TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 34
JĀTAKAPĀLI
- BỔN SANH tập III
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
5283. Xưa, đức vua của xứ sở Videha là vị Sát-đế-lỵ tên Aṅgāti, có nhiều cỗ xe lớn, có tài sản, có lực lượng quân đội vô số kể.
5284. Và vào đêm rằm Komudī thuộc tháng thứ tư của mùa mưa, khi canh đầu chưa tàn, đức vua đã triệu tập các quan đại thần (gồm có):
5285. Vijaya, Sunāma, và vị tướng lãnh quân đội Alāta, là các bậc sáng suốt, có nụ cười lúc gặp gỡ, khôn ngoan.
5286. Đức vua xứ Videha đã hỏi các vị quan đại thần ấy rằng: “Các khanh, từng người một, hãy nói về ý thích của cá nhân. Hôm nay là đêm rằm Komudī thuộc tháng thứ tư của mùa mưa, trăng sáng, bóng tối bị xua tan, chúng ta có thể trải qua đêm ở tiết trời này với sự thích thú sanh lên từ cơ thể.”
5287. Sau đó, Alāta, tướng quân của đức vua, đã nói điều này: “Chúng ta hãy vũ trang quân đội để tất cả trở nên hăng hái, thiện chiến, và mạnh mẽ.
5288. Tâu bệ hạ, chúng ta hãy xuất phát lực lượng quân đội vô số kể vào chiến trường. Những kẻ nào không phục tòng quyền lực của bệ hạ, chúng ta hãy khép họ vào quyền lực, chúng ta hãy khuất phục xứ sở chưa được thu phục; điều ấy là quan điểm riêng của hạ thần.”
5289. Sau khi nghe lời nói của Alāta, vị Sunāma đã nói điều này: “Tâu đại vương, tất cả những kẻ thù đều đã phục tòng quyền lực của bệ hạ.
5290. Những kẻ chống lại đã bỏ gươm đao xuống chấp nhận việc đầu hàng. Hôm nay là ngày lễ quan trọng nhất, việc đánh nhau không được thích thú đối với hạ thần.
5291. Hãy cho mọi người cấp tốc mang lại cơm, nước, thức ăn. Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy vui thích với các dục ở điệu vũ, lời ca, và tấu nhạc du dương.”
5292. Sau khi nghe lời nói của Sunāma, vị Vijaya đã nói điều này: “Tâu đại vương, tất cả các dục thường xuyên sẵn sàng đối với bệ hạ.
5293. Tâu bệ hạ, bởi vì các dục ấy không khó đạt được đối với bệ hạ khi bệ hạ có ý muốn vui thích với các dục. Mặc dầu các dục luôn luôn được đạt đến, nhưng điều ấy không phải là suy nghĩ trong tâm của hạ thần.
5294. Chúng ta nên đi đến hầu cận vị Sa-môn hay là Bà-la-môn có kiến thức rộng, có sự hiểu biết về ý nghĩa và giáo lý, có sự suy xét, là vị có thể xua tan nỗi hoài nghi của chúng ta trong ngày hôm nay.”
5295. Sau khi nghe lời nói của Vijaya, đức vua Aṅgāti đã nói rằng: “Giống như Vijaya nói, chính điều này cũng được trẫm thích thú.
5296. Chúng ta nên đi đến hầu cận vị Sa-môn hay là Bà-la-môn có kiến thức rộng, có sự hiểu biết về ý nghĩa và giáo lý, có sự suy xét, là vị có thể xua tan nỗi hoài nghi của chúng ta trong ngày hôm nay.
5297. Tất cả các khanh đang hiện diện hãy suy nghĩ xem chúng ta nên đi đến hầu cận bậc sáng suốt nào? Vị nào có sự hiểu biết về ý nghĩa và giáo lý, có sự suy xét, có thể xua tan nỗi hoài nghi của chúng ta trong ngày hôm nay?”
5298. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ Videha, vị Alāta đã nói điều này: “Ở Migadāya có vị đạo sĩ lõa thể được công nhận là sáng trí về ý nghĩa.
5299. Vị Guṇa này thuộc dòng họ Kassapa, có kiến thức, có sự thuyết giảng lưu loát, có đồ chúng. Tâu bệ hạ, sau khi đi đến hầu cận vị ấy, vị ấy sẽ xua tan nỗi hoài nghi của chúng ta.”
5300. Sau khi nghe lời nói của vị Alāta, đức vua đã ra lệnh cho người đánh xe: “Chúng ta sẽ đi đến Migadāya. Khanh hãy đưa cỗ xe đã thắng ngựa đến đây.”
5301. Bọn họ đã thắng ngựa vào cỗ xe của đức vua được làm bằng ngà voi, có đường viền quanh bằng bạc, có các đồ phụ tùng sạch sẽ bóng láng, có màu trắng tựa như ánh sáng mặt trăng.
5302. Tại nơi ấy, đã có bốn con ngựa dòng Sindhu màu hoa súng trắng, đã được nai nịt, có tốc độ tương tự như làn gió, đã khéo được huấn luyện, có đeo vòng hoa bằng vàng.
5303. Cỗ xe màu trắng, có chiếc lọng màu trắng, có ngựa màu trắng, có quạt màu trắng. Đức vua xứ Videha, trong khi khởi hành cùng với các quan đại thần, tỏa sáng tựa như mặt trăng.
5304. Nhiều người đã đi theo sau vị chúa tể cao quý của loài người, các dũng sĩ mang gươm giáo, các bậc sáng trí ngồi ở lưng ngựa.
5305. Sau khi đã ra đi chỉ trong chốc lát, vị Sát-đế-lỵ xứ Videha ấy đã bước xuống xe, cùng với các quan đại thần đi bộ đến gặp đạo sĩ lõa thể Guṇa.
5306. Tại nơi ấy, vào lúc ấy, các Bà-la-môn và các gia chủ cũng đã tụ hội lại. Đức vua đã không ra lệnh dời đi những người ấy, những người đã đi đến làm cho khu đất không còn chỗ trống.
5307. Sau đó, vị vua ấy đã ngồi xuống một bên, ở chiếc gối mềm, trên tấm nệm nhiều màu sắc mềm mại, ở nơi đã được trải ra bằng tấm thảm mềm.
5308. Đức vua đã ngồi xuống, sau đó đã vui vẻ trao đổi lời xã giao thân thiện: “Thưa ngài, phải chăng việc nuôi sống được thuận tiện, (tứ đại được điều hòa) không bị quấy rối bởi các cơn gió?
5309. Phải chăng cuộc sống không gặp khó khăn, việc chu cấp đồ ăn khất thực nhận được đầy đủ? Phải chăng ngài ít bị bệnh, mắt không bị yếu?”
5310. Vị đạo sĩ lõa thể Guṇa đã vui vẻ đáp lại đức vua xứ Videha ấy, người thích thú trong việc rèn luyện: “Tâu đại vương, việc nuôi sống được thuận tiện, mọi việc ấy, luôn cả hai việc kia (đồ ăn khất thực và thị lực), đều tốt đẹp.
5311. Tâu đức vua xứ Videha, phải chăng các xứ lân bang của bệ hạ không gia tăng binh lực? Phải chăng bầy thú kéo xe của bệ hạ không có bệnh? Và phải chăng cỗ xe hoạt động tốt? Phải chăng các bệnh của bệ hạ không gây sự khó chịu ở cơ thể?”
5312. Được vui vẻ đáp lại, đức vua, đấng thủ lãnh xa binh, có lòng mong mỏi giáo pháp, khi ấy, đã không ngừng hỏi về ý nghĩa, về giáo lý, và về cách thức ứng xử rằng:
5313. “Thưa ngài Kassapa, con người nên thực hành đúng pháp đối với mẹ cha như thế nào? Nên thực hành đối với thầy dạy học như thế nào? Nên thực hành đối với vợ con như thế nào?
5314. Nên thực hành đối với các bậc trưởng thượng như thế nào? Đối với các Sa-môn và Bà-la-môn như thế nào? Và đối với binh lính như thế nào? Nên thực hành đối với dân chúng như thế nào?
5315. Người thực hành đúng pháp sau khi chết đi đến cảnh giới an vui như thế nào? Và một số người duy trì sai pháp rơi xuống địa ngục như thế nào?”
5316. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ Videha, vị đạo sĩ lõa thể Kassapa đã nói điều này: “Tâu đại vương, xin ngài hãy lắng nghe lời nói chân thật, không sái quấy của ta.
5317. Không có quả báo thiện ác cho người đã thực hành pháp. Tâu bệ hạ, không có đời sau, bởi vì người nào từ nơi ấy đi đến nơi này?
5318. Tâu bệ hạ, không có ông bà; từ đâu có mẹ, từ đâu có cha? Không có người gọi là thầy; ai sẽ thuần hóa kẻ không được thuần hóa?
5319. Các sinh linh đều bình đẳng và tương đương nhau, không có sự tôn kính người lớn hơn, không có sức mạnh hoặc sự tinh tấn, từ đâu có sự vươn lên của loài người? Bởi vì các sinh linh (có số phận) đã được định sẵn, giống như bánh lái của chiếc tàu (lèo lái chiếc tàu).
5320. Con người thọ nhận phần phải thọ nhận; trong trường hợp ấy, quả báo của bố thí từ đâu có? Tâu bệ hạ, không có quả báo của bố thí. Tâu bệ hạ, sự tinh tấn không có năng lực.
5321. Vật bố thí được trao ra bởi các kẻ ngu và được tiếp nhận bởi các bậc trí. Những kẻ ngu, không có quyền thế, bố thí đến các bậc trí, có ý nghĩ mình là người sáng suốt.
5322. Bảy uẩn này là trường tồn, không thể bị phá vỡ, không có sự xáo trộn. Bảy uẩn này là: lửa, đất, nước, gió, lạc, khổ, và sự sống. Tác nhân phá vỡ chúng không hiện hữu.
5323. Không có tác nhân nào tiêu diệt hoặc phá vỡ được chúng, hoặc chúng tự bị tiêu diệt, dầu chỉ là một uẩn nào đó. Các gươm đao xuyên qua ngay ở khoảng giữa của các uẩn.
5324. Kẻ nào mặc dầu đã nắm lấy và chặt đứt cái đầu của những người khác bằng cây gươm bén, cũng không cắt đứt được các uẩn ấy; trong trường hợp ấy, quả báo của tội ác từ đâu có?
5325. Tất cả được trong sạch trong khi luân hồi tám mươi bốn đại kiếp. Khi thời gian ấy chưa được trải qua, kẻ đã tự kiềm chế cũng không được trong sạch.
5326. Dầu đã thực hành nhiều điều tốt đẹp, họ vẫn không được trong sạch khi thời hạn chưa đến. Dầu cho đã làm nhiều việc ác, họ cũng không vượt quá thời hạn ấy.
5327. Sự trong sạch của chúng ta sẽ theo tuần tự trải qua tám mươi bốn kiếp. Chúng ta không vượt qua được số phận (đã ấn định), tựa như biển cả không vượt qua giới hạn của bờ cát.”
5328. Sau khi nghe lời nói của đạo sĩ lõa thể Kassapa, Alāta đã nói điều này: “Giống như lời đại đức nói, chính điều này cũng được tôi thích thú.
5329. Tôi cũng nhớ lại việc đã bị luân hồi của bản thân ở kiếp sống trước đây. Tôi đã là gã thợ săn, kẻ giết trâu bò, tên Piṅgala ở tại thành phố.
5330. Ở trong thành Bārāṇasī phồn thịnh, tôi cũng đã làm nhiều tội ác. Tôi đã giết chết nhiều mạng sống: trâu, heo, dê.
5331. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh ra ở nơi này, trong gia tộc giàu có của vị tướng lãnh quân đội. Đương nhiên không có quả báo ở tội ác, tôi đây đã không đi đến địa ngục.”
5332. Khi ấy, tại nơi này, có gã nô lệ tên Bījaka nghèo khó, khốn khổ. Trong khi hành trì ngày trai giới, gã đã đi đến nơi ở của đạo sĩ lõa thể Guṇa.
5333. Sau khi nghe lời nói của đạo sĩ lõa thể Kassapa và lời đáp lại của Alāta, trong khi liên tiếp thở dài bực bội, trong khi khóc lóc, gã đã để trào ra những giọt nước mắt.
5334. Đức vua xứ Videha đã hỏi gã ấy rằng: “Này khanh, vì lý do gì mà ngươi khóc lóc? Điều gì đã được ngươi nghe hoặc thấy? Ngươi hãy cho trẫm biết cảm thọ ra sao?”
5335. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ Videha, Bījaka đã nói điều này: “Không có cảm thọ khổ đau đối với thần. Tâu đại vương, xin ngài hãy lắng nghe thần.
5336. Thần cũng nhớ lại sự sung sướng của bản thân ở kiếp sống trước đây. Thần đã là triệu phú gia Bhāvaseṭṭhi ở thành Sāketa, thích thú trong việc công đức.
5337. Thần trong sạch, thích thú việc san sẻ, được các vị Bà-la-môn và các phú gia ca ngợi. Thần nhớ lại bản thân cũng đã không làm nghiệp ác.
5338. Từ nơi ấy chết đi, tâu đức vua xứ Videha, thần đã bị sanh vào bào thai của một phụ nữ nghèo khổ là người nữ tỳ đội nước. Từ khi được sanh ra, thần đã lâm cảnh vô cùng khó khăn.
5339. Mặc dầu bị lâm cảnh khó khăn như vậy, thần đã quyết tâm hạnh sống bình đẳng. Thần bố thí một nửa phần bữa ăn của thần đến người nào thích.
5340. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, thần luôn luôn hành trì trai giới. Thần cũng không hãm hại các sanh linh và cũng đã lánh xa việc trộm cắp.
5341. Bởi vì, chắc chắn rằng toàn bộ tất cả việc thực hành tốt đẹp ấy là không có quả báo. Thần nghĩ rằng giới hạnh này không có lợi ích, giống như tướng quân Alāta nói.
5342. Có lẽ thần gặp phải vận xấu, giống như kẻ bịp bợm không rành nghề. Còn tướng quân Alāta nắm được sự may mắn, giống như kẻ chơi trò đổ xúc xắc đã được huấn luyện.
5343. Thần không nhìn thấy cánh cửa để thần đi đến cảnh giới an vui. Vì thế, tâu bệ hạ, thần bật khóc sau khi nghe lời nói của vị đạo sĩ lõa thể Kassapa.”
5344. Sau khi nghe lời nói của Bījaka, đức vua Aṅgāti đã nói rằng: “Không có cánh cửa vào cảnh giới an vui, này Bījaka, ngươi hãy trông chờ số phận.
5345. Thật vậy, con người được nhận lãnh hạnh phúc hay khổ đau là do số phận. Tất cả đều có sự thanh tịnh thông qua luân hồi. Các khanh chớ vội vã về tương lai.
5346. Trước đây, trẫm cũng đã bị bận rộn về việc thiện, về các vị Bà-la-môn và các phú gia. Trong khi chỉ bảo việc phán xử, trẫm đã bỏ bê khoái lạc trong khoảng thời gian ấy.
5347. Thưa ngài đạo sĩ, chúng ta cũng có thể gặp lại nếu có sự gặp gỡ.” Nói xong lời này, đức vua xứ Videha đã quay về lại chỗ trú ngụ của mình.
5348. Sau đó, vào cuối đêm, đức vua Aṅgāti đã triệu tập các quan đại thần ở phòng hội và đã nói lời nói này:
5349. “Tại cung điện Candaka của trẫm, hãy để bọn họ luôn luôn cung cấp các dục cho trẫm. Và chớ để bọn họ đi đến về các việc riêng hay việc công.
5350. Vijaya, Sunāma, và vị tướng lãnh quân đội Alāta, ba vị đều thiện xảo về việc phán xử. Hãy để các vị ngồi giải quyết các công việc này.”
5351. Sau khi nói điều ấy, đức vua xứ Videha đã suy nghĩ nhiều về các dục, và không bị bận rộn về bất cứ công việc nào, cũng như về các vị Bà-la-môn và các phú gia nữa.
5352. Sau đó, vào đêm mười bốn, người con gái ruột yêu quý của đức vua xứ Videha, công chúa tên Rujā, đã nói với người nhũ mẫu rằng:
5353. “Hãy mau chóng trang điểm cho con. Và hãy bảo các nữ tỳ của con làm việc. Ngày mai là ngày mười lăm, ngày của chư Thiên, con có thể đi đến gặp vua cha.”
5354. Các nàng đã mang lại tràng hoa và trầm hương có giá trị cao, ngọc ma-ni, xà cừ, ngọc trai, ngọc quý, và các tấm vải có màu sắc khác nhau.
5355. Công chúa Rujā có sắc đẹp quyến rũ ấy đã ngồi xuống ở chiếc ghế làm bằng vàng. Nhiều người phụ nữ đã vây quanh và làm cho nàng chói sáng.
5356. Và nàng Rujā ấy, được tô điểm với mọi thứ trang sức, đi ở giữa các nữ tỳ, đã tiến vào cung điện Candaka, tựa như tia chớp ở bầu trời.
5357. Sau khi đi đến gần, công chúa Rujā, thích thú trong việc rèn luyện, đã đảnh lễ đức vua xứ Videha, rồi ngồi xuống một bên, ở chiếc ghế được khảm vàng.
5358. Và sau khi nhìn thấy công chúa Rujā ấy đứng ở giữa các nữ tỳ, tựa như cuộc hội họp của các tiên nữ, đức vua xứ Videha đã nói lời nói này:
5359. “Phải chăng con ưa thích hồ nước ở bên trong tòa lâu đài? Phải chăng thức ăn nhiều loại luôn luôn được mang đến cho con?
5360. Phải chăng những thiếu nữ các nàng thường hay ưa thích vui chơi đùa giỡn, đã thu thập tràng hoa nhiều loại rồi làm các căn nhà nhỏ riêng biệt?
5361. Hay là con thiếu thốn thứ gì? Hãy bảo bọn họ cấp tốc mang lại. Này cô gái có khuôn mặt trong sáng, con hãy suy nghĩ đi, cho dầu là vật khó khăn giống như mặt trăng.”
5362. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ Videha, công chúa Rujā đã nói với vua cha rằng: “Tâu đại vương, ở cạnh vị chúa tể, tất cả mọi thứ ấy đều được chu cấp.
5363. Ngày mai là ngày mười lăm, ngày của chư Thiên, hãy bảo bọn họ mang lại cho con một ngàn. Và với số tiền đã được cha cho, con sẽ ban bố vật thí đến những người hành khất.”
5364. Sau khi nghe lời nói của công chúa Rujā, đức vua Aṅgāti đã nói rằng: “Nhiều của cải bị tiêu tan không có lợi ích, không có quả báo do con.
5365. Trong khi hành trì ngày trai giới, con thường xuyên không thọ dụng cơm nước. Việc ấy là số phận, là không có thể thọ dụng. Không có phước báu cho người không thọ dụng.
5366. Bởi vì, ngay cả Bījaka, vào lúc ấy, sau khi nghe lời nói của đạo sĩ lõa thể Kassapa, trong khi liên tiếp thở dài bực bội, trong khi khóc lóc, đã để trào ra những giọt nước mắt.
5367. Này Rujā, cho đến khi nào con còn sống giữa chúng ta, chớ từ chối bữa ăn. Này con gái ngoan, không có đời sau, tại sao con lại khổ nhọc với việc không có lợi ích?”
5368. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ Videha, công chúa Rujā, có sắc đẹp quyến rũ, biết được sự việc quá khứ và vị lai, đã nói với vua cha điều này:
5369. “Điều này trước đây con đã được nghe và con đã được nhìn thấy tận mắt rằng: Người nào có sự thân cận với trẻ con thì trở nên giống như trẻ con.
5370. Thật vậy, kẻ ngu muội đi đến với kẻ ngu muội càng trở nên ngu si nhiều hơn. Alāta và Bījaka là thích đáng để bị trở thành ngu muội.
5371. Nhưng tâu bệ hạ, phụ vương là người có trí tuệ, thông minh, rành rẽ về điều lợi ích, tại sao phụ vương lại đi theo tà kiến thấp kém, như là những đứa trẻ con?
5372. Bởi vì, nếu một người được trong sạch thông qua con đường luân hồi, thì việc xuất gia của đạo sĩ lõa thể Guṇa là không có lợi ích. Kẻ ngu muội tìm đến trạng thái lõa thể, tựa như con thiêu thân đang lao vào ngọn lửa cháy sáng.
5373. Có nhiều kẻ trước đây tin vào tà kiến ‘có sự thanh tịnh thông qua luân hồi,’ rồi trở nên tồi bại ở hành động không có ý thức. Vận xấu trong quá khứ đã bị chúng bám víu một cách sai trái, khó thoát ra được, tựa như con cá nuốt phải mồi câu khó thoát khỏi lưỡi câu.
5374. Tâu đại vương, vì lợi ích của phụ thân, con sẽ nêu ví dụ cho phụ thân rõ. Trong trường hợp này, một số bậc sáng suốt hiểu được ý nghĩa thông qua ví dụ.
5375. Giống như chiếc thuyền của các thương buôn chuyên chở không hạn lượng, trở nên nặng nề; mang theo quá tải, con thuyền chìm xuống biển.
5376. Tương tự y như vậy, con người tích lũy việc ác từng chút từng chút một; sau khi mang theo quá nhiều tội ác, người ấy đọa vào địa ngục.
5377. Tâu vị chúa của trái đất, gánh nặng về tội ác của Alāta còn chưa đầy đủ. Và tùy theo tội ác mà ông ta tích lũy, ông ta sẽ đi đến cảnh giới khổ đau.
5378. Tâu vị chúa của trái đất, phước thiện của Alāta có thể đã được làm trong thời quá khứ, cái ấy có được kết quả cho ông ta, tâu bệ hạ, chính là việc ông ta đạt được sự sung sướng (trong thời hiện tại).
5379. Và phước báu ấy của ông ta đang bị cạn kiệt, bởi vì ông ta thích thú trong việc phi công đức như thế ấy. Sau khi bỏ rơi đạo lộ chân chánh, ông ta chạy theo đạo lộ sai trái.
5380. Giống như cái cân được giữ yên khi đĩa cân không có vật gì. Đầu cân ngóc lên khi có vật nặng được đặt vào đĩa cân.
5381. Tương tự y như vậy, con người tích lũy phước thiện từng chút từng chút một. Tựa như gã nô lệ Bījaka có sự chú tâm đến cõi Trời và thích thú về quả báo tốt lành (của thiện nghiệp).
5382. Và việc hôm nay gã nô lệ Bījaka nhìn thấy sự khổ sở ở bản thân là việc ác của gã đã làm trong thời quá khứ, và giờ đây gã nhận lãnh quả báo ấy.
5383. Và việc ác ấy của gã đang được cạn kiệt, bởi vì gã thích thú trong việc rèn luyện như thế ấy. Và sau khi đến với đạo sĩ lõa thể Kassapa, phụ vương chớ có bao giờ đi theo con đường sai trái.
5384. Bởi vì, tâu bệ hạ, khi hợp tác với người nào, là người tốt hay người xấu, có giới hạnh hay không có giới hạnh, ta sẽ chịu sự ảnh hưởng của chính người ấy.
5385. Khi kết bạn với người như thế nào, và thân cận với người như thế nào, ta đây cũng trở thành người như thế ấy; bởi vì sự cộng trú là như thế.
5386. Người được phục vụ làm ô nhiễm người đang phục vụ mình, người được tiếp xúc làm ô nhiễm người khác đang tiếp xúc với mình, ví như mũi tên tẩm độc làm ô nhiễm túi tên còn chưa bị nhiễm độc. Do nỗi sợ hãi sự ô nhiễm, bậc sáng trí không bao giờ có bạn bè xấu xa.
5387. Người nào bao bọc con cá thối bằng ngọn cỏ, các ngọn cỏ cũng toát ra mùi hôi thối; tương tự như vậy, do việc thân cận với những kẻ ngu dốt (sẽ bị tổn hại danh tiếng).
5388. Người nào bao bọc gỗ thơm bằng lá cây, các chiếc lá cũng tỏa ra mùi thơm; tương tự như vậy, do việc thân cận với các bậc sáng trí (sẽ đạt được tiếng tốt).
5389. Vì thế, sau khi biết được hậu quả dành cho bản thân tương tự như kết quả của chiếc lá và vật chứa đựng, người sáng suốt không nên hầu cận những kẻ ác nhân, nên thân cận các bậc thiện nhân. Những kẻ ác nhân dẫn lối vào địa ngục, các bậc thiện nhân giúp cho đạt được cảnh giới an vui.
5390. Con cũng nhớ lại việc đã bị luân hồi của bản thân trong bảy kiếp sống. Lìa đời từ nơi này, con đây sẽ đi đến bảy kiếp sống nữa ở thời vị lai.
5391. Tâu quân vương, vào kiếp sống thứ bảy của con trong thời quá khứ, con đã là con trai người thợ rèn ở thành phố Rājagaha thuộc xứ Magadha.
5392. Sau khi đi đến với người bạn xấu xa, con đã làm nhiều việc ác. Trong khi xâm phạm vợ của người khác, chúng con đã sống như là những người bất tử.
5393. Nghiệp ấy đã được tàng trữ và tồn tại, tựa như ngọn lửa bị vùi lấp bởi lớp tro. Rồi do những nghiệp khác, con đã sanh ra tại đất nước Vaṃsa,–
5394. –trong thành Kosambī, ở gia tộc triệu phú, giàu có, phồn thịnh, có tài sản lớn. Tâu đại vương, con là con trai độc nhất, thường xuyên được tôn vinh trân trọng.
5395. Tại nơi ấy, con đã thân cận người bạn, người cộng sự thích thú về quả báo tốt lành (của thiện nghiệp), là bậc sáng suốt, thành tựu về kiến thức. Vị ấy đã giúp con an trú vào việc lợi ích.
5396. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, con đã hành trì trai giới nhiều đêm. Nghiệp ấy đã được tàng trữ và tồn tại, tựa như của cải chôn giấu ở trong nước.
5397. Rồi quả báu của những nghiệp ác mà con đã làm ở xứ Magadha sau đó đã xoay vần đến với con, giống như đã ăn vào chất độc dữ dội.
5398. Lìa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, bởi nghiệp của chính mình, con đã bị nung nấu lâu dài ở địa ngục Roruva. Trong khi nhớ lại việc ấy, con không đạt được sự an lạc (ở tâm).
5399. Sau khi trải qua nhiều khổ đau ở nơi ấy một thời gian gồm nhiều năm, tâu bệ hạ, con đã là con dê đực bị thiến ở thành Bheṇṇākaṭa.
5400. Con đã chuyên chở những người con trai gia tộc quyền quý bằng lưng và bằng cỗ xe kéo. Kết quả của việc làm ấy là do việc con đã qua lại với vợ của người khác.
5401. Lìa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, con đã là con khi ở khu rừng rộng lớn, có tinh hoàn đã bị con khỉ đầu đàn tàn bạo cắn đứt. Kết quả của việc làm ấy là do việc con đã qua lại với vợ của người khác.
5402. Lìa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, con đã là con bò đực ở xứ sở Dasaṇṇa. Bị thiến, nhanh nhẹn, hiền thiện, con đã kéo cỗ xe thời gian dài. Kết quả của việc làm ấy là do việc con đã qua lại với vợ của người khác.
5403. Lìa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, con đã đi đến một gia đình danh giá ở xứ Vajjī. Con không phải là người nữ cũng không phải là người nam, khi bản thể con người là việc đạt được vô cùng khó khăn. Kết quả của việc làm ấy là do việc con đã qua lại với vợ của người khác.
5404. Lìa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, con đã sanh vào khu rừng Nandana ở cung trời Đạo Lợi. Con là tiên nữ có sắc đẹp theo như ước muốn.
5405. Con có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, thiện xảo về việc múa hát, là thị nữ của Thiên Vương Sakka.
5406. Trong khi tồn tại ở nơi ấy, tâu đức vua xứ Videha, con nhớ lại các kiếp sống này, luôn cả bảy kiếp sống ở thời vị lai mà con sẽ đi đến, sau khi lìa đời từ cõi Trời này.
5407. Thiện pháp mà con đã làm ở xứ Kosambī đã xoay vần đến với con. Lìa đời từ nơi này, con sẽ sanh về cõi Trời và cõi người.
5408. Trong bảy kiếp sống, tâu đại vương, con sẽ thường xuyên được tôn vinh trân trọng. Nhưng con cũng sẽ không thoát ra khỏi bản thể người nữ ở kiếp sống thứ sáu này.
5409. Và ở cảnh giới tái sanh thứ bảy, tâu bệ hạ, con sẽ là vị Thiên tử có đại thần lực, là vị Thiên nam tối thượng ở tập thể chư Thiên.
5410. Thậm chí hôm nay, sự nối tiếp đã được thực hiện; các tiên nữ ở khu rừng Nandana đang kết tràng hoa, và vị Thiên tử tên Java là người đang tiếp nhận tràng hoa cho con.
5411. Một phút chốc ấy ở cõi Trời như là mười sáu năm ở nơi này. Và một ngày đêm ấy ở cõi Trời là một trăm mùa thu ở cõi người.
5412. Các nghiệp theo đuổi (chúng ta) như thế dầu cho trải qua các kiếp sống vô số kể, bởi vì nghiệp thiện hay ác không bị tiêu hoại.
5413. Kẻ nào muốn trở thành người (nhân loại) liên tiếp từ kiếp sống này sang kiếp sống khác nên tránh xa vợ của người khác, tựa như kẻ có bàn chân đã được rửa sạch tránh xa vũng lầy.
5414. Nàng nào muốn trở thành người (nhân loại) liên tiếp từ kiếp sống này sang kiếp sống khác nên tôn kính chồng, tựa như các người hầu gái tôn kính Thiên Vương Inda.
5415. Kẻ nào muốn của cải Thiên đình, tuổi thọ thuộc cõi Trời, danh tiếng và hạnh phúc, nên tránh xa hẳn các việc ác và nên thực hành ba loại pháp:
5416. Là người không xao lãng về thân, về khẩu, về ý, là người khôn ngoan vì lợi ích của bản thân, dầu là người nữ hay là người nam.
5417. Bất cứ những người nào ở thế gian của cuộc sống, có danh tiếng, có đầy đủ mọi thứ của cải, chắc chắn trước đây đã thực hành tốt đẹp ba pháp ấy. Tất cả chúng sanh đều có nghiệp riêng của mình.
5418. Nào, tâu bệ hạ, xin phụ thân cũng hãy tự mình suy gẫm. Tâu vị chúa của loài người, duyên cớ nào phụ thân có những nữ nhân này? Những nữ nhân này của phụ thân trông giống như các tiên nữ, đã được trang điểm, đã được choàng lên những tấm lưới bằng vàng.”
5419. Công chúa Rujā, người con gái có sự hành trì tốt đẹp, đã làm vui lòng vua cha Aṅgāti, đã giải thích về đạo lộ, đã nói về thiện pháp cho người cha mê muội như vậy.
5420. Rồi Bồ Tát Nārada đã từ thế giới Phạm Thiên đi đến dòng giống loài người. Trong lúc xem xét xứ sở Jambudīpa, ngài đã nhìn thấy đức vua Aṅgāti.
5421. Sau đó, ngài đã ngự xuống tòa lâu đài, ở phía trước đức vua xứ Videha. Và sau khi nhìn thấy vị ấy đã đi đến, nàng Rujā đã đảnh lễ vị ẩn sĩ.
5422. Khi ấy, đức vua đã bước xuống từ chỗ ngồi, tâm trí bị kinh sợ. Trong lúc hỏi han vị Nārada, đức vua đã nói lời nói này:
5423. “Hỡi vị có sắc đẹp của Thiên nhân, từ đâu ngài đi đến, tựa như mặt trăng, đang chiếu sáng ban đêm? Được hỏi, xin ngài hãy nói cho trẫm biết tên họ. Ở thế giới nhân loại, mọi người nhận biết ngài như thế nào?”
5424. “Ta đi đến nơi này từ chư Thiên tựa như mặt trăng, đang chiếu sáng ban đêm. Được hỏi, ta nói cho bệ hạ biết tên họ. Mọi người nhận biết ta là Nārada và Kassapa.”
5425. “Điều như thế này có vẻ kỳ diệu thật đấy! Là việc ngài đi và đứng ở không trung. Thưa ngài Nārada, trẫm hỏi ngài về sự việc này, vậy bằng cách nào ngài có được thần thông này?”
5426. “Chân thật, thiện pháp, sự chế ngự (các giác quan), và thí xả, các đức tính này của ta đã được thực hành trong thời quá khứ. Với chính những pháp ấy đã khéo được rèn luyện, ta di chuyển theo như ước muốn với tốc độ của ý.”
5427. “Ngài nói việc kỳ diệu là sự thành tựu của phước báu. Nếu thật sự những pháp này là đúng như ngài nói, thưa ngài Nārada, trẫm hỏi ngài về sự việc này. Và được trẫm hỏi, xin ngài hãy trả lời cặn kẽ.”
5428. “Tâu đấng hộ quốc, ngài có sự hoài nghi về bất cứ điều nào, tâu bệ hạ, xin ngài hãy hỏi bần đạo; việc ấy có lợi ích cho bệ hạ. Bần đạo sẽ giúp bệ hạ hết nỗi hoài nghi bằng những lý luận, bằng những lập luận, và bằng những chứng cớ.”
5429. “Thưa ngài Nārada, trẫm hỏi ngài về sự việc này. Và được trẫm hỏi, thưa ngài Nārada, ngài chớ nói lời dối trá. Có thật là có chư Thiên, có thật là có tổ tiên, có thật là có đời sau, mà người đời đã nói?”
5430. “Thật sự có chư Thiên, có tổ tiên, và có đời sau, mà người đời đã nói. Bị thèm khát các dục, loài người trở nên mê muội, bị gắn liền với sự si mê, chúng không biết về đời sau.”
5431. “Thưa ngài Nārada, nếu ngài tin rằng ‘có,’ về chỗ nương náu ở đời sau cho những người đã chết, thì ngay ở tại nơi này, ngài hãy trao cho trẫm năm trăm tiền, trẫm sẽ trao lại cho ngài một ngàn ở đời sống sau.”
5432. “Quả thật chúng tôi có thể trao cho bệ hạ năm trăm tiền, nếu chúng tôi có thể biết được bệ hạ là có giới hạnh, rộng lượng. (Nếu như) bệ hạ là kẻ hung bạo đang sống ở địa ngục, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5433. Ngay ở tại nơi này, người nào có bản chất không đàng hoàng, có nết hạnh xấu xa, lười biếng, có hành động tàn bạo, những người sáng suốt không cho kẻ ấy vay nợ, bởi vì không có sự hoàn lại (nợ đã vay) từ hạng người như thế ấy.
5434. Và mọi người, sau khi biết được người tài giỏi, năng động, có giới hạnh, rộng lượng, đích thân họ mời mọc bằng của cải, (bởi vì) người ấy sẽ mang trả lại sau khi làm xong công việc.
5435. Tâu bệ hạ, từ nơi này ra đi, ngài sẽ nhìn thấy ở nơi ấy, bản thân kẻ ấy trong khi sống ở địa ngục, bị lôi kéo bởi bầy quạ đen, bị xâu xé bởi những con quạ, bởi những con chim kên kên, và bởi những con diều hâu, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5436. Tại nơi ấy, tối tăm mù mịt, không có mặt trăng và mặt trời, địa ngục luôn luôn tối đen, có dáng vẻ ghê rợn, ban đêm và ban ngày hoàn toàn không được nhận biết, người nào có thể lai vãng ở nơi như thế ấy vì mục đích tài sản?
5437. (Tại nơi ấy,) hai con chó Sabala và Sāma có thân thể đã được phát triển, có sức mạnh, to lớn. Bằng những chiếc răng bằng sắt, chúng nghiến ngấu kẻ đã bị lìa trần từ nơi (cõi người) này đi đến thế giới khác (địa ngục).
5438. Kẻ ấy, trong khi sống ở địa ngục, bị ngấu nghiến bởi những con thú hung bạo, dữ tợn, và nguy hiểm, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5439. Bằng những mũi tên, bằng những cây giáo vô cùng bén nhọn, những kẻ đối địch, các Kāḷūpakāḷa (quan canh giữ địa ngục Kāḷūpakāḷa) ở địa ngục ghê rợn, đánh đập và đâm xuyên người đã làm hành động tồi tệ trong thời quá khứ.
5440. Kẻ ấy, trong khi bị đánh đập, trong khi di chuyển ở địa ngục, có bao tử bị mở toang ở bụng, ở bên hông, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5441. Tại nơi ấy, trời đổ mưa nhiều loại vũ khí: các cây giáo, các mũi tên, các gậy mũi nhọn, các cây chĩa ba. Các loại vũ khí rơi xuống có ngọn lửa tựa như than hừng. Trời đổ mưa các khối đá cháy rực xuống những kẻ đã tạo nghiệp hung bạo.
5442. Và có ngọn gió nóng khó chịu ở địa ngục. Thậm chí chút ít sung sướng cũng không được thọ nhận ở nơi ấy. Chính kẻ ấy, trong khi đang chạy tứ tung, không nơi trú ẩn, bị tật bệnh, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5443. Trong khi kẻ ấy, bị máng vào những cỗ xe, đang phóng chạy, đang bước đi ở mặt đất có trạng thái bốc lửa, đang bị thúc giục bởi những cây gậy nhọn, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5444. Trong khi kẻ ấy đang trèo lên ngọn núi khủng khiếp được cắm đầy những lưỡi dao cạo, đã bị bốc cháy, tạo ra sự sợ hãi, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5445. Trong khi kẻ ấy đang trèo lên đống than hừng tương tự như ngọn núi, bị cháy rực, tạo ra sự sợ hãi, có cơ thể bị thiêu đốt hoàn toàn, khốn khổ, đang khóc lóc, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5446. Có những thân cây cao bằng chóp đỉnh của đám mây, được chồng chất những gai nhọn sắc bén làm bằng sắt, chuyên hút máu người.
5447. Bị thúc giục bởi những quỷ sứ thi hành lệnh của Diêm Vương có cây giáo cầm ở tay, những người đàn bà và những người đàn ông đi lại với vợ của người khác trèo lên thân cây ấy.
5448. Trong khi trèo lên cây bông vải ở địa ngục, kẻ ấy bị lấm lem bởi máu, có thân thể bị đốt cháy, da bị lột, bị tật bệnh, có cảm thọ khủng khiếp.
5449. Trong khi kẻ có tội lỗi ở nghiệp quá khứ liên tiếp thở dài bực bội, có trạng thái bám víu ở chạng ba trên đỉnh ngọn cây, thì người nào có thể đòi hỏi phần tài sản ấy?
5450. Có những thân cây cao bằng chóp đỉnh của đám mây, được che phủ với tàng lá cây là những thanh gươm sắc bén làm bằng sắt, chuyên hút máu người.
5451. Khi kẻ ấy đến được thân cây có tàng lá là những thanh giươm, trong khi đang bị cắt đứt bởi những thanh gươm sắc bén, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, thì người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác?
5452. Sau đó, khi vừa thoát ra khỏi nỗi khổ đau từ địa ngục lá gươm, kẻ ấy bị rơi vào dòng sông Vetaraṇī, thì người nào có thể đòi hỏi phần tài sản ấy?
5453. Dòng sông Vetaraṇī thô tháo trôi chảy, với nước có chất kiềm, nóng bỏng, khó vượt qua, được bao phủ bởi những đóa hoa sen bằng sắt có các cánh sen sắc bén.
5454. Tại đó, trong khi kẻ ấy, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, bị lấm lem bởi máu, đang bị cuốn trôi ở dòng sông Vetaraṇī không chỗ bám víu, thì người nào có thể đòi hỏi phần tài sản ấy?”
5455. “Trẫm run rẩy tựa như thân cây bị chặt đứt. Trẫm không còn biết được phương hướng, sự nhận biết đã bị mê muội. Trẫm ăn năn vì sợ hãi, và trẫm có nỗi sợ hãi lớn lao sau khi lắng nghe những câu kệ đã được ngài nói ra, thưa vị ẩn sĩ.
5456. Tựa như (nơi trú ẩn) ở giữa dòng nước vào thời điểm bị đốt nóng, tựa như hòn đảo trong cơn lũ ở biển khơi, tựa như ngọn đèn ở trong đêm tối, ngài là nơi nương nhờ của chúng tôi, thưa vị ẩn sĩ.
5457. Thưa vị ẩn sĩ, ngài hãy chỉ dạy điều lợi ích và thiện pháp cho trẫm. Chắc chắn rằng trong quá khứ, trẫm đã phạm tội lỗi. Thưa ngài Nārada, xin ngài hãy nói với trẫm về đạo lộ trong sạch để cho trẫm có thế không còn rơi vào địa ngục.”
5458. “Giống như các vị vua Dhataraṭṭha, Vessāmitta, Aṭṭhaka, Yāmataggi, luôn cả Usinnara, và đức vua Sivi đã là những người hầu cận của các Sa-môn và Bà-la-môn.
5459. Các vị này và những vị vua khác đã đi đến Thiên giới của Chúa Trời Sakka. Tâu vị chúa của trái đất, bệ hạ hãy tránh xa tà pháp và hãy thực hành thiện pháp.
5460. Hãy cho người cầm thức ăn ở tay tại cung điện của bệ hạ, và cho người thông báo ở trong thành phố của bệ hạ rằng: ‘Ai đói, ai khát, ai cần tràng hoa, ai cần dầu thoa, trong số các tấm vải vóc nhiều màu sắc khác nhau, ai lõa lồ sẽ (nhận lấy chúng để) mặc vào?’
5461. Ai nhận lấy ô dù và giày dép mềm mại, thanh lịch cho việc đi đường?’ Hãy cho người thông báo như vậy vào buổi sáng và buổi tối ở trong thành phố của bệ hạ.
5462. Chớ giao phó cho người già, cho trâu bò và ngựa đã già yếu công việc giống như trước đây. Bệ hạ nên ban bố sự chăm sóc, bởi vì việc phục vụ (của người ấy, của con thú ấy) đã được hoàn tất khi còn có sức mạnh.
5463. Thân thể của bệ hạ được xem như là cỗ xe, tâm ý nhẹ nhàng là người đánh xe, sự không hãm hại là trục xe được xoay chuyển, sự san sẻ bố thí là trần xe.
5464. Sự kiềm chế bước chân là vành bánh xe, sự kiềm chế bàn tay là khung xe, sự kiềm chế cái bụng (ăn uống có tiết độ) là bên trong ổ trục (có dầu nhớt), sự kiềm chế lời nói là sự không ầm ĩ (của cỗ xe).
5465. Lời nói chân thật là các bộ phận của cỗ xe được đầy đủ, việc không nói đâm thọc là cỗ xe được điều khiển tốt đẹp, lời nói tử tế là các bộ phận của cỗ xe được hoàn hảo, sự nói lời thân thiện là cỗ xe được kết nối chắc chắn.
5466. Khéo được kiến tạo với đức tin và đức tánh vô tham, sự khiêm tốn và hành động chắp tay là gọng xe, không ương ngạnh và không luồn cúi là càng xe, sự gìn giữ giới hạnh là sự ràng buộc (cỗ xe được chặt chẽ).
5467. Sự không giận dữ là cỗ xe không có sự rung rinh, mười thiện pháp là chiếc lọng che màu trắng, kiến thức rộng là tấm ván tựa lưng, tâm kiên cố là tấm khăn phủ ở chỗ ngồi.
5468. Trạng thái biết được thời điểm là điều cốt yếu của tâm, sự tự tin là cây chống ba chân, thái độ khiêm tốn là sợi dây buộc, sự không ngã mạn thái quá là cái ách được nhẹ bỗng.
5469. Tâm không bị lui sụt là tấm thảm trải, sự tập luyện được tiến bộ (về tuệ) là đã được quét sạch bụi, bậc sáng suốt có niệm là cây gậy thúc, sự kiên trì và gắn bó (vào pháp tu tập) là các sợi dây cương.
5470. Tâm đã được thuần phục đi theo đúng đường lối như là cỗ xe được kéo bởi những con ngựa đã được thuần phục ổn định. Mong muốn và tham lam là con đường sái quấy, sự tự kiềm chế là con đường ngay thẳng.
5471. Khi cỗ xe đang lao theo các sắc, các thinh, các vị, các hương, trí tuệ là sự trừng trị răn đe. Tâu bệ hạ, trong trường hợp ấy, chính bản thân là người đánh xe.
5472. Nếu có sự thực hành ổn định, vững chắc, kiên quyết với cỗ xe này, tâu bệ hạ, cỗ xe (thân thể) này đem lại mọi điều ước muốn, chắc chắn không thể đi đến địa ngục.”
5473. “Devadatta đã là Alāta, vị Bhaddaji đã là Sunāma, vị Sāriputta đã là Vijaya, vị Moggallāna đã là Bījaka.
5474. Sunakkhatta, người con trai xứ Licchavi, đã là đạo sĩ lõa thể Guṇa, vị Ānanda đã là công chúa Rujā, cô con gái đã cải hóa vua cha.
5475. Uruvelakassapa khi ấy đã là vị vua có tà kiến xấu xa, và đức Bồ Tát là vị Đại Phạm Thiên. Các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh này như vậy.”
Đại Bổn Sanh Nāradakassapa. [544]
[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09[10]
[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]