BuddhaSasana Home Page Phật Giáo
Nguyên Thủy Ân Đức Tam
Bảo Hòa thượng
Bửu Chơn [1.3] 6. Anuttaro (Vô-Thượng-Sĩ) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)? Bởi Ngài có đức-hạnh
không ai sánh bằng. Trong kinh Samyutta
Nikãya có câu Phật-ngôn như vầy: "Như-Lai chẳng thấy
trên thế-gian này, luôn cả Chư-Thiên, Ma-Vương và Phạm-Thiên,
trong thế-hệ này luôn cả đạo-sĩ, Bà-La-Môn, Vua Chúa và
Nhân-Loại, có chúng-sanh nào đức-hạnh cao thượng hơn
Như-Lai". Thật vậy, trong thế-gian
này không ai có thể sánh bằng Ðức Phật vì Ngài có những
ân-đức cao quí-trọng kể sau đây: 1. Rupakãyesu Anuttaro:
Quí trọng vì Sắc Thân không tội-lỗi, tật nguyền, có
oai-nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), tốt đẹp, đằm thắm, đầy-đủ
32 tướng hảo và 80 tướng phụ có hào-quang phóng ra sáng
ngời, nhân-loại và Chư-Thiên không ai sánh bằng. 2. Silesu Anuttaro:
Quí trọng vì Giới-Hạnh. Giới có 2: - Lokiya Sila:
Phàm-Giới a) Phàm-Giới là Ngũ-Giới,
Bát-Quan-Trai-Giới, Thập Giới và Cụ-Túc-Giới. Ðức Phật
đã luôn-luôn gìn-giữ những giới ấy không bẩn-nhơ
trong lúc còn lăn-hụp trong vòng sanh-tử luân-hồi trọn 4
A-Tăng-Kỳ và 100 ngàn đại kiếp của quả địa-cầu. Lại
nữa, Ngài đã thực-hành trọn đủ Giới Ba-La-Mật: Silã Pãrami:
Bậc-Hạ
b) Thánh-Giới: Từ
vô số kiếp quá khứ, Ngài đã thực-hành viên mãn 3 Pháp
Chân-Chánh là: Sammãvãcã:
Chánh-Ngữ
khiến cho phát sanh
Thánh-Ðạo diệt tận các Pháp Ác. 3. Samãdhimhi Anuttaro:
Quí trọng vì Thiền-định. Thiền-định có 2: Upacãra Samãdi:
Cận-Ðịnh
Cận-Ðịnh là trạng
thái Tâm lành an-trụ trong một cảnh-giới song chưa vững
chắc. Nhập-Ðịnh là trạng
thái Tâm lành an trụ kiên-cố trong một cảnh-giới. Nhập-Ðịnh
có 2: Lokiya Samãdhi:
Phàm-Ðịnh là định trong thế gian, là thiền của
phàm-nhân có lực tiêu-hoại. Phàm-Ðịnh có 8: 4 Bậc thiền
trong cõi Sắc-Giới (Rũpãvacara Samãpatti) và 4 Bậc
thiền trong cõi Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Samãpatti)
Lokuttara Samãdhi:
Thánh-Ðịnh là định xuất thế gian, là thiền của bậc
thánh-nhân, chắc vững, không hư-hoại. 4. Pannãsu Anuttaro:
Quí trọng vì Trí-Tuệ: a) Mahãpanno:
Ngài có Trí-Tuệ vô-lượng vô-biên, Chư-Thiên và nhân-loại
không ai sánh bằng. Những Trí-Tuệ ấy chẳng
phải Ðức Phật mới đắc được trong khi thành đạo, ngay
trong những kiếp quá-khứ lúc còn Bồ-Tát tu huệ Ba-La-Mật
(Pannã Parãmi), Ngài có tên là Mahodatha, Vidhura
... đã có Trí-Tuệ trội hẳn các bậc trí-thức khác trong
thời-gian bấy giờ. 5. Purisasilamãcãresu:
Quí trọng vì sanh làm người Nam (Thái-tử Sỉ-Ðạt-Ta) đầy
đủ ngũ quan, diện mạo phi-phàm, học lực xuất chúng,
thông hiểu trọn bộ kinh: phệ-đà, kiếm cung, tài-lực
siêu phàm bạt-tụy, không người nam nào có thể sánh bằng,
ai-ai cũng đều cảm-phục kính-nể. 6. Bhavassa
Sammãcãresu: Quí trọng vì phẩm-hạnh thanh cao hơn tất-cả
chúng-sanh trong Tam-Giới. 7. ParapuggalaVimuttinnãne:
Quí trọng vì Trí-Tuệ thông-hiểu phương-pháp giải-thoát
khỏi các Pháp-Ác (Phiền-Não) hơn các bậc trí-thức khác. 8. Pubbenivãsãnussatinnãne:
Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ các tiền-kiếp của Ngài
và của các chúng-sanh là đắc Túc-Mạng-Thông. 9. Dibbacakkhunnãne:
Quí trọng vì Ngài có Thiên-Nhãn-Thông. 10. Kammavipãkannãne:
Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ cái quả của mỗi
chúng-sanh đều do nghiệp thiện hoặc ác đã tạo. 11. Yamakappãtihãriyannane:
Quí trọng vì Ngài đã dùng lưỡng-thông là thần-thông hóa
thân làm 2 vị Phật: - Một vị ở cõi trời
Ðao-Lợi thuyết tạng Luận độ Phật mẫu liên tiếp
trong ba tháng hạ thứ 7. - Một vị đi trì-bình
mỗi buổi sáng ở Bắc-Cu-Lu-Châu. 12. Lokavivaranappãtihãriyannãne:
Quí trọng vì Ngài đã dùng thần-thông làm cho Chư-Thiên,
nhân-loại và chúng-sanh trong địa ngục đồng nhìn thấy
nhau rõ-ràng sau khi Ngài thuyết xong Tạng Luận, từ cõi trời
Ðao-Lợi trở xuống trần-gian. 13. Apattikusalatãya:
Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch sự phạm tội, vị
tăng nào phạm tội (Giới-Luật) hoặc không phạm tội.
Ngài đều rõ biết. 14. Apattivutthanakusalatãya:
Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch cách thoát khỏi tội
là nếu vị tăng nào sơ-ý phạm tội, Ngài từ-bi cho phép
thực-hành những phương-thế giải-tội (sám-hối...) 15. Dhãtukusalatãya:
Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch bản-chất Tứ-Ðại
Hữu-thức (Upãdinnaka Dhãtu) của chúng-sanh và bản-chất
Tứ-Ðại Vô-thức (Anupãdinnaka Dhãtu) của Ðất, Núi,
Cây, Ðá... luôn cả bản-chất của chúng-sanh vui-thích trong
Tứ-Ðại là Ðất, Nước, Gió, Lửa. 16. Manasikãrakusalatãya:
Quí trọng vì Ngài rành-mạch cách chú Tâm, điều chi Ngài
để Tâm ghi nhớ thì không bao giờ quên. 17. Thãnãthãnakusalatãya:
Quí trọng vì Ngài rành-mạch trong nguyên-nhân (Hetu)
hay không phải nguyên-nhân. Nhân đây là nhân lành, có 3 là: a) Alobho: Không
Gian-Tham 18. Dvisu Iddhisu:
Quí trọng vì Thần-lực có 2: a) Cittiddhi: Thần-Lực
do Tâm là Tâm thanh-tịnh nhờ thiền. 19. Dvisu Anuttariyesu:
Quí trọng vì 2 oai-đức cao thượng không ai sánh bằng là: a) Silãnuttariya:
Giới Cao-Thượng 20. Tisukathãvatthũsu:
Quí trọng vì 3 hạnh Tuyệt-Luận là: a) Dãna: Bố-Thí 21. Tisusamãdhisu:
Quí trọng vì 3 bậc Thiền-Ðịnh là: a) Vitakkavicãrasamadhi:
Bậc Thiền có đủ Tầm Sát 22. Tisu Pãtihãriyesu:
Quí trọng vì những điều phi-thường xảy ra khi Ngài lên
pháp-tòa, trong lúc đang thuyết pháp và khi xuống pháp-tòa. 23. Catũsu Satipatthãnesu:
Quí trọng vì thông thấu Tứ-Niệm-Xứ là: a) Kãyãnupassanã
Satipatthãna: Niệm Thân 24. Catũsu Sampadãsu:
Quí trọng vì 4 điều đầy đủ (Sampadã) khiến cho sự
phước-thí được quả-báu cao-thượng. a) Cetanã Sampada:
Ðầy đủ cả 3 tác-ý: Pubba Cetanã:
Tác-ý đầu tiên là suy-tính trước khi làm phước.
b) Paccaya Sampada:
Ðầy đủ tứ vật dụng (y-phục, vật thực, cốc liêu,
thuốc trị bệnh). c) Vatthu Sampada:
Ðầy-đủ các vật cúng-dường. d) Gunãtireka
Sampadã: Ðầy đủ ân-đức của cả 2 bậc thánh-Nhân
là A-La-Hán khi các Ngài vừa xuất Ðại-định. 25. Catũsu Iddhipãdesa:
Quí-trọng vì Tứ-Thần-Túc (cũng gọi là 4 pháp căn-bản để
thực-hành cho đắc thần-thông): a) Chandiddhipãda:
Nguyện-Vọng Thần-Túc 26. Catũsu Maggesu
Catũsu Phalesu: Quí trọng vì 4 quả bắt đầu từ Tu-Ðà-Hườn-Ðạo,
Tu-Ðà-Hườn-Quả... 27. Catũsu Ariyavamsesu:
Quí trọng vì 4 pháp Thánh Tông: a) Appiccho: Có sự
Ham-Muốn ít 28. Catũsu vimuttinnãnesu:
Quí trọng vì Trí-Tuệ, thông hiểu 4 phương-pháp giải-thoát
khỏi các Pháp-Ác (Phiền-não): a) Pannãvimuti:
Giải-thoát bằng Thánh-Tuệ là Tuệ Xuất Thế-Gian. 29. Pancabalesu:
Quí trọng vì Ngũ-Lực: a) Saddha Balam: Tín-Lực
là đức-tin dũng-mãnh nơi Tam-Bảo và Lý-Nhân-Quả để diệt
trừ lòng mê tín, tà kiến 30. Pancindriyesu:
Quí trọng vì Ngũ-Căn (Tinh-Thần): a) Saddhindriyam:
Tín-Căn là cội tin Ân-Ðức Tam-Bảo và tin nhân quả để
diệt-trừ tà-kiến 31. Pancãbhinnãsu:
Quí trọng vì Ngũ-Thông. a) Dibbacakkhu:
Nhãn-Thông Ngũ-Thông kể trên
còn trong phạm-vi của hạng phàm-nhân, các bậc Thánh-Nhân
đắc thêm Lậu-Tận-Thông (Asavakkhaya) là Tuệ biết
rõ các Pháp Trầm-Luân để diệt-tận, cộng chung là 6
cái Thông (Abhinnã). 32. Chãsãdhãranannãreru:
Quí trọng vì Trí-Tuệ Vô-Thường (Asãdhãranannãna),
có 6: a) Asayãnusayannãna:
Huệ biết rõ các Pháp Khuynh-Hướng (ãsaya) và các
pháp Ngủ-Ngầm (Anusaya) trong Tâm chúng-sanh. b) Indriyaparopariyattinnãna:
Huệ biết rõ căn-cơ dũng-mạnh hay yếu-hèn của
chúng-sanh. c) Yamãkappãtihãriyannãna:
Huệ lanh-lẹ trong sự dùng lưỡng-thông là Thần-Thông
hóa thân làm 2 vị Phật. d) Mahãkarunãsamãpattinnãna:
Huệ biết rõ phương-pháp tế độ chúng-sanh khi xả Ðại-Bi-Ðịnh. e) Sabbannũtannãna:
Huệ thông hiểu tất-cả mọi vật không dư sót
(Toàn-giác). f) Anãvarannãna:
Huệ thông hiểu mọi vật không chướng ngại, không chi
che án được. 33. Sattavisuddhidesanãsu:
Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 7 Pháp Thanh-Tịnh. a) Sĩla Visuddhi:
Thanh-Tịnh do sự Trì-Giới b) Citta Visuddhi:
Thanh-Tịnh do sự sửa trị Tâm làm cho phát-sanh Cận-định
và Nhập-định. c) Ditthi Visuddhi:
Thanh-Tịnh do sự hiểu thấy chân-chánh là Tuệ thấy rõ
"Danh và Sắc" (Ngũ-Uẩn), do sự hòa hợp của Tứ-Ðại
và hằng bị chi phối bởi 3 tướng Vô- d) Kankhãvitarana
Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ thấy rõ nhân-duyên của
Danh-Sắc và dứt khỏi hoài-nghi đối với Danh-Sắc trong
Tam-Thế. e) Maggãmaggannãnadassana
Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ không sai lầm theo 10 Phiền-Não
của Minh-Sát, thấy rõ là Ðạo hay chẳng phải là Ðạo. f) Patipadãnãnadassana
Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ thấy rõ cách thực tiến-hóa
là nên thực-hành 9 pháp Minh-Sát-Tuệ. g) Nãnadassana
Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ Xuất-Thế-Gian thấy rõ 4
Thánh-Ðạo và 4 Thánh-Quả. 34. Sattãkhinãsavabalesu:
Quí trọng vì thông hiểu Ðạo-Tuệ của 7 bậc Thánh-nhân
là những bậc hữu học (Sekkho Puggalo) có mãnh-lực diệt-tận
từng giai-đoạn các Pháp Trầm-Luân; nhất là 10 Sử (Samyouana:
Pháp Thẳng-Thúc). 7 bậc Thánh-nhân ấy là: Tu-Ðà-Hườn đạo 35. Navasattãvãsadesanãsu:
Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 9 chỗ trú-ngụ của
chúng-sanh. 36. Dasakasinãyatanesu:
Quí trọng vì 10 đề Kasina. a) Pathavi Kasina:
Ðề-mục đất 37. Ekãdasamettãnisansadesanãsu:
Quí trọng vì hiểu rõ 11 phước-báu do sự rải lòng
bác-ái: a) Sukham supati:
Khi ngủ được an-vui. 38. Dvãdasãkusaladesanãsu:
Quí trọng vì biết rõ Tâm của chúng-sanh ở trong đều tội-lỗi
là 12 Ác-Tâm (Akusalacitta): 8 Tâm Gian-Tham 39. Terasa
Dhutangagunesu: Quí trọng vì thông hiểu cách hành 13 Pháp
Ðầu-Ðà. a) Pamsukũlika: Hành
bằng cách lượm vải bỏ để may-mặc. 40. Cuddasabuđhannãnesu:
Quí trọng vì Trí-Tuệ hoàn-toàn sáng-suốt, vô-lượng vô-biên,
có 14: a) Dukke Nãnam:
Huệ thấy rõ Khổ-Ðế là chân-thật. 41. Ekavisatikusaladesanãsu:
Quí trọng vì sự thuyết-pháp về Sanginippakarana (trong
Tạng-Luận) chia Tâm lành ra 21: 8 Kãmãvacarakusale:
Thiên Tâm lành trong cảnh Dục-Giới 42. Catuvisatipasayadesanãsu:
Quí trọng vì sự thuyết-pháp Mãhãpatthãna (Duyên-Khởi-Ðại-Luận)
về 24 cái nhân (Paccaya) [1] bắt đầu từ Hetuppaccaya
(Nguyên-Khởi-Nhân) và cuối cùng là Avigatappaccaya (Bất-Tán-Nhân). 43. Kotisatasahassa
Sancaritadhamma Vajirannãnesu: Quí trọng vì Huệ thông suốt
hằng-hà vô-tận; Pháp Môn là Dukapatthãna, Tikapatthãna,
Dukatikapatthãna, Tikadukapatihana... [2]. Do nhờ những Ân-Ðức
quí trọng, không ai có thể sánh bằng vừa kể trên, nên Ðức
Phật có hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ). [1] "Hetu"
là nhân sanh ra (Janaka), "Paccaya" là
pháp củng cố (Upatthambhaka) cái nhân ấy. Nói một
cách khác "Hetu" là cốt từ nguồn gốc (Mũla)
vốn "Paccaya" là phù trợ nhân, ví như phận
sự của hột giống làm cho mộc mầm non, còn phận sự của
đất nước là phụ trợ cho cái mầm ấy được vững chắc.
Tuy chia ra danh từ riêng biệt như thế, nhưng nói chung
"Hetu" hay "Paccaya" cũng có thể
gọi chung là "nhân" được. [2] - Dukapatthãna:
Luận về duyên khởi từng đoạn 2 chi Người nay như lá
vàng khô 7. Purisadammasãrathi (Ðiều-Ngự
Trượng-Phu) Tại sao Ðức Phật có
hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều-Ngự Trượng-Phu)? Bởi Ngài là đấng tế-độ
những người hữu duyên nên tế-độ. Người hữu-duyên. Người Hữu-Duyên là
người trong kiếp quá khứ đã thực-hành pháp Ba-La-Mật,
là người năng bố-thí, chuyên cần trì-giới, tham-thiền,
thính pháp. Người đã thực-hành
những hạnh thanh cao ấy là người đã tập duyên lành (Upanissaya)
đáng được tế-độ. Tùy theo trình-độ phẩm hạnh thấp
hoặc cao, thiện-duyên nhiều hoặc ít, Ðức Thế-Tôn dùng
phương-tiện thích-ứng để tế-độ mỗi người Hữu-Duyên.
Có 2 hạng người Hữu-Duyên: - Buddhaveneyya: Hạng
người do Ðức Phật tế-độ. Hạng người nào Hữu-Duyên
cùng Ðức Phật thì tự Ngài đến tế-độ, còn hạng người
nào Ngài biết rõ hữu-duyên với bậc Thinh-Văn nào thì
Ngài bảo vị ấy đến tế-độ. Phương-tiện
tế-độ chúng-sanh. Ðức Thế-Tôn tùy theo
tâm tánh và căn-cơ của mỗi hạng người mà giảng-giải
rõ-ràng về phước hoặc tội: - Chúng-sanh nào ưa thích
những điều lành thì Ngài thuyết về các pháp hành Thiện,
là hành Thiện do Thân (Kãya Sucarita), do Khẩu (Vaci
Sucarita) và do Ý (Mano Mano Sucarita) cùng phước báu
của các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm thỏa-thích
trong sự làm các điều thiện. - Chúng-sanh nào ưa thích
những điều ác, Ngài thuyết về các pháp hành Ác, là
hành Ác do Thân (Kãya Duccarita), do Khẩu (Vaci
Duccarita) và do Ý (Mano Duccarita) cùng quả báo của
các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm ghê-sợ những
điều tội-lỗi và hồi Tâm làm các việc lành. Kế tiếp với những hạng
người đã trau-giồi giới-hạnh thanh-tịnh rồi, Ngài thuyết
về các pháp Thiền-Ðịnh và phước báu do các pháp ấy từ
bậc Sơ-Thiền đến Tứ-Thiền. Với những bậc đã đắc
Thiền-Ðịnh, Ngài lại giảng-giải về các pháp Minh-Sát, hầu
những vị ấy tu-tập lần lần để phát sanh Trí-Tuệ thấy
rõ thật tướng các pháp hữu-vi diệt-trừ Phiền-Não
và đắc đạo-quả Thánh-Nhân từ Tu-Ðà-Hườn đến
A-La-Hán. Chúng ta không lấy làm
lạ rằng trong tích xưa, có nhiều Chư-Thiên và bậc Ðại
Thiện-Duyên, khi nghe qua một câu kệ-ngôn hoặc một thời
pháp do Ðức Phật thuyết được, liền chứng đạo-quả Thánh-nhân
ngay tại chỗ ngồi của mình. Nguyên do là các bậc ấy đã
thực-hành viên-mãn, các pháp Ba-La-Mật và tập hợp Thiện-Duyên
cao dày, quí báu từ vô-số kiếp quá-khứ, đến kiếp hiện-đại,
hữu phước gặp Ðức Phật giảng dạy tế-độ cho, nên
được nếm hương-vị an-vui tuyệt-đối, ví như trái cây
đã chín mùi từ bao nhiêu ngày trên cành cao, chỉ một luồng
gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng vậy. Trong kinh Anguttara Nikãya,
có câu Phật-ngôn như vậy: "Này Kesi! Như-Lai huấn-luyện
chúng-sanh đáng tế-độ khi thì bằng phương cách dịu-dàng,
lúc thì bằng phương-tiện cứng rắn và khi thì bằng cả 2
cách: dịu-dàng và cứng rắn". Nói tóm lại, Ngài tế-độ
chúng-sanh bằng 3 phương-tiện sau đây: 1. Abhinnã: Ngài
giảng dạy rõ-ràng về các điều thiện và điều ác. 2. Sanidãna:
Ngài dạy bảo theo nguyên-nhân là tùy theo quả lành hoặc
dữ xảy ra, Ngài chỉ cho thấy do nhân thiện hoặc nhân
ác. 3. Sappãtihãriya:
Ngài giáo-hóa bằng 3 pháp phi-thường là: a) Iddhippãtihãra:
Bằng cách dùng các pháp Thần-thông. Ðức Thế-Tôn rất
thông-thạo, rành-mạch trong sự giáo hóa chúng-sanh ví như nài
voi đã thuần-thục trong sự tập luyện voi, bởi Ngài
thông-hiểu Tâm của tất-cả chúng-sanh như đã giải trong
hiệu Thế-Gian-Giải, đoạn "Chúng-Sanh Thế-Gian". Do
nhờ hiểu biết tường-tận tánh nết, hạnh-kiểm, trình-độ
Trí-Tuệ và duyên lành của mỗi chúng-sanh, nên Ngài mới
có thể giáo-hóa Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng.
Vì thế các bậc hữu-duyên nên tế-độ đều vâng theo lời
khuyên bảo và giáo-huấn của Ngài. Chúng-sanh
được tế-độ. Nếu dịch sát nghĩa thì
chữ "Parisadammasãrathi" có nghĩa là Bậc Chỉ
Ðạo (Sãrathi) những người Nam (Purisa) đáng
được Giáo-Hóa (Damma). Như thế thì Ðức Phật
chỉ độ toàn những người Nam thôi hay sao? Không phải vậy,
Ngài tế-độ cả người Nam và người Nữ, những lệ thường
thì nói đến người Nam trước vì theo Phật-giáo người
Nam hữu phước hơn người Nữ và hành-đạo cũng được tiện-lợi
dễ-dàng hơn. Lại nữa, chẳng những
chỉ riêng Nhân-Loại thôi, Ngài còn tế-độ luôn cả loài
thú và phi-nhân (Chư-Thiên, Dạ-xoa, Ngã-Quỉ...) có duyên
lành. Hạng Nam (Purisa)
được tế-độ có 3: Tiracchãna Purisa:
Thú Ðực
Những thú đực như rồng
chúa Apalãlo trong núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, Cũlodara và
Mahodara trong thế-giới loài rồng. Aggisikha và Dhũmasikha
trong đạo Tích-Lan, Aravãla.., đã được Ðức Thế-Tôn
có Tâm Bi-Mẫn dùng Thần-Thông tế-độ cho, khiến các rồng
chúa ấy hết hung-dữ và dứt nộc-độc là lòng sân-hận,
rồi thọ Tam-Qui Ngũ-Giới. Voi Dhanãpãlaka cũng được
Ngài tế-độ cho thọ Tam-qui. Không phải chỉ có bao nhiêu
ấy thôi, các thú khác nữa cũng được Ngài từ-bi tế-độ
rất nhiều. Những người Nam đã
làm các điều tội-lỗi, hằng chấp tà-kiến như người
con trai ngoại-đạo Nigantha (Jain) tên Saccaka,
những người Bà-La-Môn tên Ambattha, Pokkharasãti,
Sonadanda, Kutadanta..., đã được Ðức Thế-Tôn từ-bi
thuyết-pháp tế-độ cho, khiến phát sanh đức tin trong sạch
nơi Tam-Bảo, xa lìa Tà-Kiến; được Chánh-Kiến và đắc đạo-quả
cao thượng. Những người Nam đã rơi vào lưới Huệ của
Ngài và được tế-độ không phải chỉ bao nhiêu ấy thôi,
còn rất nhiều không kể hết được. Những phi-nhân Nam như
các dạ-xoa Alavaka, Sũciloma, Kharaloma, Ðức Ðế-Thích
(Sakka), Ðại-Phạm-Thiên Pakã... đã chấp Tà-Kiến
và Ngã-Mạn, tự cho mình là bậc có đức-hạnh tối cao,
được Ðức Phật thuyết pháp tế-độ cho đến khi phát
Tâm tín thành Tam-Bảo. Huấn-từ của Ðức Thế-Tôn. Lời Ðức Thế-Tôn thốt
ra để giáo-hóa chúng-sanh rất nhiều không thể kể xiết.
Khi giáo-huấn, Ngài tùy theo: Tâm Tính và duyên
lành, Nói tóm lại, huấn-từ
của Ngài có 3: Sabbapãpassa Akaranam:
Không nên làm điều ác.
1. Ðức Thế-Tôn bảo
đừng làm điều ác là nên xa lánh 10 Pháp Hành Ác do Thân,
Khẩu, Ý gọi là Thập-Ác: Sát-Sanh 2. Ngài khuyến-lệ nên
làm các điều lành là nên hành 10 Phạm Hành Pháp (Punnakiriya): - Bố-Thí 3. Ngài dạy bảo nên
trau-dồi Tâm cho sạch là nên cố-gắng diệt-tận các Phiền-não
(Kilesa) và các pháp Ngủ-ngầm trong Tâm (Anusaya)
là những điều làm cho Tâm bẩn nhơ và khiến chúng-sanh sa-đọa
trong vòng sanh tử luân-hồi. Những Phiền-Não ấy
chia ra 2 hạng: a) Phiền-Não Trọng-Ðại
(Thô-Sơ), Tâm muốn Sát-Sanh, Tham muốn của cải người,
mong làm của mình... có thể diệt trừ được bằng sự
Trì-Giới và Thiền-Ðịnh. b) Phiền-Não Vi-Tế,
khó mà nhận thức được là căn nguyên làm cho phát-khởi
các Phiền-Não khác, có thể diệt-tận được bằng Thánh-Tuệ. Nếu tóm tắt thêm nữa,
huấn-từ của Ðức Chánh-Biến-Tri có thể thâu ngắn lại
trong 2 khuyên ngôn quí báu sau đây: - Nên xa-lánh Sự Dễ-Duôi
(Pamãda) (Sự giải đãi) 1. Sự Dễ-Duôi hằng
ngự trong Tâm của hạng người hay quên mình, thường buông-lung
trí-nhớ, không nhất quyết làm một việc gì cho lâu dài,
thành tựu. Tâm chúng-sanh mải
say-mê theo sự cám-dỗ của Ngũ-Trần lục-dục, tự nghĩ rằng
ta còn trẻ chưa già, còn đang mạnh chưa đau, còn vui chưa
khổ.... nên ít có dịp tưởng nhớ đến các Pháp lành và
các công-đức. Dẩu có nhớ đi nữa cũng làm qua-loa cho có
chừng, khộng để hết Tâm-Trí vào sự thực-hành những
Thiện-Pháp. Ðó là Tâm Dễ-Duôi. Lại nữa, chẳng khác
nào con cắc-kè chạy một đoạn đường rồi ngừng lại một
chập, không bao giờ chạy một mạch đến đích; có người
làm việc phước thí hoặc Trì-giới hoặc Thính-Pháp,
Tham-Thiền... một hôm rồi bỏ luôn nhiều ngày; có người
xuất gia trong một thời-gian rồi hoàn-tục, không còn tưởng
nhớ chi đến Phật-Pháp nữa... Tất cả sự kiện ấy là
trạng-thái của Tâm Dễ-Duôi. Sự dễ-duôi là nguồn
cội và chủ-động các Pháp Ác. Chúng-sanh nào làm nô-lệ
cho sự dễ-duôi rồi thì bằng chất-chứa Phiền-Não trong
thân tâm, phải chịu những sự thống-khổ của Sanh, Già,
Ðau, Chết, đời này qua kiếp khác không ngừng. 2. Sự Không Dễ-Duôi
Nghịch hẳn với Sự Dễ-Duôi. Người không Dễ-Duôi là người
hằng có sự ghi nhớ trong Tâm, chẳng phải chỉ trong một
thời-gian mà thôi, trong bất cứ lúc nào, nơi nào và hành
động nào cũng vậy. a) Sĩlepatitthito: Ở trong
khuôn khổ giới-luật Sự Không Dễ-Duôi là
bức tường ngăn-cản rất hiệu-quả các Pháp Ác không cho
xâm-nhập và nảy-nở trong thân-Tâm được, là nguồn cội
và chủ-động các Pháp Lành. Nên có câu Phật-ngôn như vậy:"
Này các thầy Tỳ-Khưu! dấu chân của tất cả loài thú đều
có thể nằm trọn trong dấu chân của con voi như thế nào;
các thiện Pháp hằng qui-tụ cả thảy dưới năng lực của
sự không dễ-duôi như thế ấy!". "Appamãdo Amatam
Padam ": Sự Không Dễ-Duôi là con đường đi đến
nơi bất-diệt. Chúng-sanh nào có Tâm Không Dễ-Duôi, thường
tưởng nhớ đến những pháp hành, chuyên cần thực-hành
các công đức như Bố-Thí, Trì-Giới, Thính-Pháp, Tham Thiền...
và cố gắng không ngừng gìn-giữ Lục-Căn thanh-tịnh, không
cho duyên theo trần-dục; chúng-sanh ấy, chắc chắn một
ngày kia sẽ diệt-tận được các Phiền-Não trọng đại,
vi-tế và sẽ được nếm hương-vị Niết-Bàn là nơi Vô-Sanh
Bất-Diệt vậy. Vì thế, nên trong khi
lâm trọng bệnh sắp nhập Niết-Bàn, Ðức Thế-Tôn nhìn
hàng tứ-chúng đang ngồi đầy-dẫy trước mặt Ngài, người
thì gương mặt âu-sầu, buồn-bã, người thì giọt lệ đầm-đìa...
ai ai cũng đều tỏ vẻ ảo não, tiếc thương đấng Từ-phụ
trong giờ vĩnh-biệt... Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, Ngài
bèn thốt lời căn dặn như vậy:" Này các đệ tử! Các
người nên nhớ rằng các Pháp Hữu-Vi đều phải bị tiêu
hoại, ấy là lẽ dĩ nhiên. Các người không nên Dễ-Duôi,
hãy cố-gắng hành những điều lợi-ích đến thân-Tâm cho
được mau kết quả!" Ấy là lời cuối cùng của Ðức
Thế-Tôn khi sắp lìa cõi thế-gian, tiếng Palĩ gọi là
"Pacchimabuddhavacana " (Tối-Hậu-Ngôn). Bao nhiêu lời ấy bao gồm
trọn vẹn Giáo-Pháp mà Ðức Thế-Tôn đã khổ công truyền
bá trong 45 năm trường dài đăng-đẳng, vì vậy chúng ta là
hàng Phật-tử, hữu-duyên gặp được Chánh-Pháp, cũng nên
khắc tạc nơi Tâm khảm lời di-huấn vàng ngọc của Ngài
và cố-gắng thực-hành "Sự Không Dễ-Duôi" hầu thấy
rõ con đường giải-thoát trong ngày tương-lai. Do nhờ những Ân-Ðức
Từ-Bi phổ-độ chúng-sanh vừa kể trên, nên Ðức Phật có
hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều- Ngự-Trượng-Phu). -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác sĩ
Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
- Lokuttara Sila: Thánh-Giới
Silã Upparami: Bậc-Trung
Silã Paramattha Parãmi: Bậc-Thượng
Sammã Kammanto: Chánh-Nghiệp
Sammã ãjivo: Chánh-Mạng
Appanã Samãdhi: Nhập-Ðịnh
b) Pathuppanno: Có Trí-Tuệ thậm-thâm, sâu dày như quả
địa cầu.
c) Hãsappanno: Có Trí-Tuệ làm cho chúng-sanh vui-thích
trong khi nghe Ngài thuyết Pháp.
d) Javanappanno: Có Trí-Tuệ thông-hiểu mau lẹ các
Pháp
e) Tikkhanappanno: Có Trí-Tuệ sắc-bén.
f) Nibbedhikappanno: Có Trí-Tuệ trong sự thuyết Pháp
là không bao giờ lẫn-lộn hoặc vấp-váp trong khi thuyết
Pháp.
b) Adoso: Không Sân-Hận
c) Amoho: Không Si-Mê
b) Vimamsiddhi: Thần-Lực do Trí-Tuệ là Trí-Tuệ sáng
suốt nhờ Minh-Sát.
b) Pannãnuttariya: Trí-Tuệ Cao Thượng
b) Sila: Trì-Giới
c) Bhãvana: Tham-Thiền
b) Avitakkasavicãrasamadhi: Bậc Thiền không có Tầm nhưng
có Sát
c) Avitakka Avicãrasamãdhi: Bậc Thiền không Tầm và
không Sát.
b) Vedanãnupassanã Satipatthãna: Niệm Thọ
c) Cittãnupassanã Satipatthãna: Niệm Tâm
d) Dhammãnupassanã Satipatthãna: Niệm Pháp.
Muncana Cetanã: Tác-ý trong khi làm là Tâm vui thích
trong lúc đang làm phước.
Aparãpara Cetanã: Tác-ý suy-nghĩ thỏa-thích sau khi
làm rồi.
b) Viriyiddhipãda: Tinh-tấn Thần-Túc
c) Cittiddhitãda: Tâm-năng Thần-Túc
d) Vimamsiddhipãda: Trí-Tuệ Thần-Túc.
b) Sallekho: Có sự Tri-Túc
c) Saddhã: Có Ðức-tin kiên-cố trong 10 Pháp Ba-La-Mật
d) Silam: Trì-Giới trong sạch theo Ngũ-Giới, Bát-
Quan-Trai-Giới và Tứ-Thanh-Tịnh-Giới.
b) Samuccheda Vimutti: Giải-thoát bằng sự đoạn tuyệt.
c) Vikkhambhana Vimuti: Giải-thoát bằng sự đè-nén của
Thiền-Ðịnh.
d) Tadanga Vimutti: Giải-thoát các pháp-ác trong mỗi nấc
Tâm do Minh-Sát-Tuệ.
b) Viriya Balam: Tấn-Lực là tinh-tấn dũng-mãnh để
diệt trừ sự lười-biếng, giải-đãi.
c) Sati Balam: Niệm Lực là trí nhớ dũng-mãnh để diệt
trừ Tâm nhớ vẫn-vơ bên ngoài.
d) Samãdhi Balam: Ðịnh-Lực là Thiền-Ðịnh dũng-mãnh
để diệt trừ Tâm không chăm-chú, không an-trụ.
e) Pannã Balam: Tuệ-Lực là Trí-Tuệ dũng-mãnh để
diệt trừ Vô-Minh.
b) Viriyindriyam: Tấn-Căn là cội Tinh-Tấn để diệt-trừ
sự lười-biếng, giải-đãi
c) Satindriyam: Niệm-Căn là cội Trí-Nhớ để diệt-trừ
Tâm nhớ vẫn-vơ bên ngoài
d) Samãdhindriyam: Ðịnh-Căn là cội Chánh-Ðịnh để
diệt-trừ Tâm không an-trụ
e) Pannindriyam: Tuệ-Căn là cội Trí-Tuệ để diệt-trừ
Vô-Minh.
b) Dibba Sota: Nhĩ-Thông
c) Iddhividha: Thần-Thông
d) Paracitta Vijjã: Tha Tâm-Thông
e) Pubbenivãsãnussati: Túc-Mạng-Thông
Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã.
Tu-Ðà-Hườn quả
Tu-Ðà-Hàm đạo
Tu-Ðà-Hàm quả
A-Na-Hàm đạo
A-Na-Hàm quả
A-La-Hán đạo.
b) Apo Kasina: Ðế-mục nước
c) Vãgo Kasina: Ðề-mục gió
d) Tejo Kasina: Ðề-mục lửa
e) Nĩla Kasina: Ðề-mục màu xanh
f) Pita Kasina: Ðề-mục màu vàng
g) Lohita Kasina: Ðề-mục màu da
h) Odãta Kasina: Ðề-mục màu trắng
i) Akãsa Kasina: Ðề-mục hư-không
j) Aloka Kasina: Ðề-mục ánh-sáng.
b) Sukham Patibujjhati: Khi thức dậy cũng được an-vui.
c) Na Pãpakam Supinam Passati: Không nằm mộng thấy điều
dữ xấu-xa.
d) Manussãnam Piyohoti: Mọi người đều thương mến.
e) Amanussãnam Piyohoti: Phi-nhân cũng thương mến.
f) Devatã Rakkhantri: Chư-Thiên thường hộ-trì.
g) Nãssa Aggi, Visam, Sattham và Kamati: Lửa, thuốc
độc và khí-giới không làm hại được.
h) Tuvãtam Cittam Samãdhiyati: Tâm nhập thiền một
cách mau lẹ.
i) Mukhavanno Vippasidati: Màu da, gương mặt được
tươi-tỉnh sáng-sủa.
j) Asammulho Kãlam Karoti: Khi sắp lâm chung, Tâm được
bình-tĩnh không mê loạn.
k) Uttarim appativijjhanto Brahmalokũpagohoti: Nếu chưa đắc
đạo-quả cao thượng thì khi chết được sanh về cõi trời
Phạm-Thiên (Sắc-Giới).
2 Tâm Sân-Hận
2 Tâm Si-Mê
b) Tecivarika: Hành bằng cách chỉ có tam-y.
c) Pindapãtika: Hành bằng cách chỉ đi khất-thực không
thọ trai tăng.
d) Sapadãnacãrika: Hành bằng cách thường đi khất-thực
theo mỗi nhà mỗi xóm.
e) Ekãsanika: Hành bằng cách chỉ ngồi thọ-thực một
chỗ (chỉ thọ một ngày một lần thôi).
f) Pattapindika: Hành bằng cách chỉ thọ-thực trong
bát mà thôi.
g) Khalupashãbhatika: Hành bằng cách khi đã ngăn (không
dùng, không thọ-lãnh) vật-thực người dâng rồi thì
không được phép thọ-thực nơi nào nữa.
h) Arannika: Hành bằng cách chỉ ở trong rừng (không
được ở trong xóm làng).
i) Rukkhammũlika: Chỉ ở nơi cội cây (không được
ở cốc, lều hoặc chỗ có che lợp).
j) Abbhokãsika: Chỉ ở ngoài trời, khoảng trống (dầu
dưới bóng cây cũng không được).
k) Sosanika: Chỉ ở nơi mồ mả hoặc chỗ bỏ tử-thi.
l) Yathãsanthalika: Chỉ ở chỗ nào chư-tăng đã chỉ
định đầu tiên, không dời đổi.
m) Nesajjiaka: Chỉ ngồi chớ không nằm (đi, đứng
được).
b) Dukkha Samudaye Nãnam: Huệ thấy rõ Tập-Ðế là
chân-thật.
c) Dukkha Nirodhe Nãnam: Huệ thấy rõ Diệt-Ðế là thật.
d) Dukkha Nirodhagãminipatipadãya Nãnam: Huệ thấy rõ Ðạo-Ðế
là thật.
e) Atthapatisambhidã: Huệ thấy rõ cái quả hay cái lý
(thông-suốt cả nghĩa lý của chú giải).
f) Dhammapatisambhidã: Huệ biết rõ cái nhân hay suốt
thông cả các pháp.
g) Nirutti Patisambhisã: Huệ biết rõ Ngũ-Căn hay suốt
thông các thứ tiếng.
h) Patibhãna Patisambhidã: Huệ phân tách rõ-ràng
và mau lẹ tất-cả sự vật.
i) 8 cái Huệ vừa kể trên + 6 cái Huệ đã giải ở chi số
32, thành 14 cái Huệ
5 Rũpãvacarakusala: Thiên Tâm trong cảnh Sắc-Giới
4 Arũpãvacarakusala: Thiên Tâm trong cảnh Vô-Sắc-Giới
4 Lokuttarakusala: Thiên Tâm của bậc Thánh-Nhân.
- Tikapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 3 chi
- Dukatikapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 2
và 3 chi
- Tikadukapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 2
và 3 chi.
Phất-phơ đứng tựa cửa mồ diệt vong
Tu thân chớ đợi bên trong
Tư lương sao chửa dọn lòng lo tu
Một khi thần chết hiện về
Nào ai có thể chở che cho mình
Vợ con dầu có chí tình
Ngậm-ngùi chỉ biết làm thinh đứng nhìn.
- Sãvakaveneyya: Hạng người do các bậc Thinh-Văn tế-độ.
b) Adesanãpãtihãra: Bằng cách biết rõ Tâm của
chúng-sanh.
c) Anusasanipatihãra: Bằng những lời khuyên-răn, nhắc-nhở
và giao-huấn về Giới, Ðịnh, Huệ.
Manussa Purisa: Người Nam
Amanussa Purisa: Phi-Nhân Nam
Trí-Tuệ và căn-cơ mỗi chúng-sanh,
Nguyên-nhân, thời buổi và cơ-hội,
Phong-tục tập quán mỗi quốc-độ...
Kusalassũpasampada: Nên làm các điều lành.
Sacittapariyodapanam: Nên trau dồi Tâm cho trong sạch.
Trộm-Cắp
Tà-Dâm
Nói Dối
Nói Lời Ðâm Thọc
Nói Lời Ðộc-Ác (Chửi Rủi)
Nó lời Viễn-Vong Vô-Ích
Tham-Lam
Thù Oán
Tà-Kiến (không tin nhân-quả tội phước...)
- Phụng-Sự Sốt-Sắng (Veyyãvacca)
- Ngũ-Giới
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Appamannã)
- Xa lánh sự dâm-dục (Methunavirati)
- Chỉ Vui Thích Vô-Minh
- Không ngoại tình
- Tinh-Tấn Tri Bát-Quan-Trai (Uposatha)
- Bát-Thánh-Ðạo (Ariyamagga)
- Giáo-Pháp: Sasana (Giới, Ðịnh, Huệ)
- Nên thực-hành Sự Không Dễ-Duôi (Appamãda).
b) Indriyesu Smavuto: Thâu-thúc Lục-Căn cho thanh-tịnh.
c) Bhojane Mattannu: Biết độ lượng trong sự ăn uóng
d) Jãgariyam Anuyanjati: Thường hay thức tỉnh, ít mê
ngủ.
e) Bhãvagam Kusalam Dhamman: Tinh-Tấn tham thiền, hành-đạo
để đắc những Pháp cao-siêu.
updated: 18-04-2002