BuddhaSasana Home Page Phật Giáo
Nguyên Thủy Ân Đức Tam
Bảo Hòa thượng
Bửu Chơn [1.1] I.
Ân-đức Phật (Buddha Guna) NAMATTHU RATANATTAYASSA TAM-BẢO: Phật-Bảo (Buddhatarana),
Pháp-Bảo (Dhammaratana) và Tăng-Bảo (Sangharatana),
là ba món báu quí trọng hơn tất cả bảo vật Hữu-Tri (Savinnanakaratana)
và Vô-Tri (Avĩnnãnakaratana) trong Tam-Giới và hằng có
năng lực đem sự an-vui đến cho chúng-sanh trong ba cõi. Ân-Ðức của Phật Vô-Lượng
Vô-Biên, không thể kể cho xiết hoặc suy xét cho cùng tận,
nhưng nói tóm lại có ba Ân-Ðức trọng đại là: 1) Visuddhi Guna
(Tịnh-Ðức): Ngài đã xa lìa tất cả Phiền-Não thô-sơ
và vi-tế, nên Thân, Khẩu, Ý của Ngài đều được trọn
lành. Trước mắt người hoặc nơi khuất-lấp, Ngài cũng
không hề làm, nói và tưởng điều tội-lỗi. 2) Karunã Guna
(Bi-Ðức): Ngài thấy chúng-sanh đang bị nóng-nảy lăn-lộn
trong lửa Ngũ-Dục, đang chìm-đắm chơi-vơi trong biển
Trần-Ai, chịu thống-khổ vô-cùng vô-tận từ đời này
qua kiếp khác nên Ngài phát Tâm Bi-Mẫn bao la đối với
tất cả chúng-sanh, chẳng khác nào người Mẹ hiền thương
xót đàn con dại, mong-mỏi con khỏi khổ, được vui lâu dài.
Từ khi còn tu hạnh Bồ-Tát, Ngài đã từng hy-sinh thân-mạng,
vợ con, của cải để tìm phương cứu-vớt chúng-sanh; đến
khi thành đạo rồi, Ngài lại châu du phổ độ quần sanh
không ngừng nghỉ trọn 45 năm trường đăng-đẳng. 3) Pannã Guna
(Tuệ-Ðức): Ngài có Trí-Tuệ hoàn toàn sáng-suốt,
không có chi che án được, thông-suốt cả ba giới, bốn
loài, thấu triệt Lý Tứ-Diệu-Ðế là thấy rõ, biết rõ
Ái-Dục Phiền-Não; nguyên-nhân sanh ra Ái-Dục Phiền-Não,
nơi diệt tận Ái-Dục Phiền-Não và phương-Pháp diệt
trừ Ái-Dục Phiền-Não. Do nhờ Trí-Tuệ hoàn toàn sáng
suốt ấy nên Ngài tri tỏ nghiệp nào có sự lợi ích,
nghiệp nào có sự nguy hại, hầu tìm phương tiện giáo
huấn chúng-sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành
để sớm đến bờ Giác-Ngộ. Do nhờ 3 Ân-Ðức ấy,
Ðức Phật mới có thể tế-độ chúng-sanh, luôn cả Chư-Thiên
và Nhân-Loại một cách dễ-dàng được. Vô-lượng vô-biên Ân-Ðức
khác của Ðức Phật đều bắt nguồn từ ba Ân-Ðức
trọng đại ấy, cũng như muôn loài thảo mộc chỉ do mặt
điạ cầu mà phát sanh ra vậy. Nếu kể rộng hơn,
những Ân-Ðức cao-cả của Ngài có thể tóm-tắt trong 10
danh hiệu sau đây: ARAHAM
(Tàu dịch là Ứng-Cúng)
Xin lần lượt giải
về mười hiệu của Phật, từ hiệu ARAHAM (Ứng-Cúng)
đến hiệu BHAGAVÃ (Thế-Tôn). 1) Araham (Ứng-Cúng) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là ARAHAM (Tàu âm là A-La-Hán, dịch là
Ứng-Cúng)? Bởi Ngài là: Araka:
Bậc đã xa lìa Phiền Não
Giải rằng: Bậc đã
xa lìa Phiền-Não.
Ðức Phật đã xa lìa
tất cả Phiền-Não là những điều làm cho Tâm bợn nhơ và
dắt dẫn chúng-sanh luân hồi mãi trong vòng lục đạo. Ba Phiền-Não trọng đại
là: a) Lobha: Tham-Lam
là Pháp làm cho Tâm dính mắc. Ba Phiền-Não nầy là
nguồn-cội của tất cả Phiền-Não khác, ví như một cây
to có 3 nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp tứ phía vậy.
(Xin xem các "Phiền-Não" có kể đại khái riêng
biệt sau phần giải hiệu ARAHAM)). Tất cả điều chướng-ngại
là Phiền-Não, không còn mảy-may nào trong Thân-Tâm Ðức
Phật, vì Ngài đã trau-dồi Thân-Tâm được hoàn toàn trong
sạch, thanh-tịnh bằng Giới, Ðịnh, Huệ, bằng Thánh-Ðạo,
Thánh-Quả và Niết Bàn. Ví như người thợ làm
tên, lấy một khúc cây trong rừng đem về lột vỏ, gọt đẻo
cho xong rồi thoa dầu, hơ lửa, uốn bằng nỏ cho trở nên
ngay thẳng, hậu nhiên mới được những cây tên rất tốt
và ngay thẳng. Cũng như thế ấy, Ngài
đã lột vỏ cái Tâm hằng bị sao động, cho tiêu-hoại cả
Phiền-Não, nhờ sự Ẩn-Tu nơi rừng vắng là tu hạnh Ðầu-Ðà,
rồi thoa dầu bằng Ðức-Tin (Saddhã), đốt hơ bằng
sự Tinh-Tấn (Viriya), uốn bằng nỏ là Phép Chỉ-Quán
(Sammatha) và Minh-Sát (Vipassanã), làm cho Tâm trở
nên ngay thẳng, diệt trừ các Nghiệp dữ. Kế tiếp, Ngài
suy nguyên thấy rõ căn-bản của Nghiệp Thiện và Ác là
những Pháp-Hành (Sankhãra) Ðoạn-Tuyệt Vô-Minh (Avijjã),
đắc Ba cái Giác (Vijjã) [1], Sáu cái Thông (Abhinnã),
Bốn Huệ Phân Tích (Patisamdhidã) [2], Chín Pháp Thánh (Lokuttãra
Dhamma) [3], và liễu chứng bậc Vô-Thượng Chánh-Ðẳng
Chánh-Giác. [1] 3 Cái Giác (hoặc
Minh) và 6 cái Thông: Xin xem giải rộng trong hiệu "Vijjãcaranasampanno"
(Minh-Hạnh-Túc) phía sau. [2] 4 Cái Huệ Phân Tích: a) Atthapatisambhidã:
Huệ Biết Rõ cái quả hay cái lý (là thông-suốt cả nghĩa
lý của chú giải tóm-tắt). [3] 9 Thánh-Pháp: Tu-Ðà-Hườn Ðạo Tu-Ðà-Hàm Ðạo A-Na-Hàm Ðạo A-La-Hán Ðạo Niết-Bàn. Lại nữa chẳng những
đã thắng tất cả quân thù là các Phiền-Não trọng-đại
vi-tế thôi, Ngài lại dứt được luôn các Tiền-Khiên
Tật, là những thói quen của Thân, Khẩu, Ý nữa. Bậc đã
phá tan bánh xe Luân-Hồi.
Ðức Phật đã phá-tan,
bẻ-gẫy bánh xe Luân-Hồi và không còn Tái Sanh nữa. Ta có thể ví dụ
"Bánh Xe Luân-Hồi" (Samsaracakka) gồm có: * Vô-Minh (Avijjã)
làm Ðùm. 12 Tác-Ý Ác (Akusala
Cetanã) [5] Bánh xe ấy ráp vào thùng
xe là Tam-Giới (Dục-Giới, Sắc-Giới và Vô-Sắc-Giới), làm
thành bánh xe Luân-Hồi. Trong Tam-Giới ví như cái
thùng xe vì Tam-Giới là nơi sanh và trú của chúng-sanh. Bốn Pháp Trầm-Luân (ãsava)
[6] ví như cái gọng xe vì các Pháp ấy là chủ động,
hằng lôi kéo chúng-sanh đến chỗ Sanh và chỗ Diệt. [4] 3 Pháp-Hành là: a) Punnãbhi Sankhãna:
Hành Thiện [5] Xin xem giải rộng
trọng quyển "Vi-Diệu Pháp" vấn đáp của Ðại-Ðức
Hộ-Tông. [6] 4 Pháp Trầm-Luân
là: a) Kãmãsavo:
Trầm-Luân trong Ái-Dục (Ngũ-Trần) Vô-Minh ví như cái đùm
xe vì Vô-Minh là nơi quy-hội của các Nhân-Duyên. Sự Già và sự Chết ví
như vành xe vì hằng lăn tròn đi tới và đưa chúng-sanh từ
cảnh nầy đến cảnh khác. Ba Pháp-Hành ví như căm
bánh xe là vì bị sự Sanh và sự Chết bao chung quanh. Ðức Phật đứng
vững-vàng hai chân là sự Tinh-Tấn (Viriya), trên mặt
đất bằng-phẳng là Giới (Sĩla), dùng hai tay là Ðức-Tin
(Saddhã) cầm cây gươm bén là Trí-Tuệ (Panna),
chặt rã, phá tan từng mãnh cái xe Luân-Hồi ấy dưới cội
Bồ-Ðề, từ đây không còn chở Ngài quanh-quẩn trong ba cõi,
sáu đường được nữa. Hoặc giả, nếu lấy
Thập Nhị Nhân Duyên làm tượng-trưng cho "Bánh Xe Luân-Hồi",
thì: Vô-Minh làm Ðùm. Ðức Phật thấy rõ,
hiểu biết tường-tận lý "Nhân-Quả Liên-Quan" [7]
gồm có 12 Chi (Anga), 3 Thời Kỳ (Addhã), 20 Thể
(Akara), 3 Chỗ Nối Liền (Sandhi), 4 Chỗ Tóm-Tắt
(Sankhepa), 3 Sự Luân Chuyển (Vatta) và 2 Gốc (Mũta).
Trong khi nhập Ðại-Ðịnh trọn 7 ngày đêm dưới cội Bồ-Ðề,
Ngài đã xem-xét thật vi-tế sự Sanh ra và sự Diệt-Tắt
của mỗi Nhân-Duyên, xem thuận, rồi xem nghịch, cho đến
khi phát-sanh Trí-Tuệ thấy rõ các Pháp Hữu-Vi đều do Nguyên-Nhân
mà sanh ra. Khi Nguyên-Nhân bị diệt đi thì các Pháp ấy cũng
diệt tắt theo. Khi thấy rõ như thế rồi, Ngài đắc-đạo
Quả Niết-Bàn, được giải-thoát các sự Thống-Khổ, phá
tan Bánh Xe Sanh-Tử Luân-Hồi. [7] Xin xem giải rộng
trong quyển "Nhân Quả Liên Quan" của Ðại-Ðức
Bửu-Chơn. Bậc Xứng Ðáng. a) Ðức Phật là đấng
toàn trí toàn thiện, rất xứng-đáng cho Chư-Thiên và nhân-loại
lễ-bái cúng-dường. Ngài là phước điền quí-báu cao-thượng
nhất của chúng-sanh. Sự cúng-dường ấy,
chẳng luận vật cúng ít hay nhiều, hèn-hạ hoặc cao-quí,
chẳng luận thí chủ là bậc Vua Chúa oai-quyền hoặc là
hạng cùng đinh nghèo khó, hằng được phước-báu Vô-Lượng
nếu tín thí có đức-tin vững-chắc là tin lý Nhân-Quả và
có Tâm lành đầy đủ Tác-Ý [8] trong sự cúng-dường. [8] 3 Tác-Ý là: a) Pubbacetanã:
Tác-Ý trong sạch đầu tiên toan tính Trong kinh Dĩpanĩ
có câu: "Tiddhante Nibbute Cãpisanam Cettam Samebhale"
nghĩa là: "Khi Phật còn tại thế hay sau khi đã nhập
Niết-Bàn rồi, nếu có thiện-nhân nào có Tâm trong sạch đồng
nhau cúng-dường đến Phật cũng được sự phước báu như
lúc Ngài còn tại thế vậy". Như thế, ta nên tin-tưởng
rằng dầu khi Ðức Thế-Tôn còn tại thế, hay sau khi Ngài
nhập diệt rồi cũng vậy, quả phước phát sanh do sự cúng-dường
đến Ngài hoặc đến tháp thờ xá-lợi của Ngài, cũng đồng
nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và
chú tâm trong sự phước-thiện đồng nhau. Trong kinh có chép lại
rất nhiều sự tích về sự lễ bái cúng-dường Ðức
Thế-Tôn. Từ các hàng Chư-Thiên như Phạm-Thiên Sahampati cúng-duờng
Ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu-Di (Sineru),
Ðức Ðế-Thích (Sakka), Tứ-Ðại-Thiên-Vương (Catumãhãrãja),
vv...; các bậc Hoàng Ðế đồng thời với Ngài như vua Tân-Bà-Sa
(Bimbisãra), Vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi)...; các bậc
đại phú hộ như trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc (Anãthapindika)
và (Visãkhã), vv...; đến các hạng cùng đinh nghèo-khổ
như nàng Sumana Mãlã dâng bông lài, thầy Bà-La-Môn Culekasataka
dâng khăn choàng, vv... Một thế kỷ sau khi Ðức
Thế-Tôn nhập diệt, Hoàng Ðế A-Dục (Asoka) xuất
của kho ra 96 triệu đồng vàng cúng-dường Tam-Bảo và cho xây
cất 84 ngàn thánh tháp trong toàn cõi Ấn-Ðộ. Nên nói thêm rằng:
chẳng những Ðức Phật là bậc siêu nhân cao-thượng
xứng-đáng cho chúng-sanh lễ-bái cúng-dường mà thôi, các
bậc Thánh-Nhân (Thinh-Văn: A-La-Hán, A-Na-Hàm ....) khác đã
diệt-tận Phiền-Não hay còn chút ít Phiền-Não nơi Tâm,
hoặc các hạng phàm nhân có giới đức tu hành chân-chánh
theo Giáo- Pháp của Ðức Thế-Tôn, cũng là những bậc đáng
thọ-lãnh vật cúng-dường của tín thí vậy. b) Một điều nữa, Ðức
Phật là bậc xứng-đáng giảng-dạy Kinh Luật, giáo-hóa chúng-sanh
vì Ngài đã diệt tận tất-cả Phiền-Não chướng-ngại, nên
Kinh Luật mà Ngài chỉ-giải, chế-định, toàn là đúng-đắn,
chân-thật, chỉ nhắm vào sự lợi-ích của quần-sanh. Ngài
không vì 4 điều Tư-Vị (Agati) [9] mà giảng Kinh, định
Luật, nói Pháp độ đời. [9] 4 Ðiều Tư-Vị là: a) Chandãgati:
Thiên-Vị vì lòng Thương Bậc không nơi khuất
lấp. Ðức Phật là đấng
trọn-lành, Ngài đã diệt-tận Phiền-Não nên Thân, Khẩu,
Ý của Ngài hoàn toàn trong-sạch thanh-tịnh, trước mắt người
hoặc nơi khuất-lấp, xa tai cách mặt người, Ngài cũng không
hề làm, nói và tưởng điều tội-lỗi, dầu là nhỏ-nhen
chút ít. Không như những hạng
thuờng nhân tự cho mình là "Giáo- Chủ" hoặc
"Bồ Tát", là "Thánh-Nhân", vv..., trước
mặt người tỏ ra đạo-mạo nghiêm trang như là bậc giới
hạnh chân-chánh, hiền-từ, đạo-đức, nhưng sau lưng người
lại hằng làm điều tội-lỗi xấu-xa không chút lòng
hổ-thẹn. Do nhờ, những Ân-Ðức
cao-quí vừa giải phía trên, nên Ngài có hiệu là "ARAHAM
" (Ứng-Cúng). Phần kể các Phiền-Não
mà
1. Kilesa: Phiền-Não
có 3 gọi là Tam-Ðộc. a) Lobha: Tham 2. Asava: Pháp
Trầm-Luân có 3. a) Kãmãsava:
Trầm-Luân trong Ngũ-Dục 3. Vipallãsa: Ðiều
Lầm-Lạc có 3. a) Sannã Vipallãsa:
Tư-Tưởng Lầm-Lạc 4. Anusaya: Pháp
Ngủ-Ngầm có 3. a) Kãmarãgãnusaya:
Tình-Dục Ngủ-Ngầm 5. Agati: Tư-Vị có
4. a) Chandãgati: Tư-Vị
vì Thương 6. Gantha: Ðiều Ràng-Buộc
có 4. a) Abhijjhãya Gantha:
Ràng-Buộc vì Tâm Xan-Tham. 7. Ogha: Vực-Thẳm
có 4. a) Kãmogha:
Vực-Thẳm Ngũ-Trần 8. Upãdãna:
Cố-Chấp có 4. a) Kãmupãdãna:
Cố-Chấp trong Ngũ-Dục 9. Macchariva:
Bỏn-Xẻn có 5. a) Avãsa Macchariya:
Bỏn-Xẻn chỗ ở, 10. Anusaya: Pháp
Ngủ-Ngầm trong Tâm có 7. a) Kãmarãgãnusaya:
Tình-Dục Ngủ-Ngầm 11. Lokadhamma: Pháp
Thế-Gian có 8. a) Lãbho: Ðược
Lợi 12. Mandila: Pháp
Nhơ-Bẩn có 9. a) Kodha:
Hờn-Giận 13. Micchatta Dhamma: Pháp
Tà-Vạy có 10. a) Micchã Ditthi:
Tà-Kiến 14. Akusalakammapatha:
Nghiệp-Ác có 10 gọi là "Thập-Ác": a) Pãnãtipato: Sát-Sanh 15. Samyojana: Pháp
Thẳng-Thúc có 10: a) Sakkãyaditthi:
Thân Kiến 16. Kilesa: Phiền-Não có
10: a) Lobha: Tham 17. Akusalacittuppãda:
Tâm-Ác có 12: a) 8 Tâm Xan-Tham: Mobhamũla
(Xin xem giải rộng 12
Ác Tâm trong quyển "Vi Diệu Pháp" của Ðại-Ðức
Hộ-Tông). 18. Tanhã (Tâm Ái-Dục)
có 108. Nếu kể tóm-tắt thì
Tâm Ái-Dục có 3 là: a) Kãmatanhã: Ái-Dục
trong cõi Dục-Giới Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy
nhơn cho 6 Căn (Nhãn, Nhĩ, Tĩ, Thiệt, Thân, Ý) thành 18 nội
Tâm Ái-Dục. Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy
nhơn cho 6 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) thành 18
Ngoại Tâm Ái-Dục. Cộng lại thành (18 +
18) = 36 Tâm Ái-Dục. 36 Tâm Ái-Dục Quá-Khứ
+ 36 Tâm Ái-Dục Vị-Lai + 36 Tâm Ái-Dục Hiện-Tại = 108 Tâm
Ái-Dục 19. Kilesa:
Phiền-Não có 1500: Nếu kể tóm-tắt thì
Phiền-Não có 10 (xem phía trước). Nếu kể 1500 Phiền-Não
thì tính theo phương-pháp sau đây: Lấy 1 trong 81 Tâm Phàm
(Lokiyacitta) + 52 Tánh (Citasika) + 18 Thành-Lập-Sắc
(Nipphanna Rũpa) [*] + 1 Hư-Không (ãkãsa) + 1 Sanh (Jãti)
+ 1 Già (Jarã) + 1 Tiềm-Thức (Bhavanga) = 75
Phiền-Não Chia ra 75 Phiền-Não bên
Trong + 75 Phiền-Não bên Ngoài , cộng chung thành 150 Phiền-Não. Ðem nhơn cho 10 Phiền-Não
(Kilesa) đã kể phía trước (150 x 10 ) thành 1500 Phiền-Não. [*] Nipphanna Rũpa
tạm dịch là "Thành-Lập-Sắc" là Sắc đã tạo
lập phát-sanh lên rồi. Có 18: 1. Pathavĩ: Ðất -ooOoo- 2. Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri)? Bởi Ngài đã thành
bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác là bậc hoàn-toàn Giác-Ngộ (Buddho),
thông-suốt các Pháp một cách chân-chánh (Sammã) tự
Ngài tỏ-ngộ lấy không thầy giáo-hoá (Sãnam). Ðức Phật tự mình phát-giác,
hiểu-biết tường-tận 4 Chân-Lý Vi-Diệu quí-báu là
Tứ-Diệu-Ðế (Caturãriyasacca). Bốn Chân-Lý ấy là: Dukkha Ariyasaccam:
Khổ-Ðế
Ariyasacca
- Diệu-Ðế - có nghĩa là:
- Pháp Chắc-Thật
của bậc Thánh-nhân (Ariyasacca: Chắc-Thật). - Pháp Chắc-Thật
dắt-dẫn cho xa lìa kẻ nghịch. Bậc nào đã đắc Pháp
Tứ-Ðế rồi thì các kẻ - nghịch là Phiền-Não không còn
tồn-tại trong Thân-Tâm nữa. - Pháp Chắc-Thật làm
cho Quả Thánh phát-sanh tròn đủ, vì bậc nào đã đắc Pháp
Tứ-Ðế rồi thì Trí-Tuệ phát khởi thấy rõ: "Ðây
là Khổ, đây là Nguyên-Nhân phát-sanh sự Khổ, đây là nơi
Diệt-Khổ, đây là con đường đi đến nơi
Diệt-Khổ", có thể Ðắc-Ðạo quả Thánh-Nhân dễ-dàng. - Pháp Chắc-Thật đáng
tôn-quí. Tôn-quí vì tính cách hiển-nhiên, chân-thật của
Tứ-Ðế. Khổ, thật có trên thế gian này, nguyên-nhân phát-sanh
sự Khổ, nguyên-nhân ấy có thật; nơi Diệt-Khổ, nơi
ấy có thật; con đường đi đến nơi Diệt-Khổ, con đường
ấy có thật. Khổ-Ðế. Khổ-Ðế là những điều
thống-khổ hiển-nhiên mà chúng-sanh ở đời không ai tránh
khỏi được. Có 12 sự Khổ: Jãti Dukkham:
Khổ Sanh
Chữ Khổ (Dukkha)
nếu giải tóm-tắt thì chỉ có cái khổ về Ngũ-Uẩn. Vì
cố-chấp rằng trong Ngũ-Uẩn này có ta, cho sắc thân này là
Ta, là của Ta... và chấp Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn,
Thức-Uẩn cũng như thế ấy nên các sự Khổ-Não mới phát-sanh
lên được. Một lẽ nữa, Ngũ-Uẩn là nguồn-cội, là nơi
chất-chứa các sự Thống-Khổ, vì có thân Ngũ-Uẩn này
mới có Khổ-Sanh, Khổ-Già, Khổ-Ðau, Khổ-Chết ... Tập-Ðế. Tập-Ðế là nguyên-nhân
sanh ra Khổ là lòng Ái-Dục (Tanhã). Lòng Ái-Dục có mãnh-lực
ngấm-ngầm trong Tâm của tất-cả phàm-nhân, khiến cho chúng-sanh
ước-ao tìm kiếm và cố giữ lấy những vật vừa lòng đẹp-ý,
say-mê, quyến-luyến theo Ngũ-Trần không ngừng-nghỉ. Chính
lòng Ái-Dục dắt-dẫn chúng-sanh Trầm-Luân từ khiếp này
sang kiếp khác trong vòng Sanh Tử Vô-Cùng Vô-Tận. Lòng Ái-Dục có 3: 1) Kãma Tanhã: Tâm
Ham-Muốn, Sa-Mê theo Ngũ-Trần hoặc Uớc Muốn được sanh
làm người hoặc làm trời trong 6 cõi Dục-Giới Nếu kể rộng, lòng Ái-Dục
có 108 như đã có giải phía trước. Ái-Dục là nguyên-nhân
phát-sanh ra các sự Thống-Khổ, nếu Ái-Dục diệt thì các
sự Khổ-Não cũng diệt theo. Diệt-Ðế. Diệt-Ðế là nơi
diệt-trừ hoàn-toàn các sự Khổ tức là Niết-Bàn. Niết-Bàn,
theo danh từ Pãli gọi là Nibbãna, Sanscrit gọi là
Nirvãna. Ni có nghĩa: Ra Khỏi hoặc Không Còn. Vãnã
có nghĩa: Phiền-Não hoặc Tam-Giới. Niết-Bàn có 32 nghĩa,
nhưng nếu giải tóm-tắt, đại-khái có 2 nghĩa sau đây: * Nếu nói trạng-thái
của Tâm thì Niết-Bàn là trạng-thái Tâm đã đoạn-tuyệt,
diệt-trừ hẳn Ái-Dục. Lòng Ái-Dục phát sanh lên do sự
tiếp-xúc của Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý)
với Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Nếu
thu-thúc Lục-Căn cho thanh-tịnh, không cho duyên theo,
quyến-luyến theo Lục-Trần thì lòng Ái-Dục không còn phát-sanh
lên được. Lòng Ái-Dục đã diệt-trừ thì các sự
Khổ-Não cũng diệt theo không dư-sót. * Nếu nói là nơi
hoặc cõi, thì Niết-Bàn là nơi tịch tịnh, không có Sanh,
Già, Ðau, Chết, là cõi ngoài Tam-Giới (Xuất Thế-Gian). Ðức Phật và các
bậc A-La-Hán đã đắc 2 Niết-Bàn: Phiền-Não Niết-Bàn
(Kilesa Nibbãnam) Phiền-Não Niết-Bàn (Kilesa
Nibbãnam) hoặc Hữu-Dư Niết-Bàn (Saupãdisesa Nibbãnam)
là trạng-thái Tâm các bậc Thánh-Nhân ngay trong kiếp chót,
đã diệt tận Ái-Dục Phiền-Não, đã được giác-ngộ và
giải-thoát, xong vẫn còn Thân, Ngũ-Uẩn. Ðức Phật đã đắc
Phiền-Não Niết-Bàn khi còn ngự dưới cội Bồ-Ðề, toàn
thắng bọn Ma-Vương, dứt-tuyệt Tham, Sân, Si, Ngã-Chấp, Tà-Kiến
cùng 1500 Phiền-Não và 108 Ái-Dục xa lìa Tâm Ngài như các
giọt nước lìa khỏi lá sen. Khi đã đắc Hữu-Dư
Niết-Bàn, Ngài có tuyên-ngôn như vầy: "Anekajãti samsãram
sandhãvissam anibbisam, gahakãram, gavesanto dukkhã jãti punappunam,
gahakãraka ditthosi puna geham na kãhasi, Sabbe te phãsukã bhaggã
gahakũtam visanhkhatam, Visankhãragatam cittam tanhãnam khayamajjhagãti". Nghĩa:
" Khi Như-Lai đang tìm người thợ (tức Ái-Dục) là người
cất cái nhà tức là thân tứ-đại của Như-Lai mà chưa
gặp được, Như-Lai hằng bị luân-hồi trải qua vô lượng-kiếp,
sự sanh ấy hằng đem những điều Thống-Khổ đến Như-Lai
không ngừng-nghỉ". Này người thợ làm nhà
kia? Như-Lai đã tìm thấy ngươi rồi! Từ đây, ngươi không
còn cất nhà là thân tứ-đại của Như-Lai được nữa. Sườn
nhà là các Phiền-Não của ngươi, Như-Lai đã bẻ gãy rồi;
nóc nhà là Vô-Minh mà ngươi đã tạo đó, Như-Lai cũng đã
phá tan rồi. Hiện nay, Tâm Như-Lai đã đắc Niết-Bàn, lìa
khỏi Sắc-Tướng, Như-Lai đã liễu-chứng quả A-La-Hán là
Pháp tiêu-diệt tất-cả Ái-Dục rồi!" Ngũ-Uẩn Niết-Bàn
(Khandha Nibbãnam) Ngũ-Uẩn Niết-Bàn (Khandha
Nibbãnam) hoặc Vô-Dư Niết-Bàn (Anupãdisesa Nibbãnam)
là khi tuổi thọ đã đến lúc cùng tận, các bậc Thánh-Nhân
ấy rồi khỏi thân Ngũ-Uẩn nhập vào cõi tịch-tịnh không
còn sanh tử luân-hồi nữa. Ðức Phật đem Giáo-lý
cao-thượng ra giảng-giải tế-độ chúng-sanh trọn 45 hạ đến
khi phận-sự đã viên-dung, Ngài đến gần kinh-thành Kusinara,
an ngọa dưới hai cây long-thọ, nhập-định rồi viên-tịch.
Lúc ấy Ngài tịch-diệt cả Ngũ-Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, như thế gọi là Ngũ-Uẩn Niết-Bàn. Có chỗ lại thêm
Niết-Bàn thứ ba là Xá-lợi Niết-Bàn (Dhãtu Nibbãnam).
Hiện nay, Xá-lợi Ðức Phật ở rải-rác khắp nơi cho Chư-Thiên
và nhân-loại chiêm-bái, khi Phật-Giáo tròn đủ 5000 năm, Xá-lợi
của Ngài tự nhiên sẽ bay về qui-tụ thành một khối tại
Bồ-Ðề Ðạo-Tràng (Buddha Gaya ở Trung Ấn-Ðộ), hóa
ra một vị Phật-Tổ như lúc Ðức Thế-Tôn còn tại thế,
ngự trên bồ-đoàn thuyết-Pháp trọn 7 ngày đêm. Khi ấy các
vị Phạm-Thiên và Chư-Thiên từ trên các cõi trời, tay
cầm tràng hoa bay xuống lễ-bái cúng-dường và nghe Pháp,
được đắc đạo-quả từ Tu-Ðà-Hườn đến A-La-Hán
hằng hà vô số kể. Ðến đủ 7 ngày, tự
nhiên trong kim-thân lửa phát cháy lên thiêu-hoại Xá-lợi,
kể từ ngày ấy thì Giáo-Pháp của Ngài hoàn-toàn tiêu-diệt.
Như thế gọi là Xá-lợi Niết-Bàn. Ðạo-Ðế Ðạo-Ðế là con đường
đi đến nơi Diệt Khổ. Con đường ấy là Bát-Chánh-Ðạo
(Ariyatthangika Magga) gồm có 8 chi: Sammã Ditthi:
Chánh Kiến là thấy biết chân-chánh
Bát-Chánh-Ðạo chia ra
3 phần: Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp,
Chánh-Mạng thuộc về phần Giới. Cho nên người hành
theo Bát-Chánh-Ðạo cũng gọi là người tu Giới, Ðịnh,
Huệ là nền tảng của Phật-Giáo vậy. Bát-Chánh-Ðạo là
Trung-Ðạo (Majjhimã Paitpadã) nghĩa là con đường
giữa không thiên về hai cực-đoan không
"Khổ-Hạnh" và không "Lợi-Dưỡng": Kãmasakhallĩkãnuyoga
(Lợi-Dưỡng) Say Mê theo Ngũ-Trần,
Con đường ấy có năng
lực hằng làm cho phát sanh Pháp-Nhãn (Cakkhu) và Trí-Tuệ
(Pãna), khiến cho Tâm trở nên thanh-tịnh sáng-suốt mà
cứu-cánh là sự Giác-Ngộ và Niết-Bàn. Tứ-Diệu-Ðế là
những Pháp thực-tế, hiển-nhiên mà mọi người đều có
thể tự mình xem-xét, thực-nghiệm lấy. Tứ-Diệu-Ðế là Chân-lý
mà Chân-Lý thì không bao giờ hư-hoại hay chịu ảnh-hưởng
của thời-gian. Bốn Chân-Lý ấy đã có trong quá-khứ, đang
có trong hiện tại và sẽ tồn-tại trong thời vị-lai. Nhưng
chỉ có Trí-Tuệ siêu phàm của Ðức Phật mới phát-giác
được mà thôi và từ khi Ngài chuyển Pháp-Luân nơi vườn
Lộc-Giả tại Isipatãna, 4 Chân-Lý Vi-Diệu ấy mới
được phổ-cập đến tất-cả Chư-Thiên và Nhân-Loại. Dựa theo 4 Chân-Lý
ấy, dưới cội Bồ-Ðề, Ðức Phật đã tự mình tỏ-ngộ
tường-tận những Pháp xác thật sau đây: - Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ,
Tỉ, Thiệt, Thân, Ý) là Khổ-Ðế. Những Pháp ấy kể
tiếp sau đây có thể giải-thích bằng cách tương-tự như
trên: - Lục-Trần bắt đầu
từ Sắc-Trần ... Thập-Nhị-Nhân-Duyên,
nếu kể xuôi thì bắt đầu từ Vô-Minh và kể ngược bắt
đầu từ Lão, Tử. Theo phương-Pháp trên
nếu giải-thích riêng về một nhân-duyên thì: - Lão, Tử là Khổ-Ðế; Tất cả những Pháp
ấy, luôn cả những Pháp Xuất Thế-Gian, Ðức Phật đã
tự mình tìm thấy, hiểu biết tường-tận tinh-vi, không
phải do nơi trí tưởng-tuợng mà do nơi Ngài phân-tích rõ-ràng,
nhờ Trí-Tuệ hoàn-toàn sáng-suốt không hạn-định, không
chướng-ngại, tự Ngài ngộ lấy không ai chỉ dạy cho. Nói riêng về
Tứ-Diệu-Ðế, Ðức Phật đã tri-tỏ đứng-đắn chính-xác
những Pháp đáng tri-tỏ là Khổ-Ðế có 12 điều như đã
giải phía trước, nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Khổ-Ðế (Parinneyye
Dhamme Sammãsambuddho). Ngài đã tri-tỏ những
Pháp đáng diệt-trừ là Tập-Ðế tức là Tâm Ái-Dục có 3
hoặc 108 nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Ái-Dục (Pahãtadde
Dhamme Sammãsambuddho). Ngài tri-tỏ những Pháp
đáng làm cho rõ-rệt là Diệt-Ðế mà những bật Trí-Tuệ
đang cố-gắng hành theo để đạt 4 Ðạo, 4 Quả và Niết-Bàn
nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Diệt-Ðế (Sacchikãtabbe
Dhamme Sammãsambuddho). Ngài tri-tỏ những Pháp
đáng nương theo là Ðạo-Ðế tức Bát-Chánh-Ðạo có năng-lực
đem đến nơi giải-thoát là Niết-Bàn, nên Ngài có hiệu là
Toàn-Trí Ðạo-Ðế (Bhavetabhe Dhamme Sammãsambuddho). Do nhờ những Ân-Ðức
cao-quí vừa giải phía trên nên Ðức Phật có hiệu là Sammãsambuddho
(Chánh-Biến-Tri). -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác sĩ
Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Tam-Bảo tóm tắt.
SAMMÃSAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri)
VIJJÃCARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc)
SUGATO (Thiện-Thệ)
LOKAVIDŨ (Thế-Gian-Giải)
ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)
PURISADAMMASÃRATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu)
SATTHADEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)
BUDDHO (Phật)
BHAGAVÃ (Thế-Tôn)
Hata: Bậc đã phá tan bánh xe Luân Hồi
Araha: Bậc xứng đáng
Rahãbhãva: Bậc không nơi khuất lấp.
b) Dosa: Sân-Hận là Pháp làm cho Tâm nóng nảy ưu-phiền.
c) Moha: Si-Mê là Pháp làm cho Tâm lầm lạc.
b) Dhammapatisambhidã: Huệ Biết Rõ cái nhân hay thông
suốt cả các Pháp.
c) Niruttipatisambhidã: Huệ biết rõ Ngữ Căn hay thông
suốt các thứ tiếng.
d) Patibhana Patisambhidã: Huệ Phân Tích rõ-ràng và
mau lẹ tất cả sự vật.
Tu-Ðà-Hườn Quả
Tu-Ðà-Hàm Quả
A-Na-Hàm Quả
A-La-Hán Quả
* Ba Pháp Hành (Sankhãra) [4] làm Căm.
* Sự Già và sự Chết (Lão, Tử: (Jarã Maranam) làm Vành.
* 29 Tác-Ý (Cetanã) là:
8 Tác-Ý Ðại Thiện (Mãhãkusala),
5 Tâm Lành trong Sắc-Giới (Kũpãvacara Kusala),
4 Tâm Lành trong Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Kusala) làm
đầu căm tra vào đùm.
b) Apunnãbhi Sankhãna: Hành Ác
c) Anenjãbhi Sankhãra: Hành Ðiềm Tỉnh Không Lay Ðộng
b) Bhãvãsavo: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãvaso: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
d) Avijjãsavo: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
Lão, Tử làm Vành.
10 Nhân-Duyên kia (Hành, Thức, Danh-Sắc, Lục-Căn, Xúc,
Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh) là Căm.
b) Munncanã Cetanã: Tác-Ý trong sạch khi đang dâng cúng
c) Aparãparacetanã: Tác-Ý thỏa-thích sau khi dâng cúng.
b) Dosãgati: Thiên-Vị vì Giận-ghét
c) Mohãgati: Thiên-Vị vì Si Mê
d) Bhayãgati: Thiên-Vị vì Sợ.
b) Dosa: Sân
c) Moka: Si.
b) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
c) Avjjãsava: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
b) Citta Vipallãsa: Tâm Lầm-Lạc
c) Ditthi Vipallãsa: Kiến-Thức Lầm-Lạc.
b) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
c) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
b) Dosãgati: Tư-Vị vì Giận-Ghét
c) Mohãgati: Tư-Vị vì Si-Mê
d) Bhayãgati: Tư-Vị vì Sợ.
b) Byjãpãdakãya Gantha: Ràng-buộc vì Tâm Thù Oán,
Mong Hại người.
c) Sĩlabbattaparãmãsakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Tập Quán,
vì Chấp-Lễ Cúng Tế.
d) Idamsaccãbhinivesakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Chấp-Ý
kiến của Ta là Chân-Chánh, Chắc-Thật, còn của người
khác là Sai-Lầm.
b) Bhavogha: Vực-Thẳm Tam-Giới
c) Ditthogha: Vực-Thẳm Kiến Thức (Tà-Kiến)
d) Vực-Thẳm Vô-Minh.
b) Dithupãdãna: Cố-Chấp trong Kiến-Thức (Tà-Kiến)
c) Sĩlabbãttupãdãna: Cố-Chấp trong Tập-Quán, trong
Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh)
d) Attavãdupãdãna: Cố-Chấp trong Thân này có Bản-Ngã.
b) Kula Macchariya: Bỏn-Xẻn về Gia-Quyến, Môn Ðồ,
Ðảng-Phái,
c) Vanna Macchariya: Bỏn-Xẻn về sự khen tặng và
sắc tốt,
d) Lãbha Macchriya: Bỏn-Xẻn lợi-lộc,
e) Dhamma Macchirya: Bỏn-Xẻn Giáo-Pháp.
b) Bhavarãgãmusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-Ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-Ngầm
d) Mananusaya: Cống-Cao Ngã-Mạn Ngủ-Ngầm
e) Ditthãmusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
f) Vicikicchãmusaya: Hoài-Nghi Ngủ-Ngầm
g) Avikicchãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
b) Alãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Danh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukho: Ðược Vui
h) Dukkho: Bị Khổ.
b) Makkha: Bạc-ơn
c) Issã: Ganh-Tị
d) Macchariya: Bỏn-Xẻn
e) Mãyã: Làm Bộ, Giả-Dối
f) Sãtheyya: Khoe-Khoang
g) Musã: Nói Láo
h) Pãpicchã: Tham Muốn những điều Xấu-Xa Tội-Lỗi
i) Micchãditthi: Tà-Kiến.
b) Micchã Sankappo: Tà Tư-Duy
c) Micchã Vãcã: Tà Ngữ
d) Micchã Kammanto: Tà Nghiệp
e) Micchã Ãjivo: Tà Mạng
f) Micchã Vãyãmo: Tà Tinh-Tấn
g) Micchã Sati: Tà Niệm
h) Micchã Samãdhi: Tà Ðịnh
i) Micchã Nãnam: Tà Huệ
j) Micchã Vimutti: Tà Giải-Thoát.
b) Adinnãdãnam: Trộm-Cắp
c) Kãmesu Micchãcãro: Tà-Dâm
d) Musãvãdo: Nói Dối
e) Pisunãvãcã: Nói Ðâm-Thọc
f) Pharusavãcã: Nói Lời Ðộc Ác, Chưởi-Rủa
g) Samphapalãpo: Nói Lời Vô-Ích, Viễn-Vông
h) Abhijjhã: Tham-Lam
i) Byãpãda: Thù-Oán mong hại Người
j) Micchãditthi: Tà-Kiến.
b) Vicikicchã: Hoài Nghi (về Nhân và Quả)
c) Silabbataparãmãsa: Chấp theo Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh),
Chấp theo Tập Quán (Giới Cấm Thủ)
d) Kãmacchanda: Vui Thích Tình-Dục
e) Byãpãda: Thù-Oán, mong Hại Người
f) Rupãrãga: Mê-Thích trong Cảnh Sắc
g) Aruparãga: Vui-Thích Cảnh Vô-Sắc
h) Mãna: Ngã-Mạn, Cống-Cao
i) Uddhacca: Phóng-Tâm
j) Avijjã: Vô-Minh.
b) Dosa: Sân
c) Moha: Si
d) Manã: Ngã-Mạn, Cống-Cao
e) Ditthi: Kiến-Thức (Tà-Kiến)
f) Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân Quả, ...)
g) Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, Buồn-Ngủ
h) Uddhacca: Phóng-Tâm
i) Ahirika: Không Hổ-Thẹn Tội-Lỗi
j) Anottappa: Không Ghê-Sợ Tội-Lỗi.
b) 2 Tâm Sân-Hận: Dosamũla
c) 2 Tâm Si-Mê: Mohamũla
b) Bhavatanhã: Ái-Dục trong sự muốn sanh về cõi
Sắc
c) Vibhavatanhã: Ái-Dục muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới
2. Ãpo: Nước
3. Tejo: Lửa
4. Vãyo: Gió
5. Cakkhu: Nhãn
6. Sota: Nhĩ
7. Ghãna: Tĩ
8. Jĩvahã: Thiệt
9. Kãya: Thân
10. Rũpa: Sắc (Cảnh)
11. Sadda: Thinh
12. Gandha: Hương
13. Rasa: Vị
14. Photthabba: Xúc
15. Itthindriya: Nữ-Căn
16. Purisindriya: Nam-Căn
17. Hadaya Vatthu: Tâm Chất (Căn của Tim)
18. Jivitindriya: Mạng-Căn
Dukkha Samudaya Ariyasaccam: Tập-Ðế
Dukkha Nirodha Ariyasaccam: Diệt-Ðế
Dukkha Nirodha Gãminipatipadã Ariyasaccam: Ðạo-Ðế
Jãrã Dukkham: Khổ Già
Byãdhi Dukkham: Khổ Ðau
Marana Dukkham: Khổ Chết
Soka Dukkham: Khổ vì Buồn-Rầu, Thương-Tiếc
Parideva Dukkham: Khổ vì Khóc Than, Kể-Lể
Dukkha Dukkham: Khổ vì Sự-Khổ
Domanassa Dukkham: Khổ vì Phiền-Muộn
Upayasã Dukkham: Khổ vì Khó-Chịu, Bực-Tức
Appiyehi Sampayoga Dukkham: Khổ vì Không Ưa mà phải
Gần
Piyehi Vippayoga Dukkham: Khổ vì Thương-Mến mà phải
Xa Lìa
Yampiccham Na Labhati Tampi Dukkham: Khổ vì Muốn mà Không
Ðược như Ý (thất-vọng).
2) Bhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi trời
Sắc-Giới
3) Vibhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới.
Sammã Sankappa: Chánh Tư-Duy là suy-nghĩ chân-chánh
Sammã Vãcã: Chánh Ngữ là lời nói chân-chánh
Sammã Kammanta: Chánh Nghiệp là sự làm chân-chánh
Sammã Ãjiva: Chánh Mạng là sự nuôi mạng chân-chánh
Sammã Vãyama: Chánh Tinh-Tấn là sự cố-gắng chân-chánh
Sammã Sati: Chánh Niệm là sự ghi nhớ (Niệm) chân-chánh
Sammã Samãdhi: Chánh Ðịnh là định Tâm chân-chánh.
Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Ðịnh thuộc về phần
Ðịnh.
Chánh-Kiến, Chánh Tư-Duy thuộc về phần Huệ.
Atthakilamathãnuyoga (Khổ-Hạnh) Ép xác-thân.
- Tâm Ái-Dục phát khởi lên do Lục-Căn là Tập-Ðế.
-Trạng-thái Tâm Ái-Dục bị diệt-trừ không phát-sanh lên
được khi Lục-Căn tiếp-xúc với Lục-Trần (Sắc, Thinh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp) là Diệt-Ðế.
- Phương-Pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để
diệt Tâm Ái-Dục là Ðạo-Ðế.
- Lục-Thức bắt đầu từ Nhãn-Thức ...
- Lục-Xúc bắt đầu từ Nhãn-Xúc ...
- Lục-Thọ bắt đầu từ Nhãn-Thọ ...
- Lục-Tưởng bắt đầu từ Nhãn-Tưởng ...
- Sáu Tác-Ý bắt đầu từ Tác-Ý về Sắc-Trần ...
- Sáu Ái-Dục bắt đầu từ Sắc-Ái ...
- Sáu Tâm "Tầm" bắt đầu từ Ý Tâm
"Tầm" về Sắc-Trần ...
- Sáu Tâm "Sắc" bắt đầu từ Tâm "Sắc"
về Sắc-Trần ...
- Ngũ-Uẩn bắt đầu từ Sắc-Uẩn ...
- 10 đề Kasina (dùng nguyên-chất hoặc màu sắc làm
thành vòng tròn để làm đề-mục tham-thiền);
- 10 đề Niệm Niệm;
- 10 đề Tử-Thi;
- 32 Thể của Thân bắt đầu từ Tóc, Lông ...
- 12 Căn (12 ãyatana: 6 Căn và 6 Trần);
- 18 Bản-Chất (12 Dhãtu: Chất Nhãn, ... Chất Sắc
(Cảnh), ... Chất Nhãn-Thức vv...);
- 9 Cảnh-Giới Tái-Sanh (Bhava)
- 4 Bậc Thiền bắt đầu từ Sơ-Thiền
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)
- 4 Ðề Vô-Sắc (Không Vô-Biến-Thiên, Thức-Vô-Biến-Thiên,
Vô-Hữu Sở-Thiên, Phi-Phi Tưởng Thiên).
- Sanh là Tập-Ðế;
- Sự Diệt-Tắt của Sanh, Lão, Tử, là Diệt-Ðế;
- Phương-pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để
Diệt-trừ Sanh, Lão, Tử là Ðạo-Ðế.
updated: 18-04-2002