BuddhaSasana Home Page Đạo đức Phật giáo và Hạnh
phúc con người
Hòa thượng Thích Minh Châu
Phần IV [15] PHÁP TRÍ Đ
Trong kinh Pháp Trí (Tăng Chi II, tr 534)
đức Phật xác định rõ nhờ nghe nhiều, vị Tỷ-kheo có khả năng
chứng đắc Pháp Trí, tức là một vị đã
thành tựu bảy Pháp, tức là đạt được bảy sự
hiểu biết về Pháp được phân tích như sau: biết Pháp (Dhammannu), biết
nghĩa (atthannu), biết tự ngã (attannu), biết vừa
đủ (mattannu), biết thời (kalannu), biết hội
chúng (parisannu), biết người thắng kẻ liệt (puggalaparorannu).
Rồi đức Phật giải thích rộng rãi
hiểu biết này. Ở đây, biết Pháp,
tức là biết Khế Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự
thuyết, Thị thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng.
Đây là chín thể văn
đức Phật đã sử dụng trong khi Ngài thuyết Pháp
độ sanh, chín thể văn được chứa đựng một cách
đầy đủ trong kinh tạng. Như vậy biết Pháp ở đây có nghĩa là biết
những lời dạy của đức Phật.
Còn biết nghĩa là biết ý nghĩa của những câu những lời
Phật dạy, biết rõ câu này có nghĩa như thế này, câu kia có ý nghĩa như thế
kia. Từng bài kinh, hiểu rõ ý nghĩa của từng bài kinh; từng bài kệ hiểu rõ
ý nghĩa của từng bài kệ, hiểu rõ ràng minh bạch không có hiểu lầm, không
có hiểu sai. Như vậy là biết nghĩa. Còn thế nào là biết tự ngã? Thường
đức Phật dạy các đệ tử tại gia hành
trì năm Pháp: tín, giới, đa văn, bố thí và
trí tuệ. Có chỗ thêm pháp thứ 6 là biện tài. Biết tự ngã ở
đây có nghĩa là "cho
đến mức độ như vậy tôi có lòng tin.
Cho đến mức độ như vậy tôi có giữ giới. Cho
đến mức độ như vậy tôi có bố thí. Cho đến mức độ như vậy tôi có trí tuệ".
Như vậy biết tự ngã, tức là biết khả năng
và mức độ tu tập của chính mình
đối với năm pháp đức Phật dạy. Có hiểu mình
rõ ràng như vậy tức là biết tự ngã. Còn biết ước lượng vừa đủ
là biết mức độ vừa phải của một vị Tỷ-kheo
khi nhận lãnh bốn sự cúng dường của tín
đồ về y áo, đồ ăn khất thực, sàng toạ
và dược phẩm trị bệnh. Biết nhận vừa phải, vừa
đủ, không quá tham lam, không quá nhiều, như
vậy gọi là biết ước lượng vừa đủ.
Với vị Tỷ-kheo có bốn trách nhiệm phải làm là thuyết giảng cho tín
đồ, tự mình hỏi
đạo, tu tập về thiền định. Vị Tỷ-kheo
biết thời là biết đây là
thời phải thuyết giảng vị và vị ấy đúng thời
thuyết giảng. Đây là thời cần phải hỏi
đạo, cần phải chất vấn, vị Tỷ-kheo đúng thời chất vấn. Cũng vậy đối với
thời phải tụ tập, vị ấy tu tập. Đối với thời phải thiền định, vị ấy thiền
định, như vậy gọi là biết thời. Ở đây, biết hội chúng
là biết bốn hội chúng. Hội chúng Sát đế lỵ,
hội chúng Bà-la-môn, hội chúng gia chủ, hội chúng Sa môn.
Đối với từng hội chúng, vị ấy biết nên
đi đến hội chúng ấy như vậy, nên
đứng như vậy, nên nói như vậy, nên im
lặng như vậy. Như vậy là biết hội chúng. Như thế nào là biết người thắng kẻ liệt? Vị Tỷ-kheo biết
được có hai hạng người: một hạng ưa thấy các
bậc Thánh, một hạng người không ưa thấy các bậc Thánh. Vị Tỷ kheo biết
hạng người không ưa thấy các bậc Thánh, đáng bị chỉ trích. Hạng ưa thấy
các bậc Thánh đáng được tán thán. Có hạng người không ưa nghe diệu pháp,
hạng ưa nghe diệu pháp. Hạng không ưa nghe diệu pháp đáng bị chỉ trích.
Hạng ưa nghe diệu pháp đáng được tán thán. Có hạng người lắng tai nghe
diệu pháp và có hạng người không lắng tai nghe diệu pháp. Hạng
người không lắng tai nghe diệu pháp đáng bị
chỉ trích. Hạng người lắng tai nghe diệu pháp đáng được tán thán. Một hạng
người nghe xong thọ trì pháp, một hạng người nghe xong không thọ
trì pháp. Hạng người nghe xong không thọ trì pháp
đáng bị chỉ trích. Một hạng người nghe xong
thọ trì pháp đáng được tán thán. Một
hạng người quan sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, một hạng người
không quan sát ý nghĩa pháp không được thọ trì.
Hạng người không quan sát ý nghĩa pháp được
thọ trì đáng bị chỉ trích. Hạng người
quan sát ý nghĩa các pháp được thọ trì
đáng được tán thán. Một hạng người sau khi hiểu nghĩa sau khi hiểu pháp đã
thực hành pháp, tùy pháp. Một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu
pháp, không thực hành pháp, tùy pháp. Hạng người sau khi hiểu nghĩa sau
khi hiểu pháp đã không thực hành pháp,
tùy pháp, do vậy đáng bị chỉ trích. Hạng
người sau khi hiểu nghĩa sau khi hiểu pháp đã thực hành pháp và tùy
pháp, do vậy hạng người này đáng được tán
thán. Một hạng người thực hành với mục
đích tự lợi không có lợi tha. Một hạng người thực hành với mục
đích tự lợi và lợi tha. Hạng người
thực hành pháp và tùy pháp, với mục đích tự
lợi, không lợi tha. Do sự việc này họ
đáng bị chỉ trích. Hạng người thực hành pháp và tùy pháp với mục
đích tự lợi và lợi tha, hạng người này
đáng được tán thán. Như vậy đối với Tỷ-kheo,
loại người được biết theo hai hạng. Như vậy Tỷ-kheo biết kẻ thắng hay
người liệt.
* Với những định nghĩa trên, chúng ta
hiểu người có pháp trí là là người biết pháp, là người biết nghĩa, là
người biết tự ngã, là người biết vừa đủ, là
người biết thời, là người biết hội chúng, là người biết người thắng kẻ
liệt. Đầy đủ bảy sự hiểu biết như vậy mới
được gọi là người có pháp trí. Và như vậy pháp trí không phải chỉ
thuần túy tri thức mà gồm cả ưa nghe diệu pháp, lắng tai nghe diệu pháp,
thọ trì diệu pháp, hiểu ý nghĩa diệu pháp, hành trì diệu pháp, thuyết
giảng diệu pháp và hiểu biết trình độ căn cơ
của những người nghe pháp và hành trì pháp. Nếu chúng ta hiểu biết
pháp là biết những pháp môn Phật dạy đưa đến
giải thoát và giác ngộ, và hiểu nghĩa là hiểu mục
đích giải thoát và giác ngộ, thời biết
pháp tương đương với Đạo đế, và biết
nghĩa tương đương với Diệt đế.
* * * [16] Ý NGHĨA LỄ VU LAN Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy Âm
lịch, toàn thể Phật tử Việt Nam chúng ta và Phật tử khắp năm
châu đều tổ chức long trọng lễ Vu Lan, cúng dường Phật và chúng Tăng,
dựa vào uy lực và giới đức của đức
Phật và chúng Tăng, cầu nguyện cho
cha mẹ đang còn sống được an lạc và
cha mẹ đã quá cố
được siêu thăng
cõi Tịnh Độ.
V
Tôn giả Mục-kiền-liên là một đệ tử lớn của
đức Phật, và được suy tôn là
bậc thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả
A-la-hán. Ngài dùng thiên nhãn quan sát khắp các cõi sống thì thấy
mẹ mình đang bị nạn đói khát dày vò
trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn
cầm bát cơm xuống cõi quỷ đói đưa cho mẹ. Mẹ
cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa thành than hồng cháy
đỏ không tài nào
ăn được. Tôn giả Mục-kiền-liên không
biết làm sao được, bèn trở về xin Phật
ra tay cứu giúp. Đức Phật nói: "Mẹ ông bao
nhiêu đời sống xan tham keo kiệt, nên
phải chịu khổ báo là quỷ đói, một mình
ông không thể cứu nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày
rằm tháng bảy tổ chức cúng dường đức Phật và
chúng Thánh Tăng mười phương nhờ vào
sức mạnh chú nguyện của đức Phật và
chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới
có thể siêu thóat được".
Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời đức Phật
dạy, đến ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ ra hạ của chư Tăng,
đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa...
đặt vào chậu lớn, cúng dường trai Tăng.
Bà mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên nương nhờ vào uy lực của giới
đức và phước
đức của chư Tăng mười phương, và cũng
nương nhờ vào công đức bố thí và lòng
chí thành của Tôn giả Mục-kiền-liên, mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ
đói, nỗi khổ ví như nỗi khổ của người bị treo
ngược, siêu thăng lên các cõi
lành. Nhân đó, đức Phật Thích Ca có lời dạy Tôn
giả Mục-kiền-liên rằng: "Làm người đệ
tử Phật có đức hiếu thuận, phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công
ơn cha mẹ đời này cho
đến bảy đời. Mỗi năm vào ngày rằm
tháng bảy, hãy nên làm lễ Vu Lan Bồn, cúng dường
đức Phật và chúng Tăng,
để báo ơn sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ, cầu cho cha mẹ sống lâu
trăm tuổi và sau khi mạng chung
được sanh vào các cõi lành". Kinh Vu Lan Bồn chủ yếu được lưu hành
rộng rãi ở các nước Phật giáo Á Châu, là nơi có truyền thống hiếu kính cha
mẹ và thờ phụng tổ tiên rất sâu đậm. Ngày
lễ Vu Lan được nhân dân các xứ này tổ
chức như một lễ lớn trong năm và trong
cả nước, ngày lễ báo ơn báo hiếu đối với cha
mẹ, ông bà, sư trưởng, cũng như đối
với tất cả những người xứng đáng được tri ân, nhưng trước hết là
công ơn cha mẹ và ông bà cho tới bảy đời.
Ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và nhiều nước khác ở
Đông Nam Á, ngày lễ Vu Lan
được quần chúng hưởng ứng rất rộng rãi.
Có thể nói là mọi người kể cả những người không theo
đạo Phật, những gia đình theo Nho giáo
hay theo Lão giáo cũng đều làm lễ Vu
Lan, nhân ngày lễ đó tưởng nhớ ông bà,
cha mẹ đến bảy đời, công ơn thầy dạy, công ơn
quốc gia cũng như công ơn của tất cả chúng sinh.
Trong kinh tạng Pàli của Phật giáo Nguyên thuỷ, chúng ta có thể
đọc được những lời đức Phật dạy về chữ Hiếu
thật là đầy đủ, sinh động và cụ
thể, những lời mà chỉ có đức Phật là
bậc đại trí tuệ mới có thể nói ra được.
"Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người, Ta nói không thể trả ơn
được. Thế nào là hai?
Đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng
mẹ, một bên vai cõng cha, làm như vậy suốt một trăm
năm cho đến khi cha mẹ trăm tuổi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng
chưa làm đủ để trả ơn cho mẹ và cha.
Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và
dù tại đấy, mẹ cha có vãi
đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này
các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn mẹ và
cha... (Tăng Chi I, 75).
Các kinh Bắc tông nói về đạo hiếu cũng rất
nhiều, ngoài Kinh Vu Lan Bồn ra, có thể kể các kinh khác như: Nhẫn
Nhục Kinh, Đại Tập Kinh, Tứ Thập Nhị Chương
Kinh... lời lẽ trong các kinh này cũng thống thiết, sinh
động như trong các kinh Nguyên thuỷ
vậy. Như Kinh Nhẫn Nhục nói: "Thiện cùng cực, không có gì hơn hiếu; ác
cùng cực; không gì hơn bất hiếu". Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: "Phàm người
phụng thờ quỷ thần, không bằng phụng thờ cha mẹ. Cha mẹ là vị thần tối
thượng". Kinh Đại Tập nói: "Nếu ở đời không
có Phật thì hãy khéo phụng thờ cha mẹ. Khéo phụ thờ cha mẹ cũng
giống như khéo phụng thờ Phật". Như vậy kinh điển của Phật giáo Nam Tông
cũng như Bắc Tông đều nói đến đạo hiếu và rất coi trọng
đạo hiếu. Trước đây và hiện nay vẫn
còn có một số người chưa hiểu hết giáo lý giải thoát của nhà Phật, cho
rằng các vị đi tu không có vợ con nên
không có con nối dõi tông đường, họ cho là
bất hiếu. Vì họ hiểu sai về lý tưởng xuất gia của
đạo Phật. Xuất gia không phải là từ bỏ
cha mẹ và người thân. Xuất gia chỉ có nghĩa là từ bỏ danh lợi thế gian, từ
bỏ mọi tình cảm hẹp hòi vị kỷ, từ bỏ ba độc
tham-sân-si. Sách Phật thường nói về sự xuất gia và lý
xuất gia. Cạo tóc, mặc áo cà sa vào chùa ở chỉ mới là sự xuất gia. Từ
bỏ được ân ái hẹp hòi, từ bỏ
được danh lợi thế gian tầm thường, từ bỏ được
mọi tham muốn thấp hèn về ăn uống,
tiền tài danh sắc, ngủ nghỉ, từ bỏ
được tham sân mới gọi là xuất gia. Người tu sĩ sau khi xuất gia, chấp nhận tất cả chúng sinh, tất cả mọi
người trong xã hội đều là cha mẹ, anh
em, con cái của mình, và thương yêu với một tình thương không phân biệt.
Đức Phật Thích Ca được tôn xưng là
đấng Từ phụ, tức là cha lành, vì Ngài
thương yêu tất cả chúng sinh như con một của mình. Mọi người xuất gia cũng
vậy, noi gương đức cha lành, cũng xem
mọi người trong xã hội đều như cha mẹ anh em,
bà con ruột thịt của mình. Hơn nữa người xuất gia làm tròn đạo hiếu
của mình bằng một cách khác. Tức là bằng cách xây dựng
đức tin cho cha mẹ thiếu đức tin, khuyến
khích cha mẹ bỏ ác làm lành, khuyến khích cha mẹ bố thí và tu học
chánh pháp, đạt tới trí tuệ chơn chánh. Và
làm như vậy, theo như lời đức Phật nói, chính
là báo hiếu cha mẹ một cách đầy đủ
trọn vẹn nhất.
Chữ báo hiếu không có nghĩa cha mẹ làm gì mình cũng tán thành, dù rằng
làm ác, làm điều bất thiện. Ngay báo hiếu
cũng phải có trí tuệ. Đạo Phật nói đến chữ Nhân và chữ Hiếu như
đạo Nho, nhưng với một nội dung rộng lớn hơn
nhiều, như có thể thấy qua câu mở đầu toát yếu toàn bộ ý tứ trong
tập truyện thơ dân gian "Nam Hải Quan Âm", rất
được ưa chuộng của dân chúng Việt Nam:
"Chơn như đạo Phật rất mầu, Độ thoát cha mẹ khỏi v Thế nhưng tất cả chúng ta, dù xuất gia hay tại gia
đều có thể trả ơn đầy đủ cho cha mẹ, nếu
chúng ta học tập và thực hành theo lời
đức Phật dạy trong Tăng Chi bộ Kinh Tập I trang 75;
"Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng,
cúng dường cha mẹ với của cải vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để
trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai
đối với cha mẹ không có lòng tin, thì
khuyến khích cha mẹ an trú vào lòng tin; đối
với cha mẹ theo ác giới, thì khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú
vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham,
khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào bố thí;
đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, thì
khuyến khích cha mẹ an trú vào trí tuệ. Cho
đến như vậy, này các Tỷ-kheo tức là làm
đủ và trả ơn
đủ cho cha và mẹ". Những lời dạy của đức Phật, tất cả Phật tử
chúng ta đều có thể thực hành được.
Chúng ta đều là
đệ tử Phật, là con Phật. Chúng ta
đều thọ Tam quy: quy y Phật, quy y Pháp, quy
y Tăng. Nếu cha mẹ chúng ta chưa tin Tam Bảo, thì chúng ta khéo léo
hướng dẫn, khuyến khích cha mẹ đặt niềm tin ở
Tam Bảo, và tiến dần tới Tam quy y. Phép quy y cũng có sự quy y và
lý quy y. Làm lễ quy y Tam Bảo mới chỉ là sự quy y. Chúng ta còn phải
giảng giải cho cha mẹ rõ thế nào là Phật, Pháp, Tăng
và quy y Phật, Pháp, Tăng có lợi ích
như thế nào. Nếu cha mẹ có làm những
điều ác bất thiện nơi thân hay nơi lời nói như sát, đạo, dâm, nói dối, nói
chia rẽ, nói ác, nói lời vô nghĩa, thì chúng ta phải khuyên cha mẹ
bỏ ác làm lành, khuyến khích cha mẹ phóng sanh, thay vì sát sanh; bố thí
thay vì lấy của không cho; sống chánh hạnh thay vì tà hạnh; nói lời thật
thay vì nói dối; nói lời đoàn kết thay
vì nói chia rẽ; nói lời dịu hiền thay vì nói ác
độc; nói lời có ý nghĩa thay vì nói vô
nghĩa... Những lời dạy của đức Phật, mặc dù
nói ra cách đây hơn hai ngàn rưỡi năm,
nhưng vẫn mang tính thời sự nóng bỏng đối với xã hội chúng ta hiện
nay. Những lời nói đó xứng đáng là
khuôn vàng thước ngọc cho đời sống chúng ta,
cho mọi cung cách ứng xử của chúng ta trong gia đình cũng như ngoài
xã hội. Tất cả chúng ta hãy sống theo lời dạy của
đức Phật, tức khắc chúng ta sẽ được an lạc và
hạnh phúc. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ bất hạnh và
đau khổ.
Vì lợi lạc của mọi người, của số đông,
chúng ta hãy phổ biến rộng rãi những lời dạy vàng ngọc
đó của đức Phật. Mỗi chúng ta, chứ không gì
riêng Tăng sĩ, đều phải nói pháp, khéo nói
pháp, có như vậy bánh xe pháp mới thường chuyển, ngọn đèn pháp mới
ngày đêm sáng tỏ. Đức Phật đ Cho nên tất cả chúng ta phải học nói pháp, biết nói pháp, khéo nói
pháp. Đừng nên nghĩ rằng nói pháp phải
là đăng đàn thuyết pháp, nói hai ba
giờ liền và dẫn chứng nhiều kinh điển mới là
thuyết pháp. Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật đã
từng răn dạy rằng: "Nói trăm ngàn lời
cũng không bằng nói một lời làm cho tâm người nghe
được an tịnh".
Học pháp là học những lời đức Phật dạy để
biết rõ đâu là thiện,
đâu là bất thiện;
đâu là gốc rễ của thiện, của bất
thiện. Không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các
dục, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, không nói lời phù phiếm, không
tham, không sân, có chánh kiến là thiện. Ngược lại là bất thiện. Tham sân
si là gốc rễ của bất thiện. Ngược lại là thiện. Học rồi
đem sở học ấy áp dụng vào nếp sống
hàng ngày của chính mình và khuyến khích người khác áp dụng thì gọi là
hành pháp. Học pháp là hành pháp là nếp sống tu học song
đôi của người Phật tử. Nếp sống ấy vừa phù
hợp với đạo lý tu nhân tích đức của người
Việt Nam, vừa nói lên ý nghĩa đúng đắn
của một người Phật biết sống vì mình vì người.
Đó là cách báo hiếu báo ân tốt
đẹp nhất của mỗi người Phật tử chúng ta.
(Bài thuyết giảng Đại Lễ Vu
Lan PL 2540)
* * *
[17] CHỮ HIẾU TRONG KINH TẠNG PÀLI Đ Chúng ta làm sao quyên được những câu ca
dao mộc mạc nói lên công ơn trời biển của cha mẹ, khi các bà cụ nhẹ
nhàng âu yếm ru cháu ngủ: "Ru hời ru hỡi ru hơi, Hay: "Nhớ ơn chín chữ cù lao Hoặc: "Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi Và gần đây hơn, ta nhớ đến hình ảnh
của một thi sĩ đã diễn tả nỗi niềm mất
mẹ của một người con như đã mất cả một
bầu trời: " Năm xưa tôi còn nhỏ Và nói đến chuông chùa, tức là nhớ
đến lời Phật dạy, nhớ đến truyền thống báo
Hiếu mà giáo lý đức Phật đã gầy
dựng lên. Vì vậy, nhân ngày lễ Vu Lan, chúng tôi xin trích dịch một số lời
dạy của đức Phật về báo Hiếu, từ kinh tạng Pàli.
Chúng tôi cố ý hạn chế vào một số kinh điển
thật sự Nguyên thuỷ, cho đến các kinh
Jàtaka Pàli (Chuyện tiền thân đức
Phật) cũng để ra ngoài, vì muốn nói lên những gì trung thực nhất
của đức Phật về sự liên hệ giữa cha mẹ
và con cái, khỏi phải qua những phát triển tưởng tượng và tình cảm của các
học phái về sau. Chúng tôi cũng phải thú nhận rằng, chúng tôi chỉ có thể
trích dịch từ những kinh điển đã
được phiện dịch. Đây là một khuyết
điểm không thể tránh được khi kinh tạng Pàli
chưa được dịch xong, và chúng ta chủ
trương "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa".
Chúng ta được biết đức Phật là một
vị đã đạt
được Pháp nhãn, đã chứng ngộ
trí tuệ, nên cái nhìn của Ngài rất khác lạ
đối với hành động của con người và
sự liên hệ giữa người và người. Khi thấy Singàla (Thi-ca-la-việt) mỗi buổi
sáng, dậy sớm đảnh lễ sáu phương (Kinh Giáo
thọ Thi-ca-la-việt, Trường Bộ IV, 188B), đúng theo lời dặn của người cha
để lại, đức Phật thấy rõ sự vô ích của lễ nghi và Ngài
đã giải thích theo hướng chuyển thành
hành động đúng bổn phận của mình.
Phương Đông chỉ cho cha mẹ và con cái,
phương Nam chỉ cho sư trưởng, phương Tây chỉ cho vợ chồng, phương Bắc chỉ
cho bạn bè, phương Dưới chỉ cho kẻ phục vụ và phương Trên chỉ cho Sa môn,
Bà-la-môn. Và hành động ở đây có nghĩa là
bổn phận của người con đối với cha mẹ, và
cha mẹ đối con, chỉ cho phương Đông; bổn phận
thầy đối với trò, trò đối với thầy,
chỉ phương Nam, v.v...: Như vậy, người con có năm bổn phận đối với cha mẹ:
"Nuôi dưỡng cha mẹ (khi cha mẹ già yếu); làm
đủ bổn phận người con đối với cha mẹ; giữ gìn
gia đình với truyền thống, bảo vệ tài
sản kế thừa tự, và làm tang lễ khi cha mẹ qua
đời." Cha mẹ cũng có năm trách nhiệm với con cái: "Ngăn chặn con làm
điều ác; khuyến khích con làm việc
thiện; dạy con nghề nghiệp; cưới vợ xứng đáng
cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con". Đây rõ là một thông
điệp trách nhiệm hỗ tương không chỉ một
chiều. Con có năm bổn phận đối với cha mẹ, và cha mẹ cũng có năm
bổn phận đối với con. Và khi cha mẹ và con cái làm tròn bổn phận
của mình, thời phương Đông được an lành
hạnh phúc. Nói cho rõ hơn, vận may chỉ đến
gia đình nào, khi trong gia đình
ấy cha mẹ chọn tình đối với con cái, và
con cái trọn đạo đối với cha mẹ. Trong Kinh
Mangalasutta (Hạnh phúc Kinh), khi được một thiên nhân hỏi tại sao
được vận may (mangala), với hi vọng đức Phật
sẽ dạy cho một hình thức lễ nghi để
cầu may phước, đức Phật dạy cho ba mươi tám hành
động phải làm
để được may mắn và một trong hành
động ấy là phải phụng dưỡng mẹ cha: "Màtàpitu uptthànam... "Phụng dưỡng cha và mẹ... Hiếu không phải những gì nói suông bằng lỗ miệng, bằng những nghi lễ
cầu may cầu phước, Hiếu phải được cô đọng
bằng những việc làm cụ thể, và ở đây là
phải hầu hạ và phụng dưỡng mẹ cha. Hình ảnh sau đây gợi ý cho chúng ta thấy
công ơn trời biển của cha mẹ rộng như biển cả ngàn trùng, khi
đức Phật tuyên bố trong Kinh Tương Ưng
tập I, trang 208, rằng sữa mẹ nuôi con trải qua nhiều
đời nhiều kiếp, nhiều hơn bể cả:
"Các người nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo? Cái gì là nhiều hơn? Sữa mẹ
mà các ngươi đã uống, trong khi các
ngươi di chuyển luân hồi trong thời gian dài, hay là nước trong bốn biển?" "Bạch Thế Tôn, theo như lời Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng
cái này là nhiều hơn, tức là sữa mẹ chúng con
đã uống, trong khi chúng con lưu chuyển liên hồi trong một thời
gian dài, chớ không phải nước trong bốn biển". "Lành thay, lành thay này các Tỷ-kheo; lành thay này các Tỷ-kheo, các
ngươi đã hiểu như vậy, pháp do Ta
dạy". "Cái này là nhiều hơn, cái này các Tỷ-kheo, tức là sữa mẹ các ngươi
đã uống, trong khi các ngươi lưu
chuyển luân hồi trong thời gian dài, chớ không phải nước trong bốn biển". "Vì cớ sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo! Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo! Khởi điểm không thể nêu
rõ, đối với lưu chuyển luân hồi của các chúng
sinh, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, là vừa
đủ để các ngươi giải thoát, đối với tất cả
các hành". Trong Kinh Tăng Chi tập I, trang 74, cha
mẹ được ví như những ngọn lửa đáng cung kính, vì chính người cha
người mẹ đã
đem lại sự sống cho các người con, như ngọn
lửa đem lại nguồn nóng, sức sống cho loài người. "Thế nào là lửa đáng cung kính?"
"Ở đây, này Bà-la-môn, những người
mẹ những người cha của người ấy. Này Bà-la-môn,
đây gọi là lửa
đáng cung kính. Vì cớ sao?" "Từ đấy, này Bà-la-môn, khiến cho
mang lại, khiến cho sanh ra (ato yamàhùto sambhùto). Do vậy, lửa
đáng cung kính, được tôn trọng, được cúng
dường, đem lại chánh lạc".
Sữa mẹ dùng để nuôi con được xem là
nhiều hơn biển cả, cha mẹ lại được ví như
ngọn lửa đem lại nguồn sống cho con, thời công ơn của cha mẹ đối với con,
thật là vô cùng vô tận, và vì vậy, đức
Phật nói đến hai hạng người không thể trả ơn được, tức là mẹ và
cha, như được ghi trong Kinh Tăng Chi tập I
trang 75.
"Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn
được (suppatikàram). Thế nào là hai?
Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng
cha, làm như vậy suốt trăm năm cho đến trăm
tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, thoa gội, và dầu tại
đấy, họ có vãi tiểu tiện
đại tiện; như vậy, này các Tỷ-kheo,
cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và
cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc
độ với tối thượng uy lực, trên quả
đất lớn với bảy báu này; Như vậy, này
các Tỷ-kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ
và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ
đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng
(àpàdakà), nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào
đời này". Chính trong khi phụng dưỡng, nuôi nấng cha mẹ, chính người con lại
được hưởng những công đức tốt lành, do
lòng hiếu dưỡng đem lại. Trước hết, phụng
dưỡng cha mẹ, thời được cha mẹ thương tưởng, và như vậy gia
đình ấy sẽ
được lớn mạnh, không bị giảm thiểu, như đoạn
kinh sau đây nêu rõ (Tăng Chi tập 2B,
trang 106): "Ở đây, này
Mahànàma, vị thiện nam tử với những tài sản nỗ lực tinh tấn thu hoạch
đụơc, do sức mạnh của cánh tay gom góp lại,
phải trả bằng những giọt mồ hôi đổ ra, làm ra một cách hợp pháp,
cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng giường
cha mẹ. Cha mẹ được người ấy cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường với
thiện ý, khởi lên lòng thương mến. Và này Mahànamà, với một thiện
nam tử được cha mẹ thương tưởng, chờ đợi là
sự tăng trưởng không phải là sự giảm
thiểu". Như vậy, người con hiếu dưỡng cha mẹ
được hưởng rất nhiều hạnh phúc.
Trong Kinh Tương Ưng tập một, trang 225, Bà-la-môn Màtaposka
đến hỏi đức Phật:
"Thưa Tôn giả Gotama, tôi tìm món ăn thiết
thực theo thường pháp. Sau khi tìm món
ăn thiết thực theo thường pháp, tôi nuôi dưỡng mẹ cha. Thưa Tôn giả
Gotama, tôi làm như vậy, tôi có làm
đúng trách nhiệm không?".
"Này Bà-la-môn, người làm như vậy là có làm
đúng trách nhiệm: Này Bà-la-môn, ai
tìm món ăn, thiết thực theo thường pháp, lại
nuôi dưỡng mẹ cha, người ấy được nhiều công đức".
"Người này theo thường pháp, Khi Bà-la-môn Manatthaddba hỏi đức Phật nên
cung kính dường ai là tốt lành, đức Phật khuyên
(Tương Ưng tậpI, trang 221): "Với mẹ và với cha, Phụng dưỡng cha mẹ đúng Pháp, được hưởng
quả tốt lành như kệ số 404 sau đây
trong Kinh Suttanipàta đã nêu
rõ: "Dhanmena màtàpitaro bhareyya, "Thờ mẹ cha đúng pháp, Bước thêm một bước nữa, đức Phật trong
Kinh Tăng tập I, trang 147, dùng một hình ảnh táo bạo hơn nhưng rất
linh động và chính xác
để tán dương các gia đình có những
người có hiếu. Những gia đình ấy,
được xem ngang bằng với Phạm Thiên,
ngang bằng với các bậc Đạo sư thời xưa, gia đình
đó đáng được cúng dường, tôn trọng. Nói một
cách rõ rệt hơn, là gia đình
nào có con cháu biết hiếu dưỡng với cha mẹ, những gia
đình ấy là những gia
đình đáng
được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chấp tay, ngang bằng với
Phạm Thiên, là những chư Thiện cao nhất ở dục giới và sắc giới,
ngang bằng với các bậc Đạo sư thời xưa, là
những vị đáng được tôn trọng nhất từ xưa đến
nay.
"Những gia đình nào, này các
Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ (pùjittà) mẹ cha ở nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia
đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy
các con cái kính lễ cha mẹ ở trong nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận như các Đạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các
Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia
đình ấy
được chấp nhận là đáng được cúng dường
(sàhuneyyakàni). "Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với mẹ cha. Các Đạo sư ngày xưa, này các Tỷ-kheo, là các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì
cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các
Tỷ-kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi
chúng lớn, dưỡng dục chúng vào đời".
"Cha mẹ gọi Phạm Thiên,
Và chính Saka (Đế Thích), vị Thiên
chủ ở cõi Tam thập tam thiên cũng nhờ công ơn phụng dưỡng cha mẹ và sau
được sanh làm Thiên chủ (Sakka). Như
đoạn kinh sau đây diễn tả (Tương Ưng tập I,
trang 288):
"Này các Tỷ-kheo, thuở xưa khi Thiên chủ (Sakka) còn là người, vị này
chấp trì và thực hành bảy cấm giới. Nhờ chấp chỉ bảy cấm giới này. Vị ấy
được địa vị Sakka".
"Ai hiếu dưỡng cha mẹ, Khi đáng giá giá trị con người, đức Phật
không bao gìơ quên đề cập đến hiếu
thuận và Ngài đánh giá con người có
hiếu rất cao.
Trong khi đó có người xem:
"Giữa các loài hai chân, Thế Tôn xác nhận rất sai khác như sau: "Giữa các loài hai chân, Cha mẹ khi sinh con, tự nhiên muốn con phụ giúp cho mình
để xây dựng gia đình, và vì vậy người
con cần phải hiểu bổn phận của mình, đừng để
cho cha mẹ phải thất vọng. Bài kệ sau
đây, trong Kinh Tăng Chi tập 2B, trang 69, nói lên sự mong ước ấy
của cha mẹ, và lòng biết ơn, nhớ ơn của những người con có trí: "Do thấy năm sự việc,
Khi đã nói
đến nhớ ơn và trả ơn mẹ cha, chúng ta
sẽ thấy đức Phật nhấn mạnh đến và
đề cao đức tánh nhớ ơn và trả ơn một
cách rất đặc biệt như thế nào, trong
đoạn kinh sau đây sẽ nêu rõ (Tăng
Chi tập 2B, trang 210):
Các người Licchavi thưa với đức Phật có
năm châu báu khó tìm lại được ở đời là
voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu và cư sĩ báu,
đức Phật lại nói đến năm châu báu khác khó tìm
đuợc ở đời, vì là những châu báu có
thể đem lại sự giải thoát đau khổ cho chúng
sinh: "Sự hiện diện của Như Lai, bậc A-la-hán, chánh
đẳng giác khó tìm
được ở đời. Và hạng người có thuyết
giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố, khó tìm
được ở đời. Và người hiểu
được lời thuyết giảng về Pháp và Luật
do Như Lai tuyên bố, khó tìm đuợc ở đời. Và
người đem thực hành các Pháp và tùy
Pháp được hữu hiệu, từ lời thuyết giảng về
Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố, khó tìm
được ở đời. Và người biết ơn và nhớ ơn
khó tìm đuợc ở đời". Khi nói
đến biết ơn và nhớ ơn trước hết là nói
đến biết ơn và nhớ ơn cha mẹ. Nhưng dù đức Phật có khuyên các
người con nên phụng dưỡng cha mẹ, Ngài cũng
đề cao cảnh giác những người con vì muốn phục vụ cho cha mẹ mà làm
các ác hạnh vào thân, về lời nói, về ý nghĩ. Vấn đề ở đây, được đức Phật đặt ra rất
khác biệt. Phụng dưỡng cúng dường cha mẹ là
điều nên làm, nhưng vì muốn cha mẹ
sung sướng mà làm việc bất nhân, thời nhất
định đức Phật không thể nào chấp nhận. Trong kinh Dhànanjàni, Trung
Bộ Kinh tập II, trang188a; Ngài Sàriputta đã
khéo hỏi Dhànanjàni: "Này Dhànanjàni, nhà ngươi nghĩ thế nào? Một người vì
cha mẹ làm các điều phi pháp, làn các
điều bất chánh, hay một người vì cha
mẹ làm các điều đúng pháp làm các
điều chân chánh, ai tốt đẹp hơn?"
"Thưa Tôn giả Sàriputta, người vì cha mẹ làm các
điều phi pháp, làm các
điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp. Và
thưa Tôn giả Sàriputta, người vì cha mẹ làm các
điều đúng pháp, làm các
điều chân chánh, người ấy tốt đẹp hơn"...
Và ngài Sàriputta kết luận: "Này Dhànanjàni, có những hành
động khác, cá nhân, đúng pháp, với những hành
động này có thể phụng dưỡng cha mẹ,
không làm các điều ác, làm
được các thiện hành. Người
đã làm ác
để nuôi cha dưỡng mẹ, cũng không thể nào tránh khỏi quả báo của
những hành vi bất thiện của mình; và như vậy, không thể lấy lý do nuôi
dưỡng cha mẹ để tự cứu mình và
để bào chữa cho những hành
động bất chánh của mình." Như đoạn kinh sau sẽ nêu rõ: "Dhànanjàni, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ở
đây, có người vì cha mẹ làm điều phi
pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân
duyên làm các điều bất chánh, các quân
địa ngục quăng kéo nó vào địa ngục. Nó
có làm được gì khi nó nói: 'Tôi
vì cha mẹ làm các điều phi pháp, đã
làm các điều bất chánh, chớ có để các quân
địa ngục kéo tôi vào địa ngục'. Hay
cha mẹ có làm gì được khi nói: 'Con
chúng tôi đã vì cha mẹ làm các điều
phi pháp, đã làm các điều bất chánh.
Chớ để quân địa ngục kéo nó vào địa
ngục'?"
- "Thưa không được, Tôn giả Sàriputta.
Các quân địa ngục vẫn quăng nó xuống địa ngục
vẫn quăng xuống đại ngục, dù nó than khóc". Không những đức Phật khuyên các
người con không nên vì cha mẹ mà làm các điều
ác, vì làm như vậy chỉ đem tai hại cho
tự thân mà cón đem lại sự nguy hại cho
mẹ cha. Đức Phật còn khuyên các người con còn phải làm thế nào
để cha mẹ từ bỏ con đường bất thiện, dấn thân
vào con đường thiện. Trong Tăng Chi bộ
Kinh tập một, trang 75; khi đề cập đến các vị chân nhớ ơn và
đền ơn cha mẹ, đức Phật dạy rằng:
"Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng,
cúng dường cha mẹ với các của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ
đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai
đối với cha mẹ không có lòng tin,
khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới,
đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng
dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ
theo ác trí tuệ, khuyến khích hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Cho
đến như vậy, này các Tỷ-kheo là làm
đủ và trả ơn
đủ mẹ và cha". Nói cho rõ hơn, trả hiếu bằng cách cúng dường tài sản vật chất cho cha
mẹ chưa đủ để trả ơn, vì của cải tài
sản vật chất dù cho có dồi dào đi nữa, cũng
phải vô thường biến hoại...
Nói một cách khác, trong trách nhiệm của một giáo chủ,
đức Phật không bao giờ quên mục giải
thoát mọi khổ đau của con người; và vì
vậy muốn cho cha mẹ thật sự giải thoát, con cái cần phải gây dựng lòng tin
nơi cha mẹ, hướng dẫn cha mẹ bỏ các ác hạnh, làm các hạnh lành; từ bỏ xan
tham, thực hành bố thí; và nhất là từ bỏ vô minh, chứng
đạt trí tuệ. Chỉ có như vậy mới thiết thực
báo đáp công ơn cho họ.
Phân tích lời dạy trên của đức Phật, chúng
ta thấy khởi điểm là xây dựng lòng tin nơi cha mẹ nếu cha mẹ chưa
có lòng tin. Lòng tin ở đây là lòng
tin Chánh pháp, và Chánh pháp không có nghĩa là lời Phật dạy, mà Pháp còn
có nghĩa là chân thật, là quyết định tánh
hiền thiện. Pháp là những gì chân thật, không có hư vọng, không có
giả dối; Pháp là những gì hiền thiện tốt đẹp,
không phải độc ác bất thiện. Và xây dựng lòng tin cho cha mẹ là xây
dựng tánh chất chân thực, tánh chất hiền thiện nơi cha mẹ. Lời khuyên thứ hai là một thông điệp bỏ ác
làm lành. Nếu cha mẹ theo ác giới, tức là sống một nếp sống không
lành mạnh, nhiều bất thiện, thời khuyên cha mẹ làm các
điều thiện hạnh về thân, về lời, về ý nghĩ,
một đời sống trong sạch và hiền thiện. Lời khuyên thứ ba là một lời
khuyên nhân đạo, lợi tha, khuyên cha
mẹ, nghĩ đến sự đau khổ của người khác mà
bố thí, làm vơi nhẹ những khổ đau chung quanh
ý nghĩ đến tình nhên loại. Lời khuyên thứ tư không theo ác tuệ, là
một lời khuyên chánh kiến chân thật, xây dựng một các nhìn lành mạnh và
hướng thiện cho cuộc đời.
Và chúng ta cũng không lấy làm lạ, khi tội giết mẹ
được đức Phật liệt kê vào năm
tội ngũ nghịch, một tội mà phạm nhân không bao giờ thoát khỏi
địa ngục, như được trích trong Tăng Chi Bộ
Kinh tập 2b, trang 185:
"Có năm nghịch tội (parikuppa) này,
này các Tỷ-kheo, đưa đến đoạ xứ, đưa đến địa
ngục, không thể chữa trị. Thế nào là năm?
Đoạt mạng của mẹ, đoạt mạng của cha, đoạt mạng của vị A-la-hán, với ác tâm
làm Như Lai chảy máu và pháp hòa hợp Tăng".
"Này các Tỷ-kheo, năm pháp ngũ nghịch này
đưa đến đoạ xứ, đưa đến địa ngục, không thể
chữa trị".
Và vì vậy khi Vua Ajàtasattu (A-xà-thế)
đến yết kiến đức Phật và nghe pháp, như
đã được
ghi chép trong Kinh Sa môn quả, Trường Bộ Kinh. Vua đã chịu nhận
tội giết cha của mình và ăn năn hối tiếc:
"Bạch Thế Tôn, con đã phạm một
trọng tội vì ngu si, vi vô minh, vì bất thiện; con
đã hại mạng phụ vương con, một vị vua
chơn chánh đế đoạt vương quyền. Mong Thế Tôn
nhận cho con tội ấy là một tội để con
ngăn đón về tương lai".
Và đức Phật chấp nhận tội ấy cho vua:
"Này đại vương, thật là một trọng
tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, đại
vương đã hại mạng một vị vua chơn chánh,
để đoạt vương quyền. Vì
đại vương đã thấy tội ấy là một tội,
đã thú tội
đúng với Chánh pháp, Ta nhận tội ấy cho đại
vương. Đó là một sự tiến bộ. thưa đại
vương, trong luật pháp của bậc Thánh: Những ai thấy tội là tội, thú
tội đúng Chánh Pháp và ngăn
đón ở tương lai".
Và khi vua Ajàtasattu từ biệt và ra đi,
đức Phật đưa ra nhận xét như sau: "Này các Tỷ-kheo, tâm của vị vua
ấy rất ăn năn. Này các Tỷ-kheo, cái
tâm của vị vua ấy rất hối quá. Nếu vị vua rất chơn chánh, thì ngay trong
chỗ ngồi này, vua ấy đã chứng
được pháp nhãn, không trần cấu, không
ô uế". Trong những đoạn kinh trên, chúng
ta đã thấy rõ ngang qua lời dạy của
đức Phật, công ơn trời biển của cha mẹ như
thế nào, bổn phận đền ơn và trả
ơn của con cái phải như thế nào, và như vậy
đức Phật không bao giờ quên khuyên dạy các
đệ tử biết lòng nhớ ơn và trả ơn cha
mẹ. Tuy vậy, Ngài hiểu được tâm tánh của
chúng sinh một cách sâu sắc và xác thực, và vì vậy, chắc Ngài cũng
phải buồn lòng khi đưa ra nhận xét rằng
số chúng sinh không có hiếu với cha mẹ nhiều hơn là chúng sinh có hiếu với
cha mẹ, như đã
được ghi trong Tương Ưng Bộ kinh tập 5B,
trang 255 (bản ronéo):
... Rồi Thế Tôn lấy một ít đất trên
đầu móng tay và bảo các Tỷ-kheo: "Các
ngươi nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo? Cái nào là nhiều hơn, một ít
đất Ta lấy trên
đầu móng tay?"
-"Chúng con không thể ước tính được, so
sánh được có thể thành một phần nhỏ
được, nếu đem so sánh quả đất lớn, với một ít đất Thế Tôn lấy trên
đầu móng tay".
-"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ít hơn là chúng sinh có hiếu kính với mẹ.
Và nhiều hơn là chúng sinh không hiếu kính với mẹ... Cũng vậy ít hơn là
chúng sinh có hiếu kính với cha mẹ. Và nhiều hơn chúng sinh không hiếu
kính với cha... ". Và với nhận xét trên đây, khi đức Phật
thấy một người cha già bị các người con
đuổi ra khỏi nhà, không nuôi dưỡng, vì
cha già yếu vô dụng, đức Phật liền can thiệp
cà dạy cho người cha học thuộc lòng và
đọc lên bài sau đây (Tương Ưng Bộ Kinh
tập một, trang 218), khi quần chúng tụ họp tại thính đường và giữa
các người con đang ngồi họp:
"Khi chúng sinh, tôi sướng,
Người cha làm theo như lời Phật dạy và các người con khi nghe người cha
đọc lên bài kệ này, liền hối hận
ăn năn và
đem người cha về nuôi.
Hình ảnh người cha già bị các người con bất hiếu hất hủi vì lớn tuổi vô
dụng, là một cảnh giác nghiêm trọng mà đức
Phật đã kéo nhắn nhủ chúng ta, và nhất là mùa Vu Lan này, chúng ta
cũng nên tự kiểm điểm lấy mình, và xem
lại chúng ta đã và
đang đối xử với cha mẹ chúng ta như thế nào? * Chúng ta đã
được nghe một số lới Phật dạy nói về chữ
Hiếu, nói đến công ơn trời biển của cha mẹ, nói đến trách nhiệm của con
cháu đền ơn đáp nghĩa cha mẹ. Chúng ta đã
được hiểu rằng không phải lễ nghi là
chính yếu mà chính những hành động cụ thể,
nuôi dưỡng cha mẹ mới là quan trọng. Chúng ta cũng hiểu
được rằng, cách trả ơn tốt nhất là
hướng dẫn cha mẹ bước vào con đuờng chánh
thiện, bỏ ác giới, bỏ xan tham, theo đời sống đạo đức, thực hành bố
thí, bỏ con đường ô minh tối tăm, hướng đến
ánh sáng của trí tuệ quang vinh. Và ở nơi
đây, chúng ta càng thấy rõ vai trò
chánh pháp đã hướng dẫn chữ Hiếu
đạt đến những thiện quả tốt đẹp và thù
thắng. Nhưng rồi đức Phật cũng cảnh giác chúng ta
rằng, với sự nhận xét của Ngài, người không có hiếu với cha mẹ
nhiều hơn là người có hiếu với cha mẹ. Và hình ảnh của người cha già bị
con cháu ruồng bỏ vì già yếu vô dụng đuợc đức
Phật can thiệp, cũng là một cảnh giác não lòng cho chúng ta suy
nghĩ, và đánh giá lại niềm hiếu thảo của
chúng ta đối với cha mẹ, và xem có gì khiếm khuyết
để bổ túc cho đươc chu đáo tốt đẹp hơn. Nhất
là trong các mùa Vu Lan, chúng ta hãy thành tâm hướng niệm
đến công ơn của cha mẹ và thực hiện
ngay những gì chúng ta có thể làm được, để
cha mẹ hoan hỉ an lạc. Và đi xa hơn
nữa, hạnh phúc tốt đẹp nhất để dành cho cha mẹ như lời Phật dạy là
hướng dẫn cha mẹ vào con đường hành
thiện, bỏ ác làm lành, xây dựng lòng tin, theo Chánh pháp, và
đạt giải thoát sanh tử khổ đau.
Nhân dịp lễ Vu Lan năm nay, chúng tôi xin
cầu chúc toàn thể quý vị một mùa báo Hiếu viên mãn,
đầy đủ ý nghĩa cao quý tốt đẹp đúng như lời
Phật dạy. Xin kính chúc quý vị song thân người còn cũng như kẻ mất,
được thọ hưởng nhiều duyên lành, nhiều
phước đức thù thắng tốt
đẹp trong mùa Vu Lan này. * * * [18] CHỮ HIẾU TRONG KINH TẠNG HÁN VĂN
C
Tinh hoa và tinh thần cao đẹp ấy của người
dân Việt, không phải chính tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh
hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn
hóa từ ngàn xưa để lại, xứng hợp với
bản tánh, với phong tục của người Á Đông, của dân tộc Việt Nam; và
nhờ vậy mà truyền thống từ lâu đời này
qua đời khác vẫn được mật thiết duy trì
phát triển. Trong tất cả các ảnh hưởng, ảnh hưởng lớn nhất của
đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục được
truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ I,
được đi sâu vào tầng lớp quần chúng và
mãi được duy trì, qua các thời
đại; cho đến ngày nay vẫn
được đa số dân chúng tôn thờ quy ngưỡng.
Chúng ta hãy tìm ở đây quan điểm đạo
Phật đối với chữ Hiếu như thế nào, và những lời Phật dạy
đã có ảnh hưởng gì
đối với dân tộc Việt Nam.
Trước hết, đạo Phật nêu rõ công ơn
của cha mẹ đối với con cái, công ơn sâu dày
thâm trọng không thể nào tả xiết. Với lý tương quan tương duyên giữa mọi
sự vật trong vũ trụ, đức Phật đã trình
bày rõ ràng luật tương quan sinh tồn của con người; và người con
được sống ở đời được thành người tất
cả là nhờ công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha trải biết bao năm
tháng. Hãy thành kính đọc lên
những câu kinh thấm nhuần đạo Hiếu của người
con đã nhớ đến nỗi đau khổ của người
mẹ trong khi thai sản:
"Ở đời mẹ hiền chịu thai con
Và những người dân quê trong những phút chạnh lòng tưởng nhớ
đến cha mẹ, hát lên câu ca dao: "Công cha như núi Thái Sơn
Có lẽ, người dân quê mộc mạc ấy đã
được một vị Tổ sư nào xa xưa dạy cho
câu kinh này trong Tâm Địa Quán:
"Cha lành ơn cao như non Thái
Có người tự cho mình là văn minh dám nói
rằng: "Cha mẹ không có ân gì với con cả, chỉ muốn thoả mãn một chút
dục tình mà chẳng may sinh con, nay nuôi nấng, chịu khổ cực vì con là phải
lắm". Nhưng đã sanh ra làm con người,
ai lại khỏi có dục tình? Vì còn phải sống trong dục giới nên mới lập gia
đình, mới sanh con
đẻ cái, mới tác thành con người, nào
có gì là vượt khỏi địa giới con người đâu?
Nhưng cha mẹ một khi sanh con, không một cha mẹ nào lại không hy
sinh cho con, và vui lòng chịu cực khổ vì con. Nhưng cha mẹ chịu chết vì
con thì nhiều, những người con chịu chết vì cha mẹ hiếm lắm. Như vậy làm
sao dám tính toán so lường ân cao nghĩa trọng của mẹ cha? Hãy đọc hai đoạn kinh sau đây để thành
kính nghiêng mình trước hình ảnh hai bậc ân nhân cao trọng của những người
con biết vinh dự được làm người con: "Cha mẹ đối với con cái, ân đức cao nặng
sâu dày; ân đức sản sanh từ tâm bú
mớm, ân đức tắm giặt nuôi nấng trưởng thành, ân
đức cung cấp các món cần dùng, ân
đức chỉ dạy cách sống ở đời. Cha mẹ luôn luôn
muốn con rời khổ được vui, không bao giờ xao nhảng nhớ con thương con như
ảnh theo hình". (Kinh Bổn Sự) "Ân cha hiền lớn như núi cả, ân mẹ hiền to như bể rộng, không gì hơn
một niềm hiếu thuận, đem vật nhỏ mọn nuôi
dưỡng mẹ lành. Ở đời lấy gì làm
sáng, lấy gì làm tối? Mẹ hiền còn sống gọi là mặt trời sáng chói; mẹ hiền
mất rồi gọi là đêm tối u ám". (Kinh
Tâm Địa Quán)
Tình tương thân tương ái giữa cha mẹ và con cái ấy sở dĩ mặn nồng và
mãnh liệt, cũng nhờ đạo lý đồng thể Đại Bi
của đạo Phật khai sáng một phần nào. Người mẹ trong khi ôm ấp
đứa con, đã nhận chân
được máu thịt của con chính là máu
thịt của mình, thân xác của con chính là thân xác của mình. Vì vậy cho
nên, người mẹ là người đã khổ với nỗi
khổ của con, đã vui sướng với nỗi vui
sướng của người con. Lòng hy sinh không bờ bến bắt nguồn từ tâm
Đại Bi của các vị Bồ-tát đã ngụyên
trọn đời cứu độ cho chúng sinh, chung vui
chịu khổ với chúng sinh, thể nhập vào thân xác của từng chúng sinh,
để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh, và
đức Bồ-tát Quán Thế Âm, bà mẹ của
những bà mẹ, đã
được toàn thể chúng sinh tôn xưng là
bậc Từ Mẫu ngàn đời của những người con xoay
vần trong biển xanh từ đau khổ.
Người mẹ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là
người mẹ bất diệt trên lịch sử hùng cường của nòi giống Việt Nam. Trong
lúc nước nhà điêu linh, gia
đình tan nát, những bà mẹ không những
tự tay phải lo sự sống xa gia đình, xa
nhà, tản mát trên trận địa để chống giữ bờ cõi
nước nhà. Cứ mỗi tin một người con bỏ mình trong nạn chiến tranh cũng làm
trào động bể nước mắt đau khổ của bao bà
mẹ. Nếu "Nước mắt của chúng sinh tràn đầy bốn
bể đại dương" như lời Phật dạy, thời ba phần nước mắt ấy phải để dành
riêng cho tình thương của những bà mẹ lên chùa khẩn cầu chư Phật gia hộ
cho con mình được mọi điều an lành
trong khi xa vắng. Nhìn cử chỉ chí thành chí kính, nghe tiếng khẩn vái
thiết tha não ruột, lòng người con Phật sao khỏi cảm
động bồi hồi. Trong khi mình không
được ở bên con
để lo miếng cơm manh áo, để kết khuy nút cho
con, để kéo mền đắp cho con trong cơn mưa lạnh, để che chở cho con khỏi bị
các loại nạn nguy hiểm, những bà mẹ Việt Nam lên chùa khẩn cầu
đức Phật, bà mẹ của những bà mẹ, thành
kính gửi tình thương của chính tự lòng mình, nhờ chư Phật chuyển
đạt lòng thương ấy
đến bên người con, âu yếm che chở cho
con. Những lời khẩn cầu nồng nàn chí thiết của ngàn vạn bà mẹ Việt Nam
đã toả rộng làn sóng tình thương, lan
khắp hang cùng ngõ hẻm. Và những người con trong khi xa nhà, vắng bóng mẹ
hiền, cũng cảm thấy lòng mình được sởi ấm, lòng
thương mẹ, thương nước dạt dào thêm. Chúng ta có thể nói: "Chỉ có những bà
mẹ mới hiểu được tình thương của những
bà mẹ. Chỉ có các vị Bồ- tát mới hiểu được tình
thương của những bà mẹ Việt Nam ". Một lần nữa, chúng ta hãy thành kính nghe lời tán thánh của
đức Phật đối với những bà mẹ hiền: Quả đất ở đời gọi là nặng
Nếu bà mẹ là cả một tình thương bộc lộ mãnh liệt, say
đắm, thời người cha Việt Nam thương con lại
kín đáo, mạnh liệt, và sáng suốt hơn. Một người bạn
đã đến
nói với chúng tôi: "Mãi khi hơn hai mươi tuổi tôi mới biết cha tôi
thương tôi". Quen sống với đời sống bên
trong, và tự nhận thiên trách của mình khác hẳn với bà mẹ, người cha chú
trọng hơn nhiều đến sự giáo dục và tác
thành cho con, muốn con trở thành trở thành những người lý tưởng của mình,
nối nghiệp cho cả giòng giống tổ tiên của mình. Lòng thương can
đảm và bình tĩnh ấy khiến người con
nông nổi khó chịu thật, nhưng chính là cả một sức mạnh khiến các người con
sống đúng với tinh thần gia tộc, xứng đáng là
một người con lý tưởng cho gia đình,
cho nước nhà. Một người con đến xin phép cha
cho ra trận, người cha nói tự nhiên: "Ừ thôi con
đi, gắng sao cho xứng đáng nước non nhà".
Một tin đưa từ mặt trận về: "Người con đã
từ trần", người cha thốt lên một câu: "Chết vinh còn hơn sống nhục. Con
mình xử sự đúng với tinh thần của gia đình,
của Tổ Quốc là đủ". Rồi mặc cho vợ con khóc
lóc, người cha thản nhiên châm thuốc hút. Nói rằng người cha không
biết đau vì con là không hiểu một chút
nào tâm trạng của người cha, đã phải
nuốt giận chịu đắng, để đủ sáng suốt, đủ can
đảm mà nắm cương lãnh gia đình,
để đào tạo những người con lý tưởng
cho đất Việt. Người cha Việt Nam thản nhiên,
lãnh đạm, nhưng cương quyết ấy đã sống
đúng với tinh thần Á Đông, kín đáo, trọng lý
trí, trọng lý tưởng và quên mình nghĩ
đến gia tộc, nghĩ đến Tổ quốc, nghĩ đến nhân loại. Chính tình
thương sáng suốt và kín đáo ấy đã
được đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thân tượng
trưng một cách thiết thực và toàn cõi Á
Đông đều thành kính tôn xưng Ngài là
đấng Từ Phụ của muôn loài. Đối với t "Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn
cha mẹ Ta. Vậy nên, người muốn học đạo không
thể không tinh tấn hiếu thảo với cha mẹ". (Phân Biệt Kinh)
"Ta tự nhớ trong nhiều kiếp quá khứ, từ tâm hiếu thuận cúng dường cha
mẹ; do công đức như vậy, nên lên các
tầng trời thì làm vị Thánh vương" (Kinh Hiền Ngu). Công đức hiếu hạnh thật không thể nghĩ
lường và muốn thành tựu tư cách của con người trên
đường đời cũng như trên
đường đạo không thể không nghĩ đến hạnh báo
Hiếu.
"Điếu thiện tối cao không gì hơn
hiếu; điều ác, ác nhất không gì hơn
bất hiếu" (Kinh Nhẫn Nhục). "Làm con đối với cha mẹ đem lễ mọn cúng
dường thì được phước vô lượng, làm
chút điều bất thiện đối với cha mẹ thì
tội cũng vô lượng" (Kinh Tập Bảo Tạng). Công đức báo hiếu đã
được đức Phật luông luôn tán thán, và
đạo làm con không thể nào không nghĩ
đến sự hiếu dưỡng cha mẹ, nên cách báo
hiếu thiết thực chơn chánh, được đức Phật chỉ
dạy rất nhiều và rất tinh tường. Biết ân cha mẹ và muốn báo đáp ân đức cũng
chưa đủ. Hệ trọng là phải biết cách báo ân chân chánh, thiết thực
có lợi ích cho cha mẹ và cho tất cả mọi người. Thông thường ở ngoài
đời, phần nhiều lo phụng dưỡng cha mẹ khỏi
mọi điều thiếu thốn về vật chất, luôn luôn tôn trọng kính lễ cha mẹ và
xử sự thế nào cho cha mẹ khỏi phải phiền lòng. Ở nơi
đây, chúng ta để ra ngoài những người
con chỉ biết tự lo thân sung sướng mà hất hủi cha mẹ, chúng ta cũng
để ra ngoài những người con làm ô danh
gia tộc bằng những hành vi đê tiện xấu
xa, vì những người con này không còn đuợc gọi
là một người con nữa và không được gọi
là người dân Việt nữa - vì không một người Việt nào lại không có
Hiếu. Chúng ta lấy cách báo ân như vậy cũng tạm gọi là chân chánh; và ở
đời, sống cam tâm trong trong cuộc đời giả
tạm, đành chịu những nỗi đau khổ: Già,
Đau, Sống, Chết đoanh vậy, thì không
có gì quý bằng sự phụng dưỡng cha mẹ và sống cuộc
đời thanh bạch đạo đức làm hiển danh
cha mẹ. Và đức Phật cũng đã từng
khuyên những người con hãy: "Phụng sự cha mẹ không thiếu thốn, phàm làm
việc phải trình trước cha mẹ rõ... "(Kinh Trường A Hàm).
Nhưng mục đích đạo Phật là giải
thoát con người khỏi những nỗi đau khổ căn
bản của cuộc đời là Sanh, Lão, Bệnh, Tử; thời
đối với những người của con chí thành
chí hiếu, đức Phật dạy rằng bổn phận của
người con là phải làm thế nào cứu độ
cha mẹ thoát khỏi những nỗi khổ cội rễ của con người. Và chỉ có vậy
mới thiết thực báo ân cha mẹ. Kinh Hiếu Tử nói rằng: "Cúng dường cha mẹ không bì bằng khuyên cha mẹ làm việc lành bỏ việc
ác". Đức Phật lại dạy th "Làm con phụng dưỡng cha mẹ, dùng trăm vị
cam lộ dâng cúng cha mẹ, dùng thiên nhạc vi diệu làm vui lòng cha
mẹ, hai vai tự cõng cha mười mẹ đi cùng
khắp bốn biển, trọn đời đáp ân nuôi dưỡng cha
mẹ, như vậy chưa gọi là Hiếu, Cha mẹ ngu si không kính thờ Tam Bảo,
hung ngược dâm dật, nguy biện trái đạo...
người con phải hết sức cản ngăn, mới gọi là Hiếu" (Kinh Hiếu Tử). "Muốn báo ân cha mẹ, nên khuyên cha mẹ đối
với Phật, Pháp, Tăng, đối với các pháp nhân quả v.v..., cha mẹ chưa tin,
khuyên cha mẹ tin rồi, khiến lòng tin tăng
trưởng; cha mẹ không giữ tịnh giới, khuyên giữ tịnh giới, khuyên
làm việc huệ thí; khéo an trú để tự điều
phục. Như vậy, mới gọi là chân thực báo ân cha mẹ... (Cảnh Sách). Và đức Phật so sánh hai cách báo hiếu:
"Lấy món cam lồ phụng dưỡng cha mẹ là hiếu thế gian. Khuyên cha mẹ tu
tịnh giới là hiếu xuất thế gian. Hiếu thế gian thì cha mẹ chỉ hưởng phước
trong một đời, báo hiếu như vậy không lớn.
Hiếu xuất thế gian cha mẹ hưởng phước vô tận, vì cha mẹ
được sinh Tịnh độ phước thọ trải vô lượng
kiếp; như vậy mới là đại hiếu" (Long
Thư Tịnh Độ Văn).
Chúng ta thấy rằng, đức Phật trong khi dạy
những người con khuyên cha mẹ phụng thờ Tam Bảo không phải muốn cho
mọi người tôn thờ Ngài và đạo của Ngài
như nhiều người lầm tưởng; chính đức Phật chỉ
muốn khai sáng cho tất cả những bậc cha mẹ, noi theo đường chân chánh sáng
suốt, thiết thực dắt dẫn mọi người thoát khỏi những nỗi khổ mà
thôi. Khi những người con khuyên cha mẹ theo
đạo Phật, quy y Tam Bảo là chỉ muốn cha mẹ
được sống giác ngộ giải thoát. Sống giác ngộ
là nhận sự thật hiển nhiên của sự vật và sống
đúng với sự vật ấy, không còn mê mờ mù
quáng; sống giải thoát là sống vượt ra khỏi sự trói buộc của dục vọng của
sự vật, và được sống tự tại thanh tịnh. Chính
chỉ có vậy mới là chân thực báo ân cha mẹ, và chỉ có vậy mới là báo
ân chân chánh; ngoài ra đều chỉ là
những chữ Hiếu giả tạm. Đối với cha mẹ đ Đạo Phật với đạo lý Luân hồi tr Riêng đối với cha mẹ, người con cần phải
báo hiếu như trên, nhưng đối với tự
thân, người con cần phải xử sự thế nào
để đền đáp ân đức sanh thành của cha mẹ? Nhận hiểu
đúng với chân tinh thần đạo Phật, những người
con Phật sẽ tự thấy con đường tiến thân đúng với nghĩa báo hiếu nhất là
tự mình sống đúng với lời Phật dạy. Một người
con can tâm sống trong đêm tối của mê tín, mê muội, nghĩa là sống
trái với tinh thần giác ngộ, tức là khiến cho toàn thể chúng sinh trong
đấy có cha mẹ mình chịu ảnh hưởng ngu
muội của mình; như vậy tức là bất hiếu. Một người dục vọng sướng trong sự
dục lạc vật chất, tức là đem lửa dục vọng thiêu
đốt chúng sinh, trong ấy đau khổ nguy hại,
như vậy tức là bất hiếu. Một người con làm cho chúng sinh khác
đau khổ, trong đấy có cha mẹ mình, như
vậy là bất hiếu. Cử chỉ xứng hợp với tinh thần báo hiếu chân chính của
người Phật tử là sống đúng với lời Phật dạy và
làm mọi người sống đúng với lời Phật dạy.
Ở nơi đây, cần phải hiểu thêm rằng,
một người không phải là Phật tử mà mọi cử chỉ
đều đúng với tinh thần giác ngộ và giải thoát, thời người ấy thật
chính là một Phật tử chân chính và là một người con chí hiếu. Một người
Phật tử mà xử sự trái với tinh thần giác ngộ và giải thoát, thì người ấy
không phải là người Phật tử chân chính, và là một người con bất hiếu. Hiểu một cách rộng rãi và giải thoát hơn, Hiếu là gì? Nếu không phải là
những hạnh nghiệp diệt trừ những sự sai khác riêng biệt giữa Phật và chúng
sinh, giữa cha mẹ và con cái, để thể nhập vào
bản thể chung cùng rộng rãi của muôn sự muôn vật. Hiếu hạnh không còn là
những chướng ngại ngăn đón sự giải thoát cá
nhân hay toàn thể, không còn là những nguyên nhân ích kỷ nhỏ nhen
khiến cho mọi gia đình
đau khổ để gia đình mình
được sung sướng, cũng không còn là
những câu chấp lễ nghi phiền phức làm trở ngại những sự phát triển chân
chánh. Nghĩa chữ Hiếu ở nơi đây không còn
bó hẹp trong phạm vi gia đình, gia
tộc, xã hội mà mở rộng khắp muôn loài muôn vật trong
đại gia đình chúng sinh trong
đại gia đình Phật tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta l
Ngày còn làm Thái tử, nhận hiểu được con
người là phải bị sự đau khổ: Sống,
Đau, Già, Chết bức bách, doanh vây. Ngài nghĩ
đến Phụ vương Ngài, nghĩ
đến bà Ma-Gia mẹ Ngài cũng phải quay
cuồng hụp lặn trong biển đau khổ ấy. Ngài
hiểu rằng cha mẹ đau khổ là chúng sinh
đau khổ, chúng sinh đau khổ là cha mẹ
đau khổ. Lo riêng cứu
độ cho cha mẹ, thời sự cứu độ ấy không được
rốt ráo; lo riêng cứu độ cho chúng
sinh, thời không tròn đạo Hiếu.
Ngài lại hiểu thêm rằng nguyên nhân khổ
đau là do mê mờ ái dục. Vì mê mờ nên không nhận chân
được sự thật, vì ái dục nên say
đắm trong cảnh trần lao đau khổ. Chính lòng
thương chúng sinh, lòng hiếu cha mẹ thúc đẩy,
Ngài từ bỏ tất cả quốc thành thê tử để
tìm đạo giải thoát cho cha mẹ, cho
muôn loài. Cũng chính lòng thương lòng hiếu ấy là những sức mạnh
giúp Ngài trì chí chuyên tâm, tìm đạo, tu khổ
hạnh, tu thiền định và thành bậc Chánh giác. Thành
đạo, giác ngộ được sự thật, Ngài thực
hành ngay chí nguyện độ sanh kiền đi giáo hóa
cứu khổ cho tất cả chúng sinh, không thể kể xiết.
Rồi Ngài về thành Ca-tỳ-la-vệ, thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn, lên cung
trời Đao Lơi thuyết pháp cho bà Ma-Gia
nghe. Đến khi vua cha lâm bệnh sắp từ trần,
Ngài đến bên giường thuyết pháp
giảng dạy khiến cho vua Tịnh Phạn khỏi phải
đau khổ, buồn rầu, và thác sanh lên cõi Tịnh Cư Thiên. Khi
đưa đám vua cha đức Phật cũng một tay bưng
quan tài để làm gương cho cho
những người con bất hiếu ở đời, tự thân làm
lễ trà tỳ cho vua cha. Và cho đến khi nhập Niết-bàn, Ngài
chỉ một từ tâm vô lượng cứu độ cho toàn
thể chúng sinh không một phút giây dừng nghỉ. Cứ mỗi chúng sinh
được hóa độ, đức Phật lại được tán dương, quy
ngưỡng và vua Tịnh Phạn và bà Ma-Gia lại
được tôn kính, được danh tiếng thêm
lên. Nếu ngày nay hàng vạn hàng vạn ức Phật tử biết cung kính, biết
được tên họ của vua Tịnh Phạn và bà
Ma-Gia; hàng vạn ức chúng sinh được giác ngộ
giải thoát tất cả là nhờ công ơn báo hiếu vẹn toàn của
đức Phật, một người con chí hiếu, một bậc cha
mẹ đại từ, không thể nghĩ nghì, không thể ước-lường, không thể tán
dương cho hết lời được.
(1950) * * * [19] THỪA TỰ PHÁP M "Này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta,
đừng là những người thừa tự tài vật".
Ta có lòng thương tưởng các Thầy và Ta nghĩ: "Làm sao những
đệ tử của Ta là những người thừa tự
pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?". Và này các
Tỷ-kheo, nếu các ngài là những người thừa tự tài vật của Ta, không là
những người thừa tự pháp, thời không những các Thầy trở thành những người
mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là
những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp", mà
cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò
đều là những người thừa tự tài vật,
không phải là những người thừa tự pháp". Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy là những người thừa tự pháp của Ta, không
phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các Thầy trở thành
những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò là những người thừa tự pháp,
không phải là những người thừa tự tài vật", mà cả Ta cũng trở thành người
mà người ta nói: "Cả thày và trò đều là
những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật". Do vậy, "Này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta,
đừng là những người thừa tự tài vật". Đức Phật kể câu chuyện: - Có hai vị Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn, sau
khi Ngài dùng cơm đã xong, một
vị Tỷ-kheo nghĩ: "Này Thế Tôn ăn đã
xong và đây là
đồ ăn tàn thực của Thế Tôn
đáng lẽ được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn,
Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh hay bỏ trong chỗ nước
không có chúng sinh". Nhưng Thế Tôn có dạy "Này các Tỷ-kheo, hãy là
người thừa tự pháp của Ta, đừng là
người thừa tự tài vật". Sau khi suy nghĩ, vị ấy không
ăn đồ ăn này, trải qua ngày
đêm ấy,
đói lả và kiệt sức. Vị Tỷ-kheo thứ hai nghĩ: "Nay Thế Tôn ăn
xong và đây là
đồ ăn tàn thực của Thế Tôn
đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn,
Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh hay bỏ trong chỗ nước
không có chúng sinh. Vậy ta hãy ăn
loại đồ ăn này trừ bỏ đói lả và
kiệt sức". Do vậy, vị ấy ăn loại đồ ăn ấy.
Đức Phật dạy: "N Thế Tôn thuyết giảng xong và đi vào
tinh xá. Lúc ấy, Tôn giả Sàriputta liền gọi Tỷ-kheo và nói vị: "Này các Hiền
giả, như thế nào là vị Đạo sư sống viễn ly và
các đệ tử không tùy học viễn ly? Và
như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và
các đệ tử tùy học viễn ly?" Các
Tỷ-kheo mong được Tôn giả Sàriputta
thuyết giảng, Tôn giả thuyết giảng như sau: - Ở đây vị Đạo sư sống viễn ly và
các đệ tử không tùy học viễn ly nghĩa
là những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ
bỏ, những pháp ấy không được các đệ tử từ bỏ.
Vì những pháp ấy không được các đệ tử
từ bỏ, các vị ấy sống trong sự đầy đủ, liềng biếng, dẫn đầu về đoạ lạc, bỏ
rơi gánh nặng sống viễn ly.
Này chư Hiền, có ba trường hợp đáng bị quở
trách:
1) Vị Đạo sư sống viễn ly và các
đệ tử không tùy học viễn ly.
Đó l - Và như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và
các đệ tử tùy học viễn ly? Những pháp
nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, các vị ấy
không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng,
không dẫn đầu về đoạ lạc, không bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
Này các chư Hiền, có ba trường hợp đáng
được tán thán:
1) Vị Đạo sư sống viễn ly và các
đệ tử tùy học viễn ly.
Đó l Ở đây, này chư Hiền, tham là ác
pháp, sân cũng là ác pháp, có một con đường
Trung đạo diệt trừ tham sân, khiến tịnh nhãn sanh, trí sanh, hướng
đến tịch tịnh, thắng tri, giác ngộ, Niết-bàn.
Con đường Trung đạo ấy tức là chánh
tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định.
* * *
[20] ĐẠI KINH VÍ DỤ L
K
Đức Phật dạy có năm hạng người xuất gia sống Phạm hạnh c - Hạng thứ nhất khi xuất gia vị ấy được
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do được lợi dưỡng, tôn kín, danh vọng, vị
ấy hoan hỷ, tự mãn. Do được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng, vị ấy khen mình chê người: "Ta
được lợi dưỡng danh vọng như vậy, còn
các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít biết có
uy quyền". Vị ấy vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê
say tham đắm phóng dật. Do sống phóng dật, nên
vị ấy bị đau khổ. Ví như một người muốn được
lõi cây, cầu tìm cõi cây. Trong khi đi
tìm lõi cây đứng trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây,
bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một
người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết
cành lá. Và người này không đạt được mục đích
mà lõi cây có thể thành tựu." Vị Tỷ-kheo ấy
được gọi là vị nắm lấy cành lá của
Phạm hạnh. - Hạng thứ hai là hạng phát tâm xuất gia
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này khen mình chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng trở thành mê say, tham đắm,
phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới
đức. Do thành tựu giới
đức này, vị ấy khen mình chê người:
"Ta là người trì giới theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới theo ác
pháp". Do thành tựu giới đức này, vị
ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do
sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Ví như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi cây, trong khi đi tìm
lõi cây, trước một cây lớn đứng thẳng có lõi
cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ
ngoài, lấy chúng mang đi tưởng đó là
lõi cây, một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết
lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài,
không biết cành lá, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ
trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi,
tưởng đó là lõi cây. Và người này không
đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu." Cũng vậy, ở đây vị Tỷ-kheo do thành
tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê
say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật
vị ấy bị đau khổ. Vị Tỷ-kheo ấy là vị
đã nắm lấy vỏ ngoài của Phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy
đã dừng lại ở
đây.
- Hạng thứ ba là các vị xuất gia với mục
đích thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Vị ấy xuất gia như vậy,
không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình chê người. Vị này
không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say tham
đắm. Do sống không phóng dật, vị ấy thành
tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn.
Do thành tựu giới đức này, vị ấy không
khen mình chê người . Do thành tựu giới đức này,
vị ấy không trở thành mê say, tham đắm phóng
dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền
định. Do thành tựu Thiền
định này, vị ấy hoan hỷ tự mãn. Do
thành tựu thiền định này vị ấy khen
mình chê người: "Ta có Thiền định nhất tâm.
Các vị Tỷ-kheo khác không thiền định, tâm bị phân tán". Do thành
tựu Thiền định này vị ấy trở thành mê
say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật,
vị ấy bị đau khổ. Ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi
cây, trong khi đi tìm lõi cây, trước
một cây lớn, trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn đứng thẳng có lõi
cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng
mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một
người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết
cành lá. Người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt
lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là
lõi cây. Và người này không đạt được mục đích
mà lõi cây có thể thành tựu." Như vậy vị ấy
được gọi là vị Tỷ-kheo
đã nắm giữ vỏ trong của Phạm hạnh, và
do vậy vị ấy đã dừng lại ở
đây.
- Hạng thứ tư là hạng xuất gia với mục
đích thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Vị ấy xuất gia như vậy
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy
không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này mà hoan hỷ tự mãn. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này mà khen mình chê người. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này mà trở thành mê say tham
đắm phóng dật. Do sống không phóng dật vị ấy
thành tựu giới đức. Do thành
tựu giới đức vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn.
Vị ấy không vì thành tựu giới đức này
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do
sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền
định. Do vị ấy thành tựu Thiền
định nên hoan hỷ, nhưng không tự mãn.
Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này,
khen mình chê người. Vị ấy không vì thành tựu Thiền
định này trở thành mê say tham
đắm phóng dật. Do sống không phóng dật vị ấy
thành tựu tri kiến. Vị ấy vì tri kiến này trở nên hoan hỷ, tự mãn.
Vị ấy do tri kiến này, khen mình, chê người: "Ta sống, thấy và biết. Các
Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết". Vị ấy, do tri kiến này, trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
phóng dật vị ấy bị đau khổ. Ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang
đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật
sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong,
không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước
một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây,
người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây và mang
đi, tưởng đó là lõi cây. Và người ấy
không đạt được mục đích mà lõi cây có
thể thành tựu". Như vậy vị này được gọi là
Tỷ-kheo đã nắm giữ giác cây của Phạm
hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại ở
đây.
- Hạng thứ năm là hạng xuất gia với
lòng tin: "Ta bị chìm đắm trong vòng
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm
đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ.
Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như
vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy
không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị
ấy thành tựu giới đức. Do thành
tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn.
Vị ấy không vì thành tựu giới đức này
khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới
đức này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị
ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành
tựu Thiền định này, hoan hỷ nhưng
không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền
định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu Thiền
định này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị
ấy thành tựu tri kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê
người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị
ấy thành tựu phi thời giải thoát. Ví như một người muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và
biết đó là lõi cây. Một người có mắt
thấy như vậy, có thể nói: "Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ
trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn
được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong
khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt
lõi cây, mang đi và tự biết
đó là lõi cây. Và người ấy
đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thực hiện". Tâm giải thoát bất động chính là
mục đích của Phạm hạnh, là lõi cây, là
mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh. "Phi thời giải thoát" có nghĩa là giải thoát tuyệt
đối. Devadatta chỉ nghĩ đến danh vọng lợi
dưỡng nên muốn đức Phật nhường lại cho
địa vị lãnh đạo hội chúng Tỷ-kheo. Và
khi đức Phật từ chối, nên phá hòa hợp
Tăng, lôi kéo 500 vị Tỷ-kheo cùng
đi đến Gayàsesa với mình. Như vậy, Phạm hạnh này không phải vì lợi ích thành tựu lợi dưỡng, danh
vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới
đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền
định, không phải vì lợi ích thành tựu
tri kiến. Chính tâm giải thoát bất động này
là mục tiêu của Phạm hạnh. Đức Phật khuyên
các Tỷ-kheo không nên dừng lại ở các quả vị trung gian vì
đây chưa phải là mục
đích cứu cánh của Phạm hạnh.
(Trung Bộ I, số 29) * * *
Ðầu trang |
Mục lục | Phần I |
Phần II | Phần III | Phần IV | Phần V Chân thành cám ơn
Tỳ kheo Minh Tịnh đã hỗ trợ công tác vi tính
(Bình Anson, 04-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phật lịch 2546, TL. 2002
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài.
...
Trên thời hiếu báo sanh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sinh Ta bà".
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi".
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già".
Mẹ tôi đã qua
đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi.
Độ nhỏ tôi không tin
Người thân yêu sẽ mất
Hôm ấy tôi sững sờ
Và nghi ngờ trời đất.
Từ nay tôi hết thấy
Trên trán mẹ hôn con
Những khi con phải đòn
Đau lòng mẹ la lẫy.
Kia nhà ai sung sướng
Mẹ con vỗ về nhau
Tìm mẹ con không có
Khi buồn biết chốn đâu
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Là mất cả bầu trời".
Etammanagalamuttamam".
Là vận may tối thượng"
Nuôi dưỡng mẹ và cha,
Chính do công hạnh này,
Đối với cha và mẹ,
Nhờ vậy, bậc Hiền thánh,
Trong đời này tán thán,
Sau khi chết, được sanh
Hưởng an lạc chư Thiên".
Với anh tuổi nhiều hơn,
Với thầy là thứ tư,
Không nên sanh kiêu mạn,
Nên kính trọng vị ấy,
Nên tôn kính vị ấy,
Cúng dường chúng tốt lành".
Payojaye dhammikam so vanijjam
Etam gihì vattayam appamatto
Sayam pabhe nàma upeti dive".
Buôn bán đúng, thật thà,
Gia chủ không phóng dật,
Được sanh Tự Quang Thiên".
Bậc Đạo sư thời trước,
Xứng đáng được cúng dường,
Vì thương đến con cháu.
Do vậy bậc hiền trí,
Đảnh lễ và tôn trọng.
Dâng đồ ăn và uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp (cả thân mình).
Tắm rửa cả chân tay.
Với sở hành như vậy,
Đối với mẹ và cha,
Đời này người hiền khen,
Đời sau hưởng thiên lạc"
(Tăng Chi II A, trang 94)
.
Kính trọng bậc gia trưởng,
Nói những lời nhu hoà,
Từ bỏ lời hai lưỡi,
Chế ngự lòng xan tham,
Là con người chân thực,
Nhiếp phục được phẫn nộ,
Với con người như vậy,
Chư Thiên Tam thập tam,
Gọi là bậc chân thân"
Sát-ly là tối thắng;
Giữa các loài bốn chân,
Bò đực là tối thắng;
Trong các loài thê thíêp,
Quý nữ là tối thắng;
Trong các loài con trai,
Trưởng nam là tối thắng".
Chánh giác là tối thắng;
Giữa các loài bốn chân,
Thuần thục là tối thắng;
Trong các loài thê thiếp,
Nhu thuận là tối thắng;
Trong các loài con trai,
Hiếu thuận nam là tối thắng".
(Tương Ưng tập một, trang 8)
Bậc trí muốn con trai,
Được giúp, giúp ta lại,
Sẽ làm việc cho ta,
Sẽ duy trì lâu dài,
Truyền thống của gia đình.
Sẽ tiếp tục gìn giữ,
Gia sản được thừa hưởng.
Hay đối với hương linh,
Hiến dâng các vật cúng.
Do thấy sự việc ấy,
Bậc trí muốn con trai.
Bậc hiền thiện chân nhân,
Nhớ ơn biết trả ơn.
Nhớ đến việc làm xưa,
Chúng hiếu dưỡng cha mẹ,
Chúng làm mọi công việc,
Như trước làm cho chúng.
Thực hiện lời giảng dạy,
Đươc giúp, hiếu dưỡng lại.
Với truyền thống gia đình,
Duy trì được lâu dài
Đầy đủ tín và giới,
Con trai được tán thán".
Tôi muốn chúng sinh thành,
Cùng vợ chúng âm mưu,
Chống tôi và đuổi tôi,
Chẳng khác gì con chó,
Xua đuổi bầy heo lợn.
Ác độc và lỗ mãng.
Chúng gọi tôi: "Cha thân"
Chúng thật quỷ Dạ Xoa,
Đội lốt là con tôi
Và chúng đuổi tôi ra,
Khi tôi đến tuổi già,
Như ngựa già suy nhược.
Bị đuổi khỏi chuồng ăn.
Nay cha già bọn trẻ,
Phải xin ăn ở người .
Thà cho tôi cái gậy,
Hơn lũ con bất hiếu,
Với gậy chận bò dữ,
Chận được loài chó dữ.
Chỗ tối dò an toàn,
Chỗ sâu, tìm chân đứng,
Với sức mạnh chiếc gậy,
Vấp ngã đứng dậy được"
Mười tháng cưu mang luôn chịu khổ
Với năm dục lạc, tình không đắm
Tùy thời ăn uống cũng chung đồng
Ngày đêm canh cánh lòng thương
xót
Đi đứng nằm ngồi chịu khổ đau
Đến thời mãn nguyệt sanh con dại
Đau tợ dao gươm cắt ruột gan
Mê mẫn đông tây không phân biệt
Khắp thân đau đớn khó nhẫn kham... "
(Kinh Tâm Địa Quán)
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một thời thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con".
Mẹ hiền ân sâu như biển cả
Nếu ta ở đời trong một kiếp
Nói ân mẹ hiền không thể hết".
Mẹ hiền ơn nặng quá hơn nhiều
Tu-di người đời gọi là cao
Mẹ hiền ân cao quá hơn nhiều
Gió lốc ở đời gọi là mau
Nhất niệm mẹ hiền mau hơn nhiều"
(Kinh Tâm Địa Quán)
"Ở đời gọi là hiếu phải khuyên cha mẹ
bỏ ác làm lành".
"Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam Bảo; thời tuy có hiếu dưỡng
cha mẹ, cũng gọi là bất hiếu".
2) Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy các vị ấy không từ bỏ.
3) Các vị ấy sống đầy đủ, lười biếng, dẫn
đầu về đoạ lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.
2) Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy các vị từ bỏ.
3) Các vị ấy không sống trong sự đầy đủ,
không lười biếng, không dẫn đầu về đoạ lạc, không bỏ rơi gánh nặng sống
viễn ly.
last updated: 01-05-2003