|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 4
Những Ma Chướng và
Trở Lực của Thiền Ðịnh
Trong kinh
điển Phật giáo Nguyên thủy vẫn thường nhấn mạnh đến những trở lực
có nguy cơ phương hại cho hành trình tu tập mà gần như không một ai chẳng
gặp phải. Ðức Phật dạy rằng một người có bản lĩnh điều phục được
nội tâm của chính mình thì xét về giá trị tinh thần, còn vĩ đại hơn
cả một viên dũng tướng bách chiến bách thắng ngoài chiến trường.
Người tu hành, đặc biệt là các hành giả thiền định, việc đối
đầu với các trở lực tinh thần (thường được kể có 5) là cả một vấn
đề quan trọng mang tính thường trực và cấp thiết. Chẳng riêng gì
Phật Giáo, mà đến cả giới tu hành của thiền tôn giáo, chẳng hạn
Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Ấn Giáo, thậm chí đến các
tay phù thủy da đỏ Mỹ Châu cũng đều luôn đặt vấn đề cảnh phòng
đối với các trở lực nội tâm (theo cách hiểu của họ), nhưng nội dung
của chúng cũng gần giống với 5 thứ trở lực tinh thần trong Phật Giáo.
Sau đây là câu chuyện về một nữ tu Thiên Chúa Giáo người Tây
Phương sống tại Ấn Ðộ, đó là Sơ Teresa, người đã từng được giải
Nobel hòa bình vì những đóng góp xã hội to tát của bà. Lần đó, sau khi tỏ
lời kính phục đối với sự nghiệp vị tha của Sơ, một phóng viên của đài
BBC đã nói một câu ngụ ý rằng thực ra có lắm con đường để sơ có
thể vừa sống thoải mái mà vẫn có thể phụng sự tha nhân dễ dàng, can
chi Sơ lại chấp nhận một đời sống vật chất quá ư chật vật? Bởi rõ ràng
là về tài sản vật chất, Sơ Teresa coi như không có gì cả, trừ một
chiếc xe, một ngân khoản bảo hiểm... và dĩ nhiên là Sơ cũng không có
chồng con. Nghe nhắc đến vấn đề hôn nhân, Sơ Teresa mỉm cười với
người phóng viên :
- Bảo tôi độc thân là sai, tôi vẫn đang có một cuộc hôn nhân đó chứ!
Nói rồi, Sơ giơ tay lên cho anh phóng viên nhìn thấy chiếc nhẫn trên
đó, thực ra đó là loại nhẫn mà các nữ tu vẫn thường đeo với ý nghĩa
là đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa và Sơ lại nói thêm: "Mà Ngài
thì nhiều khi khó khăn lắm! "- ý Sơ Teresa muốn nói đến những
trở lực tinh thần mà mình đã phải đối diện trong cuộc đời làm một nữ
tu.
Càng lắng tâm nhìn ngắm vào chính lòng mình, chúng ta sẽ càng có
nhiều cơ hội để thấy rõ tất cả những nguồn cội của ham muốn, sợ
hãi, thương ghét, nói chung là các thành kiến tâm lý mà từ đó đã
gây ra biết bao nỗi khổ cho thế giới. Bản thân chúng là những ma
chướng, trở lực, nhưng đối với một người tu tập thiền định thì chúng
là một vấn đề tâm điểm để bằng vào một sự trực diện khách
quan, chúng lại thành ra một thực tại chiêm ngắm, đồng thời sự chiêm ngắm
đó lại là một công phu tu tập. Sự đối diện để khắc trừ cũng như
ý hướng xử lý các trở lực tinh thần này thực ra không phải chỉ là
vấn đề của hôm nay, mà là tự ngàn xưa. Vào thế kỷ thứ 2 Tây
lịch, tu sĩ Evagrios, người vẫn được xem là một đại ẫn sỉ trên sa mạc,
đã nhắc nhở các môn đồ của mình về những trở lực tinh thần bằng cách
dùng hình ảnh mô tả chúng như những con ác quỷ luôn rình rập để
quấy rầy những người tu hành nơi hoang vắng. Những con ác quỷ đó chính
là những nổi sợ hãi, lười biếng kiêu ngạo...
Theo truyền thống Phật Giáo, các trở lực tinh thần này được nhân cách
hóa bằng các tên gọi Ác Ma, Ma Vương mà bộ mặt của chúng chính là
những hèn nhát nông nông nổi, bướng bỉnh, thái độ vô tri, xuẩn động đối
với thực tại.
Ác Ma (ở đây chỉ cho các phiền não) thường xuất hiện để quấy
rầy người tu tập qua nhiều hình thức: Chẳng hạn một ước muốn nào đó
về điều kiện sống vật chất hoặc những do dự, tiếc nuối trong
mỗi hoạt động của mình. Có một câu nói rất hay mà chúng ta nhắc lại ở
đây như một lời cảnh báo: "Phật nào, Ma nấy". Ở một nội tâm
non yếu thì các phiền não trở lực sẽ xuất hiện một cách thô
thiển để ta có thể dễ dàng nhận diện và khắc chế; còn
đối với những hành giả càng có bản lĩnh nội tâm bao nhiêu thì chúng cũng
xuất hiện vi tế, kín đáo bấy nhiêu. Ðó là những tư tưởng nguy
hiểm nhưng ta khó mà nhận ra. Chẳng hạn như một tư tưởng tự mãn "Ta
là một đức hạnh! Ta không bị các phiền não nhiễu động!". Chúng kín
đáo quá, thế là chúng ta mắc bẫy! Ðể đối trừ những hình thức
phiền não tế vi này, chúng ta chỉ còn cách dốc sức cho một khả năng
chuyên chú và tỉnh lặng thường trực, và dĩ nhiên bằng một thái độ nhìn
ngắm hết sức khách quan.
Ngày xưa, chính Ðức Phật cũng đã đi qua con đường này trong những ngày
tháng còn là một ẩn sĩ ngồi tĩnh tọa dưới gốc bồ đề. Ngài đã tự
hứa với lòng mình là sẽ không bao giờ đứng dậy ra đi nếu chưa làm tròn
được lý tưởng của một vị Chánh Ðẳng Giác. Ðể thấu đáo được
bản chất của những buồn vui trong đời mình cũng như để tìm được lối
thoát tự do cho bản thân, điều bắt buộc là chúng ta phải luôn đối
diện với những phức loạn phiền não vốn thường trực có mặt trong nội
tâm của mình. Cứ xem cuộc tu là một cuộc hành trình ngàn dặm mà ở đó
chúng ta phải tự biết học cách giữ vững được lòng mình và điều
tất yếu là phải có được một bản lãnh tự tại của một kẻ xem bốn
biển là nhà. Sự chuyên tâm trong công phu thiền định không hề là
một nổ lực tự tạo ra một ảnh tượng lý tưởng nào đó, mà là một thái
độ sống hết mình trong từng phút giây hiện tại, phơi mở nội tâm,
làm trung hòa các xung đột nội tại xuyên qua những cảm nghiệm chu đáo
về đời sống. Với chừng đó cố gắng, xem như ta đã có đủ sức mạnh
để đào luyện nội tâm, huy động nó một cáh hữu hiệu, đồng thời
cũng giúp nó ngày một kiên định, trong sáng và tự do hơn. Chúng ta có
thể nói rằng khả năng trung hòa nội tâm luôn được thành tựu từ sự
trực diện với mỗi mỗi cảm nghiệm khách quan về thực tại.
Ở một cấp độ rốt ráo nào đó, người hành giả có bản lãnh này còn có
thể vô hiệu hóa những ảnh hưởng của phiền não bằng chính sự tu
tập đúng mức của mình, mà nội dung của nó luôn là một tình thương vị tha
cùng niềm khát khao hướng đến một khả năng tỉnh thức thật sự. Suy
cho cùng, chỉ bằng một chút lòng thiện chí, ta có thể ta có thể
học được lắm điều kỳ diệu trong đời mình, kể cả một sinh
phong tự tại, an bình giữa cuộc đời nước mắt nhiều hơn nụ cười này.
Nếu thiện chí đó vẫn nuôi dưỡng từng ngày thì những trở lực tinh
thần kia đói với chúng ta sẽ không còn là vấn đề nữa. Ðể rồi sau
cùng chúng ta còn thấy được một điều hết sức thú vị khác nữa
rằng, tất cả những điều tệ hại và khó khăn nhất đều luôn thay
đổi chứ không phải cứ triền miên đày đọa chúng ta như trước đây
chúng ta vẫn nghĩ thế. Tất cả lúc này chỉ còn là những cảm nghiệm
giản đơn trong sáng, nhẹ nhàng và cũng phù du mà chúng ta có thể an
nhiên nhìn ngắm chúng trong mỗi giây khắc tư tưởng.
Những căn dặn trên đây tuyệt đối không phải chỉ đơn giản mang tính
học thuyết hay tín điều Thiêng liêng, mà lại là một phép sống
hết sức thực tế để chúng ta có thể nương theo đó mà cảm
nghiệm được một nếp đời tự tại, tự học được cách gắn bó với
từng cảm nghiệm đó của mình. Mà vấn đề này thì vô cùng quan
trọng: Bằng chính thái độ xử lý của ta đối với các trở lực tinh
thần đó, một cuộc xung đột nội tại nghiêm trọng sẽ xảy ra hoặc một
thành quả thiền định chói ngời được thành tựu. Do vậy, bước đầu tiên
khởi mang tính cấp thiết cho công phu nội quán và trực diện này phải
là sự nỗ lực giàn xếp, trung hòa mọi động cơ xung đột nội tại
một cách cụ thể. Nói theo kinh điển truyền thống, các triền
cái tức những trở lực nội tâm đã nhắc tới trên đây, thường được kể
có năm thứ, mặc dù trong thời gian tu tập thiền định của mỗi người,
con số đó đôi khi không có vẻ khít khao với thực tế. Bởi thế, các
đạo sỉ Du Già (Yoga) vẫn thích gọi tất cả các ma chướng tinh thần trong
thiền định bằng một cái tên chung và ngắn gọn là "Cuộc tấn công
của các trở lực phức loạn". Tuy thế, ở đây, tốt nhất là ta cứ lần
lượt bàn về chứng theo lối phân tích của kinh điển truyền thống.
Năm Triền Cái
Pháp triền cái hay trở lực tinh thần đầu tiên của thiền định,
chính là lòng khát khao, thèm muốn đối với các khoái lạc vật chất thông qua
ít nhất là ngũ quan sinh lý: Thích nhìn cái đẹp, nghe âm thanh vừa ý,
ăn uống ngon lành..., thường gọi là Tham dục.
Những cảm nghiệm ngọt ngào về một thực tại êm thắm, chỉ mang
ý nghĩa nhu cầu sinh tồn giản đơn, không có khuynh hướng đầu tư tích
lũy thì thực ra chẳng có gì đáng nói cả, bởi bất cứ ai cũng có quyền
ngon mặc đẹp, chăn ấm nệm êm kia mà. Nhưng điều hết sức quan
trọng là cái cảm nghiệm về những thực tại tạm gọi là ngọt
ngào ấy có làm ta trở nên mù quáng, thiếu tự chủ hay không. Hãy cẩn
trọng đề phòng những ảo vọng, ước muốn "Giá mà tôi
được..., chứ phải chi tôi có..., mong sao tôi được...". Chúng ta đã
từng hiểu được rằng nếu chỉ sống bằng những cảm nghiệm thực tại
thật đơn giản, không bám víu, tìm cầu, đầu tư, tiếc nuối thì cuộc
sống của chúng ta chắc chắn sẽ an lành, tự tại hơn nhiều.
Tôi nhắc lại, đời sống của chúng ta (đặc biệt đối với những cá
nhân có nhiều điều kiện vật chất) luôn có lắm nhu cầu sinh hoạt
và hưởng thụ: từ những buổi chơi thể thao hào hứng đến một buổi ăn
trưa hợp khẫu, một buổi thưởng lãm nghệ thuật tuyệt vời, những cuộc
mây mưa cháy bỏng, một giấc ngủ thoải mái khỏe khoắn, một suất ăn sáng ngon
miệng... nhiều lắm, và xã hội hiện đại luôn là thế, nhưng ta
cứ thử đứng bên ngoài (về tinh thần thôi, cũng được) rồi nhìn ngắm và
kiểm tra mình. Những cảm nghiệm đơn giản hồn nhiên khách quan và tỉnh
thức đối với các thực tại có vẻ hấp dẫn đó thật ra có thể tạm cho là
vô hại, nhưng vấn đề sinh tử là ta phải luôn có đủ can đảm, tự chủ
để chối bỏ những khi cần thiết. Nhưng lối nghĩ và cách sống như vừa
trình bày có khi nào gây phương hại cho nội tâm chúng ta, những thiền
sinh hay không? Ðiều đó còn tùy thuộc vào chúng ta nữa. Bởi nếu
hiểu đúng và làm đúng lối sống đó bằng những phút giây tỉnh thức cảm
nghiệm thực tại mà ở đây cứ kể là những thực tại hấp dẫn, chúng ta
sẽ thấy chúng lần lượt trôi đi, hạnh phúc và đau khổ luôn tìm chỗ thay
thế nhau. Trong thái độ nhìn ngắm này, mọi thứ đều trở nên vô
vị, nhạt nhẽo và dư vị của chúng còn có thể là những cảm giác buồn
nôn, mệt nhoài, nhàm chán!
Ðiều dĩ nhiên là chúng ta không nên có quá nhiều đòi hỏi trong
cuộc sống. Chỉ cần một ít và đôi khi thôi, trong trường hợp nhu cầu thật
cần thiết và vô hại. Ðối với các thiền sinh sơ cơ, trong những khóa
thiền tập sự thường có lắm người phải mất nhiều thời gian cho những
vọng tưởng thị dục: Họ muốn có một thiền thất khang trang thật
nhiều tiện nghi, hoặc cần đến một an tâm tối ưu về tài
chánh... Nhưng qua thời gian, với sự chấp nhận có thể là khiêm cưỡng,
bất đắc dĩ trong điều kiện sống có phần hạn chế và khắc khổ
của thiền viện, họ sẽ quen dần mọi sự và những ham muốn trong
lòng họ lúc này có thể được giới hạn lại thành những ước muốn
nhỏ nhặt, đơn giản hơn: Chẳng hạn họ thèm được thêm tí đồ ngọt
trong suất ăn trưa của mình, hoặc thầm mong thời gian thiền định tập
thể hay cá nhân do Thiền sư đưa ra được rút bớt lại đôi phút...
Trong những điều kiện sống càng hạn chế như ở các thiền
viện hoặc nhà lao, chúng ta sẽ nhận ra một điều hết sức đặc
biệt là lòng tham muốn của mỗi người thật ra không phải được qui
định, điều động bởi một đối tượng nào hết, mà ngược lại nó là
một thứ nhu cầu tâm lý cố hữu và chính vì thế đôi lúc, trong một
hoàn cảnh nhất định nào đó, nỗi thèm một viên kẹo cũng mãnh liệt
như cái ước ao có được một chiếc xe Mercedes Benz hay Roll Royce hoặc
Cadillac!
Như vậy đối những ham muốn trong lòng con người, vấn đề không phải
nằm ở đối tượng sở tri ngoại tại mà chính là từ những tiềm lực thúc
đẩy của nội tâm. Chính các động cơ ham muốn đó điều động tất cả
những sinh hoạt đầu tư, tầm cầu của chúng ta. Bản thân một nội tâm đa dục
tự nó đã là một hiện hữu đau khổ. Bởi nó chỉ có thể là một lực
quán tính đưa chúng ta đến những ý hướng khát vọng mà không
hề giúp ta toại nguyện được tất cả những gì mà mình vẫn mong ước
trong cái thế giới vốn phù du và vô ngã này. Kể cả trường hợp chúng
ta có được toại nguyện trong một ước muốn nào đó thì tiếp theo sao
cái thỏa mãn này lại là vô số những ham muốn khác, mà ta dĩ nhiên không
thể nào đáp ứng trọn vẹn cả. Sức mạnh của lòng ham muốn lớn lắm:
nó là cái cảm giác chối bỏ hiện tại, chỉ vì đặc tính "luôn thấy
thiếu", đọa đày chúng ta bằng cái hình thái tâm lý khao khát
kiếm tìm những cái vớ vẫn ngoại tại, trong khi chúng ta luôn có một thực
tại vừa đủ để Sống. Nó là cội nguồn của tất cả những tuyệt
vọng trầm thống, những cuộc chiến tranh bạo động tương tranh, tương
diệt giữa con người với nhau từ ngàn xưa. Tất cả chỉ vì bản chất của
cuộc đời là luôn bất toàn, bất toại. Cầm lấy một lòng ham muốn xuẩn động
để đi tìm một sự thỏa mãn tuyệt đối quả là một thái độ sống
hoàn toàn đi ngược lại trí tuệ thiền định, con đường giải thoát
tất cả khổ đau.
Người Ấn độ có một câu nói rất hay, là: "Một kẻ móc túi dầu
có tận mặt gặp một vị Thánh ngoài đường thì hắn cũng chỉ nhìn thấy
được chiếc túi hành lý của Ngài mà thôi". Lòng ham muốn luôn
qui định nhãn quan của chúng ta về mọi sự. Một ví dụ đơn giản là
nếu chúng ta đang đi trên đường phố với cái bụng đói thì chúng ta khó
mà để mắt vào các cửa hiệu áo quần, mỹ phẩm mà thay vào đó là sự
chú ý tìm kiếm các tiệm ăn với nỗi ám ảnh về những món
ăn mà mình thích.
Nhiều lần vẫn lầm khi nghĩ rằng các thiền sinh nghiêm túc luôn nhắm
mắt làm ngơ đối với những chuyện thuộc lĩnh vực tình cảm lãng mạn,
chẳng hạn như những vấn đề tình cảm hôn nhân hay những cuộc hẹn hò lứa
đôi... hoặc thậm chí còn không nhắc đến những người có liên quan
đến lãnh vực đó. Thực ra, các thiền sinh cũng lắm khi âm thầm tư
tưởng đến những vấn đề tương tự: Ðôi lúc họ vẫn có những
thương nhớ, vấn vương kín đáo trong lòng, dĩ nhiên là kín đáo và rất
hạn chế. Ta có thể gọi đó là chút lãng mạn trong thiền định
mà khó có ai tránh khỏi. Lòng ham muốn luôn có một sức mạnh chi phối nội
tâm của chúng ta bằng đủ thứ hình thức vọng tưởng mà hậu quả tất
nhiên là khiến ta đánh mất sự tỉnh thức. Trong Ðạo Ðức Kinh có một câu
nói mà đại ý như sau: "Chỉ với một đôi mắt hồn nhiên vô cầu, vô
chấp mới có thể nhìn thấy được những điều huyền diệu".
Ðể có thể thấy được bộ mặt thật, cùng sức ảnh hưởng của lòng ham
muốn, ta có một phương cách khả dĩ hiệu quả là vận dụng một nội tâm
thư thái tự do cũng như một trí tuệ sâu sắc về từng thực tại trong
mỗi phút giây. Nói chung, đây chỉ là một con đường căn bản vẫn được
nhắc đến nhiều lần trong pháp môn thiền định.
Còn một trở lực nữa mà thiền sinh phải vất vã đối đầu, đó chính
là những bất mãn, oán ghét, sân hận, buồn chán,... - thường gọi chung là
Sân hận. Tác động nguy hại của những hình thái tâm lý này xem ra
cũng chẳng kém gì so với sự tham đắm, ham muốn bởi trở lực nào cũng làm mê
hoặc chúng ta. Những cơn nóng giận hoặc sự thù ghét dĩ nhiên là những
nỗi đau tâm lý. Ta có thể nhìn ngắm được đôi điều thú vị
về chúng ngay trong chính nội tâm mình, nhưng hãy nhớ là cố gắng đừng
để chúng kéo dài thời gian. Ta nên nhanh chóng khép lòng mình lại bởi
chúng là những bức xúc nặng nề và nhức nhối mà chúng ta khó có thể
kham nổi.
Lòng sân hận cũng có sức mạnh mãnh liệt như lòng ham muốn. Nó có
thể nổi dậy trong ta không những từ một đối tượng trước mắt mà còn có
thể từ một đối tượng ở đâu đó thật xa xôi. Ðôi khi chúng ta có
thể nổi giận chỉ vì một chuyện cũ nào đó trong quá khứ, thậm chí
lòng sân hận có thể phát khởi từ một suy diễn tự tạo, vô căn cứ nào
đó nữa. Một sự nóng giận cao độ có thể tạo ra những tác động tệ
hại cho nhân cách của chúng ta để gây nên những hành xử lệch lạc,
lầm lẫn mà đôi khi chính mình cũng không ngờ được. Lòng sân hận còn có
thể là cội nguồn cho biết bao nổi khổ tâm của chúng ta từ trong đời
sống cá nhân cho đến những cuộc đối giao với người khác.
Lòng sân hận có rất nhiều hình thức mà có lẽ ta ít khi hoặc thậm chí
rất khó nhận ra, đó chính là sợ hãi, lo toan, chán nản, nói chung là những
tâm thái tiêu cực có thuộc tính đối lập với lòng ham muốn. Bởi chỉ cần
quan sát chúng thật kỹ lưỡng, ta sẽ thấy ngay rằng tất cả tâm thái bất mãn
này đều xuất phát từ một thành kiến đối kháng, ác cảm đối với
một nhân vật, sự việc nào đó. Mà với những tâm trạng phiền não như
vậy, dù là lòng ham muốn thấp kém hay sự sân hận nông nổi, chúng ta làm sao
có thể tập trung tư tưởng để thiền định, một công phu tinh thần
mang lý tưởng khám phá thực tại? Ở đây đang nói về vấn đề
sân hận như là một trở lực cho thiền định, nên điều tiên quyết
là ta phải học cách đối diện và xử lý, giàn xếp nó ở
mọi hình thái biến tướng, dĩ nhiên cũng chỉ vẫn với từng phút giây
tỉnh thức, nhìn ngắm.
Trở lực thứ ba của thiền định lại là tâm lý thụ động, luời
biếng mà gọi theo thuật ngữ kinh điển là Hôn Thụy (hôn trầm
thụy miên). Nó làm ta cảm thấy dã dượi, buồn ngủ, không thích hoạt động
tỉnh thức. Bị Hôn Thụy chi phối, nội tâm hành giả coi như bất lực, các sức
mạnh nội tại cũng bị vô hiệu hóa và như vậy thì công phu thiền
định cũng bị ngăn trở, thậm chí đình chỉ.
Trở lực thứ tư của thiền định là phóng dật -- hay Trạo hối,
một phiền não gần như có thuộc tính đối lập với Hôn Thụy, dĩ nhiên là
cách đối lập tiêu cực. Với một định nghĩa đại khái, căn bản thì phóng
dật là tình trạng tâm lý bị khuếch tán, loạn động, hướng ngoại với
đủ thứ đề tài tư tưởng tốt xấu, vui buồn... và tất cả diễn ra trong
một sự thiếu tổ chức như những cái quẩy mình vật vã của một con cá bị
đem ra đất. Với một nội tâm phóng tán như vậy thì đến cả những cử
động, tư thế sinh hoạt của ta cũng còn bị ảnh hưởng tệ hại, nói chi
đến công phu thiền định. Bởi thực tại cảm nghiệm của ta lúc này
là cả một mớ hổ lốn, bề bộn, tạp nhạp và tư tưởng ta thì bay nhảy
không định hướng. Trong tình trạng tâm lý này, ta có một cách khác
để giải quyết chứ không thể cực lòng đuổi bắt, đo đếm từng
ảo tưởng chớp nhoáng và vô hệ thống đó được, làm vậy chỉ hoài công
thêm thôi.
Trở lực thứ năm mà cũng là sau cùng của thiền định là sự Nghi
hoặc hay hoài nghi vớ vẫn. Có thể nói đây là trở lực nghiêm
trọng nhất cho hành giả thiền định. Bởi vì cần có sự hiện
diện của nó, mọi nổ lực tinh thần của ta coi như vô nghĩa và bị tê
liệt. Có nhiều hình thức hoài nghi lắm: về sự hiện hữu của
mình, về khả năng của bản thân, về người Thầy hướng dẫn, về
pháp môn thiền định hoặc toàn bộ giáo lý Phật pháp... Thậm chí có
thể chỉ dựa vào trình độ trí tuệ thiền định non kém của mình
rồi quay sang nghi nghờ đến cả Ðức Phật: "Có chắc là Ngài đã thật
sự thấu đáo tất cả những gì mình đã thuyết giảng?"
Chúng ta còn có thể hoài nghi con đường thiền định mà mình đang
tu tập, bằng các hướng đi lệch lạc nào đó, hoặc tự cho mình chưa đủ
túc duyên, điều kiện thuận lợi về thời gian hay vấn đề sức
khỏe... Nói chung, dầu ở bất cứ hoàn cảnh nào bất luận, chỉ bằng một chút
hoài nghi, công phu thiền định của chúng ta coi như bị ngăn trở nghiêm
trọng nếu không muốn nói là thất bại!
Xử lý các Trở lực
Ðể có thể tu tập thiền định, điều dĩ nhiên là ta phải tự
biết giải quyết các trở lực tinh thần một cách hữu hiệu. Theo kinh
điển Phật Giáo nguyên thủy, thì bản chất thâm tâm mỗi người giống
như một đầm nước và tâm điểm của thiền định là nhìn ngắm xuyên
suốt đáy sâu của đầm nước. Tham dục tức những ham muốn dục lạc, khoái cảm
xuất hiện trong nội tâm ta như một chất phẩm nhuộm đẹp mắt được đổ
xuống đầm nước, làm mất đi cái trong suốt mà ta cần đến để nhìn
sâu vào đầm nước. Lòng Sân hận, dù ở hình thức nào, cũng chẳng khác một
đầm nước ngay dòng phún của một suối nước nóng: sục sôi, cuồn cuộn. Nó
cũng làm hạn chế tầm nhìn của chúng ta. Hôn thụy thì được ví dụ như
một lớp rong dày phủ đầy đầm nước. Phóng dật được ví dụ bằng hình ảnh
những cơn gió lốc xoáy, làm xao động mặt nước trên đầm và Hoài nghi thì
giống như chất bùn bị khuấy lên trong đầm nước. Với những tình trạng đó
của nội tâm, đầm nước thực tại coi như không thể được nhìn thấy tận
đáy.
Phương thức trực diện, xử lý các trở lực tinh thần ở đây, trước
mắt, vẫn trên tinh thần nền tảng là một sự tỉnh thức và hiểu
biết kịp thời ngay khi chúng vừa lộ diện. Nhưng bằng cách nào để
thực hiện điều này? Vấn đề thực ra không đơn giản, dễ dàng.
Ðiều tất nhiên là hành giả không nên đối diện chúng bằng một tâm
thái đè nén khiêm cưỡng hay lo toan chật vật, bởi không khéo đó lại là
một hình thức ngụy trang khác của sân hận! Nhưng nếu vậy thì coi như
chúng ta bó tay bất lực trước chúng hay sao? Tuyệt nhiên không phải
thế! Chúng ta không phải vật lộn xuẩn động đối với các trở lực đó,
nhưng lại tỉnh thức chuyển hóa chúng thành những mảnh vụn thực tại
để có thể nhìn ngắm kiểm soát. Chúng thường mạnh lắm, nhưng
điều đó chẳng sao, thậm chí chúng càng mãnh liệt thì khuôn mặt thực
tại càng rõ nét thêm thôi, và như đã nói, càng có nhiều dịp trực
diện thực tại thì ta càng có nhiều cơ hội tuyệt vời để có
nhiều bài học sinh động và quí giá về các qui luật nhân quả, tam
tướng trong mỗi hình thái vận động của thực tại. Chỉ với một năng lực
chánh niệm đúng mức ta sẽ thấy tất cả phiền não chỉ là một vấn
đề đơn giản. Hãy nhớ kỹ kinh nghiệm quan trọng này là đừng nông
nổi đối đầu các trở lực bằng thái độ xung đột. Nên hết sức bình
đạm, tỉnh thức để lắng nghe và học hỏi ở chúng. Sức mạnh ở các
phiền não trở lực lúc này là thành ra một lợi thế cho ta trong công
phu thiền định và đồng thời ta cũng có luôn một lớp học nội tại vô
cùng quí báu trong cả đời sống thường nhật.
Phương án thứ hai để xử lý các phiền não trở lực, đặc
biệt và vào lúc chúng đang trở nên quá mãnh liệt thì chúng ta lập
tức huy động và vận dụng các thiện tâm vốn mang thuộc tính đối lập với
chúng như là một cách xử lý tương ứng. Nhờ vậy ta có thể làm
yếu đi sức mạnh của chúng, đồng thời tự tìm lấy cho mình một tâm thái
tự do thông qua sự độc lập đối với chúng. Chúng càng yếu dần thì khả
năng tỉnh thức của chúng ta cũng theo đó mà được trưởng dưỡng.
Phương án thứ ba, thường chỉ có thể được thực hiện ở các
thiền sinh già dặn, là đơn giản hóa tất cả, mọi sự coi như pha. Với
một trình độ định tỉnh kiên cố, khi các phiền não trở lực xuất
hiện, một chánh niệm hùng hậu sẽ xô đuổi chúng một cách nhẹ nhàng,
tế nhị như đối với những người khách mà mình không muốn tiếp. Thái
độ xử lý này tuyệt nhiên không hề mang một ý nghĩa ác cảm
bồng bột nào mà chỉ là một chút công việc thu vén, sửa sang để
dọn chỗ cho một nội tâm thiền định. Trình độ tự tại đó luôn
được gắn liền với một khả năng thiền định cao cấp tương ứng và ở
đây những thiền sinh lão luyện không cần thiết có một lưu tâm
cảnh giác nào đối với các phiền não mà chỉ thản nhiên nhìn ngắm khi
chúng đến. Thái độ xử lý này không thể đem áp dụng ở một
thiền sinh sơ cơ, bởi vì với trình độ non kém của họ, tâm phong có
vẻ thoải mái rất dễ dàng trở thành tình trạng bỏ ngõ nội tâm hoặc một
hình thức tâm lý nào đó bất lợi cho một chánh niệm nhìn ngắm.
Bây giờ thì chúng ta hãy quay lại với những trình độ thiền định bình
thường và phổ cập hơn. Trước hết, bằng cách nào ta có thể thực
hiện tốt những phương thức xử lý phiền não như vừa trình bày
trên đây, chẳng hạn chúng ta phải làm gì khi một lòng ham muốn, Tham Dục,
vừa xuất hiện? Chúng ta chỉ việc nhìn thẳng vào nội tâm mình và đưa
lòng ham muốn đó vào trong nhãn trường tỉnh thức, rồi đơn giản ghi nhận nó
"ham muốn, ham muốn!". Chúng ta có thể nhìn ngắm nó ngay trong lúc
đang quan sát hơi thở hoặc một cảm năng nào đó trong cơ thể mình.
Nếu nó bất chợt vùng dậy mãnh liệt thì hãy lập tức ra sức chú
ý, nhìn ngắm nó kỷ lưỡng hơn: Nó đang muốn gì? Nó có tác động gì
đối với cảm giác sinh lý ta (nội tạng, hơi thở, đôi mắt...)? Tác động
cảm giác của nó đối với sinh lý ta có giống như đối với nội tâm hay
không? Ta bây giờ đang ra sao, ta đang phơi mở thoải mái hay đang bị khép
kín, buộc ràng?... Ðại khái cứ liên tục ghi nhận kịp thời mà cũng thật
đơn giản về từng phút giây có mặt của lòng ham muốn đó.
Bằng vào cái nhìn chú mục và chuyên biệt này, ta sẽ học được
rất nhiều về ảnh hưởng nguy hiểm của lòng ham muốn ngay trong chính
đời sống của mình cũng như thế giới xung quanh. Chính nó đã tạo ra các
cuộc chiến tranh đẫm máu, những thành kiến xung đột nghiêm trọng
trong xã hội đồng thời đọa đày chúng ta hầu như trọn cả kiếp
sống. Chúng ta có bao giờ biết ngồi lại để kiểm tra, trực
nghiệm, quan sát một cách sáng suốt về lòng ham muốn hay không? Chỉ
cần có được những giây phút đó, chúng ta sẽ thấy ngay rằng nó chính là
cội nguồn cho tất cả những bức xúc trầm thống, đau khổ của mình. Chúng ta
có thể nhìn ngắm nó một cách vô hại và độc lập khi nhận ra rằng thật
sự nó luôn vô thường, rỗng tuếch. Lòng ham muốn cũng giống như các
phiền não khác ở chỗ là có lúc thô thiển, có khi tế vi nhỏ
nhiệm. Và sự nhìn ngắm của ta kỷ lưỡng bao nhiêu thì nó cũng càng
rõ nét bấy nhiêu. Càng nhìn ngắm nó, ta sẽ càng thấy nó phù du, chợt
đến chợt đi chứ không còn là một tường lũy trở lực như bấy lâu vẫn
nghĩ nữa. Công phu quan sát lòng ham muốn sẽ càng dễ dàng hơn khi ta biết
tự đặt nội tâm mình ở một vị trí khách quan, mặc dù thường thì nó có vẻ
dễ nhận diện lắm. Một người như Oscard Wilder cũng còn phải tự thú nhận:
"Cái gì tôi cũng không sợ, chỉ trừ ra sự cám dỗ".
Lòng ham muốn có một năng lực rất lớn, học được cách nhìn ngắm tinh
tường điều này coi như ta đã đi được một đoạn đường thiền
định. Hầu hết trường hợp, chúng ta bị lòng ham muốn chi phối một cách
dễ dàng như như vẫn tuân theo một lực quán tính hữu cơ. Những hình thái
biến tướng mang tính tập quán của chúng ta luôn được hình thành từ
nhiều con đường và sức tác động của chúng đối với đời sống mỗi
người luôn rất lớn. Nhưng có điều cần nhớ là chánh niệm về
lòng ham muốn không hề là một thái độ tâm lý ghét bỏ, ác cảm mà
ngược lại chánh niệm ở đây là một thái độ tỉnh thức để nhìn
ngắm từng phút giây đến và đi của nó một cách bình thản và trong sáng.
Nhiều lúc, nếu bằng cái nhìn ngắm cẩn trọng chúng ta có thể
cũng sẽ thấy thêm rằng thực ra bên dưới đáy sâu của lòng ham muốn còn có
một nguồn năng lực tác động nữa, trung tính và vô cảm, nhưng vẫn là một
sức mạnh mang ý nghĩa thúc đẩy. Ta có thể tạm gọi đó là sự
đầu tư của ý thức mà gọi theo thuật ngữ Phât học cũng được
gọi là Dục (gọi theo chữ dịch của Hán văn là vậy, nhưng
"Dục" trong trường hợp này, tiếng Pali là Chanda chứ
không phải Kàma mà người Trung Hoa cũng dịch là Dục, vì hai chữ
Pàli này điều có nghĩa gần giống nhau là "ước muốn, mong mỏi"
cả). Hình thái ý thức này gọi theo từ ngữ của tạng Vi diệu Pháp
là Sở hữu Dục, có thể song hành với rất nhiều hình thái tâm lý
khác từ lòng ham muốn thấp kém cho đến tâm từ bi hoặc trí tuệ. Với
một đời sống tỉnh thức đúng mức, chúng ta có thể cảm nghiệm được
hương vị ngọt ngào của một đời sống thiểu dục, an nhiên tự tại,
chẳng đấu tranh mà cũng không nuôi dưỡng khát vọng tiêu cực. Chỉ cần
không bị chi phối nghiêm trọng bởi lòng ham muốn, lòng từ bi và trí
tuệ tự nhiên sẽ trở thành nguồn sống căn bản cho chúng ta. Chúng ta có
thể nhận ra điều này ngay trong chính những phút giây thiền định
của mình. Nhưng hãy nhớ rằng nếp sống tâm linh đó luôn tự đến khi
có đủ điều kiện, chứ không hề đi ra từ một ý thức đầu tư
mang tính chấp thủ của ý thức. Chúng ta cứ yên tâm: Cảm nghiệm đắt
giá này sẽ này sẽ tự có ngay khi chúng ta nhận ra sự tự do, độc lập của
mình đói với các ham muốn.
Nói chung, vấn đề ở đây luôn đòi hỏi ở chúng ta một công phu chú
niệm chính chắn. Khi lòng ham muốn xuất hiện, chúng luôn có tác động
nguy hại là cuốn hút ta vào những ảo tưởng, thậm chí có lúc chúng mãnh
liệt đến mức tự chủ, bị mù quáng để không thể nhận diện
nổi nó. Ở đây chúng ta có nhiều biện pháp để giải quyết
trường hợp này: Nhìn thẳng vào đối tượng của lòng ham muốn hoặc nhìn thấy
cho bằng được cái khía cạnh vô thường của vạn vật, kể cả một liên
tưởng về cái chết. Chúng ta nghĩ xem. Giả dụ như mọi ước muốn
của mình đều được thỏa mãn thì điều đó có ý nghĩa gì trong
phút giây hấp hối. Hãy luôn tâm niệm rằng dù có được bao lần toại
nguyện những cái mình khát khao thì tất cả cũng đều vô nghĩa. Bởi
vì cái gì cũng qua đi như mây trời ngang đầu núi hay dòng nước dưới chân
cầu. Tất cả chỉ là một chuỗi dài của đổi thay bất tận. Ở đây ta
có một câu chuyện rất thú vị về nhân vật Mullak Nasruddin mà nội dung
tuy có vẻ hài hước nhưng cũng vô cùng ý vị:
Một hôm, chỉ vì không thể bỏ qua một giỏ ớt được bán quá rẻ, nên
Nasruddin đã mua hết rồi mang về ăn lần lượt từng trái một. Nước
mắt, nước mũi tuôn đầy cả mặt, vậy mà ông ta vẫn cứ tiếp tục ăn. Một
học trò của Nasruddin thấy vậy mới hỏi ông tại sao lạ lùng như vậy, ông
ta trả lời tỉnh bơ:
- Cả giỏ, hình như trái ớt nào cũng cay cả nhưng ta hy vọng cũng phải
có vài trái ngọt chứ!
Dĩ nhiên, dù gì thì một phần lớn thời gian trong cuộc đời của chúng ta
vẫn phải bị chi phối bởi lòng ham muốn. Nếu chúng ta tỉnh thức nhìn ngắm
nó thì ngay trong từng sinh hoạt của mình, ta sẽ luôn học được lắm
điều giá trị, thay vì nếu không như vậy thì lòng ham muốn sẽ chi
phối, tạo ra các thói quen tâm lý bất thiện. Một Thiền sư người
Ấn Ðộ nọ rất thích ăn uống các thức ngọt và dĩ nhiên Ngài đã
cố gắng từ bỏ lòng ham muốn đó của mình nhưng trước sau gì, chính Ngài
cũng gần như cảm thấy bất lực. Thế rồi, một hôm Ngài ra phố mua một
đĩa to món ngọt mà mình thích nhất, chậm rãi ăn từng miếng một và
từng phút từng giây nhìn ngắm từng diễn tiến nội tâm của mình trong suốt
thời gian đó. Phải nhìn nhận rằng vị Thiền sư này đã phải trải qua
những đấu tranh nội tâm hết sức vất vả nhưng rồi khi đĩa đồ ngọt
hết sạch thì cũng là lúc Ngài tự biết rằng từ nay mình sẽ không còn
cái ham muốn đối với món hợp khẩu đó nữa, vì ngay sau khi Ngài tráng
miệng xong tự nhiên thấy mình bị sợ các món đồ ngọt. Trong mọi
trường hợp sự chú tâm nhìn ngắm luôn là tuyệt đối quan trọng. Khi
một lòng ham muốn vừa khởi lên, ta hãy tỉnh thức nhìn thẳng vào nó để
mặc nó tự trôi qua đi như đã tìm đến.
Nếu nó mãnh liệt đến mức ta không thể giữ được chánh
niệm thì hãy lập tức thu về nội tâm mình bằng phương thức quân bình
hóa đã nói ở chương trước rồi mới tiếp tục tập trung sự chú ý.
Chánh niệm luôn có công năng mang lại cho ta một cái nhìn nội quán thấu
thị cũng như một trí tuệ tinh tường sâu sắc trong thiền định.
Bây giờ thì chúng ta quay lại với vấn đề làm thế nào để giải
quyết và đối diện những tham sân thương ghét. Chúng ta cũng vẫn cứ
cố gắng chú niệm, cảm nghiệm và ghi nhận chúng bằng cách ghi nhận tinh
xác và chặt chẻ "Thương! Thương! Ghét! Ghét! ". Các phiền não
như tâm Sân Hận chẳng hạn, nếu được sớm phát hiện thì sẽ là
cơ hội cho ta học hỏi và tìm thấy từng phút giây tự do giải thoát đắt
giá. Chúng ta không cần phải sợ hãi chúng, mà cứ bình tỉnh nhìn ngắm thôi:
cảm giác của mình lúc đó, tác động của chúng đối với tâm sinh lý của
chúng ta,... nhiều lắm. Lòng sân hận còn điềm chỉ một cách chính xác
cho ta những không gian tâm lý nào mà ta đã bị vây hãm, giới hạn, ta đã
bám víu và sợ hãi cái gì. Lòng sân hận hay ác cảm lúc này giống như một
ngọn đèn hiệu giúp ta điều động nội tâm mình bằng sự nhận
diện chính nó. Thường thì chúng ta khó có thể thay đổi được những
điều kiện sống của mình, nhưng ta vẫn luôn có thể học hỏi từ
chúng thật nhiều. Ðiển hình như ở đây, lòng sân hận khi được nhận
diện sẽ dạy rõ cho ta về bản chất của nó và chánh niệm sẽ chỉ
rõ cho ta thấy từng phản ứng tâm lý của mình ngay lúc ấy. Sự can dự vào
thực tại còn mang một ý nghĩa chọn lựa, chắc lọc, khơi gạn. Mối
quan hệ giữa ta với thực tại có thể được diễn ra tốt đẹp hơn
nhiều, khi chúng ta biết bình tâm nhìn ngắm nó, mà ở đây lòng sân
hận là một ví dụ, ta sẽ khám phá ra một vấn đề hết sức cơ bản: Nó
luôn được sản sinh từ những tình trạng tâm sinh lý khác nhau, những tâm
trạng hoặc não trạng hay tình trạng sức khỏe trong một thời điểm nhất
định nào đó, như vậy lòng sân hận chỉ là một cái gì phù du vô thường,
một sản phẩm mong manh được hình thành từ những lắp ráp giả tạo. Có thấy
như vậy, nội tâm của ta đâu còn nó ngăn trở, chi phối nữa.
Dĩ nhiên phần lớn chúng ta đâu có ai muốn mình phải có lần nổi giận
hoặc hoặc có một cái gì đó để chán ghét, ác cảm. Mà nếu phát
hiện được điều đó, cái khuynh hướng tâm lý của mình, thì coi
như chúng ta đã có thể dễ dàng từ bỏ nó với một đánh giá đơn giản
rằng nó là "xấu xa, đau khổ, không cần thiết...". Chúng ta phải
luôn hết sức cẩn trọng đối với ngay chính sự phơi mở và tỉnh thức
của chính mình. Ta bắt buộc phải tự biết cảm nghiệm trọn vẹn từng
phút giây phiền não kể cả trong những giây phút đối diện gay cấn
nhất. Bởi chúng là những thứ luôn sẵn sàng làm khuynh đảo đời sống của
chúng ta và đồng thời cũng là những gì mà mỗi người phải từng ngày
đón nhận, nếm trải, chịu đựng. Vấn đề trước mắt có thể tạm
cho là không phải chúng ta trốn chạy hay tống khứ hoặc thậm chí giải thoát
khỏi cái gì mà chính là một sự phơi mở và hiểu biết. Khi lòng sân
hận hay bất cứ một thành kiến hay ác cảm nào đó vừa xuất hiện, ta
phải biết quan sát nó thật cẩn thận. Thậm chí đôi lúc, coi như chúng ta
mạo hiểm dấn thân vào chúng để sự nhận thức được chính xác hơn.
Bởi rõ ràng là chúng ta đôi lúc phải mất nhiều thời gian "Ăn
nằm với chúng trước khi thật sự tìm lại được thăng bằng và tỉnh
thức". Ðiều này xem ra cũng dễ hiểu thôi.
Có một điều quan trọng mà ta cần phải hiểu biết để dàn
xếp, xử lý những sân hận, chán nản đó chính là cái thực chất
về những nỗi khó khăn trong chính cuộc tu của mình, ta còn có thể
nói chúng là những vị thầy hết sức quan trọng cho ta nữa. Vấn đề
sẽ được minh họa sau câu chuyện có thật đã xảy ra tại một viện
Dưỡng trí do G.I Gurdjieff điều hành (tại Pháp) mà tôi sẽ kể ra sau
đây. Có một ông cụ tính tình rất khó chịu, vừa nóng nảy, nông nổi lại
rất ích kỷ, thậm chí lại thiếu tinh thần trách nhiệm đối với tập
thể cho nên dĩ nhiên chẳng ai sống gần ông được. Cuối cùng rồi sau
nhiều tháng cố gắng sửa mình để có thể chung sống với mọi
người mà vẫn cứ thất bại, ông cụ đã rời viện để trở về Paris.
Gurdjieff đi tìm và thuyết phục ông cụ quay lại nhưng điều đó dĩ
nhiên không dễ tí nào và ông cụ một mực từ chối không chịu trở về với
Viện nữa. Ðến lúc này, Gurdjieff đành phải bỏ ra một số tiền lớn
để cấp dưỡng ông cụ trong từng tháng một, hứa sẽ sẳn sàng đón nhận
nếu một ngày nào đó ông quay về. Gurdjieff trở lại Viện, thuật
hết mọi chuyện trong sự ngạc nhiên của mọi người, nhất là khi
họ nghe đến việc ông đã hào phóng dành cho ông cụ khó tánh kia
một sự ưu đãi gần như là đặc ân mang tính thiên vị. Gurdjieff mĩm cười
ý nhị: "Ông cụ đối với chúng ta có cái giá trị của chất men đối
với bột bánh mì. Vắng ông cụ, các bạn đâu còn có cơ hội học hỏi
về những vấn đề khúc mắc của tâm lý, từ cái bực bội cho
đến một tình thương bao dung tha thứ. Ðó là lý do tại sao các bạn
đã đến đây với tôi cũng như vì sao mà tôi đã chiếu cố đặc
biệt với ông cụ".
Những năng lực nội tâm này, mà ở đây là những cố gắng với từng vật vả
của các thành kiến ác cảm, là cả một phần quan trọng trong công
việc thiền định của mỗi người. Cái hành trang mang ý nghĩa
lợi khí chính yếu cho chúng ta ở đây là kiểm tra mỗi mỗi dao
động, biến tướng của chúng bằng một trình độ chánh niệm đúng mức.
Thực ra trong đời sống thường nhật, chúng ta đâu có thiếu gì những cơ
hội để nhìn ngắm từng cơn tức giận thô thiển hoặc một sự khó chịu
vi tế nào đó đi qua lòng mình. Thường thì chúng ta có thể xử lý
và đối kháng bằng những hình thái tâm lý tương ứng như một tình
thương hay một tâm hồn độ lượng. Nhưng điều cần nhớ là thao tác tâm
lý đó không chỉ đơn giản mang tính áp đặt máy móc: Ðó phải là một
sự hoán chuyển sâu sắc từ tận đáy lòng, một tâm thái nằm ngoài mọi
thành kiến và giới tuyến phân biệt. Những khi cảm thấy không
thể chịu đựng nổi một cá nhân nào đó, ta có thể bằng một chút
bình tỉnh có được để hướng về họ một sự cảm thông như đối
với một kẻ đồng hội đồng thuyền, có cùng chung cảnh ngộ: Ai cũng là
một sinh linh khổ lụy, một hiện hữu tồn tại trong kiếp sống ngắn ngủi
phù du như nhau hết. Thử hỏi với một cách nghĩ như vậy cái ác cảm kia
còn có đủ sức thúc đẩy cho ta đi thêm bước nào nữa trong cơn nóng giận
đó? Lúc này một điều rất có thể xảy ra là chúng ta sẽ hành xử
dưới sự điều động của lòng bao dung, thông cảm. Tự nhiên, chúng ta sẽ
biết thương người và lòng từ cũng sẽ đồng thời được nuôi lớn
để thế chổ cho một lòng ác cảm hẹp hòi. Bằng vào chính con đường
đó, lòng từ bi trong chúng ta sẽ một ngày lớn mạnh, đồng thời trở thành
một thứ năng lực nội tâm luôn sẳn sàng có mặt mỗi khi chúng ta cần
đến cũng như chúng ta có thể sử dụng nó như một công cụ để
dàn xếp và xử lý những thành kiến, ngộ nhận... mang tính ác cảm.
Vấn đề thật ra vẫn chưa hết. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng lòng
sợ hãi và đôi khi là các toan tính âu lo, đều là những hình thái sai
biệt khác nhau của lòng sân hận mà những thiền sinh chúng ta luôn có
thể rút ra từ đó những bài học về chánh niệm, đó là chưa
kể đến những cảm giác buồn chán, chúng ta dĩ nhiên e ngại sự có mặt
của nó và luôn tìm mọi cách để ngăn tránh. Mà trong đời sống hằng
ngày, cái cảm giác nguy hại đó cứ thường xuyên chờ sẳn ở đâu đấy
để xâm nhập, chi phối, can dự vào thế giới nội tâm của chúng ta. Nó
lù lù vô duyên như một chiếc máy lạnh và luôn sẵn sàng xuất hiện
từ những giây phút nhấc ống điện thoại, ngồi xem chương trình truyền
hình, nằm đọc một quyển tiểu thuyết hoặc một công việc
nhà nào đó. Chúng ta có thể làm mọi thứ để trốn chạy nó nhưng
chỉ thiếu một chút tỉnh thức cảnh giác, chúng ta coi như hoài công.
Thực ra, cái cảm giác buồn chán đó không thể chỉ đơn giản được
dàn xếp bằng những bôn ba hướng ngoại mà vấn đề quan trọng ở
đây là chúng ta tự đặt cho mình những câu hỏi: Bản chất thật sự của cơn
buồn chán đó là gì? Chúng ta đã có bao giờ chịu ngồi yên lại để nhìn
ngắm nó? Tất cả thật ra chỉ là một thứ sản phẩm tệ hại của tình trạng
tâm lý thiếu cảnh phòng mà thôi. Song hành với những cơn buồn chán
còn là những loạn động, hèn nhát, âu lo. Một khi đã rơi vào cảm giác buồn
chán, phản ứng tâm lý tất nhiên của chúng ta luôn là sự e ngại những
đối đầu bất luận lớn nhỏ đối với mọi thứ xảy đến cho mình, mà
cứ như vậy thì thì nội tâm của chúng ta coi như bị bỏ ngõ. Trong khi đó
chúng ta chỉ cần biết can đảm trực diện nhìn ngắm nó thì một trình
độ nội tâm tích cực và tương ứng sẽ lập tức hiển hiện.
Như vậy trong trí tuệ thiền định, nỗi buồn chán thừa mứa kia
lại thành ra một đối tượng chiêm ngắm hết sức thú vị. Mọi việc
đơn giản lắm: Ngay khi nhận diện được nó, ta cứ tỉnh thức ghi nhận, cảm
nghiệm từng khía cạnh ảnh hưởng, kích xúc, tác động tiêu cực của nó
vào thân tâm của mình, kể cả thái độ tâm lý đối kháng của chúng
ta đối với nó nữa. Ta phải luôn lấy ảnh trường tâm sinh lý của mình
để làm một màn hình quan sát từng hành động, chuyển biến của
công phu này một cách trực tiếp, không thông qua một trung gian nào
hết. Ðể rồi cuối cùng vượt qua hay đình chỉ nó. Tất cả những trình
độ nội quán, tỉnh thức và tự tại không chỉ dễ dàng được thu nhặt lấy
một cách trọn vẹn trong riêng một phút giây cảm nghiệm và tri nhận
nào đó như những món đồ, mà ngược lại, chúng phải được tích lũy và
nuôi dưỡng trong từng phút giây cảnh phòng thật sự nghiêm túc và đúng mức.
Một khi sự tỉnh thức đã được tái hiện rõ ràng và chuyên nhất thì
đề mục hơi thở lúc này cũng trở thành một đề tài cảm nghiệm
hết sức kỳ thú.
Cũng với con đường đó, bây giờ chúng ta xoay qua xử lý một hình thái
khác của lòng sân hận đó là những âu lo, trù tính. Chỉ cần một cái nhìn
trung thực và tỉnh thức, ta sẽ thấy ngay rằng tâm thái đó thực ra chỉ là
một hình thái ý thức hết sức giản đơn, nói khác đi, thì đó là
một chuỗi dài của những từ ngữ trong nội tâm chúng ta. Khi chúng ta
biết làm ngơ một cách hợp lý và tỉnh thức, chúng ta sẽ thấm thía
được một bài học quan trọng về bản chất của cái gọi là âu
lo, trù liệu. Bên cạnh đó ta còn có cơ hội để học hỏi thật
nhiều về đặc tính khổ đau của đới sống. Ta hãy bắt đầu công phu
này bằng từng ghi nhận kịp thời mỗi khi cảm giác tâm lý đó vừa lộ
diện: Âu lo! Âu lo! Tính toán! Tính toán!". Và đó phải là một sự
tỉnh thức tế nhị, nhẹ nhàng như cơn gió. Ta đừng để mình phải có
thái độ đón nhận một cách thô thiển, nặng nề như mành lưới trong
khung thành trên sân bóng. Bởi chính thái độ xử lý này lại tiếp tục
thành ra một âu lo khác! Như vậy có thể nổ lực của chúng ta lúc này vừa
là phản tác dụng mà cũng là một sự hoài công... Vẫn bằng phương thức đã
nói ở trước, trong trường hợp này ta phải bằng mọi nổ lực ghi nhận tinh
tường từng khía cạnh chi tiết của lòng âu lo, trù liệu. Trong cuộc
sống thường nhật, chúng ta luôn có quá nhiều bận tâm lo lắng: Những phản
ứng tâm lý với các ý niệm phân biệt về cái thành bại,
được thua, tốt xấu, an nguy. Chúng ta chỉ có thể tự cứu chuộc chính mình
bằng từng phút giây nhìn ngắm sáng suốt và tình thức về hình thái tâm
lý xem ra cũng không kém phần nguy hiểm này. Nói một cách hóm hỉnh,
chúng ta có thể quan sát, tính đếm những nỗi âu lo của mình như
đối với một bầy gia súc. Chỉ trong một giờ ngồi lại nhìn vào nội tâm chính
mình, chúng ta sẽ thấy được biết bao là những trù tính. Thực hiện
được điều này, xem như ta đã có một bước nhảy vọt đáng kể
trong thiền định.
Vấn đề tiếp đến chính là những sợ hãi. Hình thái ý thức
này nhiều khi cũng là một trở lực tinh thần nghiêm trọng đối với tất
cả chúng ta. Hãy cảm nghiệm nó bằng tất cả sự tỉnh thức của bản thân,
ghi nhận nó là nó, ghi nhận cả những kích xúc tâm sinh lý của nó đối
với chính mình và điều dĩ nhiên là chúng ta rất dễ bị bại trận trước
sự chi phối của nó. Con đường ngắn gọn nhất để đối đầu với nổi
sợ hãi là đơn giản hóa chính nó như là một biện pháp đối kháng, tống
khứ hữu hiệu nhất. Hãy xử lý nó bằng một tâm thái bình đạm, tỉnh
thức, chúng ta cần từng bước nhẹ nhàng xây dựng ở mình một sự cảnh phòng
và đối mặt với nó bằng tất cả chính mình. Ngay từ bây giờ, bạn đã có
thể bắt đầu tập sự một điều cần thiết là đừng có cảm giác e
sợ nó nữa. Hãy chung đụng với nó bằng một sự tỉnh thức và đón chào nó
như đối với một người khách lạ. Lạ mãi rồi cũng thành quen đi, chúng ta
sẽ dần dần cảm nhận được lắm điều thú vị khi đối diện với cơn
sợ hãi của chính mình.
Khi chánh niệm tức trạng thái tỉnh thức đã được thăng hoa, nuôi lớn
đến một mức độ nhất định nào đó, thế giới nội tâm của chúng ta
sẽ tràn đầy những niềm tịnh lạc, an lành vô cùng hấp dẫn. Mà tất cả
những điều đó chỉ được sản sinh ra từ một tâm thái tỉnh thức trọn
vẹn cũng như khả năng tìm vui qua từng phút giây hiện hữu của thực tại.
Nguồn hạnh phúc đó không phải là hạnh phúc đến cố định và chuyên
biệt của riêng một phút giây nào hết. Bởi vì chúng ta nhớ rằng
mọi thứ trên đời luôn phù du, tất cả chỉ là những bọt nước ảo
tưởng nên không một cảnh quan, màu sắc, âm thanh, hương vị... nào khả dĩ
là cội nguồn duy nhất cho một thứ hạnh phúc tâm sinh lý nào của chúng ta.
Tất cả chỉ là những đắp đổi, hoán vị: Niềm vui chỉ đến với ta khi
những giận dữ, sợ hãi đã qua đi, cho phép ta tìm thấy một tự do ngắn ngủi
nào đó.
Hôn trầm và Thụy miên cũng là những trở lực tiếp theo của
thiền định. Nói một cách nôm na, đó chính là cảm giác dã dượi, uể
oải, buồn ngủ. Ðại khái, có ít nhất ba nguyên nhân dẫn đến tình trạng
tâm lý này: Trước hết, đó là những mệt mỏi, rã rời sau những
giây phút lao động tay chân hoặc trí óc quá căng thẳng. Trường hợp này
thường xảy ra cho các thiền sinh trong những ngày đầu tiên mới bước vào
thiền khóa hoặc những người vừa trải qua một thời gian dài nằm nhà nghỉ
ngơi, sau đó khi bắt đầu lại công việc thì cảm giác tâm lý này ập
đến chi phối họ. Trường hợp Hôn Thụy này có thể được dàn
xếp sau những giây phút thư giãn. Nguyên nhân thứ hai của Hôn Thụy là
tình trạng kiệt lực mỏi mòn của chúng ta sau những giây phút phải đối
đầu giải quyết những vấn đề khó khăn nghiêm trọng trong đời
sống thường nhật, chẳng hạn những chuyện buồn lòng hay sợ hãi. Trong
trường hợp gặp phải tình trạng Hôn Thụy này chúng ta tạm thời không làm gì
cả, dẹp hết mọi ước muốn mong cầu rồi đi ngủ! Nguyên do thứ ba của
trạng thái Hôn Thụy chính là thái độ trì hoãn, bỏ ngõ, thiếu nổ lực
của chúng ta trong công phu thiền định, mà đặc biệt là cách sử dụng
vụng về khả năng tập trung tư tưởng.
Thường thì tình trạng Hôn Thụy đến với chúng ta trong từng bước một,
nó không phải là thứ hình thái ý thức đột nhiên, đột xuất, mà cứ như
một vết dầu loang. Nó âm thầm và ngọt ngào đưa ta vào cái cảm giác
mộng mị với sức mạnh thong thả mà cũng hiệu quả của một lời ru thầm
thì. Ý thức của chúng ta từ đó bị mất chân đứng để chúng ta lãng
quên, không còn biết mình phải làm gì nữa. Trạng thái tâm lý tệ
hại này vẫn luôn chực chờ chúng ta trong những giờ thiền định. Trạng
thái Hôn Thụy tuy vậy vẫn cứ là một trong những tâm thái quan trọng mà
người thiền sinh cần phải lưu ý đặc biệt. Ðể đối diện
với nó, chúng ta bắt buộc phải tự có một nổ lực hết mình bởi vì đó
là một trong những điều kiện tiên quyết và hữu hiệu nhất. Có
thể nói trong gần suốt cả đời mình, chúng ta có nhiều lắm là chỉ
khoảng một nữa thời gian thật sự tỉnh thức (tức không ngủ và hoàn toàn tỉnh
thức). Chúng ta đã phải mất quá nhiều thời gian cho việc ngủ nghỉ,
đôi khi là những giây phút nghỉ ngơi không thật sự cần thiết. Ý nghĩa
của thiền định là đánh thức chúng ta ra khỏi những giấc ngủ vô ích
triền miên đó. Vậy thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy bắt đầu tập sự ghi
nhận và nhìn ngắm một cách tỉnh thức cái nhu cầu ngủ nghỉ của mình về
tâm sinh lý. Hãy tỉnh thức trước mọi thể trạng sinh lý của
mình: Từ cảm giác mệt mỏi, nặng nề hoặc ngay cả cảm giác êm ái thư
giản cùng với những đổi thay trên đôi mắt chính mình.
Dĩ nhiên, nếu đã trót rơi vào trạng thái buồn ngủ quá sâu thì chúng
ta rất khó mà nhìn ngắm rõ bộ mặt của Hôn Thụy. Tuy vậy, hãy cố gắng bằng
tất cả khả năng có được để chú ý quan sát nó qua từng giai đoạn
một cùng với những cảm nghiệm tâm lý song hành, những cấu tố tâm
lý tương quan, đồng thời hãy dò tìm cho bằng được động lực nào đã
tác tạo nên nó. Ðó có phải chỉ đơn giản là một sự mệt mỏi hay lại
là một hình thức đối kháng kiệt lực của nội tâm? Nhiều khi từ chính
những khám phá này, một sự tỉnh thức gắn liền với niềm tịnh lạc sẽ
cùng lúc xuất hiện với chính cảm giác Hôn Thụy và mang lại cho ta một
trình độ nội quán thấu thị sâu sắc. Nói chung đó là cuộc khám phá thú
vị. Ðôi lúc chúng ta cũng sẽ có thể nhận ra rằng trạng thái Hôn Thụy
hay lười biếng của tâm lý là một hình thức đối kháng nội tại khi ta
phát hiện được một nổi âu lo, sợ hãi về một vấn đề khó khăn
hay bất ổn nào đó vốn đang kín đáo đóng vai trò một tiềm lực thúc
đẩy. Cứ tương tự như thế, đối với những tình trạng tâm lý cô
đơn, buồn sầu trống trải, buông lung... mà các thiền sinh chúng ta vốn
thường e ngại, chỉ với một quan sát tỉnh thức về chúng, công phu này sẽ
mở ra cho ta một trình độ mới, cao cấp hơn.
Ở đây, có một vấn đề mà có lẽ ai cũng biết, là ngoài những
động cơ tiêu cực và nêu trên, trạng thái Hôn Thụy còn có thể được
tạo ra bởi ngay chính những nổ lực phát triển khả năng định tỉnh đối
với một thiền sinh còn thiếu bản lãnh. Ðiều đó xem ra cũng dễ
hiểu thôi: Khi khả năng tập trung tư tưởng của chúng ta đạt đến mức
cao độ, vượt quá nhu cầu, thế nhưng bên cạnh đó ta lại tự biết
quân hóa nó bằng những giá trị nội tâm khác thì thay vì đạt được sự
tĩnh lặng ta lại rơi vào cảm giác mông lung mộng mị mà nói thẳng ra là tình
trạng Hôn Thụy. Một lần nữa đòi hỏi ở chúng ta một sự cảnh phòng nghiêm
cẩn hơn.
Xét ra thì còn có những phương thức khác để giúp ta đủ sức dàn
xếp với trở lực Hôn Thụy. Chẳng hạn ngồi thẳng lưng lên, hô hấp thật
thong thả với những hơi thở ra vào thật sâu và dài, đôi mắt luôn mở to.
Hoặc ta cũng có thể chọn lấy tư thế đứng yên hay đi kinh hành
trong vài ba phút khi vừa nhận thấy nó vừa xuất hiện. Phương thức kinh
hành có thể sẽ hiệu quả hơn nếu được thực hiện một cách
khẩn trương, năng động và liên tục. Thậm chí thao tác rửa mặt bằng nước
lạnh cũng là một cách tốt để chống lại cơn buồn ngủ.
Thật ra, chúng ta có thể tự chọn riêng cho mình một phương thức
nào đó khả dĩ hữu hiệu để đối trừ trở lực tâm lý này. Ngày
xưa trong thời gian còn theo học thiền với thiền sư Achaan Chaa
(người Thái Lan), tôi đã phải vất vả rất nhiều khi cứ bị những cơn
buồn ngủ quấy nhiễu. Ngài thiền sư đã giúp tôi bằng một phương pháp
hết sức kỳ lạ mà cũng thật tuyệt vời: Ngài bảo tôi đến ngồi
thiền ngay sát bên một miếng giếng sâu hút! Chính nổi sợ té
giếng đã buộc tôi phải luôn tỉnh thức. Cảm giác Hôn Thụy thấy vậy mà
dai dẳng và vô cùng nguy hiểm. Một khi nội tâm của chúng ta đã bị nó chi
phối thì càng trở nên ù lỳ bất lực hơn, càng lúc chúng ta sẽ có dịp thấy
rằng mình chỉ còn lại hai tiếng Nỗ lực mà thôi. Chúng ta chỉ có
thể làm được điều này bằng sự đối diện thường trực nhắm vào
mục đích đã chọn (như hơi thở chẳng hạn) trong từng phút giây, không
xao lãng, lơi lỏng. Một sự ghi nhận chính chắn và trực tiếp về
đề mục, không thông qua một ý niệm phân biệt trung gian nào sẽ
giúp ta làm kiên định nội tâm tốt hơn: Hơi thở là hơi thở, bước đi chỉ
đơn giản là bước đi. Từ sự tỉnh thức trung thực và trực tiếp này, nội
tâm của chúng ta sẽ được phơi mở, thư thái hơn và tất cả Hôn Thụy sẽ
biến mất. Lúc này thiền sinh coi như đang bước vào một thời kỳ nghỉ
ngơi đúng nghĩa.
Trở lực thứ tư của thiền định chính là Phóng Dật, một trạng
thái tâm lý khuếch tán, loạn động. Cũng như đối với các phiền
não trở lực khác, chúng ta đừng qua bận tâm âu lo về nó như một cái gì
đó phải đối đầu, đấu tranh nông nổi. Nó như bao hiện tượng pháp giới
khác: Ðược nhân duyên trợ tạo và tự đến tự đi. Ðối diện nó ta
chỉ việc tỉnh thức ghi nhận. Hãy vô tư cảm nghiệm nó mà đừng
để mình phải bị nó cuốn hút. Phóng dật có thể đến với chúng ta
từ hai nguồn chính: Những xung đột căng thẳng của sinh lý hoặc những
hướng ngoại của nội tâm. Hãy phơi mở rồi nhìn ngắm nó một cách khách quan,
đừng bao giờ tự đồng hóa mình với nó: Không có một cái tôi nào phóng dật
cả mà chỉ có đơn tử tâm lý được nhơn duyên tác động sinh ra và thay
đổi liên tục. Nếu một lúc nào đó tình trạng phóng dật đã đi đến
nguy hiểm, ta hãy tự nhủ lòng: "Ðược thôi, ta sẳn sàng chờ đón nhà
mi và sẽ là một thiền sinh đầu tiên bị chết đắm trong phóng
dật!".
Hãy từ tốn và thong thả nhìn ngắm tất cả những gì xảy ra trong nội tâm
mình và hãy hiểu rằng phóng dật thật ra cũng chỉ là một chuỗi dài
của những tư tưởng và cảm giác ngắn hạn. Có điều là chỉ vì chúng ta
quá quan trọng hóa nó, xem nó như là một sự vật cụ thể nên tự nhiên
nó uy hiếp chúng ta một cách dễ dàng. Một khi ta biết chấm dứt thái
độ đối kháng bồng bột và đơn giản hóa nó bằng tất cả sự lưu tâm tỉnh
thức thì ta mới may ra thấy được bản chất lắp ghép và rỗng tuếch
thật sự của nó.
Phương án đối trừ phóng dật có hiệu quả nhất chính là Ðịnh. Phóng
dật càng mạnh thì càng dễ quan sát và khắc chế. Ở đây ta có thể
dùng sức định tâm để tự thư giản và đếm từng hơi thở: Từ một
đến mười rồi quay lại với một cho đến khi nào nội tâm được bình
thường hóa thì thôi. Nếu phương án này có hiệu quả tốt thì nó
cũng đồng thời giúp cho hơi thở của thiền sinh mỗi lúc một vi tế
hơn để từ đó toàn bộ tâm sinh lý của chúng ta ngày càng được ổn
định.
Ta có thể nói rằng hiểu biết về phóng dật cũng có nghĩa là
hiểu biết về thiền định và ngược lại. Nối tương quan này là
luồng luân lưu của một chuỗi dài những vòng quay vô cực bất tận. Mà
đời sống của chúng ta nếu xét cho cùng cũng chỉ là một vòng luân lưu
mà thôi. Có nhiều người chẳng thích gì những vần xoay nhàm chán, cũ
rích đó.
Họ luôn muốn cuộc sống của mình phải là những cái đột biến bất
ngờ, nằm ngoài tất cả những thăng trầm xem ra có vẻ nhạt nhẽo, đơn
điệu đó. Nhưng không may cho họ, khi trên trái đất này mọi sự
chưa hề vận hành như theo họ muốn. Tất cả luôn thay đổi, cuộc tu
thiền định của chúng ta có một mối quan hệ hưũ cơ chặt chẽ với qui
luật vận động đó của thế giới, cái mà Zorba (một nhân vật văn học
Hy Lạp) vẫn gọi là "cái thảm họa chung", bao gồm tất cả những
khuôn mặt mâu thuẩn đối đãi vẫn luôn thay nhau đày đọa con người: Vui,
buồn, đẹp, xấu, thành, bại, được thua...
Thái độ đón nhận cuộc đời bằng những trang bị đó chính là nền
tảng cơ sở cho một trí tuệ nội quán chân chính. Thiếu nó, chúng ta
coi như mù tịt về bản thân mình, không khám phá được bản chất thật sự
của tất cả các pháp, cũng như khó lòng tìm thấy một sự tự do, tự tại trong
mối quan hệ đối với chúng. Thay vào đó, chúng ta chỉ biết e sợ, đối
kháng trù tính và xử lý mọi việc một cách nông nổi bồng bột. Mà
từ thái độ thiền định này chúng ta chúng ta làm sao có được một trí
tuệ thấu thị sâu sắc. Chỉ khi nào trình độ chánh niệm được phát
triển đúng mức và thái độ đón nhận các pháp của chúng ta được đặt
trên một cơ sở hẳn hoi thì thân tâm chúng ta mới may ra có được một ổn
định thuận lợi. Cho đến lúc này, dầu có phải đối diện với bao
điều bất an, bất ổn thì chúng ta cũng có thể tự tại. Một sự thoải
mái về thân tâm cũng là liệu pháp hữu hiệu để khắc trừ
phóng dật và trạo hối.
Trở lực phiền não thứ năm chính là Hoài Nghi hay lòng nghi hoặc.
Ta cũng vẫn cẩn thận khi nhìn thẳng vào nó bằng một thái độ độc lập, tự
tại. Chúng ta có bao giờ nghiêm túc quan sát và lắng nghe những câu hỏi hoặc
những vấn đề có nội dung tương tự như sau: "Tôi không thể làm
điều đó được, điều đó khó quá! Bây giờ không phải là lúc phải
ngồi thiền! Tôi đang tu tập theo con đường nào đây? Tôi có chọn lấy
cho mình một con đường khác hay không?" Ta đã thấy được điều gì
sau cái triền miên đó? Hoài nghi xét ra cho đến kỳ cuộc thì chỉ là
những câu nói của ý thức và thường kết bè với một loạt những cảm
xúc tâm lý vi tế như lo âu và đối kháng. Khi chúng ta có được cái
tỉnh thức để đủ sức thấy rằng hoài nghi chỉ là một quá trình tư
tưởng và ghi nhận nó một cách như thật, chính xác thì chúng ta coi như đã
giải trừ được nó, và lúc này là một sự hoán chuyển kỳ diệu sẽ
xảy ra: Chính lòng nghi hoặc đó lại thành ra một động lực quan trọng cho
sự tỉnh thức.
Bên cạnh đó, chúng ta còn có thêm được một bài học tuyệt vời
về định lý vô thường, bèo bọt của nội tâm xuyên qua cái nhìn
thấu thị về hoài nghi, cũng như chúng ta còn có cơ hội thật tốt để
học hỏi một cách tinh tường về những gì đã từ lâu mê hoặc, đồng
hóa, chi phối tệ hại vào sinh phong và tâm thái của mình. Ngày nào còn
bị vây hãm trong ngục tù nghi hoặc, chúng ta cũng sẽ phải tiếp tục sống
trong khổ lụy và chỉ cần một phút giây nào đó cảm nghiệm được rằng
mình đã buông bỏ mọi thứ nhất là lòng hoài nghi thì có thể nói là
toàn bộ tinh thần của chúng ta sẽ trở nên tự do, trong sáng và nhẹ nhàng
hơn.
Khía cạnh tiêu biểu và cũng là gay cấn nhất của hoài nghi là sự bất
lực của ý thức trong ý hướng suy tưởng mọi sự: Ðó là thứ hình
thái ý thức mang tính bôn ba, bươn chải để đi tìm một lời đáp khả
dĩ, để rồi cuối cùng, cái còn lại chỉ là những phân vân lưỡng lự.
Biện pháp đối đầu tối ưu ở đây chính là sự trở về với từng phút
từng giây hiện tại thực hữu một cách trọn vẹn với một sự gia cố và
kiên định nội tâm. Theo thời gian công phu này sẽ xua tan đi những ngộ nhận
rối ren thôi. Mặc dù đôi khi, ở một mức độ trầm trọng nào đó, lòng
hoài nghi có thể chiếm hữu nội tâm chúng ta.
Trong những trường hợp đó, chúng ta chỉ có thể cứu vãn được mình
bằng công phu phát triển niềm tin. Ðể trưởng dưỡng niềm tin,
chúng ta có thể giải quyết bằng cách đi tìm những câu trả lời khả
dĩ đáng tin cậy cho những thắc mắc quan trọng nhất của bản thân hoặc tìm
đọc một cách kỷ lưỡng, cẩn thận các tài liệu kinh điển vẫn
được xem là có giá trị. Chúng ta còn có thể học hỏi bằng cách nhìn
ngắm đời sống tinh thần của các bậc tiền nhân đã từng có những thành
tựu sáng chói, mà con số này thì không phải là ít. Bởi ở bất cứ nền
văn hóa lớn nào cũng đều từng sản sinh ra những bậc tiền nhân khả
kính đáng để hậu thế học đời, vì như chúng ta cũng đã thấy
đối với bất cứ ai, dù thuộc dân tộc hay quốc gia nào, một khi đã tự
biết xây dựng một sinh phong mà ở đây bao gồm nhân cách xử thế và
đời sống tinh thần bằng con đường nuôi lớn trí tuệ và tình thương, hay
giá trị tâm linh tiêu chuẩn ở mọi nơi và mọi lúc, thì bản thân
họ đã là những vĩ nhân rồi. Họ xứng đáng để được chúng ta
chiêm ngưỡng và học hỏi.
Ðến đây thì chúng ta đã tìm thấy hướng đi của đời mình: Một khả
năng thấu thị những lời dạy của Cổ Ðức cộng với một chí hướng cầu
học thông minh để tự thiết lập cho mình một niềm tin ngay trên
chính những tấm gương sáng đó để rồi tự đưa tâm hồn mình trở về
với một sự thăng bằng cần thiết. Một nội tâm có hoài nghi thật ra chẳng
chi là lạ cả nhưng điều quan trọng là ta hãy hiểu biết nó,
biến lòng nghi hoặc đó thành ra một lợi khí, một phương tiện để
đạt đến khả năng tỉnh thức sâu sắc cũng như một sự phát hiện chu
đáo về chơn lý, bản chất như thật của các pháp.
Có thể nói rằng tất cả các hình thái khác nhau của lòng nghi hoặc
đều có chung một nét đặc trưng giống nhau, đó chính là thái độ đối
kháng của ý thức: "Hôm nay chưa làm chuyện đó được, mình chưa
chuẩn bị gì cả, công việc sao mà khó!" - Tất cả đều là những
dạng thức sai biệt của lòng nghi hoặc. Sau một thời gian thiền định
chúng ta mới may ra học được đôi điều về phương thức xử lý
thích đáng đối với chúng. Ở đây tôi muốn đặc biệt nói đến
một trường hợp hoài nghi rất thường xảy ra ở mỗi người chúng ta mà
gọi theo thuật ngữ thông dụng của Phật học là Ðại Nghi Hoặc.
Nó là một hình thái sâu kín của lòng khát khao muốn tìm biết ý
nghĩa thực sự của cái gọi là tôi hoặc những vấn đề nhân sinh quan
như là tình yêu tha nhân hoặc lý tưởng tự do: "Tôi và anh? Thế
nào là giải thoát? Thế nào là một lối thoát thật sự?..." Hình thái
hoài nghi này, nếu được khéo xử lý sẽ trở thành động lực cho trí
tuệ thiền định, đồng thời cũng là một nhân tố dẫn đến giác
ngộ, từ thuật ngữ gọi là Trạch pháp giác chi mà ta sẽ bàn đến ở
chương sau.
Tinh thần khám phá như thật và thái độ tra vấn chính là cốt lõi cho công
phu phấn tấn và phát triển chiều sâu trong công phu nội quán của chúng
ta và chúng chỉ có được từ những thu nhặt buổi đầu qua các công phu
học đời, phản ảnh mô phỏng. Có nổ lực cho đời sống tinh thần tính cực,
chúng ta mới có dịp nhận ra rằng có biết bao nhiêu giá trị tinh thần
hết sức kỳ diệu đã bị vùi chôn trong mỗi giây phút lận đận của
tâm lý: Những nhiêu khê, trắc trở nội tâm từ lòng hoài nghi sẽ đưa ta
vào những cuộc khám phá kỳ tuyệt về các trờ trăn, thao thức quan
trọng nhất của mình đối với nội tại. Những tổn thương nhức nhối của
sân tâm (dưới bất cứ hình thái nào) sẽ cóthể giúp ta đạt tới một tâm
lực hùng hậu cùng một tình thương vị tha bao la và sự đối diện với
phóng dật lại là một điều kiện đắc giá để phơi mở tâm hồn và
kết tựu một tâm thái an bình cần thiết cho đời sống thiền định.
Sự tỉnh thức, khách quan là một một thứ châu ngọc mang tính đặc trưng
như là một trong những giá trị tiêu chuẩn của một con người. Tuy thế,
để có được một khả năng tỉnh thức thường trực quả là không dễ dàng
tí nào. Thomas Merton (một linh mục Gia tô) cũng đã từng nói: "Một tình
thương thiệt thà cũng như một lời cầu nguyện thành khẩn chỉ có
thể được khai sinh và cảm nghiệm trong những giây phút lòng vị tha
của chúng ta có vẻ bị bất lực và trái tim cơ hồ bị hóa đá". Nhới
được lời dặn dò đó, chính bản thân những trở lực trong công phu thiền
định sẽ tự biến ra một phần nhân tố trợ lực hữu hiệu cho ý
hướng tỉnh thức, một điều kiện lý tưởng khà dĩ giúp ta học
hỏi và phơi mở lắm điều về thế giới nội tại. Chúng ta có
thể xem đó là một thứ dưỡng tố giúp mình sống còn, một thứ dưỡng tố
xanh tươi và sinh động. Việc xử lý các trở lực thiền định luôn
mang lại cho chúng ta khả năng nội quán sâu sắc cùng những nhận thức quan
trọng mang tính sinh tồn.
Qua tất cả những gì đã nói trong chương, có lẽ chúng ta đã thấy rõ
rằng ý nghĩa của công phu thiền định không hề nhắm đến sự
sáng tạo mang tính đầu tư, đổi chác một hình thái ý thức nào cả. Bởi
vì mọi thứ luôn là sự phù du ngắn hạn. Mà ngược lại ở đây, thiền
định là một công phu đối đầu trực tiếp với tất cả các cấu tố cơ bản
nhất vẫn làm nên, tạo ra những cảm nghiệm tâm sinh lý của chúng ta,
cho ta thấy được những cạm bẫy phiền não vốn luôn chực chờ mình đồng
thời giúp ta học được, một cách trực tiếp, cái khả năng tìm về
cảnh giới tự do, giải thoát. Ðược khéo điều động, các phiền não,
trở lực sẽ chỉ còn lại ý nghĩa xây dựng đời sống của chúng ta mà
thôi. Lúc này, chúng sẽ thành ra những phân bón hữu hiệu cho trí tuệ
giác ngộ, đúng như một câu nói của Cổ Ðức ngày xưa: "Phiền não
tức cảnh bồ đề". Như vậy lý tưởng thiền định của chúng ta
là luôn biết kịp thời tận dụng tất cả thực tại tốt, xấu xảy đến
ngay trong chính bản thân mình để nuôi lớn trí tuệ tỉnh thức tình
thương vị tha và tinh thần tự do.
J. K.
Hướng dẫn thực tập
Cách xử lý và tận dụng các trở lực phiền não
Hãy đặc biệt lưu tâm đến những hình thái phiền não có vẻ
trầm trọng và xuất hiện thường xuyên nhất trong cuộc sống thường
nhật cũng như vào những giờ thiền định, chẳng hạn như một tâm lý
ích kỷ, sợ hãi, toan tính, dục cảm nghi hoặc, hay một tình trạng phóng
dật nào đó bất luận. Trước hết thử bỏ ra một tuần với nhiều giờ
thiền tọa mỗi ngày rồi chuyên tâm ghi nhận một cách tỉnh thức sự
có mặt của chúng trong mỗi giây phút. Hãy quan sát và nhìn ngắm chúng
môt cách nghiêm cẩn, thận trọng. Ðồng thời ta cũng phải ghi nhận luôn cả
những gì (phản ứng tâm sinh lý) vẫn xuất hiện theo sau sự có mặt của
chúng. Cho dầu chúng có tế vi nhỏ nhiệm đến mấy, ta cũng vẫn
chiêm ngắm. Còn nếu chúng quá kín đáo, nhẹ nhàng đến mức gần như
không thể ghi nhận thì cứ cố gắng bới tìm cho được cái khía cạnh mạnh,
rõ, nói chung là tính động. Nên thường xuyên ghi nhận sức tác động, ảnh
hưởng của chúng với nội thân chính mình dù dưới bất cứ hình thức nào.
Trong công phu xử lý các trở lực phiền não, một người thiền sinh
phải luôn biết đón nhận và làm thư giãn cho đến ngay cả thái độ
tâm lý đối kháng của mình trước các phiền não trở lực. Sau cùng
rồi thì ta cũng phải luôn biết quay lại với công phu thiền tọa và
tỉnh thức nhìn ngắm từng hơi thở ra vào bằng tất cả sự thư thái không can
dự: Ðón chào và quan sát nó như đối với một người bạn cũ.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |