BuddhaSasana Home Page Phật Giáo
Nguyên Thủy Ân Đức Tam
Bảo Hòa thượng
Bửu Chơn [1.2] 3. Vijjãcaranasampanno
(Minh-Hạnh-Túc) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là Vijjãcaranasampanno (Minh-Hạnh-Túc)? Bởi Ngài đã toàn đắc: 3 cái Giác (Vijjã) Ba cái Giác (Vijjã). "Giác" hoặc
"Minh" (Vijjã) có nghiã là sự hiểu biết cùng
tột, tinh-tường. Ba cái Giác của Phật
có kể trong kinh "Bhayabhevara Sutta" (Majjhima
Nikãya) như sau: Pubbe Nivãsãnussati
Vijjã: Túc-Mạng-Minh là Tuệ
biết rõ những tiền-kiếp của Ngài và của tất-cả
chúng-sanh. Ðức Phật tri-tỏ căn
nguyên của thân Ngũ-Uẩn của Ngài từ một kiếp đến vô
số kiếp quá-khứ: trong kiếp nào Ngài sanh trong cảnh nào,
khi ấy có tên họ chi, dòng giống nào, sắc diện thế nào,
tuổi thọ được bao nhiêu, khi thác rồi sanh trong cảnh
nào... Ngài đều rõ biết từng chi-tiết như thế trong mỗi
tiền-kiếp của Ngài và luôn của mỗi chúng-sanh nữa. Ðức Phật đắc Túc-Mạng-Minh
lúc đầu hôm trong đêm thành đạo dưới cội Bồ-Ðề. Cutũpapãta Vijjã: Thiên-Nhãn-Minh có 2 nghĩa
sau đây: a) Sanh-Tử-Minh là có
nhãn-thông thấy rõ sự sanh-tử luân-hồi của chúng-sanh
đều do nghiệp (Ác hoặc Thiện) cấu-tạo nên. Chúng-sanh nào làm những
nghiệp ác do Thân, Khẩu, Ý, chấp theo tà kiến sẽ
tái-sanh trong các cảnh khổ (Duggati) là cảnh A-Tu-La,
Ngã-Quỉ, Súc-Sanh, Ðịa-Ngục. Chúng-sanh nào làm những
nghiệp lành do Thân, Khẩu, Ý, nói theo chánh-kiến sẽ
tái-sanh vào cõi Yên-Vui (Sugati) là cõi trời và cõi
người (người có nhiều hạnh-phúc). Ðức Phật thấy rõ
và biết trước cảnh-giới tái-sanh của mỗi chúng-sanh
tùy theo nghiệp dữ hoặc lành mà chúng-sanh ấy đã tạo. b) Thiên-Nhãn-Thông
là có nhãn-thông thấy rõ tất-cả Chư-Thiên, nhân-loại
và các vật. Dầu sâu dưới đất,
trong lòng núi hay bị che-án, dầu hữu-hình hoặc vô-hình,
dầu gần hoặc xa đến đâu, Ngài cũng đều thấy rõ như
ngay trước mắt. Nhưng đây chỉ nói đến
Sanh-Tử-Minh là cái Minh mà Ðức Phật đã đắc vào khoảng
giữa đêm Ngài thành đạo. Asavakkhaya Vijjã: Lậu-Tận-Minh là Tuệ
biết rõ các Pháp Trầm-Luân mà diệt tận. Pháp Trầm-Luân
(ãsava) có 4: a) Kãmãsava: Trầm-Luân
trong Ái-Dục Riêng về Ái-Dục, Ðức
Phật đã thấy rõ, hiểu biết tường-tận đây là Khổ, đây
là nguyên-nhân phát-sanh sự Khổ, đây là nơi diệt Khổ, đây
là con đường đi đến nơi diệt Khổ. Về các Pháp Trầm-Luân
khác là Tam-Giới, Tà-Kiến, Vô-Minh, Ngài cũng hiểu thấy rõ-rệt,
Pháp này là Pháp Trầm-Luân, Pháp này là nhân sanh sự Trầm-Luân,
đây là nơi diệt Pháp Trầm-Luân, đây là phương-pháp diệt
trừ Pháp Trầm-Luân. Ðức Phật đắc Lậu-Tận-Minh
vào lúc rạng đông đêm thành đạo. Ðạo quả viên thành,
Ngài thành bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác là bậc tối-thượng,
thầy cả Chư-Thiên và nhân-loại, là bậc xứng-đáng cho
chúng-sanh tôn-trọng, lễ-bái cúng-dường. Năm cái
Giác (hoặc Minh). Ngoài 3 cái Giác vừa kể
trên, Ðức Phật còn đắc 5 cái Giác khác (hoặc Minh), có kể
trong Kinh "Ambattha Sutta " thuộc bộ Trường-A-Hàm
"Dĩgha Nikãya". Năm cái Giác ấy là: Vipassanã Vijjã: Minh-Sát-Minh là tuệ
Quán-tưởng các Pháp hành (Sankhãra) là Danh và Sắc (Nãma
Rũpa) theo 10 Pháp Minh-Sát (Vipassanã) (Xin xem giải rộng
trong quyển "Thanh-Tịnh-Kinh" của Ðại-Ðức Hộ-Tông): Sammasanannãna:
Huệ Quán-Tưởng các Danh và Sắc đều Vô-Thường, Khổ-Não,
Vô-Ngã, đúng theo thật tướng.
Udayabbayannãna:
Huệ Quán-Tưởng sự tan rã, phân tán của Danh-Sắc. Bhangannãna:
Huệ Quán-Tưởng sự tan rã, phân-tán của Danh-Sắc.
Bhayannãna:
Huệ Quán-Tưởng cho thấy Danh-Sắc đáng ghê-sợ như là
thú dữ. Adinavannãna:
Huệ Quán-Tưởng cho thấy rõ tội-lỗi của Danh-Sắc như
người thấy nhà mình bị lửa cháy, tìm đường thoát ra
cho khỏi.
Nibbidãnnãna:
Huệ Quán-Tưởng cho phát sanh lòng chán-nản Danh-Sắc. Muncitukamyatãnnãna:
Huệ Quán-Tưởng cho phát sanh Tâm mong mỏi thoát khỏi
Danh-Sắc, cũng như cá mắc lưới muốn thoát thân, như kẻ
tù-tội muốn lìa khỏi cùm-xích lao-tù.
Patisankhãrannãna:
Huệ Quán-Tưởng tìm phương thế giải-thoát khỏi Danh-Sắc. Sankhãrupekkhã Nãna:
Huệ Xả là không còn chấp Danh-Sắc nữa, không vui, không
buồn ví như người bỏ hẳn vợ, chẳng còn mến tiếc nữa,
dầu người vợ ấy có tư-tình với người nào mình cũng
thản-nhiên.
Anulomannãna:
Huệ Thấy Rõ và dốc lòng thực-hành xuôi theo Thánh-Ðạo. Minh-Sát ẩn tàng trong
tâm Ðức Phật từ khi Ngài chưa xuất-gia tầm đạo, nhưng
lúc ấy chưa được uyên-viễn tinh-vi. Chính nhờ cái Minh còn
thô-thiển ấy mà khi còn là Thái-tử Sĩ-Ðạt-Ta, Ngài đã
nhận-thức được những điều thống-khổ của sự Già,
Ðau, Chết khi trông thấy một người già, một bệnh nhân,
một tử-thi trong lúc Ngài đi du-ngoạn ngoài thành. Lúc trở
về nội cung, Ngài suy-xét mãi về cái thân Ngũ-Uẩn Vô-Thường,
phát Tâm chán-nản thế-sự phù-du, quả-quyết cắt-ái
ly-gia mong tìm đường giải-thoát. Minh-Sát-Minh là cái
Giác đầu tiên trong 8 cái Giác mà Ðức Phật đã đắc vì
nhờ Minh-Sát-Minh mà Ngài mới hoàn-toàn tri-tỏ lý Tứ-Diệu-Ðế. Sau khi cảm thắng Ma-vương
dưới cội Bồ-Ðề do nhờ 10 Pháp Ba-La-Mật, Ngài liền nhập
Diệt-Thọ-Tưởng-Ðịnh (Samãpatti) lúc xuất-định,
Ngài dùng Minh-Sát-Minh chiếu vào các Pháp hành (Hữu-Vi) và
thấy rõ Danh-Sắc đều là Vô-Thường (Aniccam), Khổ-Não
(Dukkham), Vô-Ngã (Anattã), Ngài ví Ngũ-Uẩn theo Lý
Tứ-Diệu-Ðế như vầy: Khổ-Ðế: Ngũ-Uẩn là
chúa-tể các sự khổ rất đáng sợ ví như 5 kẻ nghịch
hung-bạo. Khi tìm thấy căn-nguyên
của sự khổ và phương-Pháp diệt-tận sự khổ bằng
Minh-Sát-Minh rồi, Ðức Bồ-Tát mới xa-lìa được 3 cái Sử
(Samyojana): Pháp thằng-thúc đầu tiên là Thân-Kiến (Sakkãya
Ditthi), Hoài-Nghi (Vicikicchã) và Giới-Cấm-Thủ (Silibbattaparãmãsa:
Chấp theo tập-quán, theo lệ cúng-tế thần-thánh) bằng
Tu-Ðà-Hườn Ðạo-Tuệ (Sotãpatthi Maggannãna). Rồi Ngài xa-lìa cái
thô-siển của 2 Sử nữa là: Vui thích Tình-Dục (Kãmacchanda)
và Thù Oán, Mong Hại người (Byãpãda) bằng
Tu-Ðà-Hàm Ðạo-Tuệ (Sakidãgãmi Maggannãna). Ngài lại xa-lìa cái
vi-tế của 2 sử kể trên và diệt-tận trọn-vẹn cả 2 sử
ấy bằng A-Na-Hàm Ðạo-Tuệ (Anãgãmi Maggannãna). Kế tiếp, Ngài xa-lìa
cả 5 sử cuối-cùng là: Rũparãga:
Vui-Thích cảnh Sắc
bằng A-La-Hán Ðạo-Tuệ
(Arahatta Maggannãna). Phiền-Não chướng ngại
đã xa-lìa, Thân Tâm Bồ-Tát trở nên hoàn-toàn trong sạch,
A-La-Hán quả phát-sanh lên và 7 cái Giác khác cũng tuần tự
khởi-phát lên tròn đủ đến Tâm Ngài. Manomayiddhi Vijjã: Hóa-Tâm-Minh là cái
Tâm có thể biến Tâm mình ra thành thân-hình như ta rút cái
tim của cây cỏ ống ra khỏi cộng vậy. Ðức Phật dùng Tâm lực
tự hóa ra khi thì làm người già, lúc thì làm người trẻ...
biến hiện dưới hình thể, khác nhau tùy theo ý-muốn của
Ngài. Idhividhi Vijjã: Thần-Thông-Minh là cái
Minh có thể dùng các Pháp thần-thông. Ðức Phật có thể
biến-hóa một người thành ra nhiều người hoặc nhiều
người thành ra một người. Ngài có thể
tàng-hình, độn-thổ, đi trên nước như trên đất bằng,
đi ngang qua vách núi như đi trong khoảng trống, ngồi xếp bằng
bay trên hư-không, lấy tay rờ mặt trời mặt trăng, làm cho
đường gần thành ra xa, xa thành gần, vật này biến thành
vật khác, vv... Dibbasota Vijjã: Thiên-Nhĩ-Minh là cái
Minh có thể nghe các thứ tiếng, dầu xa, dầu gần. Ðức Phật
có thể nghe tiếng các loài (Noãn, Thai, Thấp, Hoá) nhất là
loài người và Chư-Thiên, dầu tiếng ấy ở xa đến đâu
Ngài cũng nghe được cả. Cetopariya Vijjã: Tha-Tâm-Thông là Tuệ
biết rõ ý-tưởng hoặc tâm-thức của người khác. Ðức
Phật đã biết rõ Tâm của tất-cả chúng-sanh: Tâm người
này còn Tham, Sân, Si; Tâm người kia đã dứt Phiền-Não; người
này đang tưởng điều Ác; người kia đang nghĩ điều Lành.
Nhờ cái Minh ấy mà ai đến gần, Ngài liền biết rõ người
ấy muốn tìm Ngài để làm gì, hỏi chi, vv... Năm cái Giác vừa kể
trên hiệp với 3 cái Giác đã giải phía trước, thành ra 8
cái Giác (hoặc Minh) mà Ðức Phật đã đắc. Hạnh (hoặc Hành: Carana). Hạnh (hoặc
Hành: Carana) là phương-pháp mà bậc phạm hạnh phải
hành theo để đi đến nơi giải-thoát là Niết-Bàn. Pháp Hành có 15: a) Sĩla Samvara:
Thu-Thúc theo Giới-Hạnh là giữ Tứ-Thanh-Tịnh-Giới (Patimokkha)
cho trọn-vẹn Tinh-Nghiêm. b) Indriya Samvara:
Thu-Thúc Lục-Căn cho Thanh-Tịnh là giữ Tâm cho bình-thản
không vui, không buồn, không cho cảnh trần chi-phối khi Lục-Căn
tiếp-xúc với Lục-Trần. c) Bhojan Mattannutã:
Có sự Tiết-Ðộ trong vật thực là không độ nhiều quá
hoặc ít quá, chỉ độ một buổi ngọ thôi. d) Jãgariyãnuyoyo:
Luôn Luôn giữ Tâm-Thần Tỉnh-Táo không uể-oải là hằng
Thức-Tỉnh, không Mê Ngủ. e) Saddhã: Có Ðức-Tin
Chân-Chánh là tin Lý Nhân-Quả (tin Nghiệp và tin Quả), tin
nơi sự Giác-Ngộ của Ðức Phật và tin nơi 37 phần-Pháp
Bồ-Ðề. f) Sati Sampajanna:
Có sự Ghi Nhớ Chân-Chánh và biết mình là Ghi Nhớ theo Tứ-Niệm-Xứ
(Niệm-Thân, Niệm-Thọ, Niệm-Tâm, Niệm-Pháp) và biết rõ
những hành-vi của mình về Thân, Khẩu, Ý. g) Hiri: Hổ-Thẹn
Tội-Lỗi đã làm. h) Ottappa: Ghê-Sợ
Tội-Lỗi, không dám tái phạm. i) Bãhusacca:
Nghe nhiều, Học Rộng (về Kinh, Luật, Luận và về các
Pháp Giải-Thoát). j) Viriya: Có sự
Tinh-Tấn đúng theo Tứ-Chánh-Cần (Samappadhãna): Cố-gắng diệt-trừ
các Pháp Ác đã phát sanh nơi Thân-Tâm. k) Pathama Jhãna:
Hành theo Sơ-Thiền. l) Pannã: Có
Trí-Tuệ hiểu biết thấy chân-chánh, là hiểu thấy theo 3
thật tướng của vũ-trụ (Vô-Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã)
theo lý Tứ-Diệu-Ðế. m) Dutiya Jhãna:
Hành Nhị-Thiền. n) Tatiya Jhãna:
Hành cho đắc Tam-Thiền. o) Catuttha Jhãna:
Hành cho đắc Tứ-Thiền. Nhờ toàn đắc 8 cái
Giác mà Ðức Phật phát-sanh Trí-Tuệ Vô-Biên, nhờ
hành viên mãn 15 cái hạnh mà Ngài phát Tâm Ðại-Bi Vô-Lượng. Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức
Phật đã tự mình đến bờ Giác-Ngộ, nhờ lòng Ðại-Bi
mà Ngài dắt-dẫn chúng-sanh đến bờ Giải-Thoát. Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức
Phật đã chứng bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác, nhờ lòng Ðại-Bi
mà Ngài thực-hành trọn-vẹn phận-sự của một bậc
Chánh-Biến-Tri. Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức
Phật tri-tỏ Pháp nào có sự lơị-ích; Pháp nào có sự
nguy-hại đến chúng-sanh, nhờ lòng Ðại-Bi mà Ngài khuyên bảo
chúng-sanh lánh xa những điều tội-lỗi, khuyến-khích
chúng-sanh làm những điều lành. Nói tóm lại: Do nhờ 8
cái Giác và 15 cái Hạnh của Ðức Phật mà các hàng tứ-chúng
môn-đệ của Ngài được dắt-dẫn chu-đáo trên con đường
chân-chánh, lánh xa những con đường sai-lầm như tu khổ-hạnh,
tà-kiến, lợi-dưỡng, vv... Do nhờ những Ân-Ðức
Cao-Quí vừa giải phía trên, nên Ngài có hiệu là VIJJãCARANASAMPANNO
(Minh-Hạnh-Túc). 4. Sugato (Thiện-Thệ) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là SUGATO (Thiện-Thệ)? - Bởi ngài: * Có sự hành-trình
Toàn-Hảo (Sobhana Gamana) Sự hành-trình Toàn-Hảo. Sự hành-trình Toàn-Hảo
đây, ý nói có 4 điều: Tướng đi đẹp-đẽ. Ðức Phật có tướng
đi vừa oai-hùng, vừa trang-nghiêm tề-chỉnh, khiến cho
chúng-sanh trông đến phải ngưỡng-mộ, tôn-kính và
vui-thích nhìn xem. Sau khi thành-đạo dưới
cội Bồ-Ðề, Ngài cất bước thẳng tiến về phía vườn
Lộc-Giả (Isipatana) để độ năm thầy Kiều-Trần-Như,
có vô số Chư-Thiên và cầm-thú trông thấy diện-mạo
quang-minh hào quang rực-rỡ và tướng đi trang-nghiêm đẹp-đẽ
của Ðức Phật, đồng thanh phát Tâm thỏa-thích hoan-hô
ca-tụng. Từ trên không, Chư-Thiên rắc hoa thơm ngào-ngạt
và phổ tấu những bản nhạc du-dương cúng-dường tùng bước
đi của Ngài. Dưới trần, muôn thú hân-hoan theo gót chân
Ngài, chim chóc bay lượn, hót mừng ca tụng đấng Ðại-Bi...
Vạn-vật như bừng lên một ánh-sáng huy-hoàng và rộn-rịp
lên một niềm hân-hoan đón chào đấng Cứu-Thế, từ đây
châu-du trọn 45 năm trường tế-độ quần-sanh... Lại nữa, mỗi khi Ðức
Thế-Tôn ngự đến xóm làng nào, đều có Chư-Thiên và đông
người cung-kính đi theo nhìn xem tướng trang-nghiêm tốt-đẹp
phát sanh Tâm ngưỡng-mộ tôn-sùng. Cần nói thêm rằng có
nhiều hạng chúng-sanh sùng-bái tôn-kính Ðức Phật vì Ngài
có 4 Pháp Chan-Hòa (Pamãna) nghĩa là dồi-dào lai-láng sự
tốt-đẹp, cao-quí như sau đây: a) Sắc Chan-Hòa (Rũpa
Pamãna): Dung-nhan Ngài tốt-đẹp phi-phàm trọn đủ 32
tướng hảo và 80 tướng phụ (xem giải rộng trong quyển
"32 tướng Ðức Phật" của Ðại-Ðức Bửu Chơn),
Chư-Thiên và Nhân-loại không ai sánh bằng. b) Pháp Chan-Hòa (Dhamma
Pamãna): Các Pháp mà Ngài đã tỏ-ngộ thật vi-diệu thậm-thâm
và đúng chân-lý, các bậc thiện trí-thức khác không thể
sánh bằng. c) Thinh Chan-Hòa (Gosa
Pamãna): Tiếng nói của Ngài thanh-tao, vang ngân như tiếng
của trời Phạm-Thiên và êm dịu rõ-ràng như tiếng con
chim quốc (Karavika) d) Tâm Vui Thích
Bình-Ðẳng Chan-Hòa (Luka Pamãna): Ngài có Tâm bình-đẳng,
dầu bậc Vua chúa hoặc thường dân, người giàu sang hoặc
kẻ bần hàn đem vật chi đến cúng dường, Ngài cũng đều
thọ-lãnh một cách vui-vẻ hồn-nhiên không phân biệt
giai-cấp của thí chủ và vật cúng cao quý hay thấp-hèn. Vì thế, nên có người
phát Tâm hoan-hỷ, ưa thích sắc tướng đẹp-đẽ phi-phàm của
Ðức Thế-Tôn rồi xuất-gia vào tu theo Giáo-Pháp hoặc tin lời
giáo-huấn của Ngài mà làm điều phước thiện. Có người cảm mến Ngài
vì những Pháp hợp-lý, cao-thượng, chân chánh mà Ngài đã
giảng dạy rồi trở thành môn-đồ của Ngài. Có người ưa-thích tiếng
nói tao-nhã êm-ái của Ngài rồi tu theo Ngài. Có người lại mến Tâm
bình-đẳng của Ngài trong sự thọ-nạp vật-dụng cúng-dường
rồi thọ-giáo với Ngài. Do nhờ 4 "Pháp
Chan-Hòa" cao-quí vừa kể trên mà Ðức Thế-Tôn ngự đến
nơi nào, cũng hằng làm cho đại chúng phát Tâm tín-ngưỡng
sùng mộ Ngài. Chúng-sanh nào chưa có
đức-tin nơi Tam-Bảo, khi gặp Ngài rồi liền phát lòng cảm-mến
tin-tưởng. Chúng-sanh nào đã tu
theo Giáo-Pháp của Ngài rồi, khi nghe Ngài thuyết-Pháp, hoặc
nhìn sắc thân, hoặc nghe tiếng nói, hoặc cảm-thông Tâm
bình đẳng của Ngài, lại càng có đức tin dũng-mãnh và thực-hành
tinh-tấn nhưng Pháp mà Ngài đã giáo-huấn. Ði đến nơi trong sạch. Ðức Phật hằng đi đến
nơi trong sạch vì nơi nào dầu ô-uế nhơ-bẩn đến đâu,
khi Ngài ngự đến đều trở nên sạch-sẽ vui-tươi. Như tích xưa, thành
Vesãli bị bọn phi-nhân là Ngạ-Quỉ, dạ-xoa... hoành-hành,
gieo rắc bệnh dịch-hạch làm cho dân chúng chết-chóc vô-số
đến nỗi không kịp chôn, mùi tử-khí xông lên nồng-nặc.
Trước khi Ðức Thế-Tôn ngự đến thành ấy, Chư-Thiên hay
biết liền tuôn một đám mưa lành rất lớn, quét tan các
hàng phi-nhân và mùi tử-khí thành Vesãli trở nên sạch-sẽ
an-lành. Ði con đường chân-chánh. Ðức Phật đã đi con
đường chân-chánh, thanh-tịnh là Thánh-Ðạo (Ariya Magga),
không hề quay lại tìm các Phiền-Não trọng-đại và thụy-miên
mà Ngài đã diệt-trừ do nhờ đạo-quả Tu-Ðà-Hườn, Tu-
Ðà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán. Con đường chân-chánh
ấy trọn 4 A-Tăng-Kỳ và 100 ngàn đại-kiếp quả địa cầu,
Ðức Thế-Tôn đã đi từ lúc còn là Bồ-Tát, được Ðức
Phật Nhiên-Ðăng (Dipankãra) thọ-ký cho đến khi thành
bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác dưới cội Bồ-Ðề với hoài-bảo
thiết-tha cứu-vớt nhân-loại ra khỏi mê-tận khổ-ải,
Ngài đã hành viên-mãn 30 Pháp Ba-la-mật và đã gian-lao khổ-nhọc
trên con đường trung-đạo, không thiên về những quan-niệm
cực-đoan là "Lợi-Dưỡng" và "Khổ-Hạnh",
"Thường-Kiến" và "Ðoạn-Kiến". Ði đến nơi an-lạc. Ðức Phật đã đi đến
nơi an-lạc, vô sanh bất-diệt là Ðại Niết-Bàn. Trước ngày thành-đạo,
Ngài chưa tùng đến nơi tịch-tỉnh ấy, nhưng Ngài không mảy-may
e-ngại, vì Thân-Tâm đã được hoàn-toàn trong sạch thanh-tịnh,
không còn Phiền-Não. Phiền-Não nào Ngài đã diệt-tận rồi,
Phiền-Não ấy không còn trở lại Tâm Ngài và Ngài cũng không
bao-giờ quay lại tìm Phiền-Não ấy. Ngôn-ngữ chân-chánh. Ngôn-ngữ chân-chánh,
ý nói: Những huấn-từ chân-thật đúng theo Giáo-lý, nhằm
vào sự lợi-ích và sự giải-thoát của chúng-sanh mà Ðức
Phật thốt ra tùy theo trường hợp và tùy theo hoàn-cảnh
thích-đáng. Ngài hiểu biết tường-tận
lời nào theo chân-lý hoặc không đúng theo chân-lý, lời
nào có lợi-ích hoặc không có lợi-ích, lời nào vừa lòng
thích-ý chúng-sanh. Lời nào không đúng
theo chân-lý, không lợi-ích và không vừa lòng chúng-sanh,
Ngài không bao giờ thuyết. Lời nào đúng theo
chân-lý nhưng không có lợi-ích và không vừa lòng
chúng-sanh, Ngài không bao giờ thuyết. Lời nào đúng theo
chân-lý, có lợi-ích nhưng không vừa lòng chúng-sanh, Ngài
biết tùy cơ-hội thuận-tiện để thuyết. Lời nào không đúng
theo chân-lý nhưng không có lợi-ích, dầu vừa lòng
chúng-sanh, Ngài không bao giờ thuyết. Lời nào đúng theo
chân-lý, có lợi-ích và vừa lòng chúng-sanh, Ngài biết lựa
cơ-hội thuận-tiện để thuyết. Như một ngày nọ, đi
ngang qua cánh rừng nhỏ gần thành Kosambi, Ðức Thế-Tôn cầm
một nắm lá trong tay và phán hỏi Ðức A-Nan như vầy: "Này A-Nan lá cây
mà Như-lai nắm trong tay đây và lá cây trong rừng này, lá
nào nhiều hơn?" Ðức A-Nan-Ða bèn bạch
rằng: "Bạch Ðức Thế-Tôn!
lá cây mà Ðức Thế-Tôn nắm trong tay rất ít, lá cây trong
rừng thật là nhiều". Ðức Phật mới phán rằng: "Này A-Nan-Ða! cũng
như thế ấy, những Pháp mà Như-lai đã thấy rõ, biết rõ
thật là nhiều ví như lá cây trong cánh rừng này, còn
những Pháp mà Như-lai đã thuyết ra cho chúng-sanh được biết,
chỉ ít-ỏi như nắm lá trong tay Như-lai vậy". "Tại sao thế?" "Bởi vì các Pháp
mà Như-lai không thuyết ra là những Pháp không đem lại sự
lợi-ích, không liên-hệ chi đến sự hành phạm-hạnh, đến
sự diệt-tận Phiền-Não, đến sự yên-lặng của Tâm-hồn,
đến sự phát-sanh Trí-Tuệ viên-dung về Niết-Bàn. Vì vậy,
Như-lai không thuyết ra. Còn các Pháp mà Như-lai
đã thuyết là những Pháp chỉ rõ đây là khổ, đây là
nguyên-nhân phát-sanh sự khổ, đây là nơi diệt-khổ và đây
là con đường đi đến nơi diệt-khổ. Vì các Pháp ấy đem
lại sự lợi-ích liên-hệ đến đời sống thanh-cao, đến
sự diệt-tận Phiền-Não, đến sự yên-lặng của Tâm-hồn,
đến sự phát-sanh Trí-Tuệ viên-dung đến Niết-Bàn". Như thế, ta nhận thấy
rằng mặc dầu Ðức Phật đã hiểu biết tường tận Vô-Lượng
Pháp, nhưng Ngài chỉ phổ-cập những Pháp nào đúng theo
chân-lý và đem sự lợi-ích và sự giải-thoát đến cho chúng-sanh
thôi. Do nhờ những Ân-Ðức
cao-quí vừa kể trên nên Ngài có hiệu là SUGATO (Thiện-Thệ). 5. Lokavidu (Thế-Gian-Giải) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải)? Bởi Ngài thông suốt cả
Tam-Giới. "Tam-Giới" nghĩa là 3 cảnh giới mà
chúng-sanh đi thọ sanh: - Kãmabhava: Dục-Giới Dục-Giới là cảnh giới
mà chúng-sanh còn vui thích, ưa-muốn Ngũ-Trần là Sắc-Trần,
Thanh, Hương, Vị, Xúc. Dục-giới gồm 11 cõi là Ðiạ-Ngục,
A-Tu-La, Ngã-Quỉ, Súc-sanh, Nhân-loại, và 6 cõi trời Dục-Giới. Sắc-Giới là cảnh mà
chúng sanh hưởng sự an-vui do nơi quả-phúc của Thiền-Ðịnh
Hữu-Sắc. Tùy theo năng lực của bậc thiền đã đắc tại
cõi-trần, các vị đã đắc từ Sơ-Thiền đến Ngũ-Thiền
tái- sanh về 16 cõi trời Sắc-Giới không còn phân-biệt nam
nữ và sống lâu từ một phần ba (1/3) kiếp đến 16.000 kiếp
quả địa cầu. Vô-Sắc-Giới là cảnh
giới mà chúng-sanh không còn có sắc-tướng nữa, chỉ còn
Tâm tinh-khiết, không nhơ-bẩn. Các vị trời này đã đắc
4 bậc thiền Vô-Sắc khi còn làm người ở cõi trần,
tái-sanh về 4 cõi Vô-Sắc và tuổi thọ từ 20.000 kiếp đến
84.000 kiếp quả địa cầu. Trong Tam-Giới vừa kể,
có cõi chúng-sanh chỉ có Nhất-Uẩn, cõi có Tứ-Uẩn và
cõi có đủ Ngũ-Uẩn nhưng không thoát khỏi sự thọ-sanh do
4 cách là Noãn-Thai, Thấp-Hóa và vẫn còn dính mắc mãi
trong vòng sanh-tử luân-hồi. Tam-Giới thuộc về thế-gian
còn xuất thế-gian là Niết-Bàn. Pháp nào có sanh và có
diệt, thể-trang nào bị chi-phối bởi lẽ vô-thường là phải
bị tiêu-hoại tan-rã gọi là thế-gian (Loka). Thế-gian có 3: Sankhãra Loka:
Pháp Hành Thế-Gian
Pháp hành thế-gian. Ðức Phật thông-suốt
các Pháp-hành (là những pháp-hữu-vi, phát sanh lên do
nhân-duyên tạo-tác khác nhau) thế-gian kể sau đây: 1. Ãhãrasankhãra
Lakam: tất cả chúng-sanh đều nhờ thực-phẩm mà tồn-tại. 2. Nãmarũpa Sankhãtam: - Nãma: Danh gồm
có: (Xem chi tiết
"Tâm Vướng" "Tâm Sở" và 24 Phụ-Sắc
trong quyển Vi-Diệu-Pháp của Ðại-Ðức Hộ-Tông) - Rũpa: Sắc gồm
có 4 Tứ Ðại-Sắc (Mahãbhũta Rũpa) là Ðất, Nước,
Gió, Lửa ; và 24 Phụ-Sắc (hoặc liên kết sắc: Upãdãya
Rũpa). Danh-Sắc cùng hiệp với
nhau, nương với nhau thành lập nên thân hình hữu-trí được.
Ví như chiếc thuyền và người lái thuyền, chiếc thuyền
nhờ có người lái mới đi được. Hoặc như người bại và
người mù, người bại nhờ chân của người mù, người mù
nhờ mắt của người bại mới có thể đi và thấy đường
được. 3. Tividhavedanã
Sankhãtam: Tam Thọ Hành vi: - Thọ Vui 4. Caturãhãra
Sankhãtam: Hành vi bốn món vật thực là: a) Kabalinkãrãhãra:
Vật thực hữu-hình như cơm, bánh trái... gồm có tứ đại,
màu sắc, mùi, vị và chất bổ dưỡng. b) Phassãhãra: Vật
thực tiếp xúc là sự tiếp xúc Lục-Căn và Lục-Trần
làm cho Thọ (Vedanã) phát sanh lên. c) Manosancetanãhãra:
Tác-ý Thiện, Ác là vật thực dễ đưa đi tái-sanh trong
Tam-Giới. d) Vinnãnãhãra:
Tâm thức là vật thực dễ phát sanh Danh-Sắc trong Lục-Thọ-Sanh. 5. Pancupãdãnakkhandhã
Sankhãtam: Hành-vi-thủ (Upãdãnã) là cố chấp, giữ
chặt 5 Uẩn: Sắc-Uẩn, Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn
và Thực-Uẩn cho là Ta, là thân Ta, là của Ta. 6. Chãjjhattikãyatana
Sankhãtam: Hành-vi Lục-Căn (ãyatana) là Nhãn-Căn,
Nhĩ-Căn, Tỉ-Căn, Thiệt-Căn, Thân-Căn và Ý-Căn 7. Sattavinnãnatthiti
Sankhãtam: Hành-vi về chỗ trú ngụ của thức có: a) Nãnattakãyã
Nãnattasanni: Có chúng-sanh thân hình khác nhau và tư-tưởng
cũng khác nhau (như Nhân-Loại, Chư-Thiên, Ngã-Quỉ) b) Nãnattakãyã
Ekattasanni: Có chúng-sanh thân hình khác nhau nhưng tư-tưởng
giống nhau (như Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-Giới thuộc hạng
Sơ-Thiền là Hành-Kiến-Thiên (Parisajjã), Hành-Thần-Thiên
(Parohitã) và Ðại-Phạm-Thiên (Mahã Brahmã) c) Ekatta Kãyã
Nãnattasanni: Có chúng-sanh thân hình giống nhau nhưng
tư-tưởng khác nhau (như Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-Giới
thuộc về hạng Nhị-Thiền là: Parittãbhã:
Thiều-Quang-Thiên
d) Ekattakaya
Ekattasanni: Có chúng-sanh thân hình giống nhau và tư-tưởng
cũng giống nhau. Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-giới thuộc hạng
Tam-Thiền là: Paritta Subhã:
Thiều-Hảo-Thiên
Và Chư-Thiên trong 5
cõi Tịnh-Cư-Thiên (Suddhãvãsa) thuộc về Tứ-Thiền
là chỗ ngụ của các bậc A-Na-Hàm đã diệt lòng tham muốn
cảnh dục, chờ đắc A-La-Hán nhập Niết-Bàn luôn nơi
ấy chớ không trở lại cõi trần nữa nên gọi là hạng
bất lai. Năm cõi Tịnh-cư-thiên là: Avihã:
Vô-Phiền-Thiên
e) Akasanancayatana:
Có chúng-sanh mà tư-tưởng vượt qua khỏi cảnh Sắc, nhập
vào cõi Vô-Sắc thứ nhất là "Không Vô-Biến-Thiền",
lấy hư không vô tận làm cảnh Giới. f) Vinnãnancãyatana:
Có chúng-sanh tư-tưởng vượt qua cõi "Không Vô-Biến-Thiền",
nhập vào cõi Vô-Sắc thứ nhì là "Thức Vô-Biến-Thiền",
lấy Thức vô-tận làm cảnh Giới. g) Akincannãyatana:
Có chúng-sanh tư-tưởng vượt qua khỏi "Thức Vô-Biến-Thiền",
nhập vào cõi vô-sắc thứ ba là "Vô-Hữu-Sơ-Thiền",
lấy "sự không có vật chi cả" (dầu vật chi hết
sức nhỏ-nhen vi-tế cũng không có) làm cảnh Giới. 8. Atthalokadhamma:
Hành-Vi Tâm của phàm nhân luôn luôn bị 8 pháp thế-gian
chi-phối, ám-ảnh: a) Lãbho: Ðược
Lợi 9. Navasattavasa
Sankhatam: Hành-Vi về chỗ trú-ngụ của chúng-sanh có 9. Bảy chỗ trú ngụ của
Thức vừa kể trên thêm 2 cõi trời sau đây nữa là 9: Cõi trời Sắc-giới
Vô-tưởng-thiên (Asannisatta) thuộc về Tứ-thiền. 10. Dasãyatana
Sankhãtam: Ngũ-Căn và Ngũ-Trần. a) Cakkhavãyatana:
Nhãn-căn 11. Ekãdasavithãrammana
Sankhãtam: 11 cái Tâm duyên theo cảnh giới bên ngoài đưa
đến. a) Somanassanãna
Sampayutta: Tâm Vui Thích phối-hợp với cảnh giới có
luôn cả Trí-Tuệ, sự Vui Thích có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng. 12. Ovãdasayatana
Sankhãtam: Lục-Căn và Lục-Trần: - Ngũ-Căn vừa kể trên
thêm Ý-Căn (Manãyatana) là 6. 13. Terasahasanacitta
sankhãtam: 13 cái Tâm Vui Thích là: a) Lobhasomanassa:
4 Tâm Tham luôn cả ý Vui Thích 14. Cuddasacittuppãda
Sankhãtam: 14 Ác-Tâm là: a) Moho: Si mê 15. Addhãrasadhatu
Sankhãtam: 18 Bản-chất là. a) Cakkhu Dhãtu:
Chất-Nhãn (Thị-giác quan) Chúng-sanh Thế-gian (Satta
Loka). Ðức Phật thông-suốt
Tâm-tánh của tất cả chúng-sanh như sau đây. 1. Sabbasattãnam Asayam:
Ngài hiểu biết tường-tận nước Tâm của chúng-sanh, nghĩa
là các pháp thường trụ trong thâm-tâm mỗi chúng-sanh như vậy: - Thường-Kiến (Sassata
Ditthi) và Ðoạn-Kiến (Uccheda Ditthi) hằng trụ
trong Thân Tâm các hạng phàm-nhân, - còn 10 Minh-Sát-Tuệ
(Vipassanãnãna) và Chân-Như Tuệ (Yathãbhũtanana)
hằng trụ trong Thân Tâm các bậc Thánh-Nhân. 2. Anusayam: Ngài
thông-hiểu các Phiền-Não Ngủ-Ngầm trong Tâm chúng-sanh chờ
dịp phát khởi lên có 7: a) Kãmarãgãnusaya:
Tình-Dục Ngủ-ngầm (Ngũ-Trần) 3. Caritram: Ngài
biết rõ 6 tính chất (Carita) của chúng-sanh là: a) Rãgacarita:
Tính Tham là tính nhiều Ái-Dục, ưa thích sắc tốt, tiếng
hay... 4. Adhimittam: Ngài
biết rõ Tâm chúng-sanh nào ưa thích những pháp cao-thuợng
hoặc thấp-hèn, ưa thích phước hay tội. 5. Apparajjakkhe Mahãrajjakkhe
Satte: Ngài thông hiểu chúng-sanh nào có nhiều bụi-trần
hoặc ít bụi-trần trong con mắt nghĩa là có nhiềư tình-dục
hoặc ít tình-dục. 6 . Tikkhindriye
Satte Muddindriye Satte: Ngài tri tỏ chúng-sanh nào có bản-căn
tinh nhuệ Thượng-Căn, Thượng-Trí hay Hạ-Căn, Hạ-Trí . Ngũ-căn
tinh-thần là: a) Saddhindriyam:
Tín-Căn 7. Svã Kare Satte
Dvãkãre Satte: Ngài biết rõ chúng-sanh nào có phẩm-hạnh
thanh-cao lánh xa điều ác hoặc nết-hạnh xấu hèn thích điều
tội-lỗi. 8. Suvinnãpaye Satte
Duvinnãpaye Satte: Ngài biết tường-tận chúng-sanh nào nhiều
Trí-Tuệ, mau thông hiểu các Pháp hoặc ít Trí-Tuệ khó
thông hiểu các Pháp. 9. Bhabbãbhabbe Satte:
Ngài tri tỏ chúng-sanh nào có duyên-lành, có thể giác-ngộ
đạo-quả hoặc không có duyên-lành, không thể giác-ngộ đạo-quả: a) Chúng-sanh nào trong
Tâm còn nhiều Ái-Dục (Tanhã), nhiều Phiền-não (Kilesa),
nhiều Tà-kiến (Micchã Ditthi) là những Pháp Ngăn-Cản
(ãvaram Dhamma) thiện-duyên khó có thể đắc đạo-quả
Niết-Bàn được: Ái-Dục trong Ngũ-Uẩn
có 5: Rũpa Tanhã:
Sắc-Ái
Phiền-não có 10: Lobha:
Tham-Lam
Tà kiến chia ra 2 loại
(xem giải rộng trong quyển "Tà-Kiến và Chánh-Kiến"
của Ðại-Ðức Bửu-Chơn): Sassatã Ditthi:
Thường-Kiến là sự hiểu biết cho rằng trời, người
hay thú khi mãn kiếp này cũng tái-sanh y như trước vậy,
chớ không hề tiến-hóa hoặc thối-hóa
Akiriyã Ditthi:
Vô-Hành-Kiến
Lại nữa, chúng-sanh
nào phạm 5 Vô-Gián-Nghiệp (cùng gọi là Ngũ-Nghịch-Tội
"Pancãnantariya Kamma " là: Mãsughãta:
Giết mẹ
b) Chúng-sanh nào
không còn ở 3 Pháp Ngăn-Cản, không chấp Tà-Kiến, không
phạm Ngũ-Nghịch-tội và không phạm đến trinh-tiết Tỳ-Khưu-Ni
thánh nhân, là người chuyên cần Bố-Thí, Trì-Giới,
Tham-Thiền, có lòng hầu-hạ cha-mẹ, chúng-sanh ấy hằng tạo
nhiều duyên-lành có thể giác-ngộ đạo-quả trong kiếp
hiện-tại. Bằng chưa đắc được đạo-quả trong kiếp này,
cũng hằng được hưởng những phước-báu cao-quí trong
cõi người và cõi trời, đến khi trọn đủ các Pháp
Ba-La-Mật thì được giác-ngộ đắc đạo-quả Niết-Bàn
dễ-dàng. Hư không Thế-gian
(Akãsa Loka). Hư-không thế-gian thường
gọi là vũ-trụ gồm có vô số thế-giới nhỏ. Mỗi một
thế-giới nhỏ đều nằm trên nước, nước chồng lên
gió, gió nằm lên trên hư-không. Nơi trung-tâm có núi Tu-Di
(Sineru hoặc Meru) cao 84 000 do tuần. Chung quanh núi Tu-Di có
7 vòng biển cách xa nhau bằng 7 vòng núi tên là: Yugandhara,
Isadhara, Karavika, Sudassana, Nemindhara, Vinataka và Assakanna.
Thể chất núi Tu-Di và 7 vòng núi ấy bằng 4 thứ báu hiệp
thành, chớ không phải chất đất và đá như núi thường. Bề cao và bề sâu của
vòng núi Yugandhara bằng phân nữa của núi Tu-Di. Bề
cao vòng núi Isadhara bằng nữa vòng núi Yugandhara
và cứ như thế, bề cao và bề sâu của vòng núi bên ngoài
chỉ bằng phân nữa của vòng núi bên trong. Trung-Tâm 7 vòng núi ấy
ở 4 hướng có 4 châu thiên hạ, mỗi châu đều có 500 hòn-đảo
nhỏ bao-bọc. Bốn châu ấy là: Jambudipa:
Nam-Thiện-Bộ-Châu
Trái đất chúng ta là
Nam-Thiện-Bộ-Châu (Tàu âm là Diêm-Phù-Ðề). Mặt trời xoay vần
chung quanh núi Tu-Di vào khoảng giữa núi ấy và soi-sáng 4
châu thiên-hạ. Dưới chân núi Tu-Di
có vương-quốc A-Tu-La (Asura) là các hạng thần nhiều
sân-hận, thường gây giặc với Chư-Thiên cõi trời Dục-Giới
thấp nhất do Tứ-Ðại Thiên-Vương (Cãtumahãrãja)
cai-quản, để chiếm các triền núi thấp của Tu-Di. Cõi trời Tứ-Ðại-Thiên-Vương
cao từ các triền núi Tu-Di sắp lên đến khoảng giữa núi
kế đến Ðao-Lợi-Thiên (Tãvatimsa) từ khoảng giữa
đến đỉnh núi do Ðức Ðế-Thích (Sakka) trị vì. Bốn cõi trời Dục-Giới
trên là: Yãma:
Dạ-Ma-Thiên
Ở trên hư-không núi
Tu-Di. Trên các cõi trời Dục-Giới
là 16 cõi trời Sắc-Giới, kế tiếp là 4 cõi Vô-Sắc-Giới. Vô-Gián-Ðịa-Ngục (Lokantariya)
ở khoảng giữa hư-không hình tam-giác luôn-luôn tối-tăm lạnh-lẽo,
không có ánh sáng mặt trời là khoảng 3 thế-giới giáp
nhau. Tất cả núi, biển,
châu, cõi trời... vừa kể trên gồm lại như vậy gọi là
một thế-giới nhỏ. Một ngàn thế-giới nhỏ hợp lại
thành một cõi Tiểu-Thiên. Một ngàn cõi Tiểu-Thiên hợp lại
thành một cõi Trung-Thiên. Một ngàn cõi Trung-Thiên hợp lại
thành một cõi Ðại-Thiên. Như thế, một cõi Ðại thiên gồm
có: 1.000 x 1.000 x 100 = 1.000.000.000 thế-giới nhỏ. Vì nhơn bội
lên 3 lần 1.000 như vậy nên gọi là "Tam-Thiên Ðại-Thiên
thế-giới". Ðức Phật đã thấy
rõ và hiểu biết tường-tận Pháp-Hành Thế-Gian, Chúng-Sanh
Thế-Gian và Hư-Không Thế-Gian. Do nhờ những ân-đức ấy nên
Ngài có hiệu là LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải). -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác sĩ
Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
5 cái Giác (hoặc Minh)
15 cái Hạnh (Carana).
b) Bhavãsava: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Tà-kiến
d) Avijjãsana: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
Tập-Ðế: 3 cái Tâm Ái-Dục ví như 3 tên dẫn đường chỉ
nẻo cho 5 kẻ nghịch ấy.
Diệt-Ðế: Niết-Bàn là khí cụ để ngăn-cản, chặn-lối
đám nghịch ấy.
Ðạo-Ðế: Bát-Chánh-Ðạo là phương-Pháp diệt-trừ đám
nghịch ấy.
Arũparãga: Vui-Thích cảnh Vô-Sắc
Mãna: Cống-Cao, Ngã-Mạn
Uddhacca: Phóng-Tâm
Avijjã: Vô-Minh
Cố-gắng ngăn-ngừa các Pháp Ác chưa sanh không cho
xâm-nhập vào Thân.
Cố-gắng làm cho tăng-trưởng các Pháp Lành đã có (hoặc
làm hoàn-bị những Pháp Hành đã đắc).
Cố-gắng làm cho phát sanh các Pháp Lành chưa có (hoặc
hành các Pháp Hành chưa đắc).
* Có ngôn-ngữ Chân-Chánh (Sammãgadattã)
- Rũpa Bhava: Sắc-Giới
- Arũpa Bhava: Vô-Sắc-Giới.
Satta Loka: Chúng Sanh Thế-Gian
Ãkasa Loka: Hư-Không Thế-Gian
- Citta: 81 Tâm Vướng
- Cetasika: 52 Tâm Sở
- Thọ Khổ
- Thọ-Xả (không vui, không khổ).
Appamãnãbhã: Vô-Lượng-Quang-Thiên
Abhassarã: Thân-Quang-Thiên
Appamãna Subhã: Vô-Lượng-Hảo-Thiên
Subha Kinhã: Ða-Hảo-Thiên
Atappã: Vô-Nhiệt-Thiên
Suddassã: Hảo-Thân-Thiên
Suddassi: Hảo-Kiến-Thiên
Akanithakã: Vô-Thiểu-Thiên
b) Allãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Sanh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukham: Ðược Vui
h) Dukkham: Bị Khổ
Cõi trời Vô-sắc thứ tư là Phi-Phi-Tưởng-Thiên (Nevasannãnãsannãyatana)
là cảnh Giới của hạng chúng-sanh không có tưởng và cũng
không phải không có tưởng.
b) Sotãyatana: Nhĩ-Căn
c) Ghãnãyatana: Tỉ-Căn
d) Jivhãyatana: Thiệt-Căn
e) Kãyãyatana: Thân-Căn
f) Rũpãyatana: Sắc-Trần
g) Saddãyatana: Thanh-Trần
h) Gandhãyatana: Hương-Trần
i) Rasãyatana: Vị-Trần
j) Photthabbãyatana: Xúc-trần
b) Somanassanãna Vippayutta: Tâm Vui Thích phối-hợp với
cảnh giới nhưng không Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng.
c) Upekkhãnãna Sampayutta: Tâm Vô-Kỵ phối-hợp cảnh
giới có luôn cả Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng.
d) Upekkhãnãna Vippayutta: Tâm Vô-Kỵ phối-hợp với cảnh
giới nhưng không Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-động và Tự-Ðộng.
e) Upekkhãsampaticchanna: Tâm-Thọ lãnh cảnh giới với
ý Vô-Ký.
f) Upekkhãsantirana: Tâm xem-xét cảnh giới với
Vô-Ký.
g) Somanassa Santirana: Tâm xem-xét cảnh giới với ý
Vui Thích.
- Ngũ-Trần vừa kể trên thêm Pháp-Trần (Dhammãyatana)
là 6
b) Mahakusalasomanassa: 4 Tâm Ðại-Thiện luôn cả ý Vui
Thích
c) Mahãkiriyãsomanassa: 4 Ðại-Hạnh Tâm-Hiệp theo ý
Vui thích
d) Hisituppãda: 1 Tâm Vui Thích để sanh-sự vui cười
chuốm-chiếm
b) Ahirikam: Không Hổ-Thẹn tội
c) Anottappam: Không Ghê Sợ tội-lỗi
d) Uddhaccam: Tâm Phóng-Dật
e) Lobho: Sân-Tham
f) Ditthi: Tà-Kiến
g) Mãno: Ngã-Mạn
h) Dosa: Sân-Hận
i) Issã: Ganh-tị
j) Macchariyam: Bỏn-xẻn
k) Kukkuccam: Tâm hay Hối-Tiếc, lo nghĩ viễn-vong, nhớ
theo chuyện chi không nhất-định
l) Thinam: Do-Dự, Uể-Oải, không sốt-sắng
n) Moddham: Hôn-Trầm, buồn ngủ
m) Vicikicchã: Hoài-Nghi, không tin chắc
b) Sota Dhãtu: Chất-Nhĩ (Thính-giác quan)
c) Ghãna Dhãtu: Chất-Tỉ (Khứu-giác quan)
d) Jivhã Dhãtu: Chất-Thiệt (Vị-giác quan)
e) Kãya Dhãtu: Chất-Thân (Xúc-giác quan)
f) Mano Dhãtu: Chất-Ý (Tâm-thức)
g) Rũpa Dhãtu: Chất-Sắc (Sắc-cảnh)
h) Saddha Dhãtu: Chất-Thanh (Thanh-cảnh)
i) Gandha Dhãtu: Chất-Hương (Hương-cảnh)
j) Rasa Dhãtu: Chất-Vị (Vị-cảnh)
k) Photthabba Dhãtu: Chất-Xúc (Xúc-cảnh)
l) Dhamma Dhãtu: Chất-Pháp (Pháp-cảnh)
n) Cakkhu Vinnãya Dhãtu: Chất-Nhãn-Thức (khi Nhãn-Căn
tiếp-xúc với Sắc-Trần thì phát sanh sự Giết gọi là
Nhãn-Thức)
m) Sota Vinnãna Dhãtu: Chất-Nhĩ-Thức
o) Ghãna Vinnãna Dhãtu: Chất-Tỉ-Thức
p) Ivhã Vinnãno Dhãtu: Chất-Thiệt-Thức
q) Kãya Vinnãna Dhãtu: Chất-Thân-Thức
r) Mano Vinnãna Dhãtu: Chất-Ý-Thức.
b) Bhavarãganusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-ngầm
d) Manãnusaya: Cống-Cao, Ngã-Mạn Ngủ-ngầm
e) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-ngầm (Tà-kiến)
f) Vicikicchãnusaya: Hoài-Nghi Ngủ-ngầm
g) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-ngầm.
b) Dosacarita: Tính Sân là tính nhiều Sân-Hận, dễ giận,
dễ bất-bình.
c) Mohacarita: Tính Si là tính nhiều Si-Mê, tối-tâm
ngu-độn.
d) Saddhãcarita: Tính Tin là tính nhiều Ðức Tin, dễ
tin, ít suy-xét.
e) Buddhicarita: Tính Giác là tính nhiều Trí-Tuệ hay
suy-xét, mau hiểu biết sáng-suốt.
f) Vitakkacarita: Tính Tâm là tính nhiều Suy-Tâm, quen
nghĩ tưởng các điều, không quyết định.
b) Viriyindriyam: Tấn-căn
c) Satindriyam: Niệm-Căn
d) Samãdhindriyam: Ðịnh-Căn
e) Pannindriyam: Huệ-Căn
Saddha Tanhã: Thanh-Ái
Gandha Tanhã: Hương-Ái
Rasa Tanhã: Vị-Ái
Photthabba Tanhã: Xúc-Ái.
Dosa: Sân-Hận
Moha: Si-Mê
Mãna: Ngã-Mạn
Ditthi: Kiến-Thức (Tà-kiến)
Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân và Quả)
Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, buồn-ngủ.
Uddhacca: Phóng-Tâm
Ahirika: Không Hổ-Thẹn tội-lỗi
Anottappa: Không Ghê Sợ tội-lỗi.
Uccheda Ditthi: Ðoạn-kiến là sự hiểu biết rằng
khi chết đi thì mất luôn, chớ không có tái-sanh lại
ở đâu cả. Ðoạn-kiến lại chia ra làm 3 là:
Ahetuka Ditthi: Vô-Nhân-Kiến
Natthika Ditthi: Vô-Quả-Kiến
Pitughãta: Giết cha
Arahantaghãta: Giết A-La-Hán
Buddhalohituppãda: Làm cho Ðức Phật đổ máu.
Sanghabheda: Làm cho tăng chúng chia rẽ (từ 8 vị trở
lên) và phạm đến trinh-tiết của Tỳ-Khưu-Ni thánh-nhân,
chúng-sanh ấy không thể đắc đạo-quả trong quả địa
cầu này được.
Pubbavidaha: Ðông-Thắng-Thần-Châu
Uttarakuru: Bắc-Cu-Lu-Châu
Aparagoyãra: Tây-Ngưu-Hóa-Châu
Tusita: Ðấu-Xuất-Thiên
Nimmãnarati: Lạc-Biến-Thiên-Hóa
Paranimmitavasavati: Tha-Hóa-Tự-Tại-Thiên
updated: 18-04-2002