BuddhaSasana Home Page Đạo đức Phật giáo và Hạnh
phúc con người
Hòa thượng Thích Minh Châu
Phần V [21] NĂM HẠ PHẦN
KIẾT SỬ HAY ĐẠI KINH MALUNKYAPUTTA
N
Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo có ai thọ trì năm
hạ phần kiết sử này thời Tôn giả Màlunkyaputta đáp là có thọ trì năm pháp
này nhưng bị ngoại đạo dùng ví dụ đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa,
không có tự thân, thời đâu có thân kiến; không biết đến các pháp, thời từ
đâu có thể khởi lên các nghi hoặc đối với các pháp; không có giới, thời từ
đâu có thể khởi lên giới cấm thủ trong các giới; không có dục vọng, thời
từ đâu nó có thể khởi lên tham dục trong các dục; nếu đứa con nít nằm ngửa
không có biết các loài hữu tình, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng sân? Đứng trước những lời chỉ trích như vậy, đức Phật dạy cách trả lời là
đứa con nít nằm ngửa, tuy không có thân kiến hiện hành, nhưng thật sự thân
kiến sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có nghi hoặc khởi lên, nhưng nghi
hoặc tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có giới, nhưng giới cấm
thủ tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có tham dục, nhưng tham
dục tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có các loài hữu tình,
nhưng sân tùy miên sống tiềm tàng trong nó.
Theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Thế
Tôn bắt đầu giảng về năm hạ phần kiết sử.
Trước hết là hạng vô văn phàm phu không
yết kiến các bậc Thánh và các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc
Thánh và các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Thánh và các bậc
Chân nhân, sống với thân bị thân kiến triền phược, bị thân kiến chi phối,
không như thật tuệ tri sự xuất ly ra khỏi thân kiến đã khởi lên. Do vậy
thân kiến của vị này kiên cố, không được nhiếp nhục, trở thành một hạ phần
kiết sử. Cũng vậy đối với nghi hoặc, đối với giới cấm thủ, đối với tham
dục, đối với sân, năm hạ phần kiết sử của vị này trở thành kiên cố, không
được nhiếp phục, trở thành hạ phần kiết sử. Trái lại đối với các bậc Đa văn Thánh đệ
tử, vị này đến yết kiến các bậc Thánh, các bậc Chân nhân, thuần phục pháp
các bậc Thánh, các bậc Chân nhân, tu tập pháp của bậc Thánh, của bậc Chân
nhân, không bị năm hạ phần kiết sử chi phối, không bị năm hạ phần kiết sử
triền phược. Vị này như thật tuệ tri sự xuất ly các hạ phần kiết sử khởi
lên. Nhờ vậy năm hạ phần kiết sử với các tùy miên được trừ.
Tiếp đến đức Phật giải thích con đường đưa
đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Con đường ấy cần phải thực hành mới
mong biết rõ, thấy rõ, và đoạn trừ đuợc năm hạ phần kiết sử. Như một cây
lớn đứng thẳng với lõi cây. Nếu người không đẽo vỏ trong, không đẽo giác
cây, vẫn có thể đẽo được lõi cây; sự tình như vậy không xảy ra. Cũng vậy
lộ trình nào, con đường nào đưa đến sự đoạn trừ năm phần hạ kiết sử, nếu
không thực hành con đường ấy, thời không có hy vọng được thấy rõ, được
hiểu rõ hay được đoạn diệt; sự tình như vậy không xảy ra. Và con đường
nào, lộ trình nào đưa đến đoạn trừ năm phần hạ kiết sử, nếu thực hành con
đường ấy, thời năm hạ phần kiết sử được biết rõ, được thấy rõ, hay được
đoạn diệt; sự tình như vậy có xảy ra. Rồi đức Phật dùng hai ví dụ để nêu rõ sự
cần thiết phải thực hành lộ trình ấy, con đường ấy. Ví như đối với một cây
lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy sau khi đẽo vỏ trong, sau khi đẽo
giác cây, sẽ đẽo được lõi cây; sự tình này xảy ra. Ví như sông Hằng nước
đầy tràn, con quạ có thể uống được. Rồi một người ốm yếu đi đến và nghĩ
như sau: "Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta đến
được bờ bên kia an toàn". Nhưng người ấy không thể lội cắt ngang sông
Hằng. Cũng vậy bất cứ ai, khi được nghe giảng pháp để đoạn trừ năm hạ phần
kiết sử, nếu tâm của vị ấy không phấn khởi, không tịnh tín, không có an
trú, không có hướng đến, thời vị ấy cần phải được xem giống như người ốm
yếu kia. Ví như sông Hằng, nước đầy tràn con quạ có thể uống được. Rồi một
người lực sĩ đi đến và quyết định với tay của mình, lội cắt ngang sông
Hằng và đến được bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy bất cứ ai, khi được
giảng pháp để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu tâm của vị ấy phấn khởi,
tịnh tín, an trú và hướng đến thời vị ấy được xem là giống như nhà lực sĩ
kia, có khả năng đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Rồi đức Phật trình bày lộ trình đưa đến
đoạn năm hạ phần kiết sử.
Ở đây, vị Tỷ-kheo do viễn ly các sanh y
(upadhi), do đoạn trừ các pháp bất thiện, do làm cho an tịnh thân thể ác
hạnh một cách toàn diện, vị này ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị này
chánh quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi
thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều
bất hạnh, như bịnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô
ngã...Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy (tức năm hạ phần kiết sử).
Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung vào bất tử giới
(amata dhàtu) và nghĩ rằng: "Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, đây là an
chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn diệt các lậu
hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc, thời do tham pháp
và hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa
sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ
trình, đây là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.
Cũng vậy vị Tỷ-kheo diệt tầm diệt tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai... chứng và trú Thiền thứ ba,... chứng và trú
Thiền thứ tư. Vượt lên mọi sắc tưởng, chứng và trú Không vô biên xứ, ...
chứng và trú Thức vô biên xứ, ... chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này chánh
quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi thức
pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất
hạnh, như bệnh chứng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị
này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới,
và nghĩ rằng: "Đây là tịnh tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả
hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn".
Nếu an trú vững chắc ở đây, vị ấy đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị
ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp và sự hỷ
pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh,
nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ trình, đây
là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.
Cuối cùng, Tôn giả A-nam hỏi đức Phật rằng
đây là con đường đưa đến sự đoạn trừ các năm hạ phần kiết sử, thời do hành
trì như thế nào mà một số Tỷ-kheo chứng tâm giải thoát, một số chứng tuệ
giải thoát. Thế Tôn trả lời là do sự khác về căn tính.
* * * [22] NĂM UẨN
TRONG KINH XÀ DỤ T
Như chúng ta đã biết, nói đến năm thủ uẩn
là nói đến con người của chúng ta, gồm có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn, thức uẩn, cũng có khi được phân tích thành sáu giới, tức là địa
giới, thủy giới, phong giới, không giới và thức giới. Dùng danh từ "thủ
uẩn" hàm nghĩa sự tập họp tác thành con người của chúng ta, và sự tập họp
chỉ có thể tác thành, nhờ sự nắm giữ, chấp thủ. Trong Kinh Xà Dụ, đức Phật đề cập đến sáu
kiến xứ, chớ không phải là năm. Chấp thủ năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Ngoài năm kiến xứ ấy, những ai
khởi lên tư kiến "Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ
sống, thường hằng, thường tại, sống như vậy mãi mãi không có biến hoại"
Đây là kiến xứ thứ sáu, lập thành sáu kiến xứ, xem như vầy: "Cái này là
của ta, cái này là ta, cái này tự ngã của ta". Đây là thái độ của các vô
văn phàm phù, không yết kiến các bậc Thánh, các bậc chân nhân, cho nên
chấp sáu kiến xứ này là tự ngã và do vậy, chịu đựng bao nhiêu phiền lao
nhiệt não. Trái lại, các hàng đa văn Thánh đệ tử, thường yết kiến các bậc
thánh, các bậc chân nhân, tu tập pháp các bậc Thánh, các bậc chân nhân,
không chấp thủ sáu kiến xứ này là tự ngã, và như vậy thoát ly các lo âu
phiền muộn. Đến đây, Thế Tôn trả lời các câu hỏi của vị Tỷ-kheo, hỏi rằng có thể có
cái không thực có ở ngoài có thể gây ra phiền mụôn. Thế Tôn đáp có. Nếu có
người suy nghĩ như sau: "Cái này chắc chắn đã là của tôi nay chắc chắn
không còn là của tôi nữa. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi chắc chắn tôi
không được cái ấy, Suy nghĩ như vậy, vị ấy sầu muộn, than vãn, đập ngực,
đi đến bất tỉnh. Như vậy có cái không thực có ở ngoài, có thể gây ra lo âu
phiền muộn". Vị Tỷ-kheo hỏi tiếp: "Có cái không thực có
ở ngoài mà không gây ra lo âu phiền muộn?" Thế Tôn đáp: "Có cái không thực
có ở ngoài mà không gây ra lo âu phiền muộn. Ở đây có người không suy nghĩ
như sau: 'Cái này chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của
tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy'.
Do không suy nghĩ như vậy, nên người ấy không sầu muộn than vãn, khóc lóc,
đập ngực đi đến bất tỉnh. Như vậy, có cái không thực có ở ngoài, mà không
gây ra lo âu phiền muộn". Vị Tỷ-kheo hỏi tiếp: "Có cái gì không thực
có ở trong, có thể gây ra lo âu phiền muộn?" Thế Tôn đáp: "Có thể có. Ở
đây, có người có tà kiến: 'Đây là thế giới, đây là tự ngã. Sau khi chết,
ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển'. Khi được
nghe Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn thuyết pháp để để bạt trừ tất cả kiến xứ,
cố chấp, thiên kiến, tùy miên, làm tịnh chỉ tất cả hành, từ bỏ các sanh y,
diệt trừ tham ái, đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn; thời người ấy suy
nghĩ: 'Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị hoại diệt, sẽ không tồn tại'".
Như vậy vị ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Như
vậy có cái không thật có ở trong, nhưng có thể gây ra lo âu phiền muộn.
Nếu người ấy không có tà kiến nghĩ rằng sau khi chết sẽ tồn tại, mãi mãi,
không biến hoại, thì dầu có nghe Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn có thuyết pháp
để bạt trừ khát ái, thời vị ấy không có nghĩ sau khi ta chết ta sẽ bị đoạn
diệt, sẽ bị hoại diệt. Do không suy nghĩ như vậy, nên vị ấy không sầu
muộn, than vãn, than khóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Như vậy là có cái
không thực có ở bên trong không gây nên sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập
ngực đi đến bất tỉnh..."
Như vậy, chúng ta có thể nói, nhờ không
rơi vào sáu kiến xứ, không chấp nhận các kiến xứ là của ta, là ta, tự ngã
của ta, nên chận đứng được các phiền lao nhiệt não, khiến chúng khôgn khởi
lên. Tiếp đến, đức Phật trình bày rất rõ ràng,
phàm sở hữu gì được nắm giữ, sở hữu ấy không thể thường còn, thường hằng
mãi mãi mà phải hoại diệt. Như vậy mọi tà kiến chấp sáu kiến xứ là của ta,
là ta, là tự ngã của ta, là nguồn gốc của mọi đau khổ, sầu muộn than vãn.
Tiếp đến, đức Phật xác nhận với các Tỷ-kheo, phàm có ngã luận thủ gì, nếu
chấp thủ ngã luận thủ ấy, thời khởi lên sầu bi khổ ưu não. Phàm y chỉ kiến
y gì, thời cũng khởi lên sầu bi khổ não. Hơn nữa, thật là ngu si ám độn,
khi đã thấy ngã và ngã sở thuộc đều không thể chấp nhận là thường còn,
thường hằng, mà còn chấp kiến xứ. "Đây là thế giới, đây là tự ngã. Sau khi
chết, ta sẽ sống thường hằng, thường tồn." Thật là tối thượng ngu si mới
chấp các kiến xứ tự ngã. Không những chấp sáu kiến xứ là ngu si và
là nguồn gốc phát sinh đau khổ vô lượng vô biên; và vì muốn cho chúng sinh
thoát khỏi mê hồn trận này, đức Phật dạy, cần phải chánh quán năm thủ uẩn
là vô thường, là khổ... cái này không phải của tôi, không phải là tôi,
không phải tự ngã của tôi. Và cuối cùng đức Phật trải rộng thuyết vô ngã
đối với toàn thể sự vật như sau: "này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào...
bất cứ cảm thọ nào... bất cứ tưởng nào... bất cứ hành nào... bất cứ thức
nào quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng,
xa hay gần, tất cả thức là: "Cái này không phải của ta, cái này không phải
là ta, cái này không phải tự ngã của ta". Đến đây, Thế Tôn khuyên các vị Tỷ-kheo: "Nên từ bỏ cái gì không phải
của ta, từ bỏ như vậy sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi.
Sắc không phải của các ngươi,... Thọ không phải của các ngươi,... Tưởng
không phải của các ngươi,... Hành không phải của các ngươi,... Thức không
phải của các ngươi. Hãy từ bỏ năm thù uẩn. Từ bỏ năm thù uẩn sẽ đưa lại
hạnh phúc cho các ngươi. Như trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu
lượm cỏ lá cành cây lại rồi đốt chúng. Làm như vậy, không phải thâu lượm
chúng ta và đốt chúng ta. Vì sao vậy? Vì chúng ta không phải tự ngã hay
không phải sở thuộc của ngã. Cũng vậy, cái gì không phải của các ngươi,
hãy từ bỏ chúng. Năm uẩn thủ không phải của các ngươi. Hãy từ bỏ chúng. Từ
bỏ chúng sẽ đem lại hạnh phúc an lạc cho các ngươi". Cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Và chính nhờ chánh quán như vậy, vị Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc,
nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với hành,
nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải
thoát. Trong sự giải thoát có trí khởi lên biết được đã giải thoát.
"Sanh đã tận. Phạm hành đã thành. Những gì
nên làm đã làm. Không còn trở lui tại đây với một đời sống khác". (Trung Bộ I, số 22) * * *
[23] KINH SÁU
SÁU Đ
Như thường lệ, đức Phật tổng thuyết phân
biệt 36 pháp cần phải được hiểu biết, tức là sáu nội xứ, sáu ngoại xứ, sáu
thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân và sáu ái thân cần phải được biết.
Rồi đức Phật biệt thuyết 36 pháp này là
gì: - 6 nội xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Như vậy có tất cả là 36 pháp, rồi đức Phật
giải thích 36 pháp ấy là vô ngã, không thể xem là tự ngã, vì 36 pháp này
có sanh, có diệt. Nếu nói 36 pháp này là tự ngã thời xác nhận tự ngã có
sanh có diệt là một điều không hợp lý. Và như vậy phải đi đến kết luận 36
pháp này là vô ngã. Tiếp đến, đức Phật trình bày con đường đưa đến sự tập
khởi của thân kiến (sakkàyaditti). Đối với ai quán 36 pháp này là của tôi,
là tôi, là tự ngã của tôi, thời như vậy là sự tập khởi của thân kiến. Trái
lại, những ai quán 36 pháp này không của tôi, không phải là tôi, không
phải tự ngã của tôi, thời như vậy là sự đoạn diệt của thân kiến.
Đến đây, đức Phật mới hướng dẫn con đường đưa đến giải thoát và giác
ngộ. Trước hết, đức Phật lấy ví dụ con mắt (nội
xứ) duyên với các sắc (ngoại xứ), khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba
pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc
thọ. Vị ấy do cảm giác lạc thọ, khởi lên hoan hỷ tán thán, lạc ấy xâm nhập
tâm và an trú. Do vậy tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm giác khổ
thọ, sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy
miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không như
thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất
ly khỏi cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Chính vì
do không đoạn tận tham tùy miên, đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy
miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ
bất lạc thọ. Không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể
ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy
ra. Tiến trình tương tự như vậy sẽ xảy ra đối với năm căn và năm trần còn
lại, tức là tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và các
pháp. Chính tại nơi đây, đức Phật chỉ rõ con
đường đưa đến đoạn tận khổ đau, được giải thoát và giác ngộ. Do duyên mắt,
do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do
duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc
lạc thọ, không hoan hỷ tán thán, không để lạc ấy xâm nhập tâm và an trú.
Do vậy tham tùy miên không có tùy tăng. Vị ấy cảm giác khổ thọ, không sầu
muộn, than van, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh. Sân tùy miên của vị
ấy không có tùy tăng. Vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, như thật biết sự
tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly ra khỏi cảm
thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không có tùy tăng. Chính do đoạn tận
tùy miên, chính do nhổ lên vô minh tùy miên, đoạn tận vô minh, làm cho
minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là chấm dứt khổ đau, sự kiện như
vậy có xảy ra. Tiến trình giải thoát như vậy cũng đến với các nội xứ và
ngoại xứ khác. Giảng đến đây, đức Phật mới trực tiếp
khuyên các vị Tỷ-kheo là những vị Thánh đệ tử, nhàm chán mắt, nhàm chán
sắc, nhàm chán nhãn thức, nhàm chán xúc, nhàm chán thọ, nhàm chán ái; cũng
vậy đối với năm nội xứ và ngoại xứ khác. Nhờ nhàm chán ái nên ly tham; nhờ
ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát vị ấy tụê tri: "Sanh đã tận.
Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái
này nữa". Như đã nói ở trên, kinh này kết thúc với
60 vị Tỷ-kheo chứng ngay quả A-la-hán. Một vài nhận xét:
Chúng ta nhận thấy từ trong bản kinh quý
giá này là trước tiên người Đa văn Thánh đệ tử phải nghe nhiều và hiểu
biết sự sanh khởi và sự đoạn diệt của các pháp, và các pháp đây liên hệ
đến thế giới con người và thế giới con người đang sống. Ở đây, đức Phật đã
khéo léo tán thán các pháp ấy trong 36 pháp được đề cập đến trong kinh
này. Và việc đầu tiên của vị Thánh đệ tử là phải quan sát 36 pháp ấy là vô
ngã. Quán các pháp là vô ngã mới thấy sự sanh khởi thân kiến
(sakkàyaditthi) là do chấp 36 pháp này là "Của tôi, là tôi, là tự ngã của
tôi". Và muốn tiến bước vào con đường tu hành đi đến giải thoát và giác
ngộ, đưa đến sự đoạn diệt thân kiến là phải quán 36 pháp này là "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã
của tôi". Chỉ có khi đoạn trừ được thân kiến rồi, người tu hành mới thật
sự tiến dần đến đích giác ngộ và giải thoát. Vị Tỷ-kheo thấy được 36 pháp là không phải
tự ngã, là vô ngã, nên sanh nhàm chán đối với 36 pháp; do nhàm chán nên ly
tham; do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, vị ấy tuệ tri được
rằng Ta đã giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". (Trung Bộ Kinh III, Kinh
số 148, tr, 522.) * * * [24] KINH TỔNG
THUYẾT VÀ BIỆT THUYẾT K
Lời tổng thuyết của đức Phật dạy trong
kinh này như sau: "Này cácTỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán
sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại trần không tán
loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy
rối (khủng bố: anupàdàya na parttas-seyya)? Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối
với ngoại trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội
trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không
bị chấp thủ quấy rối (khủng bố), thời sẽ không có tập khởi, sanh khởi của
khổ về sanh già bệnh chết trong tương lai". Lời tổng thuyết này được Tôn giả Mahà
Kaccàna phân tích như sau: "Sao gọi là thức đối với ngoại trần bị tán
loạn, bị tản rộng? Ở đây, khi vị Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức truy
cầu sắc tướng, bị trói buộc bởi vị của sắc tướng, bị cột chặt bởi vị của
sắc tướng, bị triền phược bởi kiết sử vị của sắc tướng, như vậy gọi là
thức đối với ngoại trần bị tán loạn, bị tản rộng. Cũng vậy đối với tai
nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý thức pháp.
"Sao gọi là thức đối với ngoại trần không
bị tán loạn, bị tản rộng? Ở đây khi vị Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức
không truy cầu sắc tướng, không bị trói buộc bởi vị của sắc tướng, không
bị cột chặt bởi vị của sắc tướng, không bị triền phược bởi kiết sử vị của
sắc tướng. Như vậy gọi là thức đối với ngoại trần, không bị tản rộng. Cũng
vậy đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc,
ý nhận thức pháp. "Thế nào là tâm trú trước nội trần? Ở đây
vị Tỷ-kheo ly dục ly bất thiện pháp, chứng và an trú sơ thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Thức vị ấy truy tìm hỷ lạc do ly
dục sanh, bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị cột chặt bởi vị hỷ
lạc do ly dục sanh, bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục sanh, như
vậy gọi là tâm trú trước nội trần. Lại nữa vị Tỷ-kheo đình chỉ tầm và tứ,
chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Thức của vị ấy truy tầm hỷ lạc do định sanh,
bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do định sanh, bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do định
sanh, bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh, như vậy gọi là tâm
trú trước nội trần. Lại nữa, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
và trú thiền thứ ba. Thức của vị ấy truy tầm xả và lạc, bị trói buộc bởi
vị xả và lạc, bị cột chặt bởi vị xả lạc, bị triền phược bởi kiết sử xả và
lạc, như vậy gọi là tâm trú trước nội trần. Lại nữa, vị Tỷ-kheo, xả lạc xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh. Thức của vị ấy truy tìm không khổ không
lạc, bị trói buộc bởi vị không khổ không lạc, bị triền phược bởi kiết sử
không khổ không lạc. Như vậy gọi là tâm trú trước nội trần. "Thế nào là tâm không trú trước nội trần?
Ở đây vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú sơ thiền, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Thức của vị ấy không truy
tìm hỷ lạc do ly dục sanh, không bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục
sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, không bị triền phược
bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục sanh, như vậy gọi là tâm không trú trước nội
trần. Lại nữa, vị Tỷ-kheo, đình chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.
Thức của vị ấy không truy tìm hỷ lạc do định sanh, không bị trói buộc bởi
vị hỷ lạc do định sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do định sanh,
không bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh, như vậy gọi là tâm
không trú trước nội trần. Lại nữa, vị Tỷ-kheo ly hỷ, trú xả, chánh niệm
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú thiền thứ ba. Thức của vị ấy không truy tìm xả và lạc, không
bị trói buộc bởi vị xả và lạc, không bị cột chặt bởi vị xả và lạc, không
bị triền phược bởi kiết sử xả và lạc, như vậy gọi là tâm không trú trước
nội trần. Lại nữa, vị Tỷ-kheo xả lạc và khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Thức
của vị ấy không truy tầm không khổ không lạc, không bị trói buộc bởi vị
không khổ không lạc, không bị cột chặt bởi vị không khổ không lạc, không
bị triền phược bởi kiết sử không khổ không lạc. Như vậy gọi là tâm không
trú trước nội trần. "Thế nào là bị chấp thủ quấy rối (khủng
bố)? Ở đây kể vô văn phàm phu, không yết kiến các bậc Thánh, các bậc chân
nhân, không thuần pháp các bậc Thánh, các bậc chân nhân, không tu học pháp
các bậc Thánh, các bậc chân nhân, thấy sắc như là tự ngã, hay là tự ngã
như là có sắc, thấy sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã như là trong sắc. Sắc
pháp của vị ấy biến hoại đổi khác. Với sự biến hoại đổi khác trong sắc
pháp ấy, thức của vị ấy bị tùy chuyển bởi sự biến hoại đổi khác trong sắc
pháp của vị ấy. Do thức bị tùy chuyển, nên các pháp quấy rối (khủng bố)
khởi lên, xâm nhập tâm và an trú. Vì tâm bị xâm nhập nên vị Tỷ-kheo sợ
hãi, bực phiền và đầy những khao khát, và vị Tỷ-kheo bị chấp thủ quấy rối
(khủng bố: anupàdà paritassanà). Cũng vậy đối với bốn thủ uẩn thọ, tưởng,
hành, thức. "Và thế nào là không bị chấp thủ quấy rối
(khủng bố)? Ở đây, vị đa văn thánh đệ tử yết kiến các bậc Thánh, các bậc
chân nhân, thuần thục pháp các bậc Thánh, các bậc chân nhân, không thấy
sắc như là tự ngã, không thấy tự ngã như là có sắc, không thấy sắc ở trong
tự ngã, không thấy tự ngã ở trong sắc. Sắc pháp của vị ấy bị biến hoại đổi
khác. Với sự biến hoại đổi khác trong sắc pháp, thức của vị ấy không tùy
chuyển bởi sự biến hoại đổi khác trong sắc pháp của vị ấy. Do thức không
bị tùy chuyển bởi sự biến hoại đổi khác trong sắc pháp, nên các pháp quấy
rối (khủng bố) không khởi lên, không xâm nhập tâm vào an trú. Vì tâm không
bị thâm nhập, nên vị Tỷ-kheo không sợ hãi, không bực phiền, không đầy
những khao khát. Và vị ấy không bị chấp thủ quấy rối (khủng bố). Như vậy
là không bị chấp thủ quấy rối (khủng bố). Cũng vậy đối với bốn thủ uẩn
thọ, tưởng, hành thức." Như đã được đề cập, kinh này trình bày một
phương pháp tu tập cho vị Tỷ-kheo đạt đến tiến trình giải thoát và giác
ngộ. Vị Tỷ-kheo trước hết đối với ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, không truy cầu sắc tướng, thanh tướng v.v... không bị luyến aí,
triền phược bởi vị của sắc tướng, thanh tướng v.v..., được tự tại, thoát
ly sự chi phối của ngoại trần. Đối với nội trần, ở đây chỉ cho các thiền
chi của bốn cảnh thiền, tức là hỷ lạc do ly dục sanh, hỷ lạc do định sanh,
xả và lạc xả, không khổ không lạc, vị Tỷ-kheo không bị đam mê bởi các
thiền chi này, mà vượt lên trên chúng để đạt các thiền chứng cao hơn, và
nhờ vậy vị Tỷ-kheo không có trú trước nội trần. Vị Tỷ-kheo tuệ quán năm
uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, và nhờ vậy khi năm uẩn này bị
biến hoại đổi khác, thức của vị Tỷ-kheo không bị tùy chuyển theo sự biến
hoại đổi khác này. Nhờ vậy, các pháp quấy rối (khủng bố) không khởi lên,
không thâm nhập tâm vào an trú. Do tâm không bị xâm nhập, nên vị Tỷ-kheo
không có sợ hãi, bực phiền, lòng đầy khao khát. Nhờ vậy vị Tỷ-kheo không
bị chấp thủ quấy rối và như vậy được giác ngộ, được giải thoát. Ở đây
chúng ta nhận thấy lý thuyết vô ngã quan trọng bực nào trong tiến trình
giác ngộ, được giải thoát. Vị Tỷ-kheo còn chấp ngã, xem năm thủ uẩn là của
Ta, là Ta, là tự ngã của Ta, thời khi năm uẩn chịu sự biến hoại và đổi
khác, thức của vị Tỷ-kheo tùy chuyển theo sự biến hoại đổi khác này. Do
vậy các pháp quấy rồi, khủng bố khởi lên, xâm nhập tâm vào an trú. Do tâm
bị xâm nhập, vị Tỷ-kheo sợ hãi, bực phiền, lòng đầy khao khát... Do vậy vị
Tỷ-kheo bị chấp thủ quấy rối, bị khủng bố, không được giác ngộ. Có một số
danh từ cần phải giải thích, như: anupàdàya paritassati - vị ấy bị
chấp thủ quấy rối hay khủng bố. Chữ paritassati dịch là khủng bố
có hơi nặng nên dùng chữ quấy rối cho nhẹ hơn, dẫu rằng chữ
khủng bố thường được kinh chữ Hán dùng. Ở đây, kinh chữ Hán tương
đương giải thích đoạn này có dùng một số danh từ sai khác nhưng nói chung
cũng tương đương với lời giải thích từ chữ chữ Pàli. Kinh Hán tạng tương
đương là "Kinh Phân biệt quán pháp", Trung A Hàm số 164, Đại I, 694b.
Kinh Hán tạng chép:
"Chư hiền, thế nào là Tỷ-kheo không thọ mà khủng bố? Chư hiền, Tỷ-kheo
không ly sắc nhiễm, không ly sắc dục, không ly sắc ái, không ly sắc khát.
Chư hiền, nếu có Tỷ-kheo không ly sắc nhiễm, không ly sắc dục, không ly
sắc ái, không ly sắc khát, vị ấy muốn được sắc, cầu sắc, trước sắc, trụ
sắc, sắc tức là ngã, sắc là sở hữu của ngã. Khi muốn được sắc, cầu sắc,
trú sắc, sắc tức là ngã, sắc là sở hữu của ngã, thời thức ôm ấp sắc. Khi
thức ôm ấp sắc, thời khi sắc ấy biến dị, thức chuyển theo sắc, thời nó
sanh khủng bố pháp và tâm trú trong ấy. Nhân vì tâm không biết, nên sanh
sợ hãi phiền lao, không thọ mà khủng bố".
Ở đây, kinh chữ Hán dịch "annupàdà aparitassanti" là "không thọ mà khủng
bố". Thình thoảng, chúng ta gặp một bài kinh,
tóm tắt một cách tuyệt diệu tiến trình giải thoát giác ngộ như bài kinh
này. Ở đây, chúng ta chứng kiến cách dùng văn khéo léo của đức Phật, đã
tóm thâu cả phương pháp tu hành đạt đến thánh quả, chỉ trong một số câu
ngắn gọn súc tích, được phân tích rạch ròi, không có kéo dài lê thê, không
có rườm rà với những điển tích khó hiểu. Lời dạy của Ngài bao giờ cũng
trong sáng gọn nhẹ, nhưng thiết thực và hướng thượng. (Trung Bộ III, số 138) * * *
[25] KINH BÁNH
MẬT B Kinh này có thể xem là gồm có ba lời tuyên
bố: Hai lời đầu là hai lời tuyên bố của Thế Tôn, nói lên quan điểm không
tranh chấp của đức Phật và phương pháp diệt tận các tranh chấp. Lời tuyên
bố thứ ba là của Tôn giả Mahà Kaccàna, giải thích rộng hơn và rõ hơn lời
tuyên bố thứ hai của Thế Tôn, và trình bày rõ tiến trình đoạn tận các
tranh chấp, các ác, bất thiện pháp.
1/ Câu trả lời thứ nhất: Khi được một
ngoại đạo tên là Dandapàni (gậy cầm tay) hỏi Sa môn Gotama có quan điểm
thế nào, giảng thuyết những gì. Thế Tôn trả lời một cách rõ ràng dứt
khoát: "Này Hiền giả, theo lời dạy
của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa
môn, Bà-la-môn, chư môn và loài người, không có tranh luận với ai ở đời".
Đây là một câu trả lời dứt khoát, lời dạy của Ngài không gây một tranh
chấp nào, cạnh tranh, đấu tranh nào. Rồi Ngài giải thích thêm hạng người
nào có thể thoát ly khỏi sự tranh chấp: Chính là những vị không bị các
tưởng chi phối, sống không bị các dục triền phược, với mọi nghi ngờ, hối
quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu. Chính do các tưởng
chi phối, các dục triền phược, các nghi ngờ do dự triển khai, các tà kiến
hữu và phi hữu ám ảnh, nên con người rơi vào các tranh chấp, đấu tranh,
cạnh tranh.
2/ Câu trả lời thứ hai: Thế Tôn dạy:
"Do bất cứ nhân duyên gì, một số lý
luận vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở nơi đây không có gì đáng tùy hỷ,
đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên,
mạn tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên,
hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên, sự đoạn tâm của chấp trượng, chấp
kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng
ngữ, chính ở nơi đây những ác bất thiện pháp này được tiêu diệt không có
dư tàn". Lời khuyên của đức Phật
rất rõ ràng: Chớ có hoan hỷ, chớ có đón mừng, chớ có chấp thủ, các hý luận
vọng tưởng ấy, thời thái độ như vậy sẽ giúp đoạn tận bảy tùy miên, giúp
đoạn tận mọi cạnh tranh, mọi chấp kiếm, chấp trượng, ly gián ngữ, các bất
thiện pháp không còn dư tàn. Tốt nhất là đừng cho khởi lên các hý luận
vọng tưởng; và nếu chúng có khởi lên thời đừng hoan hỷ, đón mừng, chấp thủ
chúng. Có vậy mới đoạn trừ mọi tranh chấp, chấp trượng, chấp kiếm, ly gián
ngữ, vọng ngữ, và mọi bất thiện pháp đều được đoạn trừ không có dư tàn. 3/ Lời tuyên bố thứ ba: Câu trả lời thứ
hai của Thế Tôn không có giải thích rõ ràng, khiến một số Tỷ-kheo không
hiểu rõ ý nghĩa, nên đồng thanh mời Tôn giả Kaccàna giải thích thêm cho
rõ. Ban đầu, Tôn giả Kaccàna từ chối; trước sự cầu thỉnh nhiệt tình, Tôn
giả Kaccàna mới chấp thuận và giải thích như sau: "Do nhân sáu căn xúc
chạm với sáu trần, sáu thức, khởi lên, sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
Dó duyên xúc nên cảm thọ, những gì có thọ thời có tưởng. Những gì có suy
tầm thì có hý luận. Do hý luận này làm nhân, một số hý luận vọng tưởng
hiện hành khởi lên cho một người, đối với sáu trần, do sáu căn nhận thức,
quá khứ, tương lai, hiện tại... Sự kiện này không xảy ra, khi nào không có
sáu căn, khi nào không có sáu trần, khi nào không có sáu thức thời không
có sự thi thiết của xúc. Khi nào không có sự thi thiết của xúc, thời sự
thi thiết của thọ không được hiển lộ. Khi nào không có sự thi thiết của
thọ, sự thi thiết của tưởng, sự thi thiết của suy tầm không được hiển lộ.
Khi nào không có sự thi thiết của suy tầm, thời sự thi thiết hiện hành một
số hý luận vọng tưởng không được hiển lộ. Như vậy toàn bộ các pháp hý luận
không được xuất hiện, không thể làm cho khởi lên đấu tranh, luận tranh,
chấp trượng, chấp kiếm, cuối cùng đoạn trừ tất cả bất thiện pháp, không có
dư tàn. Pháp môn này không những loại bỏ các tranh chấp, hý luận, lại còn
loại trừ 7 tùy miên, đoạn tận các ác, bất thiện pháp, giúp người hành giả
được giải thóat khỏi sanh, già, bệnh, chết một cách hoàn toàn. Sau khi nghe Tôn giả Mahà Kaccàna thuyết
giảng, các vị Tỷ-kheo liền đi đến yết kiến Thế Tôn và trình bày lời giải
thích của Tôn giả Mahà Kaccàna. Thế Tôn tán thán Tôn giả Mahà Kaccàna là
bậc Đại tuệ, là bậc Hiền trí. Ngài nói, nếu các Tỷ-kheo có hỏi Ngài, thời
Ngài cũng trả lời như Tôn giả Mahà Kaccàna đã trả lời. Tôn giả Ananda có mặt trong buổi họp này,
dùng ví dụ một người bị đói lả và mệt mỏi, tìm được một bánh mật và cứ mỗi
miếng vị ấy được nếm, vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Cũng vậy,
vị Tỷ-kheo có tri thức biệt tài, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa của pháp
môn này với trí tuệ, cứ mỗi phần vị ấy được thưởng thức sự hoan hỷ, được
thưởng thức sự thoải mái tâm trí. Tôn giả Ananda hỏi Thế Tôn nên đặt tên
kinh này là gì, Thế Tôn đáp nên đặt tên kinh này là bánh mật (mật hoàn) và
hãy như vậy mà thọ trì. Nếu bánh mật làm dịu được sự khao khát của
con người, thời những lời dạy của đức Bổn Sư làm dịu đi khát vọng của con
người, giải thoát con người khỏi các tùy miên, loại trừ các đấu tranh,
kháng tranh, đem lại sự hòa đồng, thông cảm cho tất cả mọi người .
(Trung Bộ I, số 18) * * *
[26] KINH ĐA
GIỚI
Đ
"Phàm những sợ hãi (behayàni) gì khởi lên,
chỉ khởi lên cho người ngu, không khởi lên cho người trí; phàm có những
thất vọng (upaddavà) gì khởi lên, thất vọng ấy khởi lên cho người ngu,
không khởi lên cho người trí; phàm có những hoạn nạn (upa-saggà) gì khởi
lên, những hoạn nạn ấy khởi lên cho người ngu, không khởi lên cho người
trí". Rồi đức Phật dùng ví dụ tia lửa từ ngôi
nhà bằng cây lau, ngôi nhà bằng cỏ, có thể lây lan thiêu cháy ngôi nhà có
lầu gác, được trét trong trét ngoài, được che chở khỏi gió, có chốt khóa
gài kỹ, có cửa sổ gài kỹ. Như vậy đức Phật đi đến kết luận:
"Kẻ ngu đầy những sợ hãi, kẻ trí không có
sợ hãi; kẻ ngu đầy những thất vọng, kẻ trí không có thất vọng; kẻ ngu đầy
những hoạn nạn, kẻ trí không có hoạn nạn. Không có sợ hãi cho người trí,
không có thất vọng cho người trí; không có hoạn nạn cho người trí".
Và đức Phật khuyên các Tỷ-kheo cần phải tu học để thành người có trí. Theo lời yêu cầu của Tôn giả Ananda, Thế
Tôn giải thích mức độ cần phải đạt được để trở thành người có trí:
"Cho đến khi vị Tỷ-kheo thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về
duyên khởi, thiện xảo về xứ và phi xứ, cho đến mức độ như vậy, này Ananda
là vừa đủ để nói với Tỷ-kheo là người Hiền trí biết suy tư tìm hiểu".
Rồi Thế Tôn giải thích thế nào là thiện
xảo về 18 giới: tức là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới,
thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới,
vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới,
pháp giới, ý thức giới. Hay thiện xảo về 6 giới: địa giới, thuỷ
giới, hoả giới, phong giới, không giới, thức giới.
Hay thiện xảo về 6 giới: lạc giới, khổ
giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới. Hay thiện về 6 giới: dục giới, ly dục
giới, sân giới, ly sân giới; hại giới, bất hại giới. Hay thiện xảo về 3 giới: dục giới, sắc
giới, vô sắc giới. Hay thiện xảo về 2 giới: hữu vi giới, vô
vi giới. Như thế nào là thiện xảo về xứ? Tức là
thiện xảo về 6 nội xứ, 6 ngoại xứ. Tức là mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và
hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Thế nào là vị Tỷ-kheo thiện xảo về duyên
khởi? Ở đây, vị Tỷ-kheo biết như sau: Nếu cái này có, cái kia có; do
cái này sanh cái kia sanh. Nếu cái này không có, cái kia không có; do cái
này diệt, cái kia diệt. Tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức,
thức duyên sanh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc
duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, do
duyên sanh, lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập
khởi của toàn bộ khởi uẩn này. Nhưng do diệt trừ, sự ly tham hoàn toàn của
chính vô minh này, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt, do thức
diệt nên danh sắc diệt, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, do sáu nhập
diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do
ái diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên sanh diệt, do sanh diệt nên già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt hoàn toàn Khổ
uẩn này. Cho đến như vậy là vừa đủ để nói vị Tỷ-kheo thiện xảo về duyên
khởi. Và như thế nào để nói vị Tỷ-kheo thiện xảo
về xứ và phi xứ? Xứ có nghĩa là những sự kiện không thể xảy ra. Trước hết
là trường hợp người có Chánh kiến không đi đến các hành (sankhara) và xem
các hành là thường còn; không có thể đi đến các pháp với ý niệm tự ngã.
Trái lại người phàm phu có thể đi đến các hành với ý niệm thường còn; đi
đến các hành với ý niệm lạc trú, đi đến các pháp với các ý niệm lạc trú,
đi đến các pháp với ý niệm tự ngã. Sự kiện không thể xảy ra là người thành
tựu chánh kiến có thể giết sinh mạng người mẹ, có thể giết sinh mạng của
người cha, có thể giết sinh mạng vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy
máu, có thể phá hòa hợp Tăng, có thể đề cao một Đạo sư khác. Trái lại
người phàm phu có thể giết mẹ, có thể giết cha, có thể giết vị A-la-hán,
có thể vì ác tâm làm thân Như Lai chảy máu, có thể phá hòa hợp Tăng có thể
đề cao một vị Đạo sư khác.
"Vị ấy biết rõ rằng trong một thế giới
(Lokadhàtu), hai vị A-la-hán Chánh đẳng Giác có thể xuất hiện một lần; sự
kiện như vậy không thể xảy ra. Sự kiện này có xảy ra trong một thế giới:
một vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác có thể xuất hiện một lần; sự kiện như vậy
có thể xảy ra.
Vị ấy biết rõ sự kiện này không xảy ra:
cùng trong một thế giới, hai vua Chuyển Luân Thánh Vương có thể xuất hiện
một lần, không trước không sau; sự kiện như vậy không xảy ra. Và vị ấy
biết rõ rằng sự kiện này có xảy ra trong một thế giới: một vị Chuyển Luân
Thánh Vương có thể xuất hiện, sự kiện như vậy có xảy ra. Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này không có
xảy ra: một nữ nhân có thể thành một vị A-la-hán Chánh đẳng Giác; sự kiện
như vậy không có xảy ra. Và vị ấy biết rõ rằng sự kiện này có thể xảy ra:
một nam nhân có thể thành một vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác; sự kiện như vậy
có thể xảy ra. Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này không xảy ra: một nữ nhân có
thể trở thành một vị Sakka (Đế Thích); sự kiện như vậy không có xảy ra. Và
vị ấy biết rõ rằng sự kiện này có thể xảy ra: một nam nhân trở thành một
vị Sakka (Đế Thích); sự kiện như vậy có thể xảy ra. Vị ấy biết rõ rằng sự
kiện này không có xảy ra: một nữ nhân có thể trở thành Ma vương; sự kiện
như vậy không có xảy ra. Và vị ấy biết rõ sự kiện nầy có thể xảy ra: một
nam nhân trở thành Ma vương; sự kiện như vậy có xảy ra. Vị ấy biết rõ rằng
sự kiện này không có xảy ra: một nữ nhân có thể trở thành Phạm thiên; sự
kiện như vậy không có xảy ra. Và vị ấy biết rõ rằng sự kiện này có thể xảy
ra: một nam nhân có thể trở thành Phạm thiên; sự kiện như vậy có xảy ra.
Vị này biết rõ rằng sự kiện này không xảy
ra: một thân ác hành có thể sanh ra quả báo khả ái, khả hỷ, khả lạc; sự
kiện này không xảy ra. Và vị ấy biết rõ rằng sự kiện này xảy ra: một thân
ác hành có thể ra quả báo không khả ái, không khả hỷ, không khả lạc; sự
kiện như vậy có xảy ra. (tương tự cho khẩu ác hành và ý ác hành).
Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này không xảy
ra, không có hiện hữu: một thân thiện hành có thể sanh ra quả báo không
khả ái, không khả hỷ; sự kiện như vậy không có xảy ra. Và vị ấy biết rõ
rằng sự kiện này có xảy ra: một thân thiện hành có thể sanh ra quả báo khả
ái, khả hỷ; sự kiện như vậy có xảy ra
(tương tự cho khẩu ác hành và ý ác hành).
Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này không có
xảy ra: một người hành trì thân ác hành, do nhân thân ác hành ấy, sau khi
thân hoại mạng chung có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này;
sự kiện như vậy không có xảy ra. Và vị ấy biết rõ rằng sự kiện này có xảy
ra: một người hành trì thân ác hành, do nhân thân ác hành ấy, sau khi thân
hoại mạng chung có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục; sự kiện
này có xảy ra (tương tự cho khẩu ác hành và ý ác hành). Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này không có
xảy ra: một người hành trì thân thiện hành, do thân thiện hành ấy, có thể
sanh vào cõi dữ, ác thú. đoạ xứ, địa ngục; sự kiện như vậy không có xảy
ra. Và vị ấy biết sự kiện này có xảy ra: một người hành trì thiện hành, do
nhân thân thiện hành ấy, có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời
này; sự kiện như vậy có xảy ra (tương tự cho khẩu ác hành và ý ác hành).
Cho đến mức độ như vậy là vừa đủ để nói:
"Vị Tỷ-kheo thiện xảo về xứ, phi xứ".
Khi được nghe Thế Tôn giảng như vậy, Tôn
giả Ananda nói lên lời tán thán hy hữu và hỏi pháp môn này có tên gì. Thế
Tôn dạy hãy thọ trì pháp môn này là Đa giới, hãy thọ trì là Bốn chuyển
(Catuparivatto), hãy thọ trì là Trống bất tử. (Kinh Trung Bộ III, số
115) * * *
[27] KINH VÍ DỤ
TẤM VẢI
V * (1) Trước hết, đức Phật trình bày giáo lý
nhân quả được cụ thể hóa bằng ví dụ tấm vải. Ngài dạy: "Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải cấu uế,
nhiễm bụi, một người thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay
thuốc nhuộm khác, vải ấy sẽ được màu nhuộm không tốt đẹp, sẽ được màu
nhuộm không sạch sẽ. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm vải không được
sạch sẽ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Này các
Tỷ-kheo, như một tấm vải thanh tịnh, trong sạch, một thợ nhuộm nhúng tấm
vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác, vải ấy sẽ được màu nhuộm
tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm tốt đẹp. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm
vải được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cõi thiện chờ đợi một tâm
không cấu uế". Tâm Không cấu uế sẽ đưa đến kết quả được
sanh vào cõi thiện, còn tâm cấu uế sẽ đưa đến kết quả sanh vào cõi ác;
cũng như tấm vải dơ hay sạch tất sẽ đưa đến kết quả màu nhuộm của nó xấu
hay đẹp của chính nó, cho dù được nhuộm với màu với màu nhuộm gì. Thực tế
là như vậy, bởi vì giá trị tấm vải trước hết phải là chất lượng, chứ không
phải màu nhuộm. Ở đây chịu trách nhiệm tạo ra mọi hạnh phúc hay khổ đau
của chính chúng ta trong đời này và đời sau. Khi chúng ta hành động cho dù
bất cứ công việc gì thì công việc ấy vẫn chưa xác định là thiện hay ác,
nếu chưa có sự tác ý của tâm. Mọi hình thức công việc trong đời này chỉ là
"màu nhuộm" mà thôi. Màu nhuộm ấy luôn luôn có giá trị tùy thuộc vào "tấm
vải" tâm của chúng ta. Mối tương quan này là nghiệp nhân; và nghiệp quả là
cõi thiện, cõi ác. Với ví dụ tấm vải, chúng ta dễ dàng soi rọi vào tâm của
chúng ta, dễ dàng thấy được quy luật nhân quả vận hành như thế nào để có
chánh kiến cho đường hướng tu tập của mình. (2) Kế tiếp, đức Phật đi sâu vào phân tích
các trạng thái cấu uế của tâm; và khi biết được chúng là cấu uế của tâm
thì cấu uế ấy được đoạn trừ. Chẳng hạn, khi biết được tham dục là cấu uế
của tâm đưa đến cõi ác trong tương lai thì tham dục ấy được đoạn trừ. Như
một người biết một món ăn được nấu bằng những chất liệu có nhiều độc tố
gây bệnh nguy hiểm và ảnh hưởng đến tính mạng trong tương lai, người ấy sẽ
từ bỏ, không ăn món ăn đó.
Bằng kinh nghiệm chúng ngộ, đức Phật phân
tích cấu uế của tâm gồm có mười sáu pháp, tức là dục tham, sân, phẫn, hận,
hư ngụy, não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp
tháo, mạn, quá mạn, kiêu, phóng dật
(abhijjha-visama-lobha, byapada, kodha,
upanaha, makkha, palasa, issa, macchariya, maya, satheyya, thambha,
sarambha, mana, atimana, mada, pamada).
Mười sáu pháp này là mười sáu pháp tu
quán, nhìn thẳng vào tâm của mình. Khi biết loại cấu uế nào khởi lên trong
tâm, thấy sự nguy hiểm của cấu uế này và quán sát như vậy nhiều lần, chúng
ta có thể đoạn trừ được nó.
(3) Khi biết và đoạn trừ được cấu uế của
tâm, vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với đức Phật: "Ngài là bậc Thế
Tôn A-la-hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy thành
tựu lòng tin tuyệt đối với Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng,
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người có trí chứng hiểu". Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối
đối với Tăng: "Diệu hạnh là chúng Tăng đệ tử Thế Tôn, trực hạnh là chúng
Tăng đệ tử Thế Tôn, như lý hạnh là chúng Tăng đệ tử Thế Tôn, Chánh hạnh là
chúng Tăng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng đệ tử của Thế
Tôn đáng được cung kính, tôn trọng cúng dường, đáng được chấp tay, là
phước điền vô thượng ở đời".
Ba ngôi báu là chuẩn mực lý tưởng cho đời
sống tâm linh của người đệ tử Phật. Lòng tin Tam bảo ở đây là lòng tin ở
mức độ cao, với cấu uế đã được đoạn trừ, nên đức Phật gọi là "Thành tựu
lòng tin tuyệt đối" đối với Tam bảo. Đây là sự thành tựu của hành giả trên
đạo lộ tu tập đoạn trừ các tâm cấu uế.
(4) Đến giai đoạn này, vị ấy đã đạt đến sự
giải thoát, sự xả ly. Vị ấy tự nghĩ: "Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối với
Phật, Pháp. Tăng" và chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, chứng được
hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan, hỉ sanh; từ hỉ, thân được khinh
an; từ thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền
định. Chỉ với lòng tịnh tín bất động đối với Tam bảo, vị ấy cũng có thể
đạt được giải thoát.
Vị Tỷ-kheo thành tựu giới như vậy (đoạn
trừ cấu uế), pháp như vậy (thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Tam bảo),
tuệ như vậy (sự giải thoát, sự xả ly), nếu có ăn đồ ăn khất thực với gạo
thơm, hạt đen được vất đi, với các món ăn khác cũng không vì vậy trở thành
một chướng ngại cho vị ấy, Như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, được bỏ vào
trong nước sạch trở thành thanh tịnh sạch sẽ, như vàng bỏ vào lò lửa trở
thành thanh tịnh sạch sẽ. Vị hành giả đến đây đã được đạt tâm tự
tại. Dù vị ấy có thọ dụng các vật dụng thế gian, hay hành động với hình
thức nào thì những hình thức đó đều biểu lộ sự vô hại, không trở thành
chướng ngại cho vị ấy, vì vị ấy không còn tham đắm, tâm không bị chi phối
bởi các vật dụng. Lúc này vị ấy sống nương tựa vào pháp, an trú vào pháp;
và chính pháp đã khiến cho vị này trở thành thanh tịnh sạch sẽ hơn; như
nước trong sạch làm cho tấm vải sạch sẽ hơn, lửa làm cho vàng tinh khiết
hơn. (5) Qua quá trình tu tập như vậy, vị hành
giả đạt được sự thanh tịnh tự thân; và tâm không còn bị dao động. Khi đạt
được như vậy, đức Phật hướng dẫn cho hành giả tu tập bước tiếp theo, đó là
tu tập bốn vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả. Ngài dạy: "Vị ấy an trú, biến mãn
một phương với tâm cùng khởi với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên
dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú
biến mãn với tâm cùng khởi với từ, quảng đại vô biên, không hận, không
sân. Vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm cùng khởi với bi... , hỉ...
, xả... quảng đại vô biên, không hận, không sân". Trong giai đoạn này, vị hành giả phát khởi
tâm rộng lớn hơn. Tâm từ, bi, hỉ, xả được mở ra không có giới hạnh trong
bất cứ đối tượng nào, phương xứ nào. Tinh thần lợi tha được thực hiện
triệt để ở nơi đây; và trong lúc hành lợi tha, hành giả cũng đạt được tâm
hướng thượng và giải thoát cho tự thân. (6) Sự thành tựu do tu tập bốn vô lượng
tâm khiến hành giả dần dần bước vào tuệ giác cứu cánh phạm hạnh. Vị ấy
biết: "Có cái này, có cái hạ liệt, có cái cao thượng, có sự giải thoát
vượt qua các tưởng". Do biết và thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục
lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát, trí khởi lên:
"Ta đã giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". (7) Từ khi mười sáu pháp cấu uế hiện hữu
trong tâm cho đến khi chứng được quả A-la-hán là một quá trình gột rửa nội
tâm. Đối với hành giả thành tựu quả vị cuối cùng này, đức Phật gọi là vị
"được tắm nội tâm". Như vậy, pháp môn tu tập theo Kinh Ví Dụ Tấm Vải này
là pháp môn huấn luyện, cải thiện nội tâm theo trình tự thứ lớp được áp
dụng cho bất kỳ ai. Điều quan trọng được Kinh này nhấn mạnh là chúng ta
phải có chánh kiến ngay từ bước ban đầu, nghĩa là do tâm tác thành. Và
trong quá trình tu tập, vị hành giả luôn luôn theo dõi sát tâm của mình,
biết được cấu uế nào đang khởi lên và đoạn trừ cấu uế ấy. Khi tất cả các
cấu uế đã được đoạn trừ, con đường thênh thang sẽ tự mở ra cho sự an lạc
và giải thoát, vì cấu uế chính là chướng ngại căn bản, làm che mờ sự giác
ngộ giải thoát. Lòng tịnh tín bất động đối với Phật, Pháp, Tăng chỉ được
phát sinh khi cấu uế của tâm đã được đoạn trừ. Cũng như để tu tập bốn vô
lượng tâm được thành tựu viên mãn thì vị hành giả phải là người đã đoạn
tận cả các tâm cấu uế.
* Không có một sức mạnh từ bên ngoài nào có
thể gột rửa được tâm cấu uế của chúng ta. Và cũng không có một thế lực từ
bên ngoài nào có khả năng đem lại sự giải thoát cho chúng ta, mà mỗi người
phải tự mình làm cho mình giải thoát thanh tịnh, mỗi người phải tự mình
làm cho mình giải thoát. Như tiếng chuông cảnh tỉnh giữa đêm dài chi những
ai mù quáng tin theo những phong tục mê tín, đức Phật tuyên bố sông
Bahuka, sông Gàya, sông Sundarikà không thể đem lại sự giải thoát cho kẻ
ngu nhiều ác nghiệp, cũng không thể rửa sạch nghiệp đen của kẻ ác gây tội.
Rồi Ngài nói lên bài kệ sau: Với kẻ sống thanh tịnh, Đức Phật đã mở ra một con đường tìm cầu hạnh phúc chân thật, không
huyền bí, không cao siêu, mà rất thiết thực, phù hợp với mọi tâm tư của
con người. Trong kinh Ví Dụ Tấm Vải, đức Phật nói lên một trình tự tu tập
từ đầu cho đến khi giải thoát, tuy nhiên, ví dụ tấm vải vẫn là biểu tượng
rõ ràng cho tâm của chúng ta; và phương pháp làm cho tấm vải trong sạch
như thế nào thì phương pháp làm cho tâm của chúng ta trong sạch cũng như
vậy. (Kinh Ví Dụ Tấm Vải,
Trung Bộ I, số 7)
* * * [28] MỘT NẾP
SỐNG AN LÀNH Đ "Quá khứ không truy tìm.
Tiếp đến là phần Biệt thuyết. "Thế nào là vị Tỷ-kheo truy tìm quá khứ?
Vị Tỷ-kheo nghĩ "Như vậy là Sắc của tôi trong quá khứ" và truy tìm sự hân
hoan trong ấy. "Như vậy là Thọ của tôi trong quá khứ" và truy tầm sự hân
hoan trong ấy. "Như vậy là Tưởng của tôi trong quá khứ: " và truy tìm sự
hân hoan trong ấy. "Như vậy là Hành của tôi trong quá khứ" và truy tìm sự
hân hoan trong ấy. "Như vậy là Thức của tôi trong quá khư" và truy tìm hân
hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự truy tìm quá khứ. " "Và này, các Tỷ-kheo, thế nào là không
truy tìm quá khứ?" Vị ấy nghĩ: "Như vậy là Sắc của tôi trong quá khứ", và
không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là Thọ của tôi trong quá
khứ", và không truy tìm sự hân hoan ấy. "Như vậy là Tưởng của tôi trong
quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là Hành của tôi
trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là Thức
của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy, như vậy
này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ". "Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ước vọng
tương lai?". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là Sắc của tôi trong tương
lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ la Thọ của
tôi trong tương lai", và truy tìm hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ
là Tưởng của tôi trong tương lai" và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong
rằng như vậy sẽ là Hành của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan
trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là Thức của tôi trong tương lai", và truy
tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng tương lai.
" "Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước
vọng trong tương lai". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là Sắc của tôi
trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy
sẽ là Thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy.
"Mong rằng như vậy sẽ là Tưởng của tôi trong tương lai", và không truy tìm
hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là Hành của tôi trong tương lai",
và không truy tìm hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy, sẽ là Thức của
tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy này các
Tỷ-kheo là không ước vọng trong tương lai". "Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bị lôi
cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo có kẻ vô văn phàm
phu, không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh,
không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không
thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị
nầy quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc trong tự
ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là
có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; quán
tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay quán tưởng là trong tự
ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; quán hành là tự ngã, hay quán tự ngã
là có hành, hay quán hành là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong hành;
quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay là quán thức trong tự
ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi
cuốn trong các pháp hiện tại. " "Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị
lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị đa văn
Thánh đệ tử, đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập
pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân
nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không
quán sắc trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ...
không quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không
quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã
trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp
hiện tại". "Quá khứ trong truy tìm Khi Ta nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảm
cho các thầy Tổng thuyết và Biệt thuyết", chính duyên ở đây mà nói như vậy
(Kinh Nhất dạ hiền giả,
Trung Bộ II, 131). * * *
[29] KINH ĐIỀM
LÀNH TỐI THƯỢNG B Bài kinh này (kinh số IV, Phẩm Nhỏ, Kinh
Tập) do đức Phật thuyết giảng cho một vị này đến hỏi Ngài về ý nghĩa của
điềm lành. Sau đây là câu hỏi của vị Thiên nhân: "Nhiều thiên nhân và người
Như vậy, điềm lành là niềm mong ước và chờ
đợi của tất cả mọi người. Cả chư Thiên và loài Người đều mong ước và chờ
đợi điềm lành, đúng như lời vị Thiên nhân đã nói. Nhưng điềm lành ấy là
gì? Đó là một nếp sống an toàn và an lành, đáp ứng lòng tha thiết của mọi
người. Quả vậy, tất cả mọi người chúng ta đều mong ước và chờ đợi một nếp
sống an toàn. Nhưng nếp sống an toàn sẽ không tự dưng đến với chúng ta nếu
không được nuôi dưỡng và xây dựng tốt cả mọi người chúng ta. Và đó là lý
do vì sao đức Phật giảng dạy kinh Điềm lành của người Phật tử, mà chúng
tôi sẽ lần lượt trình bày sau. * Trước hết điềm lành thứ nhất là: "Không thân cận kẻ ngu
Điềm lành tối thượng đầu tiên mà người Phật tử cần nuôi dưỡng là thái
độ chọn lựa giữa kẻ ngu và bậc trí để giao thiệp, thân cận, người ngu thời
xa lánh, bậc trí thời gần gũi. Đây là thái độ hết sức căn bản nhằm xác
định người nào nên theo, cũng như pháp nào nên theo, pháp nào cần từ bỏ.
Người trí tiêu biểu cho tiếng nói của Chánh pháp, thiện hạnh, đạo đức, do
đó là người nên theo, nên gần gũi, thân cận. Kẻ ngu tiêu biểu là tà pháp,
ác hạnh, phi đạo đức, do đó cần xa lánh, không nên gần gũi. Đây là điềm
lành thứ nhất mở đường cho nếp sống thiện, nếp sống thiện, nếp sống bỏ ác
làm lành của người Phật tử. "Học nhiều nghề nghiệp giỏi Một điềm lành khác mà người Phật tử cần
nuôi dưỡng ấy là về phương diện học tập và rèn luyện cho thật giỏi. Để xây
dựng cuộc sống hạnh phúc, người Phật tử cần phải nỗ lực học tập thật nhiều
cũng như cần phải nắm vững tay nghề của mình và không ngừng học hỏi thêm
nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Học tốt làm tốt rồi, người Phật tử cũng
cần nói lời tốt đẹp nữa. Đó là điềm lành tối thượng thứ hai vậy. Điềm lành tiếp theo đây là: "Hiếu dưỡng mẹ và cha Đây là điềm lành nói về trách nhiệm và bổn phận của một người Phật tử
sống tại gia đình, có trách nhiệm chăm lo đời sống cho vợ con và bổn phận
đối với cha mẹ khi cha mẹ tuổi già. Là người Phật tử thì trách nhiệm và
bổn phận đối với cha mẹ, vợ con là hết sức quan trọng. Gia đình có hạnh
phúc hay không sẽ tùy thuộc vào mỗi thành viên trong gia đình có làm tốt
trách nhiệm và bổn phận của mình đối với gia đình hay không. Dĩ nhiên,
trách nhiệm và bổn phận sẽ tùy thuộc vào vị trí và vai trò của từng thành
viên trong gia đình mà có sự sai khác. Ở đây vì nhấn mạnh đến vai trò chủ
quản của người Phật tử ở trong gia đình nên trách nhiệm và bổn phận của vị
ấy là chăm sóc nuôi dưỡng vợ con và phụng dưỡng cha mẹ. Bởi có trách nhiệm
chăm lo đời sống cho cha mẹ vợ con nên người ấy cần có công ăn việc làm ổn
định. Người ấy cần làm việc với nghề nghiệp hợp pháp, đúng pháp. Vị ấy
không nên vì bất cứ lý do gì mà làm các nghề nghiệp không hợp pháp khiến
gây bất an cho gia đình và làm rối loạn xã hội. Trong trách nhiệm nuôi
dưỡng vợ con thì người Phật tử không những phải chăm lo đầy đủ các tiện
nghi vật chất cho vợ con, mà còn phải chú ý đến đời sống tinh thần của vợ
con nữa. Người Phật tử cần dành thì giờ để chăm lo việc giáo dục con cái,
hướng dẫn trở thành những đứa con ngoan, những học trò giỏi. Người ấy cần
vui vẻ, hòa thuận với vợ mình trong mọi công việc và đặc biệt, cần lắng
nghe và tham khảo ý kiến của cha mẹ trong nhiều trường hợp. Đó là dấu hiệu
của điềm lành tối thượng dành cho những ai khéo cư xử tốt trong các trách
nhiệm và bổn phận đối với gia đình. Một điềm lành khác: "Bố thí, hành đúng pháp Ngoài các quan hệ có tính cách gia đình
ra, người Phật tử cũng cần có những quan hệ khác như quan hệ với bà con
thân hữu, quan hệ với mọi người ở trong xã hội. Ở đây, một điềm lành khác
chờ đợi người Phật tử đó là việc bố thí đúng pháp và săn sóc các bà con
thân thuộc khi những người này cần đến sự giúp đỡ của mình. Trong trường
hợp này, người Phật tử cần có thái độ hoan hỷ và thiệp vì đây là những
quan hệ khá tế nhị. Việc bố thí không những cần đúng pháp, đúng đối tượng,
mà cũng cần đúng lúc, đúng thời và cần được làm với một tâm tư hoan hỷ,
trân trọng. Tương tự, việc săn sóc, giúp đỡ các bà con cũng cần được tiến
hành với các tinh thần trên thì mới có kết quả tốt đẹp, lợi mình, lợi
người. Mọi việc làm của người Phật tử cần phải được làm một cách đúng
pháp, không lỗi lầm thì kết quả mới tốt đẹp. Đó là dấu hiệu của điềm lành
tối thượng vậy. Một điềm lành khác nữa: "Chấm dứt, từ bỏ ác Đây là điềm lành nói về sự tu tập cá nhân, không phóng dật trong cuộc
sống, từ bỏ điều ác và chế ngự sự đam mê cờ bạc, rượu chè. Có thể nói đây
là các đức tánh hết sức căn bản nhằm xây dựng nhân cách tốt đẹp cho người
Phật tử, bởi vì người Phật tử là người luôn luôn gương mẫu trong nếp sống
không phóng dật, nếp sống từ bỏ điều ác, làm các điều lành và nếp sống
không chạy theo rượu chè, cờ bạc. Không phóng dật tức là không để cho
thân, khẩu, ý tự do hoạt động theo sở thích của mình, mà ngược lại, cần
phải thường xuyên theo dõi và kiểm soát thân, khẩu, ý, không để chúng rơi
vào các hành vi ác, bất thiện. Chấm dứt hay từ bỏ ác có nghĩa là xa lìa
các hành động ác, bất thiện như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong
các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham
dục, sân hận, tà kiến. Đây là nếp sống thông minh, sáng suốt của người
Phật tử nhằm xây dựng hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội. Chế ngự
đam mê rượu chè là nếp sống thông minh, sáng suốt của người Phật tử. Bởi
rượu chè làm cho con người mất đi bản tính sáng suốt, thiếu tự chủ trong
mọi hành động, dẫn đầu nhiều hậu quả tai hại. Do đó, người Phật tử kiên
quyết không uống rượu hay các chất say tức là đang sống một đời sống tỉnh
táo, sáng suốt, có thể nhìn rõ mọi sự bằng cặp mắt bình thường của mình,
chớ không phải bằng con mắt quờ quạng, bệnh hoạn. Vì cuộc sống vốn đã quay
cuồng rồi, cần phải tỉnh táo sáng suốt hơn, chớ không nên góp phần làm cho
thêm quay cuồng nữa! Tiếp theo là điềm lành nói về thái độ nghe
pháp, thái độ cung kính khiêm tốn và thái độ cung kính khiêm tốn và thái
độ biết đủ, biết ơn của người Phật tử:
"Kính lễ và hạ mình Là người Phật tử thì việc học pháp, nghe
pháp hết sức cần thiết để nuôi dưỡng tuệ đức cho cá nhân và đóng góp tiếng
nói trí tuệ cho con người và cuộc đời. Bởi trí tuệ là sự nghiệp lớn, giải
thoát con người và cuộc đời khỏi mọi sai lầm, tối tăm do lòng dục, lòng
sân và lòng si gây nên. Vì việc nghe pháp nhắm pháp triển trí tuệ nên rất
quan trọng đối với người Phật tử; có nghe pháp và hành pháp thì trí tuệ
mới phát sinh. Thiếu hoặc không nghe pháp, giống như người đi trong đêm
tối rất khó định hướng, lối đi của mình. Đạo Phật đề cao trí tuệ, xem trí
tuệ là ngọn đèn soi sáng hướng đi giải thoát của người Phật tử, giống như
ngọn hải đăng luôn soi tỏ hướng đi của các con tàu vậy. Ngoài việc nghe
pháp, phát triển trí tuệ, người Phật tử cần nuôi dưỡng thêm các đức tính
như lòng cung kính khiêm tốn, thái độ biết đủ, biết ơn đối với cuộc đời
vậy. Đây là các đức tính đặc biệt của người Phật tử, bởi sự khiêm cung
luôn là sức mạnh chinh phục mọi kiêu căng, ngã mạn của con người, thái độ
biết ơn là lòng thủy chung cao đẹp; và mọi cám dỗ của tham dục. Cuộc sống
đang ra sức cám dỗ con người bằng nhiều hình thức hấp dẫn và phương tiện
tinh vi, nếu không nhận ra sự thật của lòng dục (nghĩa là vị ngọt, sự nguy
hiểm, sự xuất ly của các dục) thì con người khó lòng thoát khỏi sự chi
phối của lòng dục. Vì các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại
càng nhiều. Do đó thái độ sống biết đủ của người Phật tử đối với các nhu
cầu cuộc sống chính là mũi tên phá vỡ mọi ràng buộc cám dỗ của tham dục
đang nô lệ hóa con người vậy.
Các đức tính khác như nhẫn nhục, nói lời
hòa nhã, yết kiến các Sa môn, và bàn luận chánh pháp cũng là điềm lành cần
được nuôi dưỡng của người Phật tử:
"Nhẫn nhục lời hòa nhã Các đức tính này tỏ cho thấy người Phật tử
là người có hành trì pháp và tôn trọng pháp. Bởi có hành trì pháp, tôn
trọng pháp, người Phật tử mới có các đức tính nói trên. Thái độ nhẫn nhục
là thái độ của người Phật tử biết kham nhẫn mọi phiền toái của cuộc đời
không để cho cuộc đời lung lạc bởi sự khen chê, tốt xấu. Với sự nhẫn nhục
đúng pháp, người Phật tử nhìn cuộc đời một cách an nhiên tự tại, không vui
khi được khen, không buồn khi bị chê. Vị ấy đón nhận mọi việc với lòng
thanh thản, thản nhiên. Người Phật tử cũng là người khéo nói với lời từ
tốn, hòa nhã vì "Lời nói không mất tiền mua". Vậy vì sao không tìm lời tao
nhã để nói với nhau? Một lời nói tao nhã, lịch sự không những để gây cảm
tình với người khác mà còn khiến cho nhân cách người nói được nâng cao.
"Yết kiến các Sa môn và bàn luận chánh pháp": Vì các Sa-môn là những vị
sống tùy thuận pháp và hành trì pháp. Do vậy, yết kiến Sa-môn, bàn luận
chánh pháp với các Sa-môn, là điềm lành tối thượng của người Phật tử có
học pháp và hành pháp vậy. Điềm lành tiếp theo là: "Khắc khổ và Phạm hạnh Ðây là điềm lành đòi hỏi nhiều thực hành,
thực sâu của người Phật tử trong giáo pháp giải thoát của đức Phật. Các
việc như sống Phạm hạnh kham khổ, thấy lý Thánh đế, giác ngộ quả Niết-bàn
là những việc khó làm, nhưng đó cũng là các mục tiêu cần hướng đến của
người Phật tử, Phạm hạnh là nếp sống chuyên sâu vào việc thực hành Giới
Ðịnh Tuệ, là nếp sống thanh tịnh về giới đức, từ bỏ hay xa lìa các dục,
các ác pháp, bất thiện pháp để đi vào Thiền chứng; còn sự phát triển trí
tuệ giải thoát nhằm đoạn trừ các phiền não, lậu hoặc, chấm dứt sinh tử khổ
đau. Thấy lý Thánh đế tức là thấy rõ về bốn chân lý: khổ, khổ đoạn diệt,
và con đường đưa đến khổ diệt. Thấy rằng sanh, già, bệnh, chết là khổ; sự
có mặt của thân ngũ uẩn là khổ, thấy rõ ái là nguyên nhân đưa đến sự khổ
đau tập khởi, thấy rõ ái diệt là khổ diệt, thấy rõ Bát Chánh Ðạo là con
đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Giác ngộ quả Niết-bàn tức là giác ngộ quả
vị tối thượng Bồ-đề của chư Phật. Rõ ràng người Phật tử sống tại gia khó
hoàn thành trọn vẹn đời sống Phạm hạnh với các sở hành, sở chứng nói trên.
Tuy nhiên, đây là các mục tiêu mà người Phật tử cần nhắm đến, nhất là việc
giữ gìn các giới đức (ngũ giới, thập thiện giới), và hành Thiền là hết sức
cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của người Phật tử. Một điềm lành khác nữa chứng tỏ nếp sống
có hành trì Thiền định của người Phật tử:
"Khi xúc chạm việc đời Thiền là nếp sống điều hòa thân tâm dựa
trên pháp môn Anàpànasati (quán hiệm hơi thở) của đức Phật. Thiền bắt đầu
bằng việc xa lìa các dục, các ác pháp, bất thiện để tập trung năng lực vào
việc theo dõi và giác tỉnh về các đối tượng. Có hai đối tượng chính đề bạt
trong Thiền là niệm hơi thở ra vào và giác quán 16 đề tài về thân thọ, tâm
và pháp. Cốt yếu của Thiền dẫn đến sự an tịnh của thân tâm, khi thân tâm
đã tịnh thì hành giả sẽ tập trung niệm vào 16 đề tài Thiền quán để tiếp
tục nuôi dưỡng niệm và để phát triển trí tuệ về sự sanh diệt của các pháp;
nhằm cắt đứt tâm tham ái - chấp thủ. Dĩ nhiên, Thiền là pháp môn đơn giản
nhưng không dễ làm, bởi Thiền đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì thường xuyên của
người thực hành. Người Phật tử chúng ta nên xem Thiền là pháp môn căn bản
cho sự tu tập của mình. Ðặc biệt là cần phải áp dụng Thiền vào đời sống
hằng ngày như là một sinh hoạt thường nhật. Ban đầu tuy khó khăn nhưng hãy
tập, tập nhiều lần rồi mọi khó khăn sẽ qua đi, cho đến lúc chúng ta nhận
ra Thiền là sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của chúng
ta. Nhờ có Thiền, khi xúc chạm với mọi việc ở đời, tâm tư người Phật tử sẽ
không bị khuấy động, không sầu muộn, không bị uế nhiễm và hoàn toàn được
an ổn. Đó là điềm lành tối thượng của sự thực hành Thiền định mà người
Phật tử đạt được trong giáo lý cùa đức Phật.
Điềm lành sau cùng, tóm tắt toàn bộ các điềm lành như đã trình bày: "Làm sự việc như vậy * Tóm lại, Kinh
"Điềm lành tối thượng"
trên đây được trình bày như là nếp sống
thiện, nếp sống bỏ ác làm lành của người Phật tử. Đây là điều mong mỏi của
chúng tôi khi trình bày với quý vị bài kinh này. Mong rằng quý vị Phật tử
chúng ta hãy yên tâm tin tưởng nhiều hơn về nếp sống thiện, nếp sống bỏ ác
làm lành của mình. Bởi vì, khi chúng ta làm lành thì không những tự thân
chúng ta được hạnh phúc an lạc mà ngay cả người khác cũng được hạnh phú an
lạc nhờ những ảnh hưởng bởi nếp sống làm lành của chúng ta. Một người sống
làm lành, một gia đình được hạnh phúc an lạc. Một gia đình sống làm lành,
một khu phố được thêm bình yên, loại bỏ các tệ nạn xã hội. Một thành phố
trông chờ các khu phố bình yên. Nhưng tất cả sẽ tùy thuộc vào nếp sống làm
lành của mỗi người chúng ta. Chúng ta làm lành đồng thời khuyên người
khác cũng làm lành. Có làm thời có kết quả. Nếp sống làm lành của người
Phật tử chúng ta được ví như bông hoa tươi đẹp, vừa có sắc lại vừa có
hương, hân hoan, thích thú như đức Phật từng dạy:
"Như bông hoa tươi đẹp Bông hoa tươi đẹp dự báo một hương sắc
tinh khiết đối với người trồng hoa cần mẫn. Cũng vậy, điềm lành tối thượng
của Phật tử dự báo một nếp sống hạnh phúc an lạc đối với người Phật tử
chuyên tâm học pháp và hành pháp. Mọi khả năng đều nằm sẵn trong bàn tay
của chúng ta, trông chờ sự quyết tâm, nỗ lực thực hành của mỗi người chúng
ta. Đã qua rồi các thời đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi hạnh phúc là gì và
đạo đức là gì? Ngày nay, không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã hiểu rõ hạnh
phúc không thể trông chờ người khác và đạo đức không chỉ là sự cổ vũ, đề
cao các giá trị nhân bản trên sách báo, hoặc trong các bài diễn văn mang
tính chuyên đề. Cuộc sống hiện đại không cần thêm lượng tri thức về hạnh
phúc và đạo đức. Cuộc sống hiện đại trông đợi nhiều những biểu hiện của
đạo đức và hạnh phúc nơi mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi xã hội. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục | Phần I |
Phần II | Phần III |
Phần IV | Phần V Chân thành cám ơn
Tỳ kheo Minh Tịnh đã hỗ trợ công tác vi tính
(Bình Anson, 04-2003). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phật lịch 2546, TL. 2002
- 6 ngoại xứ là sắc, tiếng, hương, vị, xúc và pháp.
- 6 thức thân là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và
ý thức.
- 6 xúc thân là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
- 6 thọ thân là thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc
sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh.
- 6 ái thân là ái do nhãn xúc sanh, ái do nhĩ xúc sanh, ái do tỷ xúc
sanh, ái do thiệt xúc sanh, ái do thân xúc sanh, ái do ý xúc sanh.
Ngày nào cũng ngày tốt,
Với kẻ sống thanh tịnh
Ngày nào cũng ngày lành.
Các tịnh nghiệp thanh tịch,
Luôn thành tựu thiện hạnh
Này vị Bà-la-môn
Chỉ nên tắm ở đây,
Khiến mọi loài chúng sinh
Được sống trong an ổn
Nếu không nói dối trá,
Nếu không hại chúng sinh,
Không lấy của không cho,
Có lòng tin không tham,
Đi Gagà làm gì?
Gaỳa, một giếng nước!".
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển.
Biết vậy nên tu tập.
Hôm nay, nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai.
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi nhất dạ hiền
Bậc an tịnh trầm lặng".
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển.
Biết vậy nên tu tập.
Hôm nay, nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh trầm lặng".
Suy nghĩ đến điềm lành
Mong ước và chờ đợi
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng".
Nhưng gần gũi bậc trí
Đảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lành tối thượng".
Khéo huấn luyện học tập
Nói những lời khéo nói
Là điềm lành tối thượng".
Nuôi dưỡng vợ và con
Làm nghề không rắc rối
Là điềm lành tối thượng".
Săn sóc các bà con
Làm nghiệp không lỗi lầm
Là điềm lành tối thượng".
Chế ngự đam mê rượu
Trong pháp, không phóng dật
Là điềm lành tối thượng".
Biết đủ và biết ơn
Đúng thời nghe Chánh pháp
Là điềm lành tối thượng".
Yết kiến các Sa môn
Đúng thời, bàn luận pháp
Là điềm lành tối thượng".
Thấy được lý Thánh đế
Giác ngộ quả Niết-bàn
Là điềm lành tối thượng".
Tâm không động, không sầu
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng."
Không chỗ nào thất bại
Khắp nơi được an toàn
Là điềm lành tối thượng".
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả". (Kinh Pháp cú)
last updated: 01-05-2003