BuddhaSasana Home Page Phật Giáo
Nguyên Thủy Ân Đức Tam
Bảo Hòa thượng
Bửu Chơn [3] III-
Ân-đức Tăng (Sangha Guna) Vấn:
Tiếng nói Tăng có nghĩa như thế nào? Có mấy hạng? Có bao
nhiêu ân-đức?
Ðáp:
Tăng có nghĩa là nhóm hay chúng . Có hai hạng là Sammati
sangha - phàm Tăng - là nhóm Tỳ-khưu từ bốn vị trở lên
để hành tăng sự, chưa đắc đạo quả; Ariya sangha -
Thánh Tăng - là nhóm người đã đắc thánh đạo, thánh quả. Tăng có nghĩa "gần
nhau" bởi vì các bậc thánh nhân dầu có ở xa xứ này
xứ nọ khác nhau giòng giống nhưng cũng gọi là gần nhau
vì chỉ có một khuôn khổ là giới đức và kiến thức in
nhau. Hơn nữa tăng có nghĩa
là người đào tận phiền-não bởi vì các vị ấy cố gắng
đào bới các gốc rễ của phiền-não nhứt là ái tình cho
thoát khỏi thân tâm. Tăng chia làm Thinh-văn
thì có hai là: phàm thinh-văn (Puthujjana sãvaka) và
thánh Thinh-văn (Ariya sãvaka). Nhóm người chỉ nghe
huấn từ của Ðức Phật hay là các hàng thinh-văn để tu
Phật, nhưng không đắc đạo quả chi, chỉ có đức tin và
qui y tam bảo gọi là phàm thinh-văn. Còn nhóm người nghe pháp
của Ðức Phật hoặc nghe nói của bậc thinh-văn của Ngài
rồi đắc đạo quả trong lúc nghe pháp hoặc nghe rồi thực-hành
theo, một lúc sau mới đắc đạo quả, thì gọi là thánh
Thinh-văn. Vấn:
Thực-hành thế nào gọi là thực-hành tốt đẹp?
Ðáp:
Các Ngài thực-hành đúng theo Chánh pháp, thực-hành không trở
lùi lại, thực-hành cho đến Niết-Bàn, thực-hành không
trái nghịch và thực-hành theo giáo-pháp. Vấn:
Thực-hành thế nào gọi là đúng theo Chánh pháp?
Ðáp:
Là thực-hành đúng theo con đường của Thánh đạo, Thánh
quả, là thực-hành theo giới, định, huệ. Vấn:
Thực-hành thế nào gọi là không có trở lùi lại?
Ðáp:
Là khi thực-hành đã đến bậc thánh nhân rồi thì không
khi nào lùi trở lại là phàm nhân được. Vấn:
Thực-hành như thế nào cho đến Niết-Bàn?
Ðáp:
Thực-hành theo minh-sát cho đến huệ suy xét xuôi chiều theo
Niết-Bàn. Vấn:
Thực-hành như thế nào gọi là thực-hành không trái nghịch?
Ðáp:
Thực-hành không trái nghịch là thực-hành không có phản lại
với Niết-Bàn. Vấn:
Thực-hành thế nào gọi là thực-hành theo giáo pháp?
Ðáp:
Là thực-hành pháp đúng theo giáo pháp (Dhammã-nudhammappatipãda)
là đang đến Niết-Bàn. Bởi vì các Ngài thực-hành đến
đạo và quả cho nên gọi là thực-hành theo giáo pháp. Hơn
nữa, chư tăng hành theo huấn từ của Ðức Phật đã giảng
dạy không sai chút nào, gọi là hành tốt đẹp. Lại nữa, các Ngài lấy
Giới làm hàng rào để ngăn ngừa kẻ địch là tội lỗi
và phiền-não. Lấy Ðịnh làm tảng đá che đậy các pháp
ác vào đè nén Tâm lành. Lấy Huệ làm đèn soi sáng bên
trong các pháp hữu vi nhứt là Ngũ-Uẩn cho thấy rõ là khổ-não,
vô ngã, và làm cho trí tuệ sắc bén để diệt tận các
pháp ngủ ngầm trong Tâm rất vi-tế. Có thấp lắm thì các
Ngài cũng đắc bậc Tu-đà-hườn diệt được ba pháp thằng-thúc
(Saniyojana) là ngã chấp , hoài nghi và chấp theo sự
cúng tế các thần linh. Vì tự mình thấy rõ trong sạch do
tam học là Giới, Ðịnh, Huệ cho nên gọi là thực-hành tốt
đẹp. Vấn:
Câu Pháp nói "Ujupatipanno" là thế nào?
Ðáp:
Là các Ngài thực-hành ngay thẳng, đúng-đắn. Vấn:
Thực-hành thế nào gọi là thực-hành ngay thẳng?
Ðáp:
Thực-hành ngay thẳng là thực-hành không quanh quẹo, cong
queo, không nghiêng bên nào, là thực-hành trực chỉ thẳng
đến Niết-Bàn, không nghiêng theo pháp khổ-hạnh (Attakilamathànuyoga)
là con đường sái không thể đến Niết-Bàn. Hơn nữa, các
Ngài thực-hành ngay thẳng để dứt bỏ sự cứng rắn, sự
nghịch ngợm, quanh co, xảo trá của thân, khẩu, ý cho nên gọi
là thực-hành ngay thẳng. Vấn:
Câu Pháp nói "Nãyapatipanno" là thế nào?
Ðáp:
Là các Ngài thực-hành cho giác ngộ Niết-Bàn. Vấn:
Thế nào thực-hành cho giác ngộ Niết-Bàn?
Ðáp:
Là thực-hành đúng theo Chánh Pháp cho thấy rõ Niết-Bàn. Hơn
nữa các Ngài thực-hành cho thoát khỏi vòng luân hồi,
không vì danh hoặc vì lợi để về với cõi trời hoặc muốn
cho người khen ngợi trong hiện tại, cho nên mới gọi là nãyapatipanno. Vấn:
Câu Pháp nói "Sãmicipatipanno" là thế nào?
Ðáp:
Là các Ngài thực-hành đáng cho người lễ bái. Vấn:
Thực-hành thế nào đáng cho người lễ bái?
Ðáp:
Các Ngài thực-hành theo con đường chánh là Giới, Ðịnh,
Huệ, trau dồi Thân, Khẩu, Ý, thẳng đến Niết-Bàn đáng
cho người chấp tay vái chào, lễ bái. Vấn:
Câu Pháp nói "Yadidam cattãri purisayugãni attha
purisapuggalã" là thế nào?
Ðáp:
Là Chư Tăng nào nếu đếm đôi thì có bốn bậc, nếu đếm
chiếc thì có tám bậc. Vấn:
Nếu đếm đôi có bốn, đếm chiếc thì có tám bậc là thế
nào?
Ðáp:
Như bậc đã đắc đạo và quả Tu-đà-hườn là một đôi. Còn kể chiếc ra thì
có bốn bậc đắc đạo riêng ra và bốn bậc đắc quả riêng
ra, thành ra tám bậc. Vấn:
Bậc đã đắc Tu-đà-hườn rồi thì dứt bỏ được tâm
ác nào?
Ðáp:
Dứt bỏ được bốn tâm ác đồng kiến và một hoài-nghi
thành ra năm. Dứt ba pháp thằng thúc (giây cột trói Tâm)
là ngã chấp, hoài-nghi và cố-chấp theo lệ cúng tế thần
linh. Dứt hai pháp ngủ-ngầm là tà-kiến ngủ-ngầm và
hoài-nghi ngủ-ngầm, dứt tình trạng sân-hận thô-sơ. Sự quán xét của bậc
Tu-đà-hườn có năm là: 1) Quán xét của bậc
Tu-đà-hườn về đạo, Vấn:
Bậc Tu-đà-hườn có mấy hạng?
Ðáp:
Bậc Tu-đà-hườn có ba hạng: 1) Ekabiji: là bậc
còn phải tái sanh lại làm người một lần nữa rồi mới
đắc A-la-hán và không còn tái sanh nơi đâu nữa. 2) Kolamkola: là
bậc phải tái sanh vào gia-tộc này đến gia-tộc khác
trong hai hoặc ba kiếp mới đắc A-la-hán. 3) Sattakkhattum
Parama: là bậc phải tái sanh vào cảnh trời và người
lối bảy kiếp nữa mới đắc A-la-hán quả và nhập luôn
Niết-Bàn trong kiếp chót ấy. Vấn:
Tại sao bậc Tu-đà-hườn phải chia làm nhiều hạng như vậy?
Ðáp:
Các bậc ấy khác nhau là vì do nơi minh-sát tuệ. Như bậc còn
một kiếp nữa là nhờ minh-sát mạnh mẽ sáng suốt nhất.
Còn bậc còn hai hoặc ba kiếp nữa là nhờ minh-sát vừa bậc
trung. Bậc còn bảy kiếp nữa vì minh-sát vừa vừa bậc
trung hoặc vì minh-sát tuệ hơi yếu kém. Vấn:
Bậc Tu-đà-hườn có đầy đủ pháp nào?
Ðáp:
Có đầy đủ giới hạnh. Vấn:
Bậc Tu-đà-hườn còn chia thêm nữa được không?
Ðáp:
Còn chia thêm nữa. Là ngoài ba hạng kể trên còn chia theo
Sát-na (Khana) Tâm dứt bỏ phiền-não có 24 bậc là: lấy
bốn pháp hành (Patipadã) nhân cho hai phận sự (Dhura).
Như bậc còn một kiếp đều có bốn pháp hành, bậc hai hoặc
ba kiếp cũng có bốn pháp hành, bậc bảy kiếp nữa cũng có
bốn pháp hành. Tất cả có mười hai pháp hành đem nhân cho
hai phận sự nữa thành ra 24 hạng cả thảy. Vấn:
Bậc Tu-đà-hàm dứt bỏ được phiền-não nào?
Ðáp:
Dứt bỏ được bốn Tâm ác đồng tà-kiến, hai Tâm ác đồng
bất-bình, dứt luôn hai pháp thằng thúc là tà kiến thằng
thúc và thù oán thằng thúc, dứt hai pháp ngủ ngầm là
tình-dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm, dứt bỏ
ái-tình, sân hận, si mê nhẹ đi. Còn sanh trong cảnh dục một
lần nữa rồi mới đắc A-la-hán nhập luôn Niết-bàn. Các
Ngài cũng quán xét năm pháp như bậc Tu-đà-hườn vậy. Vấn:
Bậc Tu-đà-hàm nếu chia theo xát na Tâm dứt bỏ phiền-não
có mấy?
Ðáp:
Có tất cả mười hai hạng là chia theo ba pháp giải thoát (vimokkha),
mỗi vimokkha có bốn pháp hành thành ra mười hai. Vấn:
Bậc A-na-hàm dứt bỏ được pháp ác nào?
Ðáp:
Các Ngài dứt bỏ được bốn ác tâm đồng tà kiến, dứt
hai tâm bất bình, hai pháp thằng thúc là tình dục và sân hận,
dứt hẳn hai pháp ngủ ngầm là ái tình và bất bình. Về
quán xét cũng có năm như Tu-đà-hườn vậy. Vấn:
Bậc A-na-hàm chia làm mấy hạng?
Ðáp:
Chia làm: Antara parinibbãyi:
là khi sanh lên cõi phạm-thiên chưa đến phân nửa tuổi
cõi trời thì đắc A-la-hán quả, nhập Niết-Bàn luôn lúc
ấy.
Upahacca parinibbãyi:
là khi sanh lên cõi phạm thiên, tuổi thọ hơn phân nửa gần
hết tuổi thọ cõi ấy mới đắc A-la-hán nhập Niết-Bàn. Asanhkãra parinibbãyi: là
bậc đắc A-la-hán quả, dứt năm pháp thằng thúc phía
trên một cách dễ dàng không khó khăn gì.
Sasankhãra parinibbãyi:
là bậc hành cho dứt bỏ năm pháp thằng thúc bên trên để
đắc A-la-hán quả một cách khó khăn phải cố gắng hết
sức mới được. Uddhamsoto Akanitthagãmi:
là bậc còn vào giòng cảnh giới bên trên đến cảnh Akanittha
mới đắc A-la-hán, như khi sanh lên cảnh Avihã, hết
tuổi thọ cảnh này lại sanh lên cảnh Canhatappã, hết
tuổi thọ Canhatappã lại sanh lên cảnh Sudassã,
hết tuổi thọ cảnh Sudassã lại sanh lên cảnh Sudassi,
hết tuổi thọ cảnh Sudassi lại sanh lên cảnh Akanitta
mới làm cho A-la-hán quả phát sanh lên được để diệt
năm pháp thằng thúc bên trên nơi cảnh phạm thiên ấy (năm
cảnh này gọi là Suddhãvãsa: tịnh cư thiên để riêng
cho các bậc A-la-hán mà thôi). Trong bốn cảnh đầu, mỗi
cảnh có năm bậc thành ra hai mươi hạng. Còn cảnh Akanittha
thì chỉ có bốn bậc trừ bậc Uddhasmoto ra, thành ra
A-na-hàm có hai mươi bốn hạng và nhân có dhùra (phận
sự) là Saddhãdhũra và Panna dhũra thành ra bốn
mươi tám hạng.
Vấn:
Bậc A-na-hàm đầy đủ pháp gì?
Ðáp:
Các Ngài đầy đủ pháp thiền định. Vấn:
Các Ngài A-la-hán dứt bỏ bao nhiêu pháp ác?
Ðáp:
Các Ngài dứt bỏ bốn tâm ác đồng tà kiến và phóng tâm,
dứt hẳn năm pháp thằng thúc bên trên là dục sanh về dục
giới, dục sanh về sắc giới, dục sanh về vô sắc giới,
ngã mạn, phóng tâm và vô minh. Và ba pháp ngủ ngầm là ngã
mạn, ái tình và vô minh đều dứt hẳn nơi Tâm. Vấn:
Bậc A-la-hán quán xét mấy pháp?
Ðáp:
Các Ngài quán xét có bốn pháp như Tu-đà-hườn, chỉ trừ
phiền-não còn dư sót thì không cần quán xét vì các Ngài
đã diệt trừ tất cả phiền-não rồi. Vấn:
A-la-hán chia làm mấy bậc?
Ðáp:
Chia làm bốn bậc là: 1) Sukhavipassako:
là bậc do nhờ hành minh-sát làm phiền-não khổ hết và
đắc A-la-hán quả chớ không có đắc các pháp thần
thông. 2) Chalabhinno: là
các Ngài khi đắc A-la-hán rồi đ?c luôn lục thông. 3) Patisambhido: các
Ngài đắc luôn huệ phân tích. 4) Tevijjo: các
Ngài đắc A-la-hán luôn cả ba cái minh Khavi. Bốn bậc A-la-hán này
chia ra làm hai nhóm: Sukkhavipassako và Samatha yànaka.
Nếu chia theo ba pháp Vimokkha, thì trong mỗi Vimokkha
có bốn pháp hành, thành ra mười hai bậc. Cho hai nhóm Sukhavipassaka
12 và nhóm Samathayãnaka 12 thành tất cả có hai mươi bốn
bậc. Vấn:
Các bậc A-la-hán đầy đủ pháp chi?
Ðáp:
các Ngài đầy đủ trí tuệ Gom lại tất cả các bậc
thánh nhân có đến một trăm lẻ tám là Tu-đà-hườn hai
mươi bốn hạng, Tu-đà-hàm mươì hai, A-na-hàm bốn mươi tám,
A-la-hán hai mươi bốn. Như trong Phật ngôn có nói: Ye
puggalã atthasatam sapatthãti imissãgathãya vannanãyam
atthuttarasatam ariyã vuttã (các bậc thánh nhân một trăm lẻ
tám đó nếu chia ra đạo có năm mươi bốn và quả có năm
mươi bốn in nhau. Vấn:
Chỗ nói pháp hành (Patipadã) là thế nào?
Ðáp:
Bốn pháp hành là: 1) Dukkhapatipadã
bhinnã: khi thực-hành một cách khổ sở thì khi đắc
đạo cũng rất khó khăn. 2) Sukhãpatipadã
dandãbhinnã: khi thực-hành rất dễ dàng nhưng khi đắc
đạo lại khó khăn. 3) Dukkhãpatipadã
khippãbhinnã: khi thực-hành rất khó khăn nhưng khi đắc
đạo một cách dễ dàng. 4) Sukhapatipadã
khippãbhinnã: khi thực-hành rất dễ dàng mà khi đắc
đạo thì cũng mau chóng dễ dàng. Vấn:
Sự thực-hành khó khăn và dễ dàng đó do nguyên nhân nào?
Ðáp:
Bởi vì người thực-hành ấy căn bản và phiền-não khác
nhau như: 1) Người thực-hành
khó khăn chậm trễ là do nơi phiền-não quá mạnh và khi đắc
đạo cũng chậm trễ do nơi căn bản (indriya) yếu kém.
Thí dụ như người bệnh nặng, đi bộ đến nhà bác sĩ,
khi đi đến cũng lâu và khó khăn, khi đến rồi tiếp đó
đi kiếm thuốc, thuốc ấy lại ít như vậy khi lành bệnh cũng
phải lâu và khó khăn. 2) Người thực-hành dễ
dàng mau chóng mà khi đắc lại chậm trễ khó khăn là bởi
vì phiền-não nhẹ nhưng căn bản rất yếu kém. Thí dụ như
người bệnh nhẹ, khi đi dến bác sĩ rất là mau, nhưng lúc
kiếm thuốc thì lại rất ít hiếm có cho nên lâu lành bệnh. 3) Người thực-hành
lâu khó khăn mà khi đắc đạo lại dễ dàng mau lẹ. Ví dụ
như người có bệnh nặng đi bộ đến nhà bác sĩ thì lâu
và khó khăn, nhưng khi chữa bệnh thì lại dễ dàng mau mạnh
vì thuốc dồi dào đầy đủ. 4) Người thực-hành
mau lẹ dễ dàng mà khi đắc đạo cũng mau chóng là thí dụ
như người bệnh nhẹ khi đi dến bác sĩ cũng mau và khi chữa
bệnh cũng mau mạnh dễ dàng là do nhờ có nhiều thuốc đầy
đủ. Phiền-não ví như bệnh,
ngũ căn ví như thuốc chữa bệnh. Hơn nữa thí dụ như người
đi kiếm bò, người thứ nhứt đi kiếm bò vào rừng sâu
và khi gặp bò cũng ở trong rừng, cũng như người khi thực-hành,
cũng lâu khó khăn và khi đắc đạo cũng chậm trễ. Người thứ nhì khi đi
kiếm bò thì đi theo con đường cái dễ dàng nhưng khi gặp
bò thì lại gặp ở trong rừng cũng như người khi thực-hành
rất dễ dàng nhưng khi đắc đạo lại chậm trễ khó khăn. Người thứ ba khi đi
kiếm bò thì đi vào rừng sâu nhưng khi gặp bò lại ở
ngoài chỗ trống, cũng như người khi thực-hành rất lâu
khó khăn nhưng khi đắc đạo lại dễ dàng mau lẹ. Người thứ tư khi đi
kiếm bò thì đi theo con đường cái và lúc gặp bò lại gặp
ở ngoài trống trải cũng như người khi hành đạo thì mau
lẹ dễ dàng và khi đắc đạo cũng dễ dàng mau chóng. Ngụ ngôn người đi kiếm
bò là hành giả, bò là thánh đạo, rừng là phiền-não nhiều,
đường cái là phiền-não ít. Người thực-hành và đắc đạo
khác nhau đã giải như thế ấy. Vấn:
Câu nói Esa bhagavato sãvaka sangho là thế nào?
Ðáp:
Tất cả chư Tăng đã giải, ấy là thinh-văn đệ-tử Phật. Vấn:
Câu nói Ahuneyyo là thế nào?
Ðáp:
Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng của thí chủ
đem đến dâng cúng. Giải rằng: Bốn món vật dụng là y
cà-sa mà tín thí từ gần hoặc xa đem đến để dâng cúng
cho người có giới hạnh. Tất cả các món vật dụng ấy,
chư Tăng là thinh-văn đệ-tử Phật đáng thọ lãnh, bởi
vì các Ngài có thể làm cho các món vật dụng ấy được
nhiều phước báu do đức lành của các Ngài. Cho nên mới gọi
là người đáng thọ lãnh bốn món vật dụng của tín thí. Vấn:
Câu nói Pãhuneyyo là thế nào?
Ðáp:
Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng người sắm sửa
để đãi khách. Giải rằng: vật dụng của người sửa soạn
để tiếp rước thân bằng quyến thuộc quí mến từ phương
xa đến, nhưng lại đem đến dâng cúng cho chư Tăng. Vì những
người khách đến ấy không bằng đức hạnh của chư
Tăng. Bởi vì chư Tăng cũng là khách, nhưng chỉ có trong thời
kỳ Ðức Phật ra đời mà thôi, ngoài thời kỳ ấy ra,
không khi nào gặp được chư Tăng là khách của mình bao giờ.
Hơn nữa, các Ngài có oai-nghi đáng cho người phát Tâm trong
sạch, qúi mến nhứt là giới đức. Bởi vậy vật dụng dùng
để tiếp đãi khách xa nhưng đáng đem ra dâng cúng cho các
Ngài. Vấn:
Câu nói Dakkhineyyo là thế nào?
Ðáp:
Các Ngài đáng thọ lãnh Dakkhinãdãna. Giải rằng: người
tin lý nhân-quả đem của ra bố-thí gọi là Dakkhinãdãna.
Chư Tăng là bậc Thinh-văn có thể làm cho phước-thí của
thí-chủ được nhiều quả báu, nên đáng thọ lãnh phước
thí ấy. Vấn:
Câu nói Anyalikaraniyo là thế nào?
Ðáp:
Là các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái. Giải rằng: Chư
Tăng là Thinh-văn đệ-tử Phật, các Ngài có nhiều đức lành.
Nói cho cùng dầu cho chúng sanh chỉ nhìn các Ngài bằng cặp
mắt từ bi thì cặp mắt ấy sẽ không có bệnh hoạn và ai
trông thấy cặp mắt cũng cảm mến hàng triệu kiếp không
sai, hoặc do nơi sự cung kính lễ bái ấy mà kiếp nào cũng
được sanh lên trong dòng giống quí-tộc có nhiều quyền tước
cao sang. Vấn:
Câu nói Anuttaram punnakkhettam lokassa là ý nghĩa thế nào?
Ðáp:
Các Ngài là phước-điền của chúng sanh không đâu sánh bằng. Giải rằng: Chư Tăng là
thinh-văn đệ tử Phật, là thửa ruộng báu nhứt của
chúng sanh không đâu bằng. Khi con người muốn gieo hột giống
chi như lúa, nếp, đậu, mè, bắp, khoai, v.v... đều tìm kiếm
miếng ruộng có nhiều phân chất phì nhiêu để gieo trồng
hột giống của mình lên ruộng ấy, với sự ước mong cho
mùa màng cây trái hoa quả tốt đẹp như thế nào thì chúng
sanh cũng vậy. Khi trồng hột giống lành là phước báu của
mình thì cũng mong cầu cho được nhiều phước báu nên phải
chọn miếng ruộng báu là người thọ lãnh phước thí của
mình được có nhiều đức lành trong sạch, nhứt là đã xa
lià các phiền-não thô sơ hoặc vi-tế mới có thể làm cho
phước thí được kết quả dồi dào không sai, cũng như
gieo hạt giống trên ruộng tốt, ít cỏ dại, không có lẫn
lộn đá sạn, thì cây trái mùa màng mới được trổ đầy
những hoa quả vậy. Hơn nữa hạt giống mà gieo lên miếng
ruộng có đầy đủ tám chi mới có nhiều hoa quả. Tám chi
ấy là: 1) Ruộng không gò lắm,
không thấp lắm. Hột giống mà người
gieo lên miếng ruộng có tám chi sẽ được nhiều hoa quả
sung túc như thế nào thì phước thí mà con người đã dâng
cúng đến chư Tăng là ruộng báu có tám chi cũng sẽ được
nhiều phước báu vô lượng vậy. Tám chi ấy là: 1) Chư Tăng là Thinh-Văn
đệ-tử Phật có Chánh Kiến, Như bài kệ ngôn của
Ðức Phật có nói: Tinadosãni khettãni
rãgadosã ayam pajã tasmãhi vitarãgesu dinnam hoti mahapphalam. Nghĩa là: Tất cả các miếng ruộng
bị cỏ là vật trở ngại tội lỗi. Chúng sanh bị ái tình
là tội lỗi, bởi vậy cho nên phước thí mà người đã
cúng dường đến bậc không có tình dục sẽ được nhiều
phước báu. Tất cả miếng ruộng
bị cỏ là vật tội lỗi. Chúng sanh bị sự sân hận là tội
lỗi, bởi vậy phước thí mà người cúng dường đến bậc
đã xa lià sân hận sẽ được nhiều phước báu. Tất cả miếng ruộng
bị cỏ là vật tội lỗi. Chúng sanh bị sự si mê là tội
lỗi, bởi vậy phước thí mà người cúng dường đến bậc
đã xa lià si mê sẽ được nhiều phước báu. Chư Tăng có danh hiệu
từ Ãhuneyyo đến Punnakkhettam lokassa đều có năm
chi khác nữa ví như con voi của đức vua. Voi của vua có năm chi
là: 1) Sotã: Là biết
nghe lời dạy của thằng nài, Con voi nào có năm chi
như vậy mới đáng cho đức vua dùng xài trong khi chiến đấu
như thế nào thì chư Tăng là bậc Thinh-văn đệ-tử Phật có
danh hiệu nhứt là Ahuneyyo cũng có năm chi là: 1) Sotã: Thích
nghe pháp của đức Thế-Tôn giảng giải, Hơn nữa tất cả
Ân-Ðức Tăng đã kể trên, nếu gom lại chỉ có hai đức lành
là Attahitaguna và Parahitaguna.
Chỗ câu nói từ Supatipanna
... đến Sãmicipatipanno gọi là Attahitaguna
(Ân-Ðức lợi ích cho mình). Chỗ câu nói từ Ãhuneyyo
... đến Anuttaram punnakkhetam gọi là Parahitaguna
(Ân-Ðức lợi ích giúp cho kẻ khác). Ðây là tóm lược tất
cả Ân-Ðức của Chư Tăng. Soạn xong tại Phổ-Minh
Tự -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác sĩ
Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Bậc đã đắc đạo và quả Tu-đà-hàm là một đôi.
Bậc đã đắc đạo và quả A-na-hàm là một đôi.
Bậc đã đắc đạo và quả A-la-hán là một đôi.
2) Quán xét về nhân quả,
3) Quán xét về phiền-não đã dứt bỏ,
4) Quán xét về phiền-não còn sót lại,
5) Quán xét về Niết-Bàn.
2) Không có đá sạn.
3) Ðất không mặn lắm.
4) Ruộng sâu và mát mẻ.
5) Có nhiều phân chất, phì nhiêu.
6) Không có sự tai-hại như sâu bọ.
7) Có đường đem nước vào.
8) Có bờ đắp quanh ruộng.
2) Có Chánh Tư-Duy,
3) Có Chánh Ngữ,
4) Có Chánh Nghiệp,
5) Có Chánh Mạng,
6) Có Chánh Tinh-Tấn,
7) Có Chánh Niệm,
8) Và có Chánh Ðịnh.
Tinadosãni khettãni dosadosã ayam pajã tasmãhi vitadogesu dinnam
hoti mahapphalam.
Tinadosãni khettãni icchãdosa ayam pajã tasmãhi vitaticchesu dinnam
hoti mahapphalam.
2) Hantã: Khi chiến đấu, ráng giết cho được kẻ
địch,
3) Rakkhitã: Biết gìn giữ các bộ phận khi chiến đấu,
4) Khantã: Nhẫn nại lằn gương mũi đạn khi chiến
đấu,
5) Gantã: Luôn luôn theo ý muốn của thằng nài.
2) Hantã: Biết tận diệt ba tư duy,
3) Rakkhitã: biết thu thúc lục căn,
4) Khantã: Biết nhẫn nại trong mọi việc nhứt là sự
lạnh sự nóng,
5) Gantã: Là người trực chỉ thẳng đến Niết-Bàn
là nơi mà con người thường ít đi đến.
tháng Giêng năm Giáp-Dần (TL 1974)
Hòa Thượng Bửu Chơn.
updated: 18-04-2002