|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 6
Thất Giác Chi
Lần đó có
người đến hỏi Ngài Lạt Ma Govinda rằng phải có thái độ thế nào
trước quá nhiều truyền thống sai biệt nhau của Phật Giáo, Ngài
Govinda đã trả lời rằng Giáo Pháp của Ðức Phật chẳng khác gì một hạt
giống được gieo trên đất và từ đó đâm chồi nẩy lộc thành một cội cây
có đủ gốc cành, thân, lá. Ðứng trước cội cây đó mỗi người một cách
chọn lựa: Kẻ thích gốc, người thích cành... và dĩ nhiên nếu cứ vậy
thì mỗi chọn lựa không khéo sẽ là những cái nhìn khiếm
khuyết, ngộ nhận, bởi vì mỗi phần của cội cây đó đều có một
giá trị riêng, ta không thể phủ nhận bất cứ cái nào cả.
Ðức Phật có dạy một giáo lý, thường được gọi là Thất giác chi
hay bảy yếu tố giác ngộ. Bảy pháp môn nầy giống như những dòng nhựa
nuôi sống cội cây giải thoát vậy. Chúng là những giá trị tinh thần được
tựu thành từ công phu đào luyện nội tâm mà chính Ðức Phật cũng đã
kinh nghiệm qua bằng chính sự tu tập của Ngài. Khi được thấu đáo, bảy
pháp nầy sẽ đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm nội tại trong sự tu
tập. Chúng thực ra không phải là cái gì xa xôi trừu tượng cả, mà ngược
lại là những mực thước để đo lường trình độ tu tập của chúng ta. Tu
tập Thất giác chi, mối giao hòa giữa chúng ta với thế giới chung quanh sẽ
trở nên sâu sắc hơn nhiều.
Thất giác chi bao gồm 3 pháp động, 3 pháp tĩnh, và một pháp trung hòa
để cân bằng tất cả - đó là Chánh niệm giác chi. Hiểu biết
về Thất giác chi là hiểu biết về phép gia giảm của một toa
thuốc. Ðời sống tu hành cũng giống như một cuộc trị liệu. Có hiểu
biết về Thất giác chi ta mới có thể điều hành nội tâm mình
bằng những giá trị thiện pháp một cách tương ứng và hữu hiệu nhất
để từ đó đạt tới giải thoát.
Niệm giác chi
Yếu tố đầu tiên cũng là tâm điểm quan trọng cho thiền
định Phật giáo chính là niệm, sự ghi nhận kịp thời tất cả những
hiện khởi của thân tâm trong từng phút giây. Tất cả được bắt đầu từ
Niệm bởi từ đây hành giả mới có được đời sống tỉnh thức. Với
Niệm giác chi, hành giả nhìn thấy một cách rõ ràng về bất cứ cái gì
hiển hiện chung quanh. Chúng ra sao thì thấy đúng như vậy. Chính với
thái độ dó, tự hành giả luôn có một sự cảnh giác thật trọn vẹn và
hữu hiệu.
Có chịu nhìn vào từng sinh hoạt của mình trong đời sống ta sẽ kinh ngạc
khi thấy rằng thực ra bấy lâu nay ta đã sống như một cái máy tự động, ngủ
thức khó phân và ký ức coi như bị chìm mất trong cái mớ hỗn độn
của quá nhiều sự việc, sự vật chung quanh. Chúng ta hãy thử nhớ lại
xem, có biết bao lần đi, đứng, làm việc, sinh hoạt mà không hề
biết mình đang làm gì để rồi sau đó chẳng còn nhớ được gì
hết. Chính trong lối sống xô bồ tạp loạn đó, những sợ hãi - đau khổ -
tật đố... đã tiếp nối nhau đày đọa chúng ta. Chỉ có lúc quay lại
với Niệm giác chi, ta mới được sống trọn vẹn với mình mà thôi. Ngay
cả với cái chết cũng thế, có bình tỉnh và can đảm nhìn thẳng vào
nó thì người ta cũng sẽ cảm thấy an toàn hơn là cứ để mặc cho những
nổi sợ hãi tha hồ ào ạt tìm tới.
Có Niệm giác chi, mọi sinh hoạt của chúng ta tự nhiên sẽ có thêm
những sức mạnh mới, chẳng hạn một sự tinh cần và một niềm vui kỳ lạ. Có
thể ta lúc đó chẳng cần ngóng đợi thành quả mà công việc vẫn trôi
chảy vì trong từng phút ta đã sống hết mình và như vậy thì trong từng
phút ta gặt hái biết bao thành quả. Ðại khái sống với Niệm giác chi
là sống với một sự thận trọng và biết mình trọn vẹn.
Niệm giác chi có ba chức năng:
- Niệm giác chi giúp ta ghi nhận rõ ràng và như thật tất cả những gì
xãy đến. Nên nhớ, cái biết của Niệm giác chi là một sự ghi nhận
trực tiếp và đơn sơ, không thông qua một sự chấp thủ bám víu nào cả.
Cái biết của Niệm giác chi phải luôn là cái biết trung thực,
mọi sự ra sao thì thấy như vậy mà không cần tới hình ảnh liên quan nào
đó làm trạm trung chuyển. Ở đây hoàn toàn không có sự can dự của
bất cứ một sự đối chiếu, lý luận, cân đong nào cả. Nhờ sự vô tư
nầy ta mới thấy được thân tâm nầy thực ra được điều hành bởi cái
gì, ra sao và chỉ với nội tâm thoải mái đó, ta sẽ cảm nhận được sự tự do
của chính tâm hồn mình.
- Chức năng thứ hai của Niệm giác chi là làm nhân tố phát triển
các giác chi còn lại. Có Niệm giác chi thì các giác chi kia mới có
thể khởi lên. Bởi vì từ cơ sở an bình ổn định của nội tâm, các giá
trị tinh thần khác như trí tuệ, định tâm, sự điềm đạm bình thản...
thậm chí kể cả sự chuyên chú trong âm nhạc, thể thao, khoa học và
cả chuyện ái tình mới có thể có mặt một cách kịp thời và cần
thiết. Niệm giác chi sẽ cứu vớt chúng ta trong mọi tình huống sống
và trên hết, thiếu niệm thì không thể có trí tuệ với từ
bi.
- Chức năng thứ ba của Niệm giác chi là cân bằng tâm não trạng. Khi
niệm được vận dụng đúng mức, mọi thứ xảy ra không gây ảnh hưởng
gì tới nội tâm được và như vậy nội tâm trở nên quân bình. Trong những
giây phúc tệ hại nhất của nội tâm, chẳng hạn một sự sợ hãi hay đau
đớn nào đó, nếu niệm kịp thời can thiệp thì ta sẽ tự giữ được
cái tâm thái thăng bằng ngay trong chính sự đối xúc với chúng.
Hành giả phải học được ở chính mình cái kinh nghiệm ứng dụng
Niệm giác chi ở những tình huống khó khăn nhất để tự tạo lấy sự
cân bằng trong tâm hồn vào mọi lúc mọi nơi; và điều được ghi
nhận là dù thử thách có ra sao đi nữa, chỉ cần một phút giây có mặt của
Niệm thì lập tức sự bình tâm sẽ được vãn hồi. Lại nữa, một khi nhận
thấy nội tâm yên tĩnh quá mức cần thiết, có vẻ dễ đưa tới thụ động
thì hành giả chỉ việc chú niệm ngay vào nó, lập tức sự tỉnh thức và
trạch pháp (trí tuệ) sẽ có mặt để kéo lại mức quân bình. Hoặc khi
nhận thấy nội tâm đang ở tình trạng quá năng động thì hành giả vận dụng
Niệm giác chi ghi nhận rằng mình đang quá năng động. Nhờ sự chú niệm
nầy Ðịnh giác chi sẽ xuất hiện để can thiệp cho tâm trở lại bình
hòa.
Niệm giác chi có đến bốn cơ sở để y cứ theo đó mà tồn tại.
Ở đấy ta lại nhắc tới Tứ Niệm Xứ. Trước hết là Thân quán
niệm xứ.
- Thân quán niệm xứ là cơ sở cho Niệm giác chi khởi lên bằng sự
tỉnh thức ghi nhận tất cả mỗi mỗi sinh hoạt của các giác quan đến
những cử động lớn nhỏ, kể cả việc uống ăn và hít thở. Một xác
chết hay chút hài cốt cũng có thể là đề mục an trú chánh
niệm về thân.
- Thọ quán niệm xứ là trường hợp Niệm được vận dụng để
nhận biết từng cảm giác bất kể tốt xấu trong mỗi giây phút của
thân tâm. Kinh nghiệm nầy rất quan trọng vì trong đời sống thường
nhật chúng ta thường tự mắc bẩy trong chính tình cảm ghét, thương, chán,
thích... của mình. Một nội tâm thiếu Niệm sẽ dễ dàng bị cuốn hút
vào luồn sóng cảm giác: Gặp điều như ý ta bị hấp dẫn, gập điều
bất toại ta phản ứng bất mãn... và nếu phải đối đầu với cảm giác nhạt
nhẻo vô vị thì nội tâm lại chuyển hướng tiêu cực, thụ động. Cứ
thế tự thâm tâm chúng ta cứ luôn là những chìm nổi của một dòng trầm
luân. Chính trong đời sống cảm giác đó, nếu Niệm kịp thời có mặt
thì ta sẽ tự chủ được mình bằng cái nhìn trung thực vào cảm thọ cũng
như những phản ứng tâm lý của mình. Theo Phật giáo, đó là một đời
sống trí tuệ và tỉnh thức.
- Cơ sở thứ ba cho Niệm là Tâm quán niệm xứ. Chánh Niệm ở đây
lấy những biến đổi của nội tâm làm đối tượng. Vị hành giả chuyên tâm
chú ý tất cả những đổi thay trong lòng mình: Ðâu là nghi hoặc, sợ hãi,
đâu là từ bi, trí tuệ.... Nội tâm ra sao thì như thật tri nhận theo vậy.
Ý nghĩa của Niệm xứ nầy là để hành giả thấy được các bản chất
tự đến tự đi của các tâm trạng. Ta chỉ nhìn ngắm nó mà không cần can
dự bằng bất cứ thành kiến nào.
- Cuối cùng là Pháp quán niệm xứ, trường hợp Niệm giác chi ghi
nhận chặt chẻ tất cả những động lực nào điều hành thân tâm của mình.
Có nhìn thấy được những nhân tố hiện hữu của thân tâm, hành giả mới
hiểu được vạn pháp chỉ là một dòng nước vô chủ, trôi chảy theo luật
vận hành của nhân duyên và ở đây hoàn toàn không có sự hiện hữu, tồn
tại của bất cứ một cái Tôi nào hết. Mọi sự đến và đi theo luật
tắc của riêng mình và không hề có một điều gì nằm trong ý muốn
của chúng ta. Chúng chỉ trôi qua và chúng ta chỉ có bổn phận nhìn theo.
Như vậy, Niệm rõ ràng là nền tảng cho lý tưởng tu chứng giải
thoát của tất cả mọi người. Dĩ nhiên trên hành trình đó, khả năng
tỉnh thức phải trải qua nhiều trình độ khác nhau tùy theo sức chú
niệm của chúng ta, nhưng điểm quan trọng là ta chẳng nên quan tâm
đến chuyện mình đã đạt đến đâu, có một cái gì. Cứ nuôi
dưỡng Niệm giác chi thì mọi cái sẽ thành tựu. Trí tuệ sẽ trở
nên bén nhạy sâu sắc khi Niệm giác chi được vận dụng đúng mức.
Chẳng hạn khi nghe một tiếng động bên tai mình, nếu ta để
Niệm giác chi lơi lỏng, ta sẽ chấp thủ đó là âm thanh gì, Có thể là
tiếng chim hót. Từ đó, ta nghĩ đến con chim và tự nhiên muốn nghe nó
hót thêm nữa. Vậy là chúng ta đã đi quá xa trong một tiếng động thay vì
chỉ cần nghe qua một lần bằng tất cả sự vô tư đơn giản nhất. trong khi đó,
nếu với một Niệm giác chi thường trực thì ta sẽ chỉ ghi nhận âm thanh
kia như một cái gì không quen biết. Nó như một cơn gió bất chợt đi qua
và cái tâm ghi nhận được nó cũng xuất hiện tình cờ như một người
khách lạ. Ta cùng lúc nhận diện được khuôn mặt sinh diệt của thân
tâm nầy một cách bình yên và nhẹ nhàng như kẻ đứng trên cầu nhìn dòng
nước trôi đi bên dưới hoặc một sơn nhân lạnh lùng nhìn mây trắng bay ngang
đỉnh núi vậy thôi... Ta khi đó được xem như đang sống bằng cái tâm
"ngoại vật", cái gì không phải của mình cứ để nó tự nhiên
đến và đi. Nội tâm hành giả lúc nầy coi như không còn bị giới hạn bởi
ngoại cảnh nữa.
Với công phu thường xuyên, Niệm giác chi sẽ ngày một vững mạnh. Bằng
vào khả năng nhìn ngắm chính mình và trên những phản ứng và biến tướng
của thân tâm trong mọi hoàn cảnh, trình độ tỉnh thức của hành giả sẽ
càng lúc sâu sắc thêm nhiều.
Ðiều kỳ diệu và thú vị là ở bất cứ nơi đâu, lúc nào ta cũng
đều có thể tu tập Niệm giác chi cả.Trong lúc lái xe, sinh hoạt gia
đình, hay ngay cả khi sống một mình, ta điều có thể tự mình chứng
kiến, mục kích tất cả những gì đang xãy ra ở thân tâm. Chúng kéo
đến, ta nhìn ngắm, một cách thơ ngây và trong sạch. Có kinh nghiệm qua
công phu nầy, ta sẽ thấy Niệm giác chi đem lại cho mình cái gì. Ðó chính
là trí tuệ, sự tự do và bình an thanh thản của tâm hồn!
Cần giác chi (Tinh tấn giác chi)
Sau Niệm, giác chi có nhiệm vụ cân bằng nội tâm, kế đến là
ba giác chi có tính năng động hóa nội tâm. Trước tiên là Cần giác chi. Làm
thế nào để vận dụng đúng mức sự chuyên cần của mình, đó là một
vấn đề lớn cho tất cả hành giả và làm sao để có thể thực
hiện được điều đó?
Một cách cơ bản, Cần giác chi là sự nỗ lực trong đời sống tỉnh thức
và ức niệm. Như vậy sự nỗ lực ở đây không hề có nghĩa là một
cố gắng can dự hay phản ứng nào đó trước ngoại cảnh, mà lại là sự chuyên
tâm nhắm tới một động tác ngắm nhìn mọi sự với tất cả trong sáng và
khách quan. Ta có thể tự kiểm tra Cần giác chi của nội tâm bằng cách
nội quán "Mình đã thật sự hết lòng trong sự chú niệm?"
Thứ đến, phải hiểu rằng Cần giác chi chỉ phát triển khi ta dốc
sức trong công phu đào luyện. Mà chúng ta thì thường có thói quen dè xẻn
trong năng lực vì cứ ngầm sợ mình phải làm dư đến quá mức cần
thiết. Ta thích sống hoạt động theo một thời gian qui định nào đó mà cứ
quên rằng đời sống tỉnh thức thật ra luôn là cần thiết trong mọi
lúc. Bởi đối với một hành giả, không có giây phút tỉnh thức nào là thừa,
và để có được một điều đó thì sao lại có thể thiếu sự
nỗ lực? Ở đây, ta nên tâm niệm rằng sự nỗ lực luôn giúp ta
đối phó với tất cả những gì là bất an, và năng lực của con người chúng ta
không giống như của một viên pin. Chúng ta càng gia tăng nỗ lực thì sức
mạnh nội tâm cũng càng lúc lớn mạnh theo. Một vị thiền sư đã nói rất
đúng: "Tu hành đừng có mặc cả!"
Nói vậy không có nghĩa là chúng ta cắm đầu vật lộn với thời gian một
cách xuẩn động, mà ở đây hành giả nên hiểu rằng sự tinh tấn trong
trường hợp nầy chính là một tâm lực thúc đẩy ta không dừng bước. Có
thể một cách kín đáo nhẹ nhàng thôi nhưng bền bỉ, đều đặn đủ
giúp hành giả không tiêu phí thời gian.
Cần giác chi đem tới cho hành giả những giá trị sống và năng lực hoạt
động ngay trong chính cuộc tu và giúp ích cả thể xác sinh lý nầy nữa.
Hình thức nỗ lực nào cũng là tất cả. Chẳng hạn trong tư thế tĩnh
tọa, tự nó có thể đem lại cho ta một sự nhẹ nhàng thư giản. Mặc dù
vẫn có không ít những hành giả lại cho rằng các tư thế vận động sẽ
tốt hơn bởi nhờ đó năng lực của cơ thể mới được hiển hiện và
vận dụng hữu hiệu.
Cần giác chi có nhiều cấp độ khác nhau khi chúng ta biết điều
hành công phu của mình. Nói theo kinh điển, về cơ bản, có đến
bốn trường hợp Cần giác chi, mà xét trên ý nghĩa chung thì đó là những
nỗ lực trong chính sự thể nghiệm và thanh lọc nội tâm mà mục
đích cao nhất là giúp hành giả đọc hiểu được chính bản chất của
mình:
- Trong trường hợp thứ nhất, Cần giác chi là nỗ lực duy trì bền bỉ
những giá trị thiện pháp đã thành tựu nơi bản thân để tiếp
phát triển nhiều hơn, giống như người ta cố gắng nuôi dưỡng một
thân cây đã được trồng xuống cho lớn mạnh thêm. Nhận thấy những nhận thức
nào là cao đẹp, trong lành thì hành giả cần cố giữ lại để ngày một
nâng cao thêm.
- Trường hợp Cần giác chi thứ hai là sự nổ lực từ bỏ những gì ác xấu
hình thành trong tâm hồn bằng sự thấu đáo trực diện với chúng. Có thấy
tham muốn là một phiền phức ta sẽ dễ dàng tẩy xóa nó hơn. Ý nghĩa của
Cần giác chi nầy không phải là một sự "Thành kiến, ác cảm" đối
với bất cứ cái gì, mà ở đây chỉ đơn giản là một cái nhìn thấu suốt
hướng tới trạng thái tịnh lạc, bình an. Chỉ cần vậy là ta đã có thể
xoay lưng với tất cả bất thiện rồi.
- Trường hợp tiếp theo là sự cố gắng gây tạo những thiện tâm nào
mà mình chưa có đúng mức, chẳng hạn như một tình thương đối với tha
nhân. Ta lưu ý tới nó để biết mình thiếu nó, cần trưỡng
dưỡng nó nhưng vẫn tiếp tục sống bình đạm và tỉnh thức, không sục sạo
kiếm tìm như một kiểu đầu cơ trẻ con.
- Trường hợp cuối cùng là Cần giác chi trong ý nghĩa nỗ lực
đề phòng ác pháp bằng cách cẩn trọng và đặc biệt lưu tâm
đến những hoàn cảnh và tình huống mà chúng có thể xuất hiện
để kịp thời ngăn đón và tự vệ nội tâm.
Nâng cao năng lực nội tại bằng sự phát triển Cần giác chi là một
điều thiết yếu cho công phu tu tập. Với một nỗ lực đúng
hướng, đúng mức, hành giả sẽ có khả năng đào sâu chính mình hơn, để
vươn mình lên những sự thật kỳ diệu hơn và trên hết là làm tăng
hoa cuộc tu của mình bằng chính những thành quả đó.
Trạch pháp giác chi
Giác chi thứ ba là trạch pháp hay trí tuệ suy lượng các pháp theo tính
bản nhiên của chúng.
Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng mặc nhiên chấp nhận điều mình
thủ đắc một cách tự mãn dễ dàng buông xuôi niềm tin trước những rao
giảng của một ông thầy hay một cuốn sách nào đó mà không hề nghĩ tới
việc gậm nhấm lại tất cả một cách khách quan, cẩn thận. Chính giác chi
thứ ba nầy sẽ giúp ta thực hiện điều đó. Trạch Pháp giác chi không
cho phép ta chấp nhận một kiến thức sang tay hay một hiểu biết mô
phỏng nào cả, mà lại đề nghị với ta một con đường tự vấn. Ðó là cả
một sự mạo hiểm khi chúng ta một mình làm cuộc kiểm tra xác định lại
tất cả những gì vẫn được xem là kinh điển. Ðúng là Trạch pháp giác
chi luôn đề nghị chúng ta một cuộc mạo hiểm. Ðó là sự đối diện
với những gì ta chưa thật sự thấu đáo và cũng là một ước muốn nhắm tới
những câu hỏi sâu sắc nhất trong đời sống. Don Juan bảo rằng chỉ với tư
cách của một chiến sĩ, người ta mới có thể dấn bước trên con
đường tri thức. Phải biết mạo hiểm trong trí tuệ vì trong khi đối
với hầu hết mọi người, kinh nghiệm cuộc sống chỉ là cái gì ân
sũng tự nhiên của trời cho, nhưng đối với các bậc hiền giả thì đời
sống là cả một hành trình khám phá. Trạch Pháp giác chi cho phép ta nhìn
thẳng vào tất cả kinh nghiệm, và để đi qua đoạn đường nầy ta có
thể sẽ phải trãi qua những giai đoạn cai đắng của hoài nghi, nãn chí,
bức xúc và thậm chí của cả những bối rối, hoãng loạn - đại khái là tất
cả thảm kịch ghê gớm của nội tâm. Nhưng đó cũng chính là lúc ta có dịp
bắt gặp rất nhiều thứ và có cơ hội kiểm nghiệm trọn vẹn bản
thân mình để khả dĩ có được một cái hiểu biết và tự do.
Chúng ta có thể đối diện với lắm điều thử thách, chẳng hạn
một viễn ảnh về cái chết hoặc một nổi bất an nào đó đối với
thế giới chung quanh nhưng chẳng sao hết, cứ can đảm nhìn thẳng vào
chúng để soi rọi và xác định qua đó những qui luật. Có chịu ra sức
chiêm ngắm tất cả kinh nghiệm của mình thì dù ở bất cứ nơi đâu, lúc
nào ta cũng sẽ thấy chúng đều là những pháp môn cả, bởi đời sống luôn
tự trình bày bản chất của nó và ta chỉ việc trông thấy mà thôi. Kinh
nghiệm khách quan dạy ta nhiều thứ lắm, vì nó là Pháp. Kinh nghiệm
đời sống dạy ta về vô thường, đau khổ, nghiệp lý và cả sự giải
thoát nữa. Thi sĩ Kabir cũng từng nói như thế: "Khi biết lắng tai
và mở to đôi mắt thì đến cả những chiếc lá trên cây cũng có
thể truyền dạy cho ta lắm điều kỳ diệu chẳng khác gì những
trang thánh thư cao siêu nhất."
Trí tuệ về bộ mặt bản nhiên của thân tâm nầy thật ra không là
thứ kiến thức theo ý nghĩa thông thường mà ta vẫn hiểu. Cho
đến khi nào chưa nội quán một cách chính chắn rằng mình là cái gì thì
tinh thần chúng ta vẫn còn bị khép kín trong bóng tối ảo tưởng, như một
người bị nhốt trong phòng tối sẽ bị mất hết mọi ý thức hoạt
động. Ngày nào chưa nhận diện được chính mình, còn bị nhầm lẫn về
bản chất của các thứ kinh nghiệm thì chúng ta sẽ tiếp tục chất đầy
lòng mình những nghi hoặc bại liệt. Khi trí tuệ Trạch Pháp có mặt,
bóng tối sẽ bị đẩy lùi và căn phòng tăm tối kai sẽ bị rọi sáng.
Sức mạnh của trí tuệ Trạch Pháp tăng giảm theo chiều sâu của sự
đào luyện. Chúng ta có thể gia công quán sát, nhìn ngắm tất cả những
nhân tố tựa thành nên thân tâm nầy. Bằng vào sự chú niệm và chiêm
nghiệm đó, ta sẽ dễ dàng thấy rõ hoạt động của tứ đại, lục căn, bản
chất của thiện ác trong chính nội tâm mình và cả con đường giải thoát.
Chúng ta có thể thể nghiệm tuyến trình sinh diệt chớp nhoáng
của tâm pháp, tận mắt nhìn thấy cội nguồn của những âu lo, những chấp thủ,
những hình thức hiện hữu trong đời sống bản thân... Ðể thực hiện
được điều đó, chúng ta phải biết mở rộng nội tâm mình một cách
hoàn toàn, bởi vì đôi khi nhờ thế từ trong bóng tối mịt mùng của nội
tâm, tất cả những đau khổ, bất an sâu kín nhất được hiển hiện, và
điều đó cũng có nghĩa là những sự thật quan trọng nhất sẽ được
chứng nghiệm.
Ðời sống vốn nhiều phức tạp và có thể nói rằng tình huống nào
cũng có những câu hỏi cho chúng ta cả, và nhờ vậy ta sẽ có cơ hội tự giải
đáp. Nhưng câu trả lời sẽ sâu cạn tùy theo trình độ và mối giao cảm của
chúng ta đối với thế giới chung quanh xuyên qua công phu tu chứng mà ở
đây, có thể nói rõ là sự tu tập về Tứ Niệm Xứ.
Hay tổng quát hơn, trình độ trí tuệ của hành giả được biểu
hiện qua khả năng tiếp cận nhìn ngắm đánh giá ngoại giới, những
hiểu biết và bản lãnh giải thoát trong mọi lĩnh vực của đời sống
thường nhật, từ đối giao xã hội, sinh hoạt gia đình và hoạt động của bản
thân... Trình độ đó được hướng dẫn bởi một sự phản tỉnh sáng suốt cộng
thêm tinh thần cầu học bất thối và những thắc mắc nghiêm túc đặt trên
lý tưởng khám phá chơn lý. Những nghi vấn đó không phải là các câu
hỏi quanh quẩn vớ vẫn hay lo ra (hướng ngoại) mà là một hành trình tìm vào
chính bên trong của chúng ta.
Ðiều nên nhớ là sự suy lượng, tìm tòi và trí tuệ ở đây phải
được giữ thăng bằng bởi một niềm tin. Vì một sự tra vấn thái quá lại
thiếu niềm tin thì sẽ dễ dàng dẫn đến sở tri chướng, thiếu
tư duy, nặng lý thuyết và chất đầy nghi hoặc. Ngược lại, không có
trí tuệ, ta sẽ mắc vào thứ đức tin mù quáng. Cho nên cái chúng ta thật
sự cần đến ở đây phải là một niềm tin được thiết lập trên sự
tỉnh thức và khám phá, để từ đó, chánh tri kiến được kết tinh.
Hỷ giác chi
Giác chi tiếp theo là hỷ duyệt, phép sống và tu trong sự thoải
mái, vui vẻ. Thành tựu được yếu tố nầy coi như ta càng có điều
kiện trưởng dưỡng thiền định hơn, bởi vì một kiếp sống bằng
một tâm hồn khoáng đạt, không quá câu thúc, thì các đức tin thiện pháp
trong ta cũng rộng đường phát triển lớn mạnh hơn.
Dĩ nhiên lúc nào vị hành giả cũng phải đối diện với tất cả những
kinh nghiệm về đời sống cũng như cuộc tu, nhưng cái quan trọng là
mọi thứ chỉ để ta nhìn qua chứ không phải lưu trữ, bởi vì rất có
thể điều đó sẽ dẫn tới những hồi tưởng vướng vít và xáo trộn
nội tâm chúng ta. Trong chúng ta có rất nhiều những hồi ức bị tạm thời
lãng quên nhưng luôn sẵn sàng trổi dậy. Trong đống hoang tàn đó cái gì
cũng có, từ những cái sôi động đến buồn tẻ, niềm vui hay nổi đau
khổ... mà giá trị của hỷ giác chi là mở rộng tâm hồn đón nhận mọi
thứ bằng tất cả thú vị như đứng trước những bài học kỳ diệu, một
niềm vui lớn. Với Hỷ giác chi, hành giả có thể an nhiên sống giữa
đời một cách hào hứng như đứa bé trên sân trường chỉ luôn có trong đầu
những ý tưởng: "Ta có thể học được cái gì ở đây, trò
chơi nầy vui lắm không?", và tuyệt vời nhất là cảm giác tự tin
"có ra sao ta cũng có thể vào cuộc!".
Cơ sở cho Hỷ giác chi là một thái độ sống khoáng đạt. Giá trị của
bản thân chúng ta nhiều khi nằm ở điều ta ưa và ghét, mà đời sống
thì trước sau cũng chỉ là một vở kịch. Hỷ giác chi giúp ta biết cách
đánh giá vở kịch đó. Nói theo Don Juan, đó là cách ngắm nhìn cuộc sống
trên trái đất nầy từ một khoảng cách không gian thật lớn với một thời gian
thật dài. Cái gì rồi cũng sẽ ra đi, chúng ta đã làm gì và còn giữ lại
một kỷ niệm nào, cái đó không thành vấn đề. Ðiều quan
trọng là ta đã có thái độ ra sao trong cuộc chơi ngắn ngủi nầy. Những
điệu khiêu vũ chóng vánh rồi cũng đến giây phút chấm dứt nhưng ta
đã học được bài học yêu thương nào từ đó hay chưa?
Hãy sống vui vẻ một cách thông minh giữa cuộc đời phù du nầy. Trong cái
chớp bể mưa nguồn, tang thương dâu biển, niềm vui dù sao cũng là
cần thiết.
Càng sống nhiều trong thiền định ta mới thấy rõ ràng Hỷ giác
chi là một tác động mãnh liệt như thế nào đối với năng lực nội
tâm và ngựơc lại, ở một trình độ thiền định càng kiên cố, một nội
tâm càng yên tĩnh thì Hỷ giác chi cũng sẽ sung mãn hơn. Chính Hỷ
giác chi ở trình độ đó sẽ có năng lực tác động rất lớn đối với tâm
sinh lý của hành giả, và niềm hạnh phúc đó kỳ diệu ngoài sức
tưởng tượng của mãnh liệt dâng trào như sống biển mà lại trong
sáng, cao khiết như sương trời - khác hẳn với tất cả cảm giác khoái lạc
trần tục thông thường. Với sự gia trì đó của Hỷ giác chi, tự thâm tâm
hành giả sẽ được đối diện với những kinh nghiệm trực quan sâu sắc,
sức mạnh của định tâm cũng hùng hậu hơn và tất cả điều diễn ra trong
một thú vị tuyệt vời. Ðó chính là những gì cần biết về Hỷ
giác chi.
Ðịnh giác chi
Ba giác chi mang tính Ðộng vừa kể trên đây là Cần giác chi, Trạch
Pháp giác chi, Hỷ giác chi luôn được điều hoà bằng ba giác chi khác
mang tính Tĩnh. Ðầu tiên là Ðịnh giác chi. Một cách nôm na, Ðịnh là sự
tập trung tư tưởng, có mặt khi ý thức nhắm ngay vào đối tượng nào đó
một cách chuyên chú. Ðịnh luôn đem lại một năng lực lớn cho tinh thần. Cũng
như ánh sáng trong tia Laser có thể cắt đứt cả thép, một nội tâm có
trang bị Ðịnh giác chi sẽ có thể chi phối một cách đáng kể vào vận
động của thân tâm, và trí tuệ của hành giả lúc nầy có khả năng vươn
tới những chiều kích tư duy sâu rộng hơn.
Một điều thoạt nhìn đã thấy là nội tâm của chúng ta luôn thiếu
sự điều hành, phức loạn và chất đầy những vọng chấp, phân biệt
- nói theo nghĩa chuyên môn của Phật học. Tất cả sinh diễn theo phản xạ
của bản năng phiền não và tồn tại, vận động như một dòng nước lũ.
Nhưng với sự can thiệp của Ðịnh giác chi, tâm hồn sẽ trở nên yên tĩnh,
và lúc nầy ta có thể bắt đầu theo dõi được dòng chãy của các tư
tưởng trong từng giây phút để xem chúng xuất hiện, tồn tại và
biến mất ra sao. Chẳng những nhìn thấy được nội tâm của mình, hành giả
thậm chí còn thấy cả tiến trình thay đổi thường trực của thế giới
khách quan mà ở đây, có thể là một âm thanh hay hình ảnh nào đó. Ðối
tượng tri nhận của các giác quan vật chất lúc nầy sẽ không còn là những
thực thể thuần túy và bất động nữa, mà thành ra những cái bóng chớp
nhoáng với nhiều giai đoạn kế thừa nhau trên một dòng sanh diệt vô
thường.
Theo giáo lý truyền thống thì có đến hai hình thái Thiền
định. Trước hết là thứ thiền định nhắm đến sự tập trung tư
tưởng trên một đối tượng duy nhất đã được chọn lựa, để nâng cao
khả năng chuyên chú. Ðối tượng đó có thể là hơi thở ra vào hay một
hình ảnh màu sắc nào đó hoặc một khái niệm căn bản như lòng từ bi và
thậm chí, một câu thần chú đã được trao truyền cẩn thận. Hình thái
thiền định thứ hai tạm gọi là thứ thiền định trực quan, có đối
tượng tạm thời và không chuyên nhất, vì loại thiền định nầy chỉ nắm
bắt các đối tượng trong từng lúc, cái nào xảy đến thì ghi nhận, vậy
thôi. Nói thế có nghĩa là khi tu tập thiền định nầy, hành giả có
thể liên tục thay đổi đối tượng trong mỗi mỗi giây phút, từ
những vận động chuyển đổi của cơ thể đến bất cứ một đối
tượng ngoại giới nào vừa đưa đến như một mùi thơm, một tiếng
động nào đó. Nói rõ hơn, đây chính là thứ thiền định nhắm tới
lý tưởng nội quán, nên vấn đề đối tượng tri nhận không là quan
trọng, tất cả chỉ đặt trọng tâm ở trình độ tỉnh thức.
Về công năng của hai hình thái thiền định nầy dĩ nhiên cũng có
điểm khác nhau. Ðành rằng thiền định nào cũng có một lý tưởng
căn bản là làm an tĩnh nội tâm nhưng loại thiền định thứ nhất (tập
trung vào một đối tượng duy nhất đã chọn sẵn) chỉ có tính năng an tâm
tạm thời, khá chật hẹp vì đối tượng quá giới hạn. Còn với loại thiền
định trực quán, nhờ tính năng linh động nên hành giả có thể kịp thời
xoay trở trước mọi tình huống một cách hiệu quả hơn.
Thiền định trực quán nhắm tới tất cả những gì đang xảy ra, một thực
tại Ðang là, Ðang có.Sự tập trung ở đây quả là một nghệ thuật bởi vì
bản chất của nội tâm là khó điều động, mà yêu cầu của thiền định
nầy là sự phản tỉnh để nhìn ngắm các đối tượng sở tri trong tường
giây phút. Ðó là chưa kể đến chiều dài thời gian mà chúng ta
đã hoang phí trong sự loạn động và chính điều đó đã hình thành trong
ta một thói quen khó bỏ, để mỗi khi bắt đầu công phu nội quán thì
lập tức ta bị cuốn hút và chi phối mãnh liệt từ phía những tham dục, sợ
hãi, nói chung là tất cả những đối lập lại sự điều động của ta, nằm
trá hình kín đáo trong từng cơn đau đớn, bức xúc sinh lý, những cơn
giận hờn, cảm giác cô đơn, lòng ái luyến tham chấp hoặc bất cứ một bận
rộn lớn nhỏ nào trong sinh hoạt thường nhật. Ðể dàn xếp tất cả thứ
đó, ta phải tự học được cách thư giản, buông bỏ và vượt khỏi chúng.
Kinh nghiệm nầy cũng giống như quá trình trao dồi một ngoại ngữ mà bí
quyết cơ bản vẫn là sự ôn tập, lập đi lập lại. Mọi chuyện sẽ
trôi chãy sau một thời gian không sao lãng. Vấn đề dĩ nhiên là đòi hỏi
chúng ta một nghị lực bền bỉ và đừng bao giờ tự cho rằng mình bất lực.
Trước chúng ta đã có biết bao người từng đi qua con đường nầy rồi.
Bằng từng bước thực tập với các công phu khám phá và bình tĩnh, dần dần
rồi hành giả sẽ thâu gặt được lần lượt các thành quả từ ít đến
nhiều. Bởi càng lên cao, càng tự tại trước các chướng pháp, thì ta càng
có cơ hội thưởng thức được tất cả tịnh lạc và bình yên mà thiền
định mang lại. Hơn thế nữa, thành quả cao nhất của tiến trình nầy
còn là sự phấn khích kích thích cho chặng đường còn lại để ta tiếp
tục vững bước trong đời sống an hoà, tỉnh thức.
Khi đã đạt được khả năng thuần thục, thiền định của ta càng dễ
dàng vượt qua các trở lực để ngày một tiến bộ hơn. Chúng ta không
được dậm chân tại chổ mà phải luôn tìm cách nâng cao thiền định.
Chúng ta phải làm nhiều thứ lắm: tự dàn xếp chính mình, chọn lấy
những thao tác, tư thế thích hợp khi thiền định và trên hết là
biết xử lý khéo léo trước tất cả chướng ngại ngăn trở nội tâm khi
chúng vừa xuất hiện.
Trong một số trường hợp, khi thiền định vừa được bắt đầu nhen nhúm
thì trí tuệ xuất hiện và nếu đối tượng tri nhận ở đây được
linh động thì trí tuệ đó sẽ thành ra khả năng nội quán sâu sắc vừa
đủ cho hành giả ghi nhận kịp thời tất cả sinh diễn chuyển biến của
thân tâm. Nhưng cũng có khi thiền định không phát triển theo chiều
hướng đó, tức là từ trình độ thiền định thấp hành giả lại tiến
đạt lên cấp độ thiền định khác cao hơn. Từ chuyên môn gọi đó là
trình độ cận định hay thiền định dẫn nhập. Ở trình độ nầy nội
tâm hành giả coi như đã tự hạn chế tối đa các tạp niệm và gần như
gắn chặt vào đối tượng tri nhận. Lúc đó tất cả tâm lực dường chỉ dồn
hết vào đối tượng, các chướng ngại tinh thần tạm thời vắng mặt và sự
hiện hữu của dòng tâm thức cũng trở nên yên lắng, êm đềm hơn rất
nhiều. Chính cận định nầy mới chính là ngõ vào trình độ chứng nhập cao
nhất mà thiền định nhắm tới.
Trình độ cận định là một điểm hội tụ lý tưởng của cùng lúc
nhiều giác chi khác để giúp nó vững mạnh và hữu hiệu hơn. Và
một lúc nào đó, với khả năng nầy, ta sẽ cảm nhận một kinh nghiệm kỳ
diệu, đó là sự chuyên nhất của ý thức. Ở đây tất cả tạp
niệm đều lắng xuống, các cảm thức chủ quan trở nên vô tư và tất cả
kinh nghiệm thiền định lúc nầy trở thành nguồn động lực đưa ta vào
tiếp diện với thực tại một cách trọn vẹn.
Cận định là một phương tiện tuyệt vời cho pháp môn thiền
quán, con đường chứng nghiệm bản chất của thân tâm. Bởi với trình độ
tập trung đó, hành giả dễ dàng bắt gặp tất cả những giai đoạn biến
tướng chi li của danh và sắc. Mọi ảo tượng về cái thuần nhất sai
biệt trong các pháp coi như tan biến trước cái nhìn soi rộng nầy. Ðó
chính là giá trị độc đáo của thiền định nội quán. Vì dù có đặt cơ
sở trên bất cứ mức độ thiền định nào, pháp môn nầy cũng đều đem
lại cho ta một hiểu biết chính chắn về thực tại và một đời sống
nội tâm thật sự tự do. Mà nói vậy có nghĩa là ta một lần nữa nhấn mạnh
tính cấp thiết của Ðịnh giác chi, bởi rõ ràng là lấy nền tảng từ
đây, mọi hành trình tu chứng với tất cả hình thái phát triển mới
được bắt đầu và nâng cao.
Nói tóm lại, với bất cứ trình độ thiền định nào, từ các thiền
khóa hay trong đời sống thường nhật, Ðịnh giác chi luôn giúp ta biết
sống dung hợp và cũng cố tâm hồn với trí tuệ của mình. Càng tu tập,
trưởng dưỡng giác chi nầy, ta sẽ có được tất cả an lạc và hiểu
biết một cách tự tại, cộng thêm một đời sống nằm ngoài mọi hệ
lụy, buộc ràng của các phức cảm phiền não. Ðó cũng chính là một phần
trong cuộc tu của chúng ta.
Tĩnh giác chi (Khinh an giác chi)
Trong thế giới lắm phiền lụy nầy, để có được một sinh phong
tự tại, chúng ta nên có lúc biết nhìn lại mình để tự tìm thấy một
sự thư giản trong cái yên lặng sâu thẳm và bình yên. Cái yên tĩnh tâm hồn
đó là cả một nguồn động lực cho thiền định và nhờ có nó, ta mới có
thể lắng nghe trọn vẹn thế giới quanh mình đồng thời thành tụ cái
giá trị trí tuệ trong chính nội tâm. Nhưng để nuôi dưỡng sự tĩnh
lặng đó của tâm hồn, trước hết ta phải biết an định thể xác
vật lý nầy đã, bằng công phu điều tức hay một thao tác thư giản nào
đó. Mà sự yên tĩnh có được từ những giàn xếp trong sinh hoạt thường
nhật thì đã đành, ngoài ra, người hành giả còn phải biết dành ra những
thời gian sống cô đơn chỉ mình với mình trong trời đất thiên nhiên nữa. Từ
đó ta sẽ hiểu rằng không phải do tình cờ mà chính Ðức Phật cũng đã
thường sống trong núi rừng nhiều hơn ở những nơi đô thị phố xá. Do đó
ta có thể nói rằng một nếp sống viễn ly dù ở nơi đâu, lúc nào -
các khoá thiền hay bất cứ hình thức sống cách ly nào tương tự - đều
là những môi trường trưỡng dưỡng cái yên tĩnh nội tại trong tâm hồn chúng
ta, những người hành giả.
Một cách rốt ráo, có thể nói rằng con đường dẫn tới sự yên tĩnh
thật sự cho nội tâm chính là làm thế nào giải trừ được những vọng
chấp phân biệt về cái thương và ghét, ưa thích và bất mãng bằng
cách đình chỉ toàn triệt thái độ sống chất nặng tham chấp với quá
nhiều dự tính và thất vọng. Bởi với nếp sống vướng vít đó, ta
sẽ quên mất những kinh nghiệm chính chắn về thực tại của các pháp.
Trong khi mãi mê rong chơi đây đó trong những chốn đào nguyên ảo tưởng
nhiều hoa cỏ, ta sẽ tiêu phí gần hết thời gian mình có được trong
lúc thật ra có thể cảm nhận tất cả những gì rất thật đang xãy ra chung
quanh và trước mắt mình.
Chúng ta với nếp sống đó, chỉ có thể là những Lưu Thần, Nguyễn
Triệu mà không hề biết rằng ai là người đã, đang và sẽ có mặt
trên con đường trầm luân sinh tử. Ðại khái chúng ta đang dạy khờ chơi một
ván bài may rủi. Ðời sống tĩnh lặng chỉ có được khi ta biết tự chủ và
từng giây phút sống tự tại, tỉnh thức. Tĩnh giác chi là một bóng cây cho
những khách đi đường bị nắng đốt. Nó là một sự chở che mang trọn
ý nghĩa vô tư, buông bỏ...
Pablo Neruda, Một nhà thơ Chi-Lê đã nói lên được phần nào những
điều vừa đề cập, qua bài thơ "Keeping quiet" của mình:
Nào, chúng mình sẽ đếm từ một đến mười hai
Rồi cùng giữ im lặng
Chỉ một lần thôi
Trên mặt đất nầy
Ðừng nói chi cả nha người
Dù bằng một thứ ngữ ngôn nào đó
Hãy ngưng lại mọi sự
Trong một phút giây thôi
Và cũng đừng động đậy đôi tay nhiều nữa
Ðó sẽ là một khoảnh khác diệu kỳ
Không có gì là vội vã hay nỗ lực
Chúng ta sẽ cùng nhau có mặt
Trong một thoáng chốc huyền hoặc
Người ngư phủ trên vùng biển lạnh
Bổng nhiên chùn tay không đánh bắt gì
Và người lỗ phu trên ruộng muối
Cũng quên đi, không nhìn tới vết thương trên tay
Rồi những người lính, Những người đã gây nên chiến tranh
Chiến tranh bằng khí độc và lữa đỏ
Chỉ vì những chiến thắng bạo tàn đẩm máu
Sẽ mặc lên mình những manh áo sạch
Rồi nhàn du với anh em của mình
Dưới những tàn cây
Không còn gì bận bịu...
Tôi không muốn người đời hiểu sai
sự buông bỏ đó
Vì người có hiểu không
Ðời sống thật ra
đúng như nó vẫn là!
Khi chúng ta không biết chuyên tâm
Ðể điều động nhiệp sống của chính mình
Và không có nổi một lần
Chẳng Làm Gì Cả
Thì có lẽ
Một sự câm lặng nặng nề
Sẽ phủ trùm lên
Nỗi buồn không hiểu được bản thân
Sự buông mình về cõi chết mù tăm
Trái đất có thể dạy ta học được nhiều điều
Khi giữa những mùa đông của cuộc đời
Nỗi sống chết của mọi loài được hiển hiện
Nào, bây giờ tôi sẽ đếm đến con số mười hai
Xin người hãy lặng thinh
Và tôi xin được lên đường!
Sự tĩnh lặng nội tại là cả một hành trình có ý nghĩa chuyển hoá
đời sống của chúng ta qua nỗ lực chuyên tâm bất nhị, qua thái độ chấp
nhận tất cả những bất toàn của đời sống và một sự bằng lòng vô tư với
thực tại.
Ở những bước đầu tiên của đời sống thiền định, công phu của
chúng ta dù ít hay nhiều cũng còn bị chi phối, pha lẫn bởi những nỗ
lực nặng nề và toan tính chủ quan. Ðạt tới một trình độ cao hơn, ta sẽ
tự học được cái nghệ thuật tĩnh lặng bằng cách đặt mình ra ngoài
mọi xao động của các phức cảm. Lúc đó một cảnh giới nội tâm yên tĩnh,
bình hoà sẽ mở ra trước mắt ta. Ta sẽ đột nhiên cảm nhận rằng mọi tạp
loạn của đời sống vừa được đình chỉ quanh mình và nhờ vậy, cả thể
xác sinh lý nầy cũng sẽ trở nên nhẹ nhàng thoải mái hơn nhiều. Các
giác quan lúc nầy cũng thông hoạt, bén nhạy hơn để nắm bắt dễ dàng tất
cả đối tượng ngoại giới vừa xãy đến. Như vậy xem như ta đã có được
cái kinh nghiệm tìm thấy an lành, tịnh lạc từ nay sự ngơi nghỉ, buông xả
của nội tâm mà không hề cần tới những bôn ba phóng ngoại nữa.
Xả giác chi
Giác chi sau cùng của 7 giác chi chính là Xả giác chi. Một trong những hình
ảnh sống động nhất thường được dùng để nói về Xả giác chi là
một ngọn núi cao giữa trời đất. Ngọn núi vẫn cứ đứng đó khi nắng
lên, mưa xuống. Bao tuyết sương có đổ đầy lên. Ngọn núi cũng cứ
thế: Vô tâm và im lặng không phản ứng! Xả giác chi là một sức mạnh nội
tâm giúp ta có thể cảm nghiệm một cách bình tĩnh tất cả những
biến động của thân tâm và nó sẽ trở nên vững mạnh hơn khi ta biết
sống phơi mở không nắm chặt cũng không bị nhốt kín trong những âu lo và
ước muốn, dù trong đời sống thường ngày hay trong cả lúc thiền định.
Ðó là một thái độ sống bao dung theo nghĩa rộng nhất. Ta cẩn trọng đón
chào từng cảm giác của tâm sinh lý bằng một sự tự chủ trong từng chớp
mắt và liên tục nhìn ngắm chúng một cách khách quan. Có thấy khó thực
hiện điều nầy, ta vẫn cứ tiếp tục. Một lúc nào đó mọi
việc sẽ ổn cả thôi.
Một Xả giác chi khi được thành tựu sẽ cho ta một cảm giác nội tâm bất
động và vô can trước bất cứ kinh nghiệm nào của bản thân. Có một từ
ngữ đặc biệt để gọi trạng thái đó, là "Sự an nhiên của
người hiền sĩ". Sự an nhiên nầy cho phép bậc hành giả dấn bước vào
chốn tuyệt cùng của tất cả nổi đau đớn kể cả sự chết, mà không
hề biết tới sợ hãi. Trình độ an nhiên sâu sắc nầy sẽ có được khi
ta biết tách mình ra khỏi những gì mình đang cảm nhận. Có gia công khám
phá tính phù du và nhạt nhẻo của từng khía cạnh đời sống, ta mới thật sự
bắt đầu thấm thía bản chất của mỗi thái độ xử lý mà chúng ta vẫn
dùng để phản ứng trước các đối tượng ngoại giới. Tất cả những tâm
tư tình cảm tốt xấu, từ cái đam mê đến nổi sợ hãi, kể cả tấm
thân sinh lý nầy của ta, đều là những gì tạm bợ và thật buồn cười
nếu cứ nhắm mắt nhũ lòng bằng những ảo tưởng "tôi, cho tôi, của
tôi...". Chính kinh nghiệm giản đơn nầy sẽ mang lại cho hành giả một
sự an nhiên và tự do sâu sắc.
Người ta thường hiểu lầm rằng đời sống thiền định sẽ làm nội
tâm hành giả trở nên trơ lì, chai sạn và vô cảm. Thực ra, bất cứ giá trị
nào của tinh thần có được từ thiền định, chẳng hạn Xả giác chi ở
đây, đều là những năng lực hết sức tích cực đủ để xây dựng
nên những tâm hồn vĩ đại như thánh Gandhi hay bà phước Teresa của Ấn
Ðộ, vô ngại trước mọi thử thách ghê gớm nhất của đời sống lợi tha và
tỉnh thức.
Người ta kể lại rằng tại Triều Tiên (Ðại Hàn) vào thời chiến
tranh có một viên tướng rất tàn bạo, luôn sẵn sàng phá hủy hết tất cả
những gì bắt gặp trên đường hành quân. Nghe tới tên ông, dân chúng mọi
miền chỉ còn cách bỏ trốn vào núi rừng để mong được an thân. Lần
đó, đến một thành phố gần như đã hoang vắng, ông cho lính lùng sục
khắp nơi để tìm của, tìm người. Một toán lính đã quay lại báo cáo cho
ông biết rằng toàn thành phố bây giờ đã không còn ai nữa trừ một
thiền sư vẫn tiếp tục ở lại trong một tu viện. Viên tướng nghe
xong, tức tốc đến tận nơi, rút kiếm, thét vào mặt nhà sư đó:
- Ông có biết ta là ai không hả? Ta có thể xén ngang thân mình ông
trong nháy mắt đấy biết chứ?
Nãy giờ vẫn ngồi yên lặng nhìn lên bệ Phật, vị thiền sư nhẹ
nhàng quay mình nhìn lại, và ngài nói bằng một giọng từ tốn:
- Còn ta, ta biết mình có thể bị xén ngang thân mình bất cứ lúc
nào!
Chẳng biết viên tướng suy nghĩ thế nào, ông lại cuối đầu kính
cẩn trước vị thiền sư rồi ra đi.
Xả giác chi là một giá trị tinh thần khi được phát triển có thể
giúp hành giả đạt tới khả năng đối cảnh mà vẫn vô hại (nói một cách
khôi hài mà cũng dễ hiểu là "bắt cảnh mà không bị cảnh bắt!").
Phát hiện được năng lực nội tại nầy là cả một nguồn an lạc to tác
cho công phu thiền định vậy.
Ðức Phật nói tới Thất giác chi như những thành quả và giai đoạn tinh
thần dẫn tới cứu cánh giác ngộ. Qua những thời gian công phu thích ứng, ở
một môi trường nào đó, ta sẽ cảm nhận được sự hiện diện của
chúng ngay trong chính mình bằng cách tiếp thụ những sức mạnh nội tâm của
bản thân mà chúng mang lại. Khi những âu lo, toan tính tiềm tàng trong các
phản ứng tâm lý cùng những hổn loạn nội tại được lắng dịu, ta sẽ bắt
đầu thấy được bản chất thật sự của mình thông qua những ước muốn và ngộ
nhận. Bởi vì sự thể nhập trọn vẹn bảy giác chi luôn được thể
hiện qua một tỉnh thức cao độ về thế giới thực tại. Và quá trình
trưởng dưỡng bảy giác chi cũng giống như công phu gieo trồng, chăm sóc một
cội cây hay khóm hoa vậy. Chuyện không thể tức thời hoàn tất trong
đầu hôm sớm mai, mà ta phải luôn kiểm tra để kịp thời xử sự một
cách hiệu quả. Hãy nhớ rằng đời sống tỉnh thức thực ra không dễ thực
hiện lắm đâu!
Quả là rất kỳ tuyệt nếu Thất giác chi được thành tựu và hiển
hiện qua nhân cách sinh hoạt của mỗi người. Lúc đó chúng ta sẽ là
những vị Phật, những bậc thánh Nguyễn văn... Trần thị, những ông thánh
Robert, John, Smith! - Dù là ai đi nữa ở bất cứ nơi đâu và lúc nào, khi
biết sống tỉnh thức với sự gia trì của Thất giác chi thì cũng đều
cảm nhận được sự tự do và an lạc như nhau. Có nhiều con đường dẫn tới
cứu cánh giải thoát cho chúng ta. Ta đừng để mình bị đánh lừa bởi bất
cứ hình thức ngoại diện nào, bởi điều nầy thực sự không quan
trọng, cho dù đó là một truyền thống tín ngưỡng vẫn thường được
ái mộ hay bị thành kiến. Hình thức nào cũng là tốt cả: từ màu áo của
thiền tông đến những nghi lễ của Ấn Giáo, những thần chú của Mật
Tông hay những vũ điệu tế thần của Hồi Giáo... miễn sao trong những
hình thức đó chứa đựng được nội dung Thất Giác Chi!
Giá trị của công phu Thất giác chi là giúp hành giả khai phá tất cả ảo
tưởng vọng chấp và đáo đạt cái sự thật sâu thẳm nhất trong chính
mình. Những gì vẫn bị che lấp sẽ được phơi bày và chúng ta sẽ có được
một nếp sống hài hoà, rộng mở, trong sáng, tự do.
J.K
Bài thực tập
Ðời sống tỉnh thức qua Thất Giác Chi
Theo lối trình bày của giáo lý truyền thống, pháp môn Thất giác chi
có vẻ như được trau dồi theo tính cách thời đoạn thứ lớp. Nhưng ở đây,
trong công phu thực tế, tự hành giả có thể sống tỉnh thức với sự có
mặt của cùng lúc bảy giác chi trong phút giây thiền tọa. Chúng ta có
thể dành ra một thời gian nhất định nào đó để kiểm tra chúng
trong chính thâm tâm của mình. Ðiều quan trọng là hành giả phải
biết khách quan và bình tĩnh để nhìn ngắm chúng thật sự đang mạnh
hay yếu, ngay khi chúng vừa sanh khởi, để biết được cái nào cần
bổ sung, gia giảm. Ðặc biệt là đối với ba giác chi mang tính tĩnh: Ðịnh
giác chi, Tỉnh giác chi và Xả giác chi.
Hãy chú ý lưu tâm đến những giác chi đang quá sung mãn bởi vì
động lực thúc đẩy của chúng rất phức tạp. Chỉ cần vài tuần trực diện,
ta sẽ hiểu được tại sao có khi chúng bất chợt trở nên thế nầy
thế khác thôi. Nhất là phát hiện ra những gì ngăn trở chúng, và bên
cạnh đó là sự dụng công tìm lấy một biện pháp hữu hiệu để
trưởng dưỡng từng giác chi trong cuộc tu thường nhật của mình.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |