu nhân
dân đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng. Cuộc khởi nghĩa của Lý Phật
Tử cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII là một ví dụ. Trong tiếng Việt, "Phật
tử" có nghĩa là tín đồ Phật giáo. Như vậy là Phật giáo Việt Nam, trong
những bước phát triễn đầu tiên, đã nhập thân vào dân tộc. Chính vì vậy mà
người Việt Nam không ngạc nhiên khi thấy trong lịch sử, vua Lý Nam Đế, khi
xây dựng một nhà nước độc lập ngắn ngủi vào thế kỷ VI, đã cho xây ngôi
chùa có tên là Khai Quốc, nghĩa là "mở nước". Chùa Khai Quốc là tiền thân
của chùa Trấn Quốc ngày nay ở Hà Nội. Do vai trò của Phật giáo trong cuộc chiến
đấu giải phóng, khi nền độc lập của Việt Nam được giành lại trong thế kỷ
X, Phật giáo đã có một vị trí to lớn trong xã hội. Từ thế kỷ X đấn thế kỷ
XIV là giai đoạn phát triển cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, mà đỉnh cao
là trong hai triều đại Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400). Phật giáo trở
thành quốc giáo. Nhiều cao tăng làm cố vấn cho nhà vua trong công việc đối
nội và đối ngoại. Nhiều nhà vua tin sùng Phật giáo, sau khi truyền ngôi
cho con, đã xuất gia tu hành. Phần lớn quan lại quý tộc là tín đồ Phật
giáo. Chùa tháp mọc lên khắp nơi trong nước.
Ngày nay, ở những tỉnh miền núi của Việt Nam như Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên,
các nhà khảo cổ học đã tìm được di tích những ngôi chùa cổ trong thời kỳ
này. Điều đó có nghĩa là bấy giờ, Phật giáo đã thâm nhập vào các dân tộc
thiểu số trên đất Việt Nam. Phật giáo đã thấm sâu vào các làng xã.
Người Việt Nam chúng ta có câu: "Đất vua, chùa làng". Đất của vua có nghĩa
là đất đai trong nước thuộc quyền sở hữu của nhà vua, một hình thức sở hữu
ruộng đất phổ biến ở phương Đông cổ đại. Còn chùa là của làng, nói lên
rằng mỗi công xã có một ngôi chùa riêng. Nhà chùa thường được hưởng hoa
lợi trên một số ruộng đất gọi là ruộng chùa, lấy ra trong bộ phận ruộng
công của làng xã. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam hiện nay cho rằng đình,
ngôi nhà chung của cư dân làng xã mà ở đó thường tiến hành những sinh hoạt
công cộng, chỉ xuất hiện về sau này. Còn trong thời kỳ thế kỷ X đến thế kỷ
XIV, chưa có đình, mà chùa là nơi sinh hoạt công cộng của cư dân làng xã.
Như vậy trong giai đoạn này chùa không chỉ là nơi tiến hành các sinh hoạt
tôn giáo, mà cũng như đình sau này, còn là nơi sinh hoạt văn hóa của dân
làng xã. Làng xã Việt Nam bao giờ cũng là nơi ấp ủ sức sống của văn hóa
truyền thống của người Việt Nam . Như vậy là từ trong cái tế bào của xã
hội Việt Nam cổ truyền, văn hóa dân tộc đã tiếp xúc với Phật giáo. Sau thế kỷ X, cùng với việc giành lại chủ
quyền đất nước văn hóa Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển rực rở,
bừng lên như môt cuộc hồi sinh hay phục hưng. Đặc điểm của nền văn hóa
trong giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là biểu hiện một ý thức dân tộc
rất cao. Trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc
thời đó, Phật giáo Việt Nam có những đóng góp to lớn. Có thể nói rằng văn
hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV vừa mang tính chất dân tộc vừa
mang tính chất Phật giáo. Và hai đặc điểm này hoàn toàn không mâu thuẫn
nhau. Như đã nói ở trên, Phật giáo Việt Nam đã
tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc từ trước thế kỷ X, nên khi giành
lại được nền độc lập, các Tăng sĩ vẫn mang một ý thức quốc gia mạnh mẽ.
Nhiều cao tăng như Khuông Việt (tên hiệu này có nghĩa là "giúp nước
Việt"), Vạn Hạnh, Pháp Thuận đã thực sự tham gia hoạt động chính trị với
mục đích giữ gìn một nhà nuớc độc lập mới được xây dựng. Phật giáo thời kỳ
này mang một màu sắc nhập thế rõ ràng, hay nói cho đúng hơn, có nhiều
chiều hướng phục vụ quốc gia dân tộc. Vả lại, các nhà sư thời kỳ này đều thuộc
các phái Thiền. Đối với các Thiền sư, mọi công việc của đạo của đời đều
không ngăn cản đạt được bát nhã (Prajna). Vì vậy ngồi trên chiếu thiền,
hay lên yên đuổi giặc, các vị ấy đều tự do. Tuệ Trung thượng sĩ, một nhà
thiền trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, đã trình bày điều đó trong hai
câu thơ rất hay: "Đi là thiền, mà ngồi cũng là thiền, Ý thức dân tộc biểu hiện mạnh mẽ trong văn
học và nghệ thuật. Thời kỳ này mà chư Tăng là người mở đầu dòng văn học
đó. Bài thơ sớm nhất mà ngày nay được biết đến trong lịch sử văn học Việt
Nam là của pháp sư Khuông Việt, cố vấn cho các vua Đinh và Lê trong thế kỷ
X. Đó là một bài thơ tiễn môt sứ giả Trung Quốc về nước. Bài thơ được làm
trong công việc ngoại giao, biểu hiện một ý thức quốc gia mạnh mẽ nhưng
vẫn có tính nghệ thuật cao. Ngày nay, những gì còn lại trong kho tàng
văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, tuyệt đại bộ phận là văn học
Phật giáo. Hầu hết là thơ của các thiền sư. Trong số đó có những bài thơ
rất hay, đã giữ một vị trí rất xứng đáng trong lịch sử thi ca Việt Nam. Đây là bài thơ ngắn của nhà sư Mãn Giác(1052-1096):
"Mùa xuân đi trăm hoa rụng, "Nhưng chớ nói rằng mùa xuân tàn thì tất
cả các hoa đều rụng Có thể các tác giả bài thơ muốn dùng hình
ảnh cành hoa mai để biểu hiện bản thể bất sinh bất diệt của vạn pháp.
Nhưng mọi người Việt Nam lại tìm thấy ở bài thơ này một cảm xúc về sự vươn
lên của cuộc sống không gì dập tắt được. Và đây là bài thơ nhỏ của nhà sư Không Lộ
(mất năm 1119): "Chọn được nơi ở trên một thửa đất đẹp.
Trong khi hứng siêu thoát rất độc đáo của
tác giả. người Việt Nam lại thấy một sự khảng định con người giữa tự nhiên
mênh mông. Văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến thế kỷ
XIV phong phú hơn, đa dạng hơn và có một tinh thần dân tộc sâu sắc hơn.
Nhưng văn học Phật giáo vẫn còn là một bộ phận quan trọng, đó là chưa kể
ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học nói chung. Một nhà thơ nổi tiếng có
đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam là Pháp sư Huyền Quang (1254-1334), giỏi
Phật học nhưng thơ rất bình dị. trong thơ Ngài, thiên nhiên hiện lên tuyệt
đẹp và rung cảm của con người thật là tươi mát. Nhưng đôi khi, bên cạnh
những bức tranh đẹp của thiên nhiên, ta gặp những dòng thơ chia sẻ nỗi đau
khổ của con người. Chẳng hạn bài thơ của Ngài viết khi gặp những người tù
đi đày bị áp giải: "Ta muốn viết một bức thư bằng máu để nhắn
tin Huyền Quang là tổ thứ ba của phái thiền
Trúc Lâm. Việc xây dựng một phái thiền riêng trong thời Trần cũng là một
biểu hiện của ý thức dân tộc. Vị tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm là vua Trần
Nhân Tông (1258-1308), người anh hùng dân tộc, nhà sư và cũng là nhà thơ. Một trào lưu văn học có tính chất dân tộc
thời Trần là sáng tác bằng ngôn ngữ Việt Nam và ghi lại bằng thứ chữ Việt
Nam gọi là chữ Nôm. Trần Nhân Tông, Huyền Quang cũng đã để lại những tác
phẩm văn học Phật giáo bằng chữ Nôm. Những tác phẩm đó ngày nay vẫn còn,
và trở thành những tài liệu vô cùng quý báu . Sự hưng thịnh của Phật giáo trong các thế
kỷ X-XIV ở Việt Nam đã kéo theo sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc và hội hoạ. Nhiều chùa tháp đã mọc lên ở các kinh đô Hoa Lư,
Thăng Long (Hà Nội ngày nay) cũng như ở nhiều nơi khác trong nước. Đáng
tiếc là phần lớn các kiến trúc này nay không còn nữa, do thời gian và do
chiến tranh xâm lược. Ngày nay chỉ còn lại tháp đá Phổ Minh (tỉnh Hà Nam
Ninh) 14 tầng, cao 21m, xây dựng năm 1305 và tháp gạch Bình Sơn (tỉnh Vĩnh
Phú), 11 tầng, cao 15m, xây vào thế kỷ XIV là còn khá nguyên vẹn. Đó là
những niềm tự hào kiến trúc cổ Việt Nam. Cùng phát triển với kiến trúc là điêu
khắc. Tiêu biểu cho điêu khắc thời kỳ này, ngoài những phù điêu trang trí
cho các kiến trúc Phật giáo là những pho tượng bằng đá như tượng A Di Đà
(Amitabha) ở chùa Phật Tích (tỉnh Hà Bắc), các tượng kim Cương (Vajrapani)
ở chùa Long Đọi (tỉnh Hà Nam Ninh). Đó là những pho tượng đẹp thời Lý.
Thời Trần ngày nay ít tượng hơn, nhưng lại tìm được rất nhiều bệ tượng
bằng đá. Đó là những khối chữ nhật ghép đá mà trên đó những nhà điêu khắc
đã trang trí bằng các phù điêu. Phong cách điêu khắc Lý mềm mại, phong
cách điêu khắc Trần khoẻ khoắn. Một hình tượng trang trí phổ biến của thời
kỳ này là hình hai con rồng uống khúc nằm giữa hai chiếc lá cây bồ đề. Lá
bồ đề tượng trưng cho Phật giáo và rồng tượng trưng cho dân tộc Việt Nam.
Thủ đô Hà Nội thời đó có tên là Thăng Long, có nghĩa là "rồng bay lên".
Một lần nữa, ta lại thấy sự quyện nhập giữa tinh thần Phật giáo và ý thức
dân tộc trong các biểu hiện của văn hóa giai đoạn này. Từ giữa các thế kỷ XIV, Nho giáo bắt đầu
lớn mạnh và Phật giáo bị chèn ép. Nhưng từ giữa thế kỷ XVI, Phật giáo Việt
Nam bắt đầu phục hồi và hưng khởi lại. Thời kỳ phát triển này đạt đến đỉnh
cao của Phật giáo vào thế kỷ XVIII. Phật giáo hưng khởi trở lại, kiến trúc và
nghệ thuật tạo hình Phật giáo cũng theo đó mà phát triển. Nhiều ngôi chùa
lớn ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay là được xây dựng trong thời
kỳ này. Tượng Phật thời kỳ này trở lên đa dạng. Đặc biệt là xuất hiện
nhiều tượng Tuyết Sơn và tượng Quan Âm (Avalokitesvara) đẹp. Nổi tiếng
nhất là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, tạc năm 1656, ở chùa Bút Tháp
(tỉnh Hà Bắc). Bên cạnh tượng Phật là tượng La-hán (Arhat) mà đặc sắc nhất
là loạt tượng La-hán ở chùa Tây Phương (Hà Nội), cuối thế kỷ XVIII. Đây cũng là một thời kỳ xuất hiện nhiều tác phẩm văn học Phật giáo mà
nội dung phổ biến là sự dung hòa tư tưởng Phật giáo với tinh thần Nho giáo
và Đạo giáo. Nhiều nhà văn Việt Nam cũng đã chịu ảnh
hưởng của Phật giáo. Ngay Nguyễn Trãi, nhà tư tưởng và nhà yêu nước, cũng
đã từng viết những dòng thơ: Tào Khê rửa ngàn tăm suối
[1]
Còn nhà thơ lớn Nguyễn Du, một tên tuổi
chói sáng trong lịch sử văn hóa Việt Nam, thì lại tỏ ra có một căn bản
vũng chắc về thiền học, khi ông viết: Tôi đã học kinh Kim Cương hơn nghìn lần,
Nay nhìn lại sự phát triển của nền văn hóa
Việt Nam, chúng ta không thể không chú đến sự đóng góp của đạo Phật. Đạo
Phật đã có mặt trên đất nước này gần 2.000 năm. Vai trò Phật giáo đã đóng
góp trong việc xây dựng nền văn hóa Quốc gia Việt Nam không phải luôn luôn
giống nhau ngang qua lịch sử. Nhưng thật kỳ diệu là Đạo Phật không bao giờ
xây dựng lại nền văn hóa dân tộc. Khi nào nền văn hóa dân tộc bị lâm nguy
có thể bị tiêu diệt, thời phần đông Phật tử với nhân dân Việt Nam đã đứng
lên để bảo vệ. Nhân dân Việt Nam tiếp thu từ Đạo Phật
những gì thích hợp với tâm tư trí óc của mình, như thế trí tuệ và từ bi,
tình thương đén mọi loài hữu tình, sự cương quyết cố gắng làm điều thiện,
điều lành, sự giải thoát tâm hồn, và sự mong muốn hòa bình và hạnh phúc
cho mọi gia đình . Đức Phật hiện ra trong các truyện thần thoại Việt Nam,
với nụ cười hiền lành, đem lại hạnh phúc cho mọi người. ví dụ ông Bụt đã
cho Tấm, cô gái Cinderella Việt Nam trong các câu truyện nhân gian, những
áo quần đẹp nhất để đi dự dạ hội... Ngang qua các thần thoại và các bài ca
dân gian, ông Bụt hiền lành đã hiện vào trong giấc mộng của các trẻ em
Việt Nam. Những người lớn tuổi đã tìm trong Đức Phật một gương mẫu noi
theo để chống lại các cám dỗ tội lỗi, nhờ vậy gìn giữ sự trong sáng trong
các hành vi và tâm tư của mình. Do những đức tánh như vậy Đạo Phật đã tồn
tại hài hòa tốt đẹp với tâm tư và văn hóa Việt Nam trải qua 2.000 năm.
Hiện nay các Phật tử Việt Nam đang cố gắng làm cho sinh động và đề cao
những truyền thống tốt đẹp của Đạo Phật quá khứ và cùng với nhân dân Việt
Nam đang xây dựng một nền văn hóa mới phù hợp với thời đại mới. Chú thích: [1] Tào Khê (Tsao Chi): tên con sông nhỏ ở
Trung Quốc, nơi đó có chùa Bảo Lâm (Pao-Lin) mà nhà sư Huệ Năng
(Huei-Neng), tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc đã tu hành. [2] Chỉ cái đài bằng đá mà nơi đó, Thái tử
Chiêu Minh (Chao-ming), con vua Lương Vũ Ðế (Liang Wu-di, 501-549) ở Trung
Quốc phân phát kinh Phật. * * * [4] ĐẠO PHẬT THIẾT THỰC VÀ HIỆN TẠI
L Bằng cuộc đời của Ngài và bằng những lời
dạy của Ngài được các đệ tử kết tập lại trong ba tạng kinh điển, Đức Phật
đã khai thị cho loài người biết rằng, bất cứ người nào, với nỗ lực bản
thân và tu tập đúng hướng, cũng có thể đạt tới đích an lạc, giác ngộ và
giải thoát, trở thành bậc thánh giữa cõi thế, một hoa sen thơm mọc giữa
bùn lầy mà không vẩn mùi bùn. Đó chính là ý nghĩa nhân bản cao cả của Đao Phật, một tôn giáo đặt niềm
tin lớn vào con người, đề cao con người ngang hàng với bậc Thánh, vì con
người thật sự có sẵn trong mình khả năng, mầm mống để trở thành bậc Thánh,
nếu con người muốn mà quyết tâm tiến theo con đường Đức Phật đặt ra.
Đạo Phật không hứa với chúng ta một thiên đàng xa xôi siêu thế. Đạo
Phật yêu cầu chúng ta nhìn thẳng vào thực tại, tìm ra những nguyên nhân gì
gây ra cho chúng ta bất hạnh và đau khổ, ưu tư và sợ hãi, rồi chỉ chúng ta
phương pháp thiết thực để đoạn trừ những nhân tố. Đức Phật thường nói Ngài thuyết pháp để cho người biết, người thấy,
không phải người không biết, không thấy; và pháp của Ngài giảng là thiết
thực và hiện tại, giúp chúng ta ngay bây giờ, ở đây, đoạn tận mọi khổ đau
và mê lầm, sống an lạc và hạnh phúc hướng tới giải thoát và giác ngộ.
Đức Phật Thích Ca, vì bổn sư vô cùng tôn quý, đã sanh ra giữa loài
người, đã đến với chúng ta như một người, thì những điều gì Ngài tuyên bố
hay giảng thuyết, con người có thể hiểu được và làm được. Lời dạy của Ngài
cò giá trị thiết thực và hiện tại, có thể giúp chúng ta giải quyết tốt đẹp
các vấn đề của cuộc sống. Sanh ra ở đời, ai cũng muốn hạnh phúc,
không ai muốn đau khổ, mà Đạo Phật chính là đạo giúp con người thoát khổ
đau và sống an lạc, giúp con người đoạn tận khổ đau ngay tại đời này bằng
những phương pháp thiết thực và hiện tại, mà mọi người chúng ta đều hiểu
được và làm được, không phải là những chuyện gì xa xôi, huyền bí, siêu
thực. Đức Phật đến với chúng ta như một con người, với sự phấn đấu kiên trì
của bản thân, Ngaì đã trở thành bậc thánh, và Ngài lại vạch ra con đường
để mọi người có thể noi theo, phấn đấu kiên trì, cuối cùng cũng được giác
ngộ và giải thoát như Ngài. Đó là con đường đạo tám nhánh – Bát chánh đạo
– mà mọi người đều có thể học tập và tu chứng, không phân biệt nam hay nữ,
già hay trẻ, trí hay ngu, thậm chí cũng không có phân biệt, trong quá khứ,
người đó đã sống như thế nào, đã phạm lỗi lầm gì.
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có độ cho
hai người thật đặc biệt. Đó là Angulilama, một tướng cướp khét tiếng tàn
ác ở vương quốc Kosala, và Ampapali, một kỹ nữ nổi danh tài sắc ở thành
phố Veisàli. Cả hai người, sau khi xuất gia đều trở thành A-La-Hán tức là
bậc Thánh đã thoát vòng sanh tử, là ruộng phước vô thường ở đời, xứng đáng
để tất cả chúng ta đảnh lễ cúng dường. Những lời Đức Phật dạy mặc dù nói lên cách
đây hơn hai nghìn năm trăm năm, nhưng vẫn còn giá trị lớn lao và thiết
thực đối với tất cả chúng ta, đối với con người ở cuối thế kỷ XX này. Tôi tin rằng, nếu chúng ta thật sự sống
đúng theo lời Phật dạy, thì dù tại gia hay xuất gia, cuộc sống của chúng
ta sẽ giảm bớt được nhiều bất hạnh và đau khổ, sẽ được an lạc hơn, hữu ích
hơn đối với bản thân, đối với gia đình và xã hội. Vì đó là nếp sống đạo
đức và hướng thượng, đảm bảo hạnh phúc an lạc cho mình và con người, cho
đời này và cho đời sau. Với nếp sống hướng thượng theo đúng lời Phật dạy,
chúng ta sẽ tiến dần dần, một cách chắc chắn, tới đích giác ngộ và giải
thoát, dù rằng trên tiến trình đó, chúng ta còn phải trải qua nhiều kiếp. Thái độ của Đức Phật đối với thiện và ác
là một thái độ phân biệt rõ ràng, phân biệt trong kết quả của nó trong
hiện tại và tương lai, phân biệt cả trong nguyên nhân của chúng là tham,
sân, si nếu là ác; và không tham, không sân, không si, nếu là thiện. Trong một bài kinh, Đức Phật nói với tôn
giả A Nan Đà: "Ta tuyên bố một cách
dứt khoát rằng, này A Nan Đà, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều
không nên làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại
như sau được chờ đợi: Tự mình chê trách mình; sau khi biết thời kẻ trí chê
trách; tiếng ác đồn xa; bị suy ám khi mệnh chung; sau khi chết, sinh vào
cõi dữ, cõi ác... " Như vậy là Đức Phật khẳng định rất khoát
rằng, người ác ngay trong đời sống hiện tại ít nhất cũng chịu khổ trên bốn
phương diện. Một là tự mình chê trách mình, lương tâm cắn dứt dày vò, nội
tâm như lửa đốt, ưu não, nhiệt não, khổ não. Hai là bị người có trí chê
trách. Ba là bị quần chúng lên án chê bai, vì vậy mà người làm ác đi đâu
cũng sợ hãi, xấu hổ. Bốn là khi mệnh chung, tâm người ác bị hôn mê si ám,
dù có muốn cũng không trối trăn gì được cho người thân. Và sau khi chết,
thân hoại mạng chung, người ác tái sanh vào cõi ác, cõi dữ. Còn đối với người thiện, Đức Phật nói như
sau: "Này A Nan Đà, ta tuyên bố dứt
khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm.
Nếu làm những điều nên làm ấy thì những lợi ích như sau được chờ đợi: Tự
mình không chê trách mình; khi được biết thời kẻ trí sẽ tán thán; tiếng
lành đồn xa; khi mệnh chung không bị suy ám; sau khi chết được tái sinh
vào cõi trời, cõi đời này". (Tăng
Chi I, 70). Luật nhân quả nghiệp báo là công bằng và
hợp lý. Ai làm, người ấy chịu . Gieo nhân ác chịu quả ác. Gieo nhân thiện
được quả lành. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy:
"Người là chủ nhân của nghiệp, đồng thời cũng
là kẻ thừa tự của nghiệp...
"(Trung Bộ III, 361). Nhưng vấn đề khó khăn là nhân và quả khác
thời, từ khi tạo nhân cho tới khi sanh quả, phải trải qua một thời gian
nhất định. Nếu quả báo cuộc đời này thì gọi là hiện báo, cuộc đời
sau gọi là sinh báo, thuộc các đời sau nữa gọi là hậu báo.
Nhưng dù là hiện báo, sinh báo, hay hậu báo, con người cũng không thể nào
tránh được quả báo do nghiệp nhân tại ra. Vì vậy mà cụ Nguyễn Du đã viết: "Đã mang lấy nghiệp vào thân Nghiệp do chính mình làm chớ không do ai
quàng vào cho mình. Mà đã do mình làm, thì mình mang lấy vào thân chứ
không thể có ai mang hộ cho mình. Kệ 127, kinh Pháp cú viết: "Không trên trời giữa biển, Quả báo phát sinh khác thời với nghiệp
nhân, sách Phật gọi là quả Dị Thục. Dị Thục là chín muồi và đổi
khác. Không những khác về thời gian mà còn khác về quy mô và hình thức.
Người phàm phu vì không hiểu lẽ dị thục, cho nên không hiểu và không tin
luật nhân quả, phạm tội ác bừa mà không biết sợ. Người có trí hiểu lẽ dị
thục, cho nên thận trọng, biết sợ hãi ngay đối với những lỗi nhỏ. Một mồi
lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng. Một con sâu con, nếu sinh sôi nảy nở có
thể phá trụi cả khu rừng hoa quả. Một hạt thóc, gieo xuống đất ruộng, trở
thành cây lúa với nhiều bông. Lẽ dị thục là như vậy. Nó được chứng minh là
đứng đắn trong thiên nhiên, ngoài xã hội, xung quanh chúng ta, nếu chúng
ta biết nhìn và biết suy nghĩ. Kệ 71, kinh Pháp cú viết: "Nghiệt ác đã được làm, Kệ 67 và 68 viết: "Nghiệp làm không chánh thiện, Người có trí hiểu lẽ dị thục của luật nhân
quả nghiệp báo, cho nên vừa tránh mọi lỗi lầm nhỏ nhặt, vừa siêng năng làm
việc thiện, việc lớn củng như việc nhỏ, trong mọi trường hợp. Nếu một mồi
lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh đồng thời một việc thiện, dù nhỏ củng thể
đem lại phước báo vô lượng, nếu việc thiện đó được làm với tâm hồn trong
sáng vô tư, vô ngả, không vị kỷ. Trong sách Phật, có danh từ "phước điền",
nghĩa là ruộng phước, chỉ cho quý vị xuất gia, sống cuộc sống thánh hạnh,
thánh tịnh. Quý vị đó là ruộng phước. Thế nhưng một người, xuất gia hay
tại gia, nếu biết chánh niệm tỉnh giác, hộ trì các căn, tu tập đến chổ
thuần tịnh, trong sáng, mọi cấu uế tham sân, si đều được gạn lọc sạch,
thời mỗi việc làm thiện của người đó, dù là nhỏ, cũng đem lại phước báo vô
lượng. Vì sao? Vì bản thân họ đã là ruộng phước, vì tâm địa họ cũng rộng
lớn vô lượng. Như quý vị đều biết, Đạo Phật khẳng định
có tái sinh, có luân hồi, có nhiều cõi sống khác cõi sống loài người. Có
cõi sống thiện, có cõi sống ác. Cõi người, cõi trời là những cõi sống
thiện. Cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục là các cõi sống ác. Đức
Phật và các bậc Thánh đã thoát khỏi cảnh luân hồi sinh tử, không những dạy
chúng ta con đường thoát khỏi sinh tử mà còn chỉ bày cho chúng ta nếp sống
đạo đức, thiện lành, hướng thượng để giúp chúng ta tuy vẩn còn luân hồi
sinh tử nhưng luân hồi sinh tử trong các cõi thiện, cõi lành mà thôi. Kệ 182, kinh Pháp cú viết ; "Khó thay được làm người, Bốn cái khó trên, hầu như chúng ta ở đời
đều đạt được cả. Đức Phật tuy nhập Niết-bàn cách đây hơn 2.500 năm, nhưng
Phật có để lại diệu pháp mà chúng ta được nghe, được học. Chúng ta có được
thân người là việc hy hữu. Thân người tuy bị bệnh, bị già, bị chết, nhưng
ngày nào chúng ta còn được sống, thì thân người vẫn là phương tiện để
chúng ta tập làm thiện sự và Phật sự, hướng tới giác ngộ và giải thoái. Nếp sống thiện là nếp sống an lạc hạnh
phúc. Nếp sống bất thiện là nếp sống bất hạnh và đau khổ. Ý nghĩa thiết
thực của đạo đức Phật giáo là ở chỗ đó.
Kinh Phật phân biệt thiện hay ác theo ba
loại: - Thứ nhất là thiện ở nơi hành động của
thân, tức là không sát sinh mà còn phóng sinh, trân trọng sự sống của muôn
loài; không lấy của không cho mà còn bố thí, giúp người khác bằng của cải
vật chất (tài thí), bằng đạo lý (pháp thí), bằng lấy sức che chở kẻ yếu
(vô uý thí), hay là tìm cách chia sẻ niềm vui với người khác (tùy hỉ thí);
không tà dâm, tà hạnh mà sống trong sáng bình dị. Ba điều thiện về thân,
nếu đảo ngược lại, thành ba điều ác, như sát sinh, lấy của không cho, tà
hạnh trong các dục. - Thứ hai là thiện ở lời noí. Cụ thể là
nói lời chân thật, không nói dối; nói lời diệu hiền, dễ nghe, không nói
lời thô ác; nói lời đoàn kết, không nói lời chia rẽ; nói lời có ích, có
lợi, không nói lời vô nghĩa. - Thứ ba là thiện ở trong ý nghĩ, cụ thể
là không tham lam, không giận dữ, không si mê. Kinh Phật thường nói tắt là
không tham, không sân, không si. Ba điều thiện này là ba điều thiện gốc,
căn bản, vì từ đó khởi sinh mọi lời nói thiện và việc làm thiện. Chính vì vậy mà đạo Phật khuyên chúng ta
phải tu tập tâm, như là căn bản của mọi sự tu tập. Trong kinh Tăng Chi, tập 1, trang 12, đức
Phật khẳng định rằng, tâm không tu tập là tâm khó sử dụng, tâm tu tập là
tâm dễ sử dụng, tâm không tu tập đem lại tác hại lớn, tâm tu tập đem lại
lợi ích lớn, tâm không tu tập đem lại đau khổ, tâm tu tập đem lại an
lạc... Đức Phật nói tiếp, "Này các tỷ- kheo, vị tỷ-kheo với tâm hồn
đặt đúng hướng, làm minh sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn. Sự tình này
có xảy ra. Vì cớ sao? Này các tỷ -kheo, ví tâm được đặt đúng hướng... " Tâm đặt đúng hướng là đúng hướng thiện,
hướng giải thoát và giác ngộ. Tâm đặt sai hướng là ác, hướng tà, hướng cỏi
ác, cõi khổ. Chính vì vậy mà đạo Phật khuyên chúng ta tu tập tâm, phải
hàng giờ, hàng ngày, thường xuyên gạn lọc nhơ bẩn của tâm, mọi cấu uế của
tâm, khiến tâm có tham trở thành tâm không tham, tâm có sân trở thành tâm
không sân, tâm có si trở thành tâm không si. Tâm được gội sạch mọi cấu uế
từ ngoài vào, đức Phật gọi là tâm sáng chói, tâm nhu nhuyến dễ sử dụng,
tâm không bị khấu đục. Đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, với tâm không bị khấu
đục, biết được lợi ích của mình, biết được lợi ích của người hay biết được
lợi ích cả hai, sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến, thù thắng,
xứng đáng là các bậc thánh. Sự kiện như vậy có xảy ra. Vì cớ sao? Vì rằng
tâm không bị khấu đục, này các Tỷ-kheo "
(Tăng Chi 1, tr. 17) Mọi công phu tu tập của chúng ta đều phải
hướng tới nhổ cho sạch mọi cấu uế tham sân si làm nhơ bẩn tâm chúng ta.
Nếu như tâm nhơ bẩn, đầy dẫy tham sân si, thì lời nói và hành động cũng sẽ
nhơ bẩn, gây đau khổ và bất hạnh. Trái lại, nếu tâm được tu tập, được làm
cho sạch, gạn lọc hết tham sân si, thì lời nói và hành động cũng sẽ tự
nhiên được thiện lành trong sáng, đem lại cho chúng ta an lạc và hạnh
phúc, hướng chúng ta đến giác ngộ và giải thoát. Chính vì vậy mà Đức Phật
khuyên răn chúng ta hãy thận trọng từ trong ý nghĩ, phải luôn luôn chánh
niệm tỉnh giác. Chánh niệm là ý nghĩ chân chánh, không nghĩ xấu, nghĩ bậy.
Tỉnh giác là tỉnh táo, theo dõi mọi ý nghĩ, mọi niệm, đảm bảo mọi ý nghĩ,
mọi niệm trong tâm chúng ta đều chân chánh, thiện lành, không để cho xen
vào bất cứ một ác thiện nào. Chúng ta phải luôn luôn, thường xuyên tỉnh
táo, đề phòng khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị... không để cho trong tâm, mống khởi lên bất cứ một ý niệm nào, một tà
niệm nào. Nếu một ác niệm hay tà niệm nào nổi lên, thì lập tức tìm ra
nguyên nhân và đoạn trừ. Tu tập tâm là như vậy, nếp sống đạo đức
Phật giáo là một nếp sống có phân biệt rõ rệt, dứt khoát thiện và ác,
chính và tà. Phân biệt từ trong nguyên nhân, cội gốc là tham sân si hay là
không tham, không sân, không si. Phân biệt trong sự thể hiện bằng lời nói
và hành động, và phân biệt trong kết quả, kết quả cho mình và cho người
khác, kết quả ở đời này và các đời sau. Hơn nữa, Đạo Phật còn dạy chúng ta
phương pháp thiết thực hiệu nghiệm để từ bỏ ác, bất thiện để làm điều
thiện, điều lành. Có thể nói đó là một nền đạo đức hoàn
chỉnh, tại gia hay xuất gia đều theo được. Chúng ta tin tưởng rằng người sống theo
nếp sống đạo đức Phật giáo, sẽ được sống đạo đức an lạc. Gia đình sống
theo nếp sống đạo đức Phật giáo, sẽ được sống hòa thuận an vui. Nếu xã hội
và thế giới thể hiện nếp sống đạo đức Phật giáo, thì cả xã hội và thế giới
này sẽ được hòa bình, an lạc và hạnh phúc lâu dài. * * * [05] TIẾN TRÌNH
GIẢI THOÁT CỦA ĐỨC PHẬT KHI NGÀI THÀNH ĐẠO Nhân dịpTập Văn xuất bản kỷ niệm lễ Đức
Phật Thích Ca Thành Đạo, chúng tôi xin giới thiệu sau đây một bài kinh tên
là Tapussa (Tăng Chi III, số 41 trang 273, bộ mới, năm 1988), nói đến tiến
trình giải thoát của Đức Phật khi Ngài thành đạo.
G
Và Ngài bắt đầu với cảnh giới Sơ Thiền và
đối tượng cần phải gạt bỏ là các dục để chứng được Sơ Thiền. Ngài suy
nghĩ: "Lành thay sự xuất ly! Lành thay đời sống viễn ly". Nhưng tâm của
Ngài không có phấn khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tiến, không có
an trú, không có hướng tới xuất ly, dù Ngài có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi
Thế Tôn suy nghĩ: 1) "Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không
có phấn khởi trong xuất ly, không có tịnh tín, không có an trú, không có
hướng tới, dù Ta có thấy: 'Đây là an tịnh'? Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ:
'Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong các Dục, vì Ta không làm cho sung mãn
sự nguy hiểm ấy. Lợi ích của xuất ly chưa được chứng đắc. Ta chưa được
thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không có phấn khởi trong xuất ly ấy,
không tịnh tín, không an trú, không có hướng đến'. Này Ananda, về vấn đề
ấy, Ta suy nghĩ như sau: 'Nếu sau khi thấy sự nguy hiểm trong các Dục, Ta
làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất
ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này có thể xảy ra: Tâm của Ta
có thể phấn khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú và hướng đến, vì Ta có
thấy: Đây là an tịnh'. "Rồi này, Ananda, sau một thời gian, sau
khi thấy được sự nguy hiểm trong các Dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm
ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích
ấy. Và này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú, hướng
đến, vì Ta thấy 'Đây là an tịnh'. Này Ananda, sau một thời gian Ta ly
Dục... chứng đạt và an trú Sơ thiền. 2) "Do Ta trú với sự an trú này, các tương
tác ý câu hữu với Tầm và Tứ vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta là một
chứng bệnh. Ví như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể
khởi lên, như là một chứng bệnh. Cũng vây, các tưởng tác ý câu hữu với Tầm
và Tứ vẫn hiện hành ở nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh. "Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: 'Vậy
Ta hãy chỉ tức các Tầm và Tứ ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai. Nhưng
tâm của Ta không có hứng khởi đối với không có Tầm và Tứ ấy, không có tịnh
tín, không có an trú, không có hướng đến, dù Ta có thấy 'Đây là an tịnh'.
"Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như
sau: 'Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với không có Tầm
và Tứ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dù Ta có
thấy 'Đây là an tịnh'? Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau: 'Vì
Ta không thấy nguy hiểm trong các Tầm và Tứ, vì Ta không làm cho sung mãn
sự nguy hiểm ấy. Lợi ích không có Tầm và Tứ chưa được chứng đắc, Ta chưa
được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không
có Tầm và Tứ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến'.
"Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như
sau: 'Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong các Tầm và Tứ, vì Ta làm cho sung
mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích không có Tầm và Tứ, Ta
thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng
khởi đối với không có Tầm và Tứ, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy
'Đây là an tịnh'. "Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau
khi thấy được sự nguy hiểm trong các Tầm và Tứ, Ta làm cho sung mãn sự
nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích không có Tầm và Tứ, Ta thưởng
thức lợi ích ấy. Và này Ananda, tâm Ta hứng khởi đối với không có Tầm và
Tứ, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy 'Đây là an tịnh'. Này Ananda,
sau một thời gian, Ta diệt Tầm và Tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai.
3) "Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng
tác ý câu hữu với Hỷ vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh.
Ví như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên, như
là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ý câu hữu với Hỷ hiện hành ở
nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh. "Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: 'Vậy
Ta hãy ly Hỷ... chứng đạt và an trú với Thiền thứ ba. Nhưng này Ananda,
tâm của Ta không có hứng khởi đối với không có Hỷ ấy, không có tịnh tín,
không có an trú, không có hướng đến, dù Ta có thấy 'Đây là an tịnh'.
"Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như
sau: 'Do nhân gì, do duyên gì, tâm của Ta không có hứng khởi đối với không
có Hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dù Ta có
thấy 'Đây là an tịnh''? Này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: 'Vì Ta không thấy
sự nguy hiểm ấy trong Hỷ, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy.
Lợi ích không có Hỷ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích
ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không có Hỷ ấy, không có tịnh
tín, không có an trú, không có hướng đến'. "Này Ananda, về vấn đề ấy Ta suy nghĩ như
sau: 'Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Hỷ, Ta làm cho sung mãn sự nguy
hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích không có Hỷ, Ta thưởng thức lợi ích
ấy, thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi đối với không có
Hỷ, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy 'Đây là an tịnh'. "Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau
khi thấy được sự nguy hiểm trong Hỷ, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy.
Sau khi chứng được lợi ích không có Hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này
Ananda, tâm Ta hứng khởi đối với không có Hỷ, tịnh tín, an trú, hướng đến,
vì Ta thấy 'Đây là an tịnh'. Này Ananda, sau một thời gian, Ta ly Hỷ...
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. 4) "Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng
tác ý câu hữu với Lạc vẫn hiện hành. Đây đối với Ta là một chứng bệnh. Ví
như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên, như là
một chứng bệnh. Cũng vây, các tưởng tác ý cùng khởi với Lạc vẫn hiện hành
ở nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh'. "Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: 'Vậy
Ta hãy đoạn Lạc, đoạn Lạc... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Nhưng tâm
của Ta không có hứng khởi đối với không Lạc, không có tịnh tín, không có
an trú, không có hướng đến, dù Ta có thấy 'Đây là an tịnh'. Này Ananda, về
vấn đề ấy Ta suy nghĩ như sau: 'Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng
khởi đối với không Lạc ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có
hướng đến, dù Ta có thấy 'Đây là an tịnh'? "Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: 'Vì
Ta không thấy nguy hiểm trong Lạc, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy
hiểm ấy. Lợi ích của không Lạc chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng
thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không Lạc ấy, không
có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến. Này Ananda, về vấn đề ấy
Ta suy nghĩ như sau: 'Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Lạc, Ta làm cho
sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không khổ, không
lạc, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể
hứng khởi đối trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì
Ta thấy 'Đây là an tịnh'. "Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau
khi thấy được sự nguy hiểm trong Lạc, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy.
Sau khi chứng được lợi ích trong không Lạc, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và
này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong không Lạc, tịnh tín, an trú, hướng đến,
vì Ta thấy 'Đây là an tịnh'. Này Ananda, sau một thời gian, Ta xả Lạc ...
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. 5) "Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng
tác ý cùng khởi với xả lạc vẫn hiện hành, Như vậy, đối với Ta là một chứng
bệnh. Ví như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi
lên, như là một chứng bệnh. Cũng vây, các tưởng tác ý cùng khởi với xả lạc
hiện hành ở nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh"... Tiếp tục như vậy, Ngài chứng thiền Không
biên xứ, Vô sở hữu xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, Diệt thọ tưởng định. Tại Không vô biên xứ thiền, Ngài vượt qua
các sắc tưởng. Tại Thức vô biên xứ thiền, Ngài vượt qua Không vô biên xứ,
chứng đắc Thức vô biên xứ. Tại Vô sở hữu xứ, Ngài vượt qua Thức vô biên xứ
và chứng đắc Vô sở hữu xứ. Tại Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài vượt qua
Vô sở hữu xứ và chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tại Diệt thọ tưởng
định, Ngài vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ và chứng đắc Diệt thọ tưởng
định: "Ta phấn khởi trong Diệt thọ
tưởng định, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì ta thấy "Đây là an tịnh". Này
Ananda, sau một thời gian, ta vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Ta thấy với trí tuệ và các lậu hoặc đi
đến đoạn diệt".
Như vậy là tiến trình giải thoát, thành
đạo của Đức Phật đi từ Thiền thứ nhất, vượt qua Thiền thứ hai, Thiền thứ
ba, Thiền thứ tư, vượt luôn bốn Thiền ở vô sắc giới, chứng đạt trú Diệt
thọ tưởng định, với trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc để thành bậc Chánh giác.
Cứ mỗi thiền chứng đạt, an trú và vượt qua, Thế Tôn cần phải nỗ lực kiên
trì đối trị với các trở ngại bệnh chướng của mỗi thiền và cuối cùng chứng
được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài tuyên bố: "Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ
trú thiền chứng chưa được ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi,
thời này Ananda, trong thế giới này, với thiên giới, ma giới, phạm thiên
giới, với quần chúng sa môn, và Bà-la-môn, chư thiên và loài người, cho
đến khi ấy ta không xác chứng Ta đã chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ trú thiền chứng này đã được
Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ananda, trong thế
giới này, với thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, với quần chúng sa môn,
và Bà-la-môn, chư thiên và loài người, cho đến khi ấy Ta mới xác chứng Ta
đã chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta,
Ta biết rằng: 'Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối
cùng, nay không còn tái sanh nữa'".
(Tăng Chi III, 283). Như vậy, tiến trình giải thoát của Đức
Phật cho thấy sự giải thoát giác ngộ của Ngài là cả một quá trình tuần tự,
từ Sơ thiền cho đến Diệt thọ tưởng định, để cuối cùng đoạn diệt các lậu
hoặc, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. Trải qua 9 thiền chứng như vậy, và
lại mỗi thiền chứng, Ngài phải phấn đấu vượt qua các chướng ngại, tiến lên
thiền chứng kế tiếp, để cuối cùng chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy tiến trình thành đạo của Ngài là một tiến trình tuần tự tiến lên,
từng thiền chứng một tiến lên thiền chứng kế tiếp, không có vấn đề nhảy
vọt, vượt qua nhiều cấp bậc một lần. Tiến trình này cũng chứng tỏ không có
vấn đề hoát nhiên đại ngộ. Sự thành đạo của Ngài là cả một quá trình tu
chứng lâu dài kiên trì bền bỉ, luôn luôn hướng thượng, như trong kinh này
đã diễn tả. * * * [06] TIẾN TRÌNH
TU TẬP ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT, KHÔNG TRANH CHẤP N
Đức Phật có nhiều lời tuyên bố, mới xem qua như là một tuyên bố thường
tình, nhưng suy nghiệm kỹ sẽ vô cùng sâu sắc và có những tác động làm
chúng ta choáng váng không ngờ... như khi được du sĩ ngoại đạo Dandapani
hỏi: "Sa môn Gotama có quan điểm giảng thuyết những gì?" Thế Tôn đã trả
lời: "Theo lời Ta dạy, trong thế giới với chư thiên, Ma và phạm thiên, với
các chúng sa môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người, không có tranh luận
với một ai ở đời" (trang 109B). Một thời khác Ngài tuyên bố: "Vị đạo sư
thuyết pháp không có tranh luận với một ai ở đời" (Tương Ưng III, 165) Rồi
Ngài truy nguồn gốc các tranh chấp: "Các tưởng sẽ không có ám ảnh vị
Bà-la-môn (tu hành) sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ do
dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu".
Từ các tưởng khởi lên các hý luận vọng tưởng, từ hý luận khởi lên các sự
tranh chấp đấu tranh . Một khi con người đã làm chủ được các dục, không bị
các phiền não chi phối, không phân vân, không có hối hận, không có tham ái
đối với hữu và phi hữu, thời một con người như vậy được xem như hoàn toàn
thoát khỏi các chi phồi của tưỏng. Và chính từ đây chấm dứt các tranh
chấp, chống đối. Đến đây Đức Phật lại nói lên phương pháp đối trị các hý
luận (papanca). Những hý luận có thể do bất cứ nhân duyên gì khởi
lên, thời vị hành giả cần phải "không đón mừng, không hoan hỷ, không chấp
thủ". Nếu đối với các hý luận có một thái độ không chấp thủ như vậy, thời
7 tùy miên: tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu tham và vô minh tùy miên đều
được đoạn tận, và với sự đoạn tận của những pháp này, cũng sẽ đưa đến đoạn
tận "chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ và như vậy
mọi bất thiện pháp đều được đoạn tận, không còn dư tàn". Lời giảng của Thế Tôn được chấm dứt ở nơi
đây, rồi Ngài đi vào tịnh xá, và lời giảng của thế Tôn được tôn giả Mahà
Kaccàna giải thích và phân tích như sau, theo lời yêu cầu của các Tỷ-kheo:
"Do nhân 6 căn mắt tai lưỡi thân và
ý với 6 trần sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp nên 6 thức khởi lên. Do có
xúc nên khởi lên các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng. Những gì
có tưởng thời có suy tầm. Những gì có suy tầm (Vitakkti), thời có hý luận
(papanceti). Do hý luận là nhân, một số hý luận vọng tưởng
(papancasanasankha) hiện hữu cho một người trong các pháp".
Do 6 căn nhận thức quá khứ, vị lai, hiện tại. Sự kiện này xảy ra khi nào
có 6 căn, khi nào có 6 trần, khi nào có 6 thức, thời sự thi thiết của xúc
được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra khi có sự thi thiết của xúc thời có sự
thi thiết của thọ. Khi nào có sự thi thiết của thọ thời có sự thi thiết
của tưởng. Khi nào có sự thi thiết của tưởng thời có sự thi thiết suy tầm.
Khi nào có sự thi thiết của suy tầm, thời một số hý luận vọng tưởng được
hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra khi nào không có
6 căn, không có 6 trần, không có 6 thức, thời không có sự thi thiết của
xúc. Khi nào không có sự thi thiết của xúc thời có sự thi thiết của thọ.
Khi nào không có sự thi thiết của thọ thời không có sự thi thiết của
tưởng. Khi nào không có sự thi thiết của tưởng thời không có sự thi thiết
suy tầm. Khi nào có sự thi thiết của suy tầm thời
có sự hiện hành của một số hý luận vọng tưởng được Nhưng nếu các hý luận
vọng tưởng khởi nên, vì nhân duyên này hay nhân duyên khác, thời Đức Phật
dạy cho cách đối trị, là đối với những hý luận ấy
"không có gì đáng cho chúng ta hoan hỷ, không
có gì đáng cho chúng ta chấp thủ"
và khi đã không có chấp thủ các hý luận, thời như vậy là sự đoạn tận tham
tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận
nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự
đoạn tận vô minh tùy miên. Từ sự đoạn tận 7 tùy miên này, đưa đến sự đoạn
tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng
tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Và chính ở đây, tất cả bất thiện pháp được
đoạn trừ, và như vậy vị ấy được xem như đã giải thoát giác ngộ. Bài dạy này của Đức Phật, xem các tưởng,
các hý luận là nguyên nhân căn bản của các đấu tranh, tranh chấp cũng chỉ
đích danh đây là nguồn gốc của chiến tranh và muốn xây dựng hòa bình cũng
không có thể để cho các lý luận, các vọng tưởng chi phối con người, Hãy
chặn đứng các vọng tưởng, hãy chấm dứt các lý luận, mới hy vọng xây dựng
một xã hội an bình giàu tình người tốt đẹp. Trong kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống (Trường
Bộ kinh) đức Phật xác nhận cho các ngoại đạo rõ là Ngài thuyết pháp không
phải để dành lấy đệ tử của người khác, không phải để ngoại đạo từ bỏ kinh
tạng của họ, không phải vì muốn xác tín cho các ngoại đạo đối với các pháp
bất thiện mà truyền thống từ xưa đã xem là bất thiện, không phải vì muốn
cho ngoại đạo từ bỏ những thiện pháp mà truyền thống tổ sư đã xem là thiện
pháp. Đức Phật xác nhận rất rõ ràng với các ngoại đạo mục đích thuyêt pháp
của Ngài là: "Có nhửng bất thiện không được từ bỏ làm cho cấu uế, đưa đến
tái sanh, đem lại đau khổ, đem già bệnh chết cho tương lai; những pháp ấy
ta thuyết pháp để diệt trừ chúng. Nếu các ngươi thực hành đúng theo lời
giảng dạy, các pháp thanh tịnh được tăng trưởng, và các ngươi sẽ tự chứng
ngộ đạt đến an trú ngay trong hiện tại, trí tuệ cụ túc viên mãn" (Trường
Bộ III, 57) *
* *
[07] KHẤT THỰC
THANH TỊNH HAY AN TRÚ KHÔNG TÁNH K Lại nữa, Tỷ-kheo cần phải tư duy như sau:
"Ta đã đoạn tận năm dục trưởng dưỡng chưa?" Nếu trong khi suy tư, biết
rằng chưa đoạn tận năm dục trưởng dưỡng, thời vị Tỷ -kheo phải tinh tấn
đoạn trừ năm dục trưởng dưỡng. Nhưng nếu trong suy tư biết rằng năm dục
trưởng dưỡng đã được đoạn trừ thời vị Tỷ-kheo phải an trú trong hoan hỷ,
hân hoan, ngày đêm tu học trong thiện pháp. Đối với năm dục trưởng dưỡng
tức là sắc đẹp, tiếng hay hương thơm, vị ngon, xúc êm diu, vị Tỷ-kheo suy
tư xem có hay không có khởi lên năm dục trưởng dưỡng . Nếu có, thời tinh
tấn lên để đoạn trừ, nếu không có thời hoan hỷ tu học trong Chánh pháp...
Nay đối với năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thùy miên, trầm hối, nghi,
vị Tỷ -kheo cũng có những suy tư như trên, nếu chưa đoạn tận năm triền cái
thời tinh tấn lên mà đoạn trừ, nếu đã đoạn tận thời an trú trên hân hoan,
hoan hỷ ngày đêm tu học trong Chánh pháp. Pháp kế tiếp là năm thủ uẩn: sắc
thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn, vị Tỷ
-kheo suy tư đối với Năm thủ uẩn này, vị Tỷ -kheo có liễu tri được hay
không. Nếu chưa liễu tri chưa được thời phải cố gắng làm cho liễu tri
được. Và sau khi suy tư, biết rằng đã liễu tri Năm thủ uẩn thời vị Tỷ-kheo
nên an trú trong hoan hỷ, ngày đêm tu học trong thiện pháp. Các pháp kể
trên là Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tức là Bốn niệm xứ, Bốn chánh Cần, Bốn
như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Thánh đạo tám ngành. Vị
Tỷ-kheo cần phải suy tư như sau: "Ta đã tu tập Bốn niệm xứ chưa?" Nếu chưa
tu tập ta phải tinh tấn tu tập Bốn niệm xứ, nếu đã tu tập Bốn niệm xứ rồi
thời an trú trong hân hoan, ngày đêm tu tập các thiện pháp. Cũng vậy, đối
với Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Thánh
đạo Tám ngành. Vị Tỷ-kheo cần phải suy tư: "Ta đã tu tập Thánh đạo tám
ngành chưa?". Nếu chưa tu tập thời phải tinh cần tu tập Thánh đạo Tám
ngành, nếu đã tu học rồi thời phải an trú tâm trong hoan hỷ, ngày đêm tu
học thiện pháp. Pháp kế tiếp là chỉ và quán. "Ta chỉ tu
tập chỉ và quán chưa?". Nếu chưa tu tập chỉ và quán thời tinh tấn tu học
chỉ và quán. Nếu sau khi suy tư, biết được đã tu tập chỉ và quán rồi, thời
an trú trong hân hoan, ngày đêm tu tập các biện pháp. Cuối cùng, vị Tỷ-kheo cần phải suy tư: "Ta
đã chứng ngộ minh và giải thoát chưa?" Sau khi suy tư, được biết mình chưa
chứng ngộ minh và giải thoát, thời vị Tỷ-kheo cần phải tinh cần tu tập để
chứng ngộ và giải thoát. Nếu sau khi suy tư biết rằng mình đã chứng ngộ
minh và giải thoát thời vị Tỷ-kheo cần phải an trú trong hân hoan, ngày
đêm tu học trong thiện pháp. Cuối cùng Đức Phật kết luận: "Tất cả những
vị Sa môn, Bà-la-môn trong thời quá khứ, trong thời vị lai, trong thời
hiện tại làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy làm cho
khất thực được thanh tịnh bằng cách suy tư như vậy. Và Thế Tôn khuyên Tôn
giả Sàriputta cần phải học tập như sau: "Sau khi suy tư như vậy chúng ta
sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh". Đây là pháp môn không những làm cho khất thực được thanh tịnh an lành,
còn giúp cho vị hành giả được các căn sáng suốt, sắc da thanh tịnh, trong
sáng, xứng đáng là vị đệ tử đầu tay của thế Tôn.
* * *
Ðầu trang |
Mục lục | Phần I | Phần II | Phần III |
Phần IV | Phần V Chân thành cám ơn
Tỳ kheo Minh Tịnh đã hỗ trợ công tác vi tính
(Bình Anson, 04-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phật lịch 2546, TL. 2002
Bao giờ cũng là một đóa sen tươi trong lò lửa đỏ rực. "
Mùa xuân đến trăm hoa nở,
Việc đời trôi qua trước mắt,
Tuổi già đến từ trên đầu.
Đêm hôm qua trước sân, một cành hoa mai đã nở".
Cái thú ở thôn quê khiến cho suốt ngày, niềm vui không dứt,
Có lúc, ta chèo lên đỉnh núi cao chót vót,
Kêu dài một tiếng, làm lạnh cả bầu trời.
Như chim nhạn cô đơn bay vút qua tầng mây,
Đêm nay, bao nhiêu nhà buồn dưới ánh trăng,
Hai nơi xa nhau nhưng cùng một nỗi đau".
Sạch chẳng còn một chút phàm
Trong đó có nhiều điều sâu sắc tôi chưa hiểu được .
Nhưng đến khi đứng trước đài đá chia kinh này mới biết kinh không có chữ
là kinh chân chính. [2]
Cũng đừng trách lật trời gần trời xa.
Không lánh vào đồng núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp".
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như sữa không đông ngay,
Như lửa, tro che đậy".
Mắt nhuốm lệ khóc than,
Và nghiệp làm chánh thiện,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Làm rồi sanh ăn năn.
Gánh chịu quả dị thục "
Khó thay nghe diệu pháp,
Khó thay được sống còn,
Khó thay Phật ra đời"
last updated: 01-05-2003