TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 34
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập III
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
 

XXII. MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN

 

10. BỔN SANH VESSANTARA VĨ ĐẠI

 

6112. “Hỡi nàng Phusatī, hỡi nàng có ánh sáng ở làn da cao quý, nàng hãy lựa chọn mười điều ân huệ, điều nào mà tâm ý của nàng yêu quý ở trái đất, hỡi nàng có đôi chân đẹp.”

 

6113. “Tâu Thiên Vương, xin kính lễ ngài! Thiếp đã gây nên tội lỗi gì, mà ngài lưu đày thiếp khỏi nơi chốn đáng yêu, tựa như làn gió thổi rạp cây cối?”

 

6114. “Chẳng những nàng đã không gây nên tội lỗi, và chẳng phải nàng không còn được trẫm yêu thương, trẫm nói với nàng như vậy bởi vì phước báu của nàng đã bị cạn kiệt.

 

6115. Cái chết của nàng ở gần kề; sự chia lìa sẽ xảy đến. Nàng hãy chọn lấy mười điều ân huệ này của trẫm đang ban cho nàng.”

 

6116. “Tâu Thiên Chủ Sakka, tâu vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho thiếp điều ân huệ, tâu bậc tôn đức, mong rằng thiếp sẽ hiện hữu tại nơi ấy, ở chỗ trú ngụ của đức vua Sivi.

 

6117. Tâu bậc đã bố thí trước đây, mong rằng thiếp sẽ có cặp mắt xanh đen, có lông mày xanh đen, và có tròng mắt xanh đen giống như con nai cái nhỏ, và sẽ hiện hữu tại nơi ấy với tên là Phusatī.

 

6118. Mong rằng thiếp có được đứa con trai, (và con trai của thiếp sẽ) là người bố thí vật cao quý, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, không có bỏn xẻn, được tôn vinh bởi các vị vua đối nghịch, có tiếng tăm, có danh vọng.

 

6119. Trong khi thiếp đang mang thai, mong rằng phần thân giữa không bị lồi lên, cái bụng không bị nhô lên, tựa như cây cung được bào đẽo bằng phẳng.

 

6120. Thưa vị chúa của chư Thiên, mong rằng bộ ngực của thiếp không trễ xuống, các sợi tóc bạc không xuất hiện, bụi bặm không làm bẩn cơ thể, và thiếp còn có thể phóng thích kẻ tử tù.

 

6121. Ở nơi có tiếng kêu của chim công, chim cò, ở nơi có các nhóm phụ nữ cao quý tụ tập, được đông đúc với những người hầu cận dưới quyền, được ca ngợi bởi các thi sĩ và những người dân xứ Magadha,–

 

6122. –ở nơi vang lên tiếng các chốt cửa nhiều màu sắc, ở nơi được mời mọc thưởng thức rượu thịt, tâu bậc tôn đức, mong rằng thiếp sẽ trở thành chánh cung hoàng hậu ở tại nơi ấy của đức vua Sivi.”

 

6123. “Hỡi người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, mười điều ân huệ nào đã được trẫm ban cho nàng, nàng sẽ đạt được tất cả các điều ân huệ ấy ở lãnh địa của đức vua Sivi.”

 

6124. Vị Thiên Vương Maghavā, chồng của nàng Sujā, bậc Thiên Chủ Vāsava đã nói điều này, đã ban cho ân huệ, và đã tùy hỷ với nàng Phusatī.

 

Các Kệ Ngôn về Mười Điều Ân Huệ.

 

(Lời trao đổi giữa Thiên Chủ Sakka và Chánh Hậu Phusatī)

(Lời tự thuật của đức Phật)

6125. Sau đó, nàng Phusatī ấy đã mệnh chung, đã tái sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara, và đã kết hôn với vua Sañjaya.

 

6126. Sau khi mang thai được mười tháng, bà Phusatī, trong khi đang đi nhiễu quanh thành phố, đã sanh ta ở giữa đường phố của những người thương buôn.

 

6127. Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những người thương buôn (vessa), vì thế tên của ta đã là Vessantara.

 

6128. Đến khi ta đã trở thành đứa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.

 

6129. Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người cầu xin.

 

6130. Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động, không hẹp hòi, tại nơi ấy, trái đất với dải rừng ở núi Sineru đã rúng động.

 

(Lời đức vua Vessantara)

6131. “Có các móng và lông nách đã mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, các vị Bà-la-môn đã giơ lên cánh tay phải cầu xin trẫm điều gì?”

 

6132. “Tâu bệ hạ, chúng tôi cầu xin báu vật. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xin bệ hạ hãy ban cho con voi cao quý, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.”

 

6133. “Trẫm ban cho không do dự vật mà các vị Bà-la-môn cầu xin, là con voi đã phát dục, có ngà, là phương tiện di chuyển của đức vua, và là con voi hạng nhất.”

 

6134. Với tâm ý cao cả về việc xả thí, đức vua, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã từ mình voi leo xuống và đã ban vật thí đến các vị Bà-la-môn.

 

6135. Khi ấy, đã có sự kinh hoàng, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc con long tượng được ban ra, trái đất đã rúng động.

 

6136. Khi ấy, đã có sự kinh hoàng, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc con long tượng được ban ra, khi ấy, thành phố đã bị hoảng loạn.

 

6137. Thành phố đã trở nên lộn xộn, và có tiếng ồn (quở trách) lan truyền, vang dội vào lúc bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi bố thí con long tượng.

 

6138. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Vào lúc con long tượng được ban ra, trái đất đã rúng động.

 

6139. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Vào lúc con long tượng được ban ra, khi ấy, thành phố đã bị hoảng loạn.

 

6140. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội vào lúc bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi ban bố con long tượng.

 

6141. Các quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh,–

 

6142. –luôn cả toàn bộ thị dân và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại. Sau khi nhìn thấy con voi đang bị dẫn đi, họ đã thông báo đến đức vua rằng:

 

6143. “Tâu bệ hạ, đất nước của ngài bị tàn phá. Tại sao người con trai Vessantara của bệ hạ lại có thể cho đi con voi của chúng ta, con voi được tôn vinh của đất nước?

 

6144. Tại sao vị ấy lại có thể cho đi con voi có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi, con voi hạng nhất, toàn màu trắng, biết được địa thế của mọi chiến trường?

 

6145. (Tại sao vị ấy lại có thể cho đi) con voi được choàng lên tấm len màu vàng cam, đã phát dục, có (khả năng) nghiền nát đối phương, có ngà, có cây quạt lông đuôi bò, màu trắng, tương tự như núi Kelāsa?

 

6146. (Tại sao vị ấy lại có thể cho đi) con voi có chiếc lọng màu trắng, có tấm đệm ngồi, có y sĩ chăm sóc, có viên quản tượng, là phương tiện di chuyển cao quý dành để chuyên chở đức vua? Tại sao vị ấy đã cho đi tài sản đến các vị Bà-la-môn?

 

6147. Vị ấy nên ban cho cơm ăn, nước uống, vải vóc, và chỗ trú ngụ. Điều này quả thật là đúng với việc bố thí; điều này quả thật là phù hợp với các vị Bà-la-môn.

 

6148. Người này là vị vua kế thừa của ngài, là bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi của chúng tôi. Tâu đại vương Sañjaya, tại sao người con trai Vessantara (của ngài) lại cho đi con voi?

 

6149. Nếu ngài không làm theo lời nói của những người dân xứ Sivi, thần nghĩ rằng các người dân xứ Sivi sẽ chống đối lại ngài và người con trai.”

 

(Lời đức vua Sañjaya, thái thượng hoàng)

6150. “Dầu cho xứ sở không còn, thậm chí đất nước bị tiêu diệt, ta cũng không vì lời nói của những người dân xứ Sivi mà tự nguyện lưu đày vị thái tử không phải là kẻ hư hỏng ra khỏi đất nước của mình, bởi vì người con trai là ruột thịt của ta.

 

6151. Dầu cho xứ sở không còn, thậm chí đất nước bị tiêu diệt, ta cũng không vì lời nói của những người dân xứ Sivi mà tự nguyện lưu đày vị thái tử không phải là kẻ hư hỏng ra khỏi đất nước của mình, bởi vì người con trai là huyết thống của ta.

 

6152. Và ta không thể phản bội lại con trai ta, bởi vì nó có giới hạnh cao cả. Luôn cả sự ô danh cũng sẽ có cho ta, và ta sẽ tạo ra nhiều tội ác. Làm thế nào chúng tôi có thể dùng gươm giết chết con trai Vessantara được?”

 

(Lời dân chúng)

6153. “Chớ giết chết vị ấy bằng gậy hay bằng gươm, vị ấy thật sự không đáng bị giam cầm. Ngài hãy lưu đày vị ấy ra khỏi đất nước. Hãy để vị ấy sống ở núi Vaṅka.”

 

6154. “Nếu việc ấy là điều mong muốn của những người dân xứ Sivi, chúng tôi không thể từ chối điều mong muốn ấy. Hãy để Vessantara sống và thọ hưởng các dục trong đêm nay.

 

6155. Kế đó, vào lúc tàn đêm, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi hãy đồng lòng rồi trục xuất Vessantara ra khỏi đất nước.”

 

6156. “Này kẻ phục dịch, hãy đứng lên. Ngươi hãy gấp rút đi đến và nói với Vessantara rằng: ‘Tâu bệ hạ, các người dân xứ Sivi giận dữ với bệ hạ. Và các thị dân đã tụ hội lại.

 

6157. Các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, luôn cả toàn bộ thị trấn và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại.

 

6158. Vào lúc tàn đêm này, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi sẽ đồng lòng và trục xuất bệ hạ ra khỏi đất nước.’”

 

6159. Kẻ phục dịch ấy, có đồ trang sức bằng ngọc trai ở cánh tay, có y phục tươm tất, được tô điểm với trầm hương, đã được gấp rút phái đi bởi đức vua Sivi.

 

6160. Kẻ ấy, đã gội đầu ở trong nước, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, đã đi đến thành phố đáng yêu, nơi trú ngụ của Vessantara.

 

6161. Tại nơi ấy, kẻ ấy đã nhìn thấy vị vương tử đang vui sướng ở kinh thành của mình, được vây quanh bởi các quan đại thần, tựa như Thiên Chủ Vāsava ở cõi Tam Thập.

 

6162. Sau khi đi đến nơi ấy, kẻ phục dịch ấy đã nói với vị Vessantara đang vui sướng rằng: “Thần sẽ báo tin khổ đau đến bệ hạ. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin chớ giận dữ với thần.”

 

6163. Sau khi đảnh lễ, kẻ phục dịch ấy đã vừa khóc lóc vừa nói với đức vua Vessantara rằng: “Tâu đại vương, ngài là chủ nhân của thần, là người mang lại (cho thần) mọi hương vị của khoái lạc. Thần sẽ báo tin khổ đau đến bệ hạ. Mong rằng mọi người thông cảm với thần về điều đó.

 

6164. “Tâu bệ hạ, các người dân xứ Sivi giận dữ với bệ hạ. Các thị dân, các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn đã tụ hội lại.

 

6165. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, luôn cả toàn bộ thị trấn và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại.

 

6166. Vào lúc tàn đêm này, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi sẽ đồng lòng và trục xuất bệ hạ ra khỏi đất nước.”

 

6167. “Các người dân xứ Sivi giận dữ với trẫm về việc gì? Trẫm không nhận thấy điều gì sai trái. Này người phục dịch, khanh hãy giải thích điều ấy cho trẫm. Tại sao họ lại trục xuất trẫm?”

 

6168. “Các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, họ phê phán về việc bố thí con voi; vì thế, họ trục xuất bệ hạ.

 

6169. “Trẫm có thể bố thí trái tim luôn cả con mắt, vật gì là tài sản ngoại thân của trẫm, vàng thô, vàng ròng, hay ngọc trai, ngọc bích, ngọc ma-ni?

 

6170. Hoặc thậm chí luôn cả cánh tay phải, sau khi nhìn thấy những người ăn mày đi đến, trẫm có thể ban cho không do dự. Tâm ý của trẫm vui thích trong việc bố thí.

 

6171. Tất cả những người dân Sivi hãy tùy ý trục xuất hay giết chết trẫm, hãy tùy ý chặt trẫm thành bảy phần, trẫm vẫn sẽ không xa lìa việc bố thí.”

 

6172. “Các thị dân đã tụ hội lại và các người dân xứ Sivi đã nói về bệ hạ như vầy: ‘Hãy để vị có sự hành trì tốt đẹp đi đến bờ sông Kontimārā, đối diện với ngọn núi Ārañjara, là nơi những kẻ bị trục xuất đi đến.’”

 

6173. “Trẫm đây sẽ đi đến nơi mà những kẻ tồi bại đi đến. Các khanh hãy thư thả cho trẫm một ngày đêm, cho đến khi trẫm ban phát vật thí xong.”

 

6174. Đức vua Vessantara đã nói với nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân ấy rằng: “Bất cứ vật gì ta đã ban tặng cho nàng, tài sản và lúa gạo hiện có,–

 

6175. –vàng thô, hoặc vàng ròng, hoặc nhiều ngọc trai và ngọc bích, và tài sản hồi môn từ người cha của nàng, nàng nên để dành mọi thứ ấy.”

 

6176. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, thiếp nên để dành ở nơi nào? Được hỏi, xin bệ hạ hãy giải thích điều ấy cho thiếp.”

 

6177. “Này nàng Maddī, nàng nên dâng cúng vật thí phù hợp ở những vị có giới hạnh, bởi vì đối với tất cả chúng sanh, không có chỗ dựa nào khác vượt lên trên sự bố thí.

 

6178. Này nàng Maddī, nàng nên thể hiện tình thương đối với các con, đối với mẹ chồng và cha chồng. Người nào có ý nghĩ trở thành chồng của nàng, nàng nên phục vụ người ấy một cách nghiêm chỉnh.

 

6179. Nếu không có người nào có ý định trở thành chồng của nàng do việc xa cách của nàng với ta, nàng hãy kiếm người chồng khác, chớ gầy mòn vì thiếu vắng ta.

 

6180. Bởi vì ta sẽ đi đến khu rừng ghê rợn có các loài thú dữ tụ tập. Mạng sống của ta là bấp bênh khi chỉ có một mình ở khu rừng rộng lớn.”

 

6181. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tại sao chàng lại nói điều không có lý lẽ? Chàng quả thật nói điều xấu xa!

 

6182. Tâu đại vương, việc chàng sẽ ra đi chỉ một mình là không đúng nguyên tắc. Tâu vị Sát-đế-lỵ, thiếp cũng đi đến nơi mà chàng đi đến.

 

6183. Hoặc là chết cùng với chàng, hoặc là sống không có chàng, chính cái chết ấy là tốt hơn so với việc nếu có thể sống mà không có chàng.

 

6184. Sau khi đốt lên ngọn lửa đã được tập trung lại thành một khối, cái chết của thiếp ở nơi ấy là tốt hơn so với việc nếu có thể sống mà không có chàng.

 

6185. Giống như con voi cái đi theo sau con voi đực có ngà, sống trong rừng, đang lang thang ở các khe núi hiểm trở, bằng phẳng hoặc gồ ghề.

 

6186. Tương tự như vậy, thiếp mang theo các con đi theo chàng ở phía sau. Thiếp sẽ là người dễ nuôi dưỡng của chàng. Thiếp sẽ không trở thành người khó chu cấp đối với chàng.

 

6187. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang ngồi ở khóm cây rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6188. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang chơi đùa ở khóm cây rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6189. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6190. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6191. Trong khi nhìn thấy các con có mang tràng hoa, đã được trang điểm, ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6192. Trong khi nhìn thấy các con có mang tràng hoa, đã được trang điểm, đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6193. Vào lúc chàng nhìn thấy các con có mang tràng hoa đang nhảy múa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6194. Vào lúc chàng nhìn thấy các con có mang tràng hoa đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6195. Vào lúc chàng nhìn thấy con long tượng sáu mươi năm tuổi đang đi thơ thẩn một mình ở trong khu rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6196. Vào lúc chàng nhìn thấy con long tượng sáu mươi năm tuổi đang đi thơ thẩn sáng chiều, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6197. Vào lúc con khổng tượng, con voi sáu mươi năm tuổi, tạo ra tiếng kêu của loài voi trong khi nó đang di chuyển phía trước đàn voi và bầy voi cái, sau khi nghe tiếng rống của con voi ấy đang gầm thét, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6198. Chàng là người chu cấp cho thiếp mọi điều ước muốn, vào lúc chàng nhìn thấy các trảng rừng ở hai bên sườn núi trong khu rừng đông đúc các thú dữ, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6199. Sau khi nhìn thấy con nai có năm tràng hoa đi đến vào chiều tối và các nhân điểu đang nhảy múa, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6200. Vào lúc chàng nghe tiếng rì rào của dòng sông Sindhu đang trôi chảy và tiếng hát của các nhân điểu, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6201. Vào lúc chàng nghe tiếng hú của loài chim cú sống trong hang núi đang vang lên, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6202. Vào lúc chàng nghe tiếng kêu của các loài thú dữ trong khu rừng: của sư tử, của cọp, của tê giác, và của bò rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6203. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống đứng ở trên đỉnh núi, có chùm lông đuôi xòe ra, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6204. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống, loài noãn sanh có cánh nhiều màu sắc, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6205. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống có cổ màu xanh, có chỏm lông ở đỉnh đầu, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6206. Vào lúc chàng nhìn thấy các giống cây được trổ hoa vào mùa đông, đang phảng phất hương thơm, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

Vào lúc chàng nhìn thấy mặt đất màu xanh đã được che phủ bởi loài cánh kiến vào tháng thuộc mùa đông, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6208. Vào lúc chàng nhìn thấy các giống cây được trổ hoa vào mùa đông: cây kuṭaja, cây bimbajāla, cây lomapadmaka đã được trổ hoa, đang phảng phất hương thơm, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

 

6209. Vào lúc chàng nhìn thấy khu rừng đã được trổ hoa và các đóa hoa sen đã rụng cánh vào tháng thuộc mùa đông, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.”

 

Ca Tụng Núi Hy Mã Lạp.

 

6210. Sau khi nghe lời kể lể của họ, của con trai và của con dâu, công chúa Phusatī[1] có danh vọng đã than vãn một cách thương tâm rằng:

 

6211. “Tốt hơn là ta nên ăn thuốc độc, ta nên lao xuống từ vực thẳm, ta nên dùng dây thừng thắt cổ chết, tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại?

 

6212. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người có học thức, là người thí chủ, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, không có bỏn xẻn, được tôn vinh bởi các vị vua đối nghịch, có tiếng tăm, có danh vọng?

 

6213. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người phụng dưỡng mẹ cha, có sự tôn kính các bậc trưởng thượng ở trong gia tộc?

 

6214. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người có lợi ích cho đức vua, có lợi ích cho hoàng hậu, có lợi ích cho thân quyến, cho bạn bè, có lợi ích cho toàn bộ đất nước?”

 

(Lời trao đổi giữa mẫu hậu Phusatī và đại vương Sañjaya)

6215. “Giống như các tổ ong đã bị bỏ đi, giống như những trái xoài đã bị rơi xuống ở mặt đất, đất nước của bệ hạ sẽ trở nên như vậy khi mọi người trục xuất kẻ không tồi bại.

 

6216. Giống như chim thiên nga có cánh bị gãy ở đầm lầy không còn nước, tâu bệ hạ, bị xa lánh bởi các quan đại thần, còn một mình, ngài sẽ khó nhọc.

 

6217. Tâu đại vương, thiếp nói với ngài điều ấy. Chớ để vuột mất lợi ích của ngài. Ngài chớ vì lời nói của các người dân xứ Sivi mà trục xuất người con trai ấy, là kẻ không tồi bại.”

 

6218. “Trẫm thực hiện sự kính trọng đối với luật pháp, trong khi xua đuổi Vessantara, ngọn cờ của các người dân xứ Sivi. Trẫm trục xuất người con trai của mình, bởi vì luật pháp được trẫm yêu quý hơn cả mạng sống.”

 

6219. “Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các ngọn cờ–tựa như những cây kaṇikāra đã được trổ hoa–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

 

6220. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các ngọn cờ–tựa như khu rừng cây kaṇikāra–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

 

6221. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ–tựa như những cây kaṇikāra đã được trổ hoa–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

 

6222. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ–tựa như khu rừng cây kaṇikāra–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

 

6223. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ­–khoác tấm len màu vàng cam của xứ Gandhāra lấp lánh màu cánh kiến–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

 

6224. Là người, trước đây, di chuyển bằng voi, bằng kiệu khiêng, và bằng cỗ xe, vị vua Vessantara ấy, hôm nay, làm thế nào (có thể) đi bộ?

 

Người có thân thể được thoa trầm hương, có sự thức giấc bằng điệu vũ và lời ca, thì sẽ mặc y da dê thô cứng, cầm rìu, và mang cái giỏ có gậy chống như thế nào?

 

6226. Tại sao các y ca-sa hay các y da dê không được mang lại? Tại sao họ không buộc y vỏ cây cho người đi vào khu rừng rộng lớn?

 

6227. Vậy những người xuất gia dòng dõi vua chúa mặc y vỏ cây như thế nào? Con dâu Maddī sẽ khoác y vỏ cây làm bằng cỏ kusa như thế nào?

 

6228. Sau khi đã mặc các loại tơ lụa xứ Kāsi và các loại vải xứ Khoma và Kodumbara, con dâu Maddī sẽ làm thế nào trong khi mặc các y vỏ cây làm bằng cỏ kusa?

 

6229. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện di chuyển, bằng kiệu khiêng và bằng cỗ xe, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy làm thế nào đi bộ ở con đường?

 

Là cô gái có lòng bàn tay mềm mại, có hạnh kiểm, được nuôi dưỡng sung sướng, hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?

 

Là cô gái có lòng bàn chân mềm mại, có hạnh kiểm, được nuôi dưỡng sung sướng, nàng di chuyển, tựa như đang bị chèn ép bởi đôi giày bằng vàng, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy làm thế nào đi bộ ở con đường?

 

6232. Là cô gái có đeo tràng hoa đi phía trước một ngàn phụ nữ, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng chỉ một mình?

 

6233. Là cô gái trước đây ở trong thành phố, lập tức bị khiếp sợ sau khi nghe tiếng hú của loài sói cái; hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?

 

6234. Là cô gái thuộc dòng dõi vua chúa, bị kinh sợ, run lẩy bẩy, tựa như bà đồng bóng sau khi nghe tiếng chim cú đang kêu gào; hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?

 

6235. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

 

6236. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6237. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6238. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

 

6239. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6240. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6241. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

 

6242. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6243. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

 

6244. Trong khi thiếp than vãn như vậy, nếu bệ hạ trục xuất thái tử, là kẻ không tồi bại, vào rừng, ra khỏi đất nước, thiếp nghĩ rằng thiếp sẽ buông bỏ mạng sống.”

 

6245. Sau khi nghe lời kể lể của mẫu hậu Phusatī, nhiều phi tần của đức vua xứ Sivi ở nội cung đã tụ hội lại; tất cả đã giơ hai cánh tay lên, khóc lóc.

 

6246. Những người con và những người vợ nằm dài ở nơi trú ngụ của vị Vessantara, tựa như những cây sāla bị nghiền nát, bị đè bẹp bởi cơn gió.

 

6247. Các công nương, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc ở nơi trú ngụ của vị Vessantara.

 

6248. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc ở nơi trú ngụ của vị Vessantara.

 

6249. Kế đó, vào lúc tàn đêm, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, khi ấy, đức vua Vessantara đã đi đến để ban phát vật thí, (nói rằng):

 

6250. “Các khanh hãy bố thí các tấm vải đến những người mong muốn vải, chất cồn đến những kẻ say sưa, thức ăn đến những người cần thức ăn, hãy bố thí, hãy ban phát một cách trân trọng.

 

6251. Và chớ gây khó khăn đến bất cứ ai trong số các người nghèo khổ đã đi đến nơi này. Hãy thỏa mãn họ với cơm ăn và nước uống. Hãy để họ ra đi với lòng ngưỡng mộ.”

 

6252. Khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, những người nghèo khổ ấy nhảy nhót, tựa như những kẻ say sưa đang đùa giỡn.

 

6253. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây ban cho mọi điều ước muốn.

 

6254. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây đang mang các trái khác nhau.

 

6255. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây có khả năng mang lại hương vị của tất cả các dục.

 

6256. Những người lớn tuổi, những người trẻ tuổi, và những người trung niên đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.

 

6257. Các nhà chiêm tinh, các hoạn quan, và các cung tần của đức vua đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.

 

6258. Ngay cả các phụ nữ ở tại thành phố ấy cũng đã bật khóc tại nơi ấy, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.

 

6259. Các vị Bà-la-môn và các vị Sa-môn, hay là những người nghèo khác cũng đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc: “Quả thật không công bằng!”

 

6260. Giống như đức vua Vessantara, trong khi cống hiến cho thành phố của mình, vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6261, 6262. Sau khi bố thí bảy trăm con voi đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có dây đai bằng vàng, là những con khổng tượng có trang phục là yên cương bằng vàng, được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6263, 6264. Sau khi bố thí bảy trăm con ngựa đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, và những con ngựa Sindhu thuần chủng về dòng dõi, có sức chuyển vận mau lẹ, được cỡi lên bởi các kỵ mã có mang gươm và cung, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6265, 6266. Sau khi bố thí bảy trăm cỗ xe đã được trang bị, có lá cờ đã được giương lên, được trải các tấm thảm da báo, da cọp, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, được cỡi lên bởi các xa phu mặc áo giáp, có cây cung ở tay, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6267, 6268. Sau khi bố thí bảy trăm nữ nhân, đã được nai nịt với các thắt lưng bằng chỉ vàng, đã được trang điểm bằng vàng, có đồ trang sức màu vàng, có y phục màu vàng, đã được tô điểm với các nữ trang màu vàng, có lông mi dài, có nụ cười xã giao, vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon, mỗi cô đứng ở một cỗ xe, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6269. Sau khi bố thí bảy trăm bò cái, tất cả đều có các xô đựng sữa làm bằng bạc, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6270. Sau khi bố thí bảy trăm tớ gái và bảy trăm tôi trai, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6271. Sau khi bố thí các con voi, các con ngựa, các cỗ xe, và các nữ nhân đã được trang điểm, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6272. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, việc ấy đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc cuộc đại thí được ban phát, trái đất đã rúng động.

 

6273. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, việc ấy đã có sự dựng đứng lông, là việc đức vua Vessantara, hai tay chắp lại, bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6274. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Họ tiễn đưa vị ấy bằng vật thí. Vị ấy đã ban phát vật thí thêm nữa.

 

6275. Khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, những người nghèo khổ ấy nhảy nhót, say sưa và đang đùa giỡn.

 

6276. Vị Vessantara đã thưa gởi với đức vua Sañjaya, bậc cao quý trong số các vị vua công chính, rằng: “Tâu phụ vương, phụ vương đã ép buộc con. Con sẽ đi đến núi Vaṅka.

 

6277. Tâu đại vương, bất cứ những người nào đã hiện hữu và sẽ được sanh ra mà không thỏa mãn với các dục thì sẽ đi đến lãnh địa của Diêm Vương.

 

6278. Con đây đã áp bức cư dân của mình trong khi cống hiến cho thành phố của mình. Vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà con bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6279. Con sẽ làm quen với sự khổ sở ấy ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo, con vẫn làm các việc phước thiện, còn cha đắm chìm trong bãi lầy (ngũ dục).

 

6280. Thưa mẹ, xin mẹ hãy cho phép con. Việc xuất gia được con ưa thích. Con đây đã áp bức cư dân của mình trong khi cống hiến cho thành phố của mình. Vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà con bị lìa khỏi đất nước của mình.

 

6281. Con sẽ làm quen với sự khổ sở ấy ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo, con vẫn làm các việc phước thiện, còn mẹ đắm chìm trong bãi lầy (ngũ dục).

 

6282. “Này con trai, mẹ cho phép con. Mong rằng việc xuất gia được thành tựu cho con. Hãy để nàng Maddī kiều diễm, vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon này cùng với hai con ở lại. Nàng sẽ làm gì ở khu rừng?”

 

6283. “Con không ra sức để dẫn theo vào rừng (một ai) ngay cả nữ tỳ một cách miễn cưỡng. Nếu nàng muốn, hãy để nàng đi theo; nếu nàng không muốn, hãy để nàng ở lại.”

 

6284. Kế đó, vị đại vương đã đến gần để yêu cầu con dâu rằng: “Chớ để bụi bặm và cáu ghét bám vào thân hình đã được tẩm trầm hương (của con).

 

6285. Sau khi đã mặc các vải lụa xứ Kāsi, chớ mặc y phục bằng vỏ cây. Cuộc sống ở rừng là khổ sở. Này người con gái có ưu điểm, con chớ ra đi.”

 

6286. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị đại vương ấy rằng: “Con không mong muốn sự sung sướng mà thiếu vắng Vessantara của con.”

 

6287. Vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã nói với nàng ấy rằng: “Này Maddī, con hãy lắng nghe về những điều khó chịu đựng ở trong khu rừng.

 

6288. Có nhiều bọ rầy, châu chấu, muỗi, ong. Chúng cũng có thể hãm hại con tại nơi ấy. Việc ấy đối với con có thể là khổ sở hơn.

 

6289. Con hãy nhìn xem những nỗi bực bội khác ở nơi kế cận các dòng sông. Có những con rắn không có nọc độc, được gọi là các con trăn; chúng có sức mạnh lớn lao.

 

6290. Khi loài người hay thậm chí con thú đi đến gần, chúng liền quấn tròn con mồi bằng những vòng thân và đặt dưới sự kiểm soát của bản thân.

 

6291. Cũng có những con thú nguy hiểm có bộ lông màu đen gọi là gấu; người nào bị chúng nhìn thấy dầu đã trèo lên cây cũng không thoát thân.

 

6292. Các con trâu đi lang thang ở nơi này, cạnh dòng sông Sotumbarā, khiêu khích nhau bằng những cái sừng có mũi nhọn, bằng những cú húc.

 

6293. Sau khi nhìn thấy con bò cái trong số các bầy thú đang đi lại ở trong rừng, tựa như con bò cái không nhìn thấy con bê, này Maddī, con sẽ hành động như thế nào?

 

6294. Sau khi nhìn thấy những con khỉ ghê rợn đang bay nhảy ở các ngọn cây, d0 không hiểu biết về rừng núi, này Maddī, con sẽ có nỗi sợ hãi lớn lao.

 

6295. Lúc trước, ở trong thành phố, sau khi nghe tiếng hú của loài sói cái, con đây liên lục bị khiếp sợ, này Maddī, khi con đã đi đến núi Vaṅka, con đây sẽ hành động như thế nào?

 

6296. Vào thời điểm êm ả lúc giữa trưa, khi các con chim đều nghỉ ngơi, khu rừng bao la vẫn vang động, tại sao con lại muốn đi đến nơi ấy?”

 

6297. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị đại vương ấy rằng: “Những điều cha vừa nói là những điều kinh hãi đối với con về khu rừng, con sẽ chịu đựng những điều ấy, con vẫn sẽ ra đi, tâu đấng thủ lãnh xa binh.

 

6298. Con sẽ ưỡn ngực đương đầu với cỏ kāsa, cỏ kusa, cỏ poṭakila, cỏ usīra, cỏ muñja, và cỏ babbaja, Con sẽ không là sự chọn lựa sai lầm của vị này.

 

6299, 6300. Thật vậy, người con gái giữ được người chồng bằng nhiều nết hạnh: bằng sự chịu đựng do việc thiếu ăn, bằng việc chăm sóc cơ thể, bằng việc duy trì ngọn lửa, và bằng việc gội rửa (tội lỗi) ở trong nước. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6301. Kẻ nào nắm nàng quả phụ ấy ở bàn tay rồi cưỡng bức lôi kéo nàng đi, thì không xứng đáng để thọ hưởng phần còn lại của nàng. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6302. Với việc nắm đầu tóc nâng dậy và xô ngã trên mặt đất, gã ấy dửng dưng đứng nhìn, sau khi đã ban cho nàng nhiều khổ đau không phải là ít. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6303. Sau khi ban cho chút ít tài sản, những kẻ thèm muốn những người quả phụ có làn da trắng, những kẻ tự hào là có phúc phần, cưỡng bức lôi kéo nàng đi tựa như các con quạ lôi kéo con chim cú. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6304. Thậm chí trong khi sống trong gia đình của thân quyến giàu sang, có chén bát vàng lấp lánh, nàng cũng không thể nào tránh khỏi lời nói lăng mạ từ các anh em và từ các bạn gái. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6305. Dòng sông không có nước là trơ trụi, đất nước không có vua là trơ trụi, thậm chí phụ nữ góa chồng cũng là trơ trụi, cho dầu nàng có mười anh em trai. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6306. Là cờ là tiêu biểu của cỗ xe, khói là tiêu biểu của ngọn lửa, vị vua là tiêu biểu của đất nước, người chồng là tiêu biểu của phụ nữ. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6307. Người nữ nào đồng cam cộng khổ với chồng, chia ngọt sẻ bùi với chồng thì có được tiếng tốt. Chư Thiên thật sự khen ngợi người nữ ấy, bởi vì nàng ấy làm được điều khó làm.

 

6308. Con sẽ mặc vải màu ca-sa và luôn luôn theo sát chồng. Thậm chi, khi trái đất còn chưa bị vỡ tan, con không (bao giờ) mong muốn thiếu vắng Vessantara. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

 

6309. Dầu cho trái đất bao quanh bởi biển cả có chứa đựng nhiều của cải, được chất đầy châu báu các loại khác nhau, con không (bao giờ) mong muốn thiếu vắng Vessantara.

 

6310. Quả thật có những phụ nữ vô cùng nhẫn tâm, khi người chồng bị khổ cực, mà các nàng lại mong muốn sự sung sướng cho bản thân; trái tim của các nàng ấy là như thế nào?

 

6311. Khi vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, con sẽ theo sát chàng, bởi vì chàng là người ban cho con mọi điều ước muốn.”

 

6312. Vị đại vương đã nói với nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân ấy rằng: “Cả hai đứa con này của con, Jāli và Kaṇhājinā, còn thơ dại. Này người con gái có ưu điểm, con hãy để lại và con hãy ra đi. Hãy để cha mẹ nuôi dưỡng chúng.”

 

6313. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, cả hai Jāli và Kaṇhājinā là hai đứa con nhỏ yêu quý của con. Chúng sẽ khiến cho con, người có cuộc sống sầu muộn, được vui sướng ở tại nơi ấy, trong khu rừng.”

 

6314. Vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã nói với nàng ấy rằng: “Sau khi đã thọ dụng bữa ăn với gạo sāli, có trộn lẫn thịt tinh khiết, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi ăn những trái của các cây rừng?

 

6315. Sau khi đã thọ dụng ở đĩa đồng nặng một trăm phala, ở đĩa vàng nặng một trăm rājika, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi ăn ở những chiếc lá của các cây rừng?

 

6316. Sau khi đã mặc các loại tơ lụa xứ Kāsi và các loại vải xứ Khoma và Kodumbara, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi mặc các y vỏ cây làm bằng cỏ kusa?

 

6317. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện chuyên chở, bằng kiệu khiêng và bằng cỗ xe, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi chạy loanh quanh bằng đôi chân (của chúng)?

 

6318. Sau khi đã nằm ngủ trong ngôi nhà có mái nhọn, kín gió, có then cửa đã cài, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi nằm ngủ ở gốc cây?

 

6319. Sau khi đã nằm ngủ ở các giường nệm được trải thảm len lông dài nhiều màu sắc, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi nằm ngủ ở thảm cỏ?

 

6320. Sau khi đã thoa bôi với dầu thơm của gỗ kỳ nam và trầm hương, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi lấm lem bụi bặm và cáu ghét?

 

6321. Được nuôi dưỡng sung sướng, có cơ thể được quạt bởi các cây quạt lông đuôi bò và quạt lông công, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào khi bị cắn bởi các con mòng và các con muỗi?”

 

6322. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, xin cha chớ than vãn, và xin cha chớ có ưu tư. Chúng con sẽ như thế nào thì hai đứa trẻ sẽ như thế ấy.”

 

6323. Sau khi nói lời này, nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã ra đi. Người con gái có ưu điểm đã mang hai đứa con đi theo con đường của vị vua xứ Sivi.

 

6324. Kế đó, đức vua Vessantara, dòng Sát- đế- lỵ, sau khi ban phát vật thí, đã đảnh lễ cha và mẹ, rồi hướng vai phải đi nhiễu quanh họ.

 

6325. Vị ấy đã mau chóng bước lên cỗ xe được thắng bốn ngựa, rồi đã đưa vợ và hai con ra đi về phía ngọn núi Vaṅka.

 

6326. Sau đó, đức vua Vessantara đã đi đến nơi có nhiều người tụ tập và đã nói rằng: “Chúng tôi đi đến nơi ấy. Chúc các thân nhân được mạnh khỏe.”

 

Tam Tạng Sri Lanka và Miến Điện không có câu kệ này.

 

6327. “Nào, hỡi nàng Maddī, nàng hãy nhìn xem. Quả thật vẻ đẹp đáng yêu được nhìn thấy: Chỗ ở của vị đứng đầu xứ Sivi là nơi trú ngụ thuộc về người cha của trẫm.”

 

6328. Các vị Bà-la-môn đã đi theo Vessantara. Họ đã cầu xin vị ấy các con ngựa. Được cầu xin, vị ấy đã ban phát bốn con ngựa cho bốn người.

 

6329. “Nào, hỡi nàng Maddī, nàng hãy nhìn xem. Quả thật điều kỳ diệu được nhìn thấy: Những con ngựa thuần thục đưa trẫm đi là những con nai với sắc màu hồng.”

 

6330. Rồi, vị Bà-la-môn thứ năm đã đi đến nơi này. Vị ấy đã cầu xin Vessantara cỗ xe. Được cầu xin, Vessantara đã cho cỗ xe đến vị ấy. Và tâm ý của vị Vessantara này không bị bấn loạn.

 

6331. Sau đó, đức vua Vessantara đã bảo nhóm người của mình xuống xe, rồi đã vui vẻ bàn giao cỗ xe ngựa cho vị Bà-la-môn tầm cầu tài sản.

 

6332. “Này Maddī, nàng hãy bế Kaṇhājinā, nó nhẹ và là em gái. Trẫm sẽ bồng Jāli, bởi vì nó nặng và là anh trai.”

 

6333. Vị vua đã mang theo đứa bé trai, và nàng công chúa mang theo đứa bé gái, họ đã cùng nhau vui vẻ lên đường, với lời nói yêu thương với nhau.

 

Phẩm Bố Thí được hoàn tất.

 

6334. Mỗi lúc có những người nào đó đi đến ở con đường cùng chiều, ở lối đi ngược chiều, chúng tôi hỏi họ về đường đi rằng: ‘Núi Vaṅka ở đâu?’

 

6335. Tại nơi ấy, sau khi nhìn chúng tôi, những người ấy đã than vãn thương xót. Họ cho biết về nỗi khó nhọc rằng: ‘Núi Vaṅka còn xa lắm.’

 

6336. Mỗi lúc hai đứa trẻ nhìn thấy những cây đã trổ quả ở khu rừng lớn, chính vì nguyên nhân của những trái cây ấy mà hai đứa trẻ kêu khóc.

 

6337. Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ đang khóc lóc, các thân cây sum suê, bị xúc động, đã tự mình hạ thấp xuống và di chuyển đến gần hai đứa trẻ.

 

6338. Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu, phi thường, có sự dựng đứng lông này, nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng):

 

6339. Thật là điều kỳ diệu ở thế gian, là việc phi thường, có sự rởn lông! Các thân cây đã tự mình hạ thấp xuống bởi oai lực của Vessantara.

 

6340. Vì lòng thương tưởng hai đứa trẻ, các Dạ-xoa đã thâu ngắn lại đoạn đường. Bọn họ đã đến được đất nước Ceta ngay khi ngày vừa hết.

 

6341. Sau khi đã đi đoạn đường dài, bọn họ đã đến được đất nước Ceta, xứ sở giàu có, phồn thịnh, có nhiều cơm, rượu, thịt.

 

6342. Sau khi nhìn thấy người phụ nữ có ưu điểm đi đến, các nàng hầu đã vây quanh (nói rằng): “Quả thật vị phu nhân thanh nhã này đi lại bằng đôi chân (của bà)!”

 

6343. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện chuyên chở và bằng kiệu khiêng, hôm nay, vị nữ Sát-đế-lỵ, nàng Maddī ấy đi lại trong khu rừng bằng đôi chân (của nàng)!

 

6344. Sau khi nhìn thấy vị Vessantara ấy, các lãnh tụ xứ Ceta đã đi đến gần, nức nở (nói rằng): “Tâu bệ hạ, phải chăng ngài được an khang? Phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng phụ thân của ngài được vô bệnh, và xứ Sivi được vô sự?

 

6345. Tâu đại vương, quân đội của ngài đâu? Cỗ vương xa của ngài đâu rồi? Ngài đã đi đường xa đến không có ngựa, không có cỗ xe. Phải chăng ngài đã bị các kẻ thù tấn công, rồi ngài đã đến được địa phương này?”

 

6346. “Này các thân hữu, tôi được an khang. Này các thân hữu, tôi được vô sự. Còn phụ thân của tôi được vô bệnh, và xứ Sivi được vô sự.

 

6347, 6348, 6349. Bởi vì tôi đã bố thí đến các vị Bà-la-môn con voi thông minh, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi, biết được địa thế của mọi chiến trường, con voi hạng nhất, toàn màu trắng, được choàng lên tấm len màu vàng cam, đã phát dục, có (khả năng) nghiền nát đối phương, có ngà, có cây quạt lông đuôi bò, màu trắng, tương tự như núi Kelāsa, có chiếc lọng màu trắng, có tấm đệm ngồi, có y sĩ chăm sóc, có viên quản tượng, là phương tiện di chuyển cao quý dành để chuyên chở đức vua.

 

6350. Các người dân xứ Sivi giận dữ với tôi về việc này, và phụ hoàng có ý bực mình. Đức vua ép buộc tôi, và tôi đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

 

6351. “Tâu đại vương, chào mừng ngài đã ngự đến, và việc ngài đã đi đến không gặp khó khăn! Ngài hãy biết rằng ngài là vị chúa tể đã đạt đến vị thế dành cho ngài ở nơi này.

 

6352. Tâu đại vương, xin ngài hãy thọ dụng rau cải, ngó sen, mật ong, thịt, cơm gạo lúa sāli thuần khiết. Ngài đã đến và là khách của chúng tôi.”

 

6353. “Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi, và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

 

6354. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin ngài hãy ở lại ngay tại nơi này, ở đất nước Ceta, trong lúc các người dân xứ Ceta sẽ đi đến để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải bày với đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi.

 

6355. Sau khi tôn vinh ngài đây, được sung sướng với nhân duyên đã đạt, các người dân xứ Ceta sẽ tập hợp lại và sẽ ra đi, tâu vị Sát-đế-lỵ, xin ngài nhận biết như vậy.”

 

6356. “Chớ vui thích việc ra đi của các vị để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải bày với đại vương. Đức vua ở nơi ấy không phải là vị chúa tể.

 

6357. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi quả thật vô cùng giận dữ. Bọn họ muốn truất phế vua bởi vì việc làm của tôi.”

 

6358. “Nếu việc đó đã xảy ra ở đất nước ấy, tâu vị làm hưng thịnh đất nước, xin ngài hãy trị vì vương quốc ngay tại nơi này, ngài được các người dân xứ Ceta ủng hộ.

 

6359. Đất nước này giàu có và phồn thịnh, là xứ sở giàu có và rộng lớn. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy thực hiện ý định chỉ đạo vương quốc.”

 

6360. “Hỡi các con dân xứ Ceta, hãy lắng nghe tôi. Tôi đã bị trục xuất ra khỏi đất nước, tôi không có ước muốn hay ý định chỉ đạo vương quốc.

 

6361. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi có thể không vui, nếu các người dân xứ Ceta làm lễ phong vương cho kẻ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước.

 

6362. Sẽ có sự bất hòa trầm trọng giữa các vị bởi vì việc làm của tôi, và còn có sự gây gỗ của những người dân xứ Sivi; sự cãi vã không được tôi ưa thích.

 

6363. Rồi sẽ có sự gây gỗ khủng khiếp, sự xung đột không phải là ít. Bởi vì việc làm của một mình tôi mà nhiều người có thể bị hãm hại.

 

6364. Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi, và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

 

6365. “Đương nhiên, chúng tôi thông báo cho ngài tùy theo khả năng. Hãy để cho các vị ẩn sĩ của hoàng gia được an ổn ở nơi mà các ngọn lửa tế thần đã được tập trung lại.

 

6366. Tâu đại vương, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi mà ngài cùng với hai con và người vợ sẽ cư ngụ.”

 

6367. Các người dân xứ Ceta với cặp mắt ứa lệ, với khuôn mặt đầy nước mắt, đã chỉ dẫn cho vị ấy rằng: “Tâu đại vương, từ đây, ngày hãy đi thẳng, về phía hướng Bắc.

 

6368. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy ngọn núi tên Vipula, có các cây cối khác loại mọc dày đặc, có bóng râm mát mẻ, làm thích ý.

 

6369, 6370. Sau khi đã vượt qua nơi ấy, thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy chỗ nước xoáy, có dòng sông tên là Ketumatī sâu thẳm, chảy ra từ hang núi, đông đúc với những loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước. Ngài hãy tắm, uống nước, và thư giãn tại nơi ấy cùng với các con.

 

6371. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy cây sung có trái ngọt đã được mọc lên ở đỉnh đồi đáng yêu, có bóng râm mát mẻ, làm thích ý.

 

6372. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy ngọn núi tên là Nālika được đông đúc với những bầy chim khác loại, là tảng núi đá được loài nhân điểu lui tới.

 

6373. Về phía đông bắc của tảng núi đá, hồ nước ấy có tên là Mucalinda, được bao phủ bởi các bông sen trắng và bởi các bông súng trắng.

 

6374. Ngài đây, tựa như con sư tử có sự quan sát con mồi, đã đi sâu vào khu rừng rậm, là khu rừng tương tự như đám mây, thường xuyên có lớp cỏ xanh bao phủ, được bao phủ bởi cả hai loại: các cây cho hoa và các cây ăn trái.

 

6375. Tại nơi ấy, ở thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót hòa theo con chim đang hót.

 

6376, 6377. Sau khi đi đến các khe núi hiểm trở và các ngọn nguồn của những dòng sông, ngài sẽ nhìn thấy hồ sen có mọc nhiều loại cây karañja và cây kakudha, được đông đúc với những loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, có nhiều nước, có bốn cạnh bằng nhau, tốt lành, không có mùi khó chịu.

 

6378. Về phía đông bắc của hồ nước ấy, ngài hãy tạo dựng gian nhà lá. Sau khi đã tạo dựng gian nhà lá, ngài hãy cố gắng trong việc thu nhặt củ quả để mưu sinh.

 

Phẩm Đi Vào Rừng được hoàn tất.

 

6379. Có lão Bà-la-môn tên Jūjaka cư ngụ ở xứ Kaliṅga. Ông ấy có người vợ trẻ tên là Amittatāpanā.

 

6380. Các phụ nữ đội nước ở ngôi làng ấy, sau khi đi đến dòng sông, đã nói về nàng ấy. Những người nữ có tánh bộp chộp, sau khi tụ tập lại, đã mắng nhiếc nàng ấy rằng:

 

6381. “Mẹ của cô chắc chắn là không thương cô, cha của cô chắc chắn là không thương cô. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vậy.

 

6382. Các thân quyến của cô quả thật không có lợi ích! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6383. Các thân quyến của cô quả thật có hành động sai trái! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6384. Các thân quyến của cô quả thật là độc ác! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6385. Các thân quyến của cô quả thật không được vừa ý! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6386. Cô sống cuộc sống không được vừa ý với người chồng già nua. Cô đây sống với lão già, cái chết đối với cô còn quý hơn mạng sống.

 

6387. Này mỹ nữ, này người đẹp, phải chăng cha và mẹ đã không tìm kiếm cho cô người chồng khác? Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6388. Việc tế lễ vào ngày mồng chín của cô sẽ được cúng hiến qua loa, việc tế thần lửa của cô sẽ không được thực hiện. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6389. Phải chăng cô đây, ở thế gian, đã sỉ vả các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn có sự nương tựa vào Phạm hạnh, có giới hạnh, có kiến thức? (Kết quả là) cô đây sống với lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

 

6390. Bị rắn cắn không khổ, bị gươm đâm không khổ, nhưng khổ sở và đau đớn khi nhìn thấy người chồng già nua.

 

6391. Không có sự vui đùa, không có sự khoái lạc cùng với người chồng già nua, không có chuyện trò trao đổi, thậm chí nụ cười cũng không rạng rỡ.

 

6392. Vào lúc chàng trai và cô gái chuyện trò ở nơi vắng vẻ, tất cả các nỗi sầu muộn ẩn náu ở trong tim của hai người đều tiêu tan.

 

6393. Cô trẻ trung, có sắc đẹp, được các nam nhân mong ước. Cô hãy bỏ đi và hãy ở nhà của các thân quyến, lão già sẽ tạo được điều gì vui sướng?”

 

6394. “Này ông Bà-la-môn, tôi không đi đến dòng sông mang nước về cho ông nữa. Này ông Bà-la-môn, các người đàn bà mắng nhiếc tôi bởi vì ông già cả.”

 

6395. “Nàng chớ làm công việc cho tôi nữa, chớ mang nước về cho tôi nữa. Tôi sẽ mang nước về. Phu nhân chớ có nổi giận.”

 

6396. “Ở gia tộc mà tôi sanh ra không có việc ông phải đi mang nước về. Tôi sẽ không ở trong nhà của ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy.

 

6397. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở bên cạnh ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy.”

 

6398. “Này nữ Bà-la-môn, tôi không có căn bản nghề nghiệp, tài sản, hoặc lúa gạo, từ đâu tôi sẽ dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho phu nhân? Tôi sẽ phục vụ phu nhân. Phu nhân chớ có nổi giận.”

 

6399. “Ông hãy đến, tôi sẽ thuật lại cho ông y như lời nói tôi đã nghe được: Vị vua Vessantara ấy cư ngụ ở núi Vaṅka.

 

6400. Này ông Bà-la-môn, ông hãy đi đến và cầu xin vị ấy đứa tôi trai và đứa tớ gái. Được cầu xin, vị Sát-đế-lỵ ấy sẽ cho đứa tôi trai và đứa tớ gái đến ông.”

 

6401. “Tôi già cả, yếu sức, và đoạn đường đi thì dài, vô cùng hiểm trở. Xin phu nhân chớ than vãn, và xin phu nhân chớ có ưu tư. Tôi sẽ phục vụ phu nhân. Phu nhân chớ có nổi giận.”

 

6402. “Giống như người chưa đi đến chiến trường, còn chưa chiến đấu, mà đã bị thua trận, tương tự y như thế, này ông Bà-la-môn, ông còn chưa đi mà đã đầu hàng.

 

6403. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở trong nhà của ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy. Tôi sẽ làm điều không vừa ý đối với ông, điều ấy sẽ là nỗi khổ đau cho ông.

 

6404. Vào những dịp lễ hội theo thời tiết liên quan đến các vì tinh tú, lúc ông nhìn thấy tôi, đã được trang điểm, đang vui sướng cùng với những người nam khác, điều ấy sẽ là nỗi khổ đau cho ông.

 

6405. Trong khi ông bị già nua và than vãn do việc không nhìn thấy tôi, này ông Bà-la-môn, lưng sẽ còng hơn và nhiều sợi tóc bạc sẽ xuất hiện.”

 

6406. Do đó, lão Bà-la-môn ấy bị sợ hãi, bị khốn khổ bởi sự luyến ái trong các dục, có sự phục tùng người nữ Bà-la-môn, đã nói với người nữ Bà-la-môn điều này:

 

6407. “Này nữ Bà-la-môn, nàng hãy chuẩn bị lương thực đi đường cho tôi gồm các kẹo mè và các bánh bột đường, các cục mật đã được khéo làm và giỏ thức ăn.

 

6408. Tôi sẽ dẫn về hai đứa trẻ trai làm nô lệ có cùng dòng dõi với nàng. Chúng sẽ hầu cận nàng ngày đêm không biếng nhác.”

 

6409. Sau khi nói lời này, lão Bà-la-môn đã mang đôi giày vào. Sau đó, lão ấy đã dặn dò và đi nhiễu quanh người vợ.

 

6410. Với khuôn mặt đẫm lệ, với dáng vẻ đạo sĩ khổ hạnh, lão Bà-la-môn ấy, trong khi thực hiện việc tìm kiếm tôi tớ, đã đi đến thành phố phồn thịnh của xứ Sivi.

 

6411. Sau khi đi đến nơi ấy, lão Bà-la-môn ấy đã nói với những người đã tụ tập tại nơi ấy rằng: “Đức vua Vessantara ở đâu? Chúng tôi có thể tìm gặp vị Sát-đế-lỵ ở nơi nào?”

 

6412. Đám dân chúng ấy, những người đã tụ tập tại nơi ấy, đã nói với lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka.

 

6413. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư ngụ ở núi Vaṅka.”

 

6414. Bị thúc giục bởi nữ Bà-la-môn, lão Bà-la-môn ấy, có sự tham đắm dục vọng, đã theo đuổi sự sai lầm ấy, ở trong khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo.

 

6415. Mang theo cây gậy bằng gỗ beluva, chiếc muỗng tế thần lửa, và cái bình đựng nước, lão ấy đã đi vào khu rừng rộng lớn, nơi lão đã nghe về vị bố thí theo ước muốn.

 

6416. Khi lão ấy đã đi vào khu rừng rộng lớn, các con chó sói đã vây quanh lão ấy. Lão đã kêu thét lên. Bị lạc lối, lão ấy càng đi ra xa khỏi con đường.

 

6417. Sau đó, lão Bà-la-môn ấy, bị tham đắm của cải, không tự kiềm chế, đã lạc mất con đường dẫn đến núi Vaṅka. [Bị những con chó vây quanh, lão đã ngồi ở trên cây.] Lão đã nói lên những lời kệ này:

 

6418. “Người nào cho ta biết về vị thái tử hạng nhất, bậc chiến thắng (tâm bỏn xẻn), không bị khuất phục? Người nào cho ta biết về Vessantara, vị bố thí sự bình an cho kẻ bị sợ hãi?

 

6419. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như quả đất? Người này là nơi nâng đỡ của những kẻ đang cầu xin, tựa như quả đất là nơi nâng đỡ của các chúng sanh.

 

6420. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như biển cả? Người này là điểm đến của những kẻ đang cầu xin, tựa như đại dương là điểm đến của các dòng sông.

 

6421. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như hồ nước, có bến tắm xinh đẹp, trong sạch, có nước mát, làm thích ý, được che phủ bởi các bông sen trắng, được gắn liền với tua nhụy và phấn hoa?

 

6422. Tựa như cây sung mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

 

6423. Tựa như cây đa mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

 

6424. Tựa như cây xoài mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

 

6425. Tựa như cây sāla mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

 

6426. Tựa như cội cây mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

 

6427. Và trong lúc than van như vậy, ta đã đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết (chỗ ngụ của Vessantara),’ người ấy tạo ra nỗi vui mừng cho ta.’

 

6428. Và trong lúc than van như vậy, ta đã đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết (chỗ ngụ của Vessantara),’ với một lời nói ấy, người ấy có thể tạo nên phước báu không phải là ít.”

 

6429. Có gã thợ săn người xứ Ceta đang đi trong rừng đã đáp lại lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka.

 

6430. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư ngụ ở núi Vaṅka.

 

6431. Kẻ ngu muội, không có làm phận sự gì, đã rời khỏi đất nước đi vào rừng tìm kiếm vị thái tử, tựa như con cò đang tìm bắt cá ở vũng nước.

 

6432. Này Bà-la-môn, ta sẽ không ban cho lão đây còn mạng sống ở nơi này, bởi vì mũi tên này, được ta bắn ra, sẽ uống máu của lão.

 

6433. Mũi tên, sau khi giết chết lão, sẽ cắt đứt trái tim cùng với thớ thịt. Này Bà-la-môn, ta sẽ cúng tế loài chim ở con đường bằng thịt của lão.

 

6434. Này Bà-la-môn, ta sẽ cắt đứt trái tim của lão, rồi dâng lên làm vật cúng tế cùng với phần thịt, phần mỡ, và cái đầu của lão.

 

6435. Này Bà-la-môn, khi trái tim ấy đã khéo được hiến dâng, đã khéo được cúng tế cùng với thịt của lão, lão sẽ không dẫn đi vợ và các con của vị thái tử.”

 

6436. “Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe ta. Vị Bà-la-môn là người sứ giả, không được giết hại. Chính vì thế, người ta không giết sứ giả; điều này là quy luật cổ xưa.

 

6437. Mọi người dân Sivi đã suy nghĩ lại. Phụ hoàng muốn gặp vị ấy, và mẫu hậu của ngài ấy yếu sức, không bao lâu nữa cặp mắt sẽ hư hoại.

 

6438. Ta là người sứ giả đã được họ phái đi. Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe ta. Ta sẽ đưa vị thái tử đi. Nếu ngươi biết, ngươi hãy chỉ cho ta.”

 

6439. “Lão là vị sứ giả yêu quý của người mà ta yêu quý. Này Bà-la-môn, ta sẽ cho lão được thành tựu trọn vẹn, cùng với hũ mật ong này và đùi thịt nai. Ta sẽ nói cho lão về khu vực ấy, nơi mà vị bố thí theo ước muốn cư ngụ.”

 

Đoạn Về Bà-la-môn Jūjaka được hoàn tất.

 

6440. “Này vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6441. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

 

6442. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những ngọn núi của giống cây añjana, có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây.

 

6443. Các loại cây dhava, cây long thọ, cây nhục quế, cây sāla, các giống dây leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ lảo đảo một khi đã uống say.

 

6444. Ở phía trên những hàng cây, tựa như có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim najjuha, các bầy chim cu cu (líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác.

 

6445. Các chiếc lá của những cành cây được lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng; nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6446. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

 

6447. (Ở tại nơi này) có các cây xoài, các cây táo rừng, các cây mít, các cây sāla, các cây mận, các cây vibhītaka, các cây harītakī, các cây āmalakā, các cây sung, và các cây táo ta.

 

6448. Và ở tại nơi này có các cây timba xinh đẹp, các cây đa, và các cây táo rừng, các cây madhuka có vị ngọt chiếu sáng, và các cây sung có trái chín ở chỗ thấp.

 

6449. Các cây pārevata, các cây chuối có trái dài, các cây nho, và các tổ mật ong. Tại nơi ấy, có thể tự mình lấy mật ong tinh khiết và thọ dụng.

 

6450. Ở tại nơi này, có một số cây xoài đã được trổ bông, một số khác tồn tại và đã được kết trái, một số khác có trái còn non và đã chín, cả hai (loại trái còn non và đã chín) có màu sắc như của con nhái.

 

6451. Và ở nơi này, con người đứng ở bên dưới hái những trái xoài chín. Những trái chín và luôn cả những trái còn non là hạng nhất về màu sắc, mùi thơm, và hương vị.

 

6452. Quả thật là điều quá sức kỳ diệu đối với tôi! Tiếng kêu ‘Ủa’ lóe lên ở tôi. Chỗ ngụ chiếu sáng như là của chư Thiên, tương tự khu vườn Nandana.

 

6453. Ở khu rừng rộng lớn của những cây chà là, có các cây lá cọ và các cây dừa đứng thẳng, tựa như những tràng hoa đã được kết lại, được nhìn thấy tựa như những cây cờ hiệu, với những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau tựa như các chòm sao điểm tô bầu trời.

 

6454. Các cây kuṭaji, các cây kuṭṭha, các cây tagara, và các cây pāṭalī đã được trổ hoa. Các cây nguyệt quế, các cây nguyệt quế núi, và các cây koviḷārā đã được trổ hoa.

 

6455. Các cây bả đậu, các cây soma, các cây kỳ nam, và các cây bhallī là có nhiều. Các cây puttajīva, các cây kakudha, và các cây asana ở nơi này đã được trổ hoa.

 

6456. Các cây kuṭaja, các cây salala, các cây nīpa, các cây kosamba, các cây sa kê, các cây dhava, và các cây sāla đã được trổ hoa ở tại nơi ấy, tương tự như những đống rơm.

 

6457. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư Thiên.

 

6458. Rồi ở nơi này, tại thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, các con chim cu cu có giọng hót du dương, bị ngất ngây bởi mật của các bông hoa, làm vang động khu rừng.

 

6459. Những giọt mật với các bụi phấn hoa nhỏ xuống ở mỗi chiếc lá sen. Rồi ở nơi này, có các làn gió thổi từ hướng nam rồi từ hướng tây; khu ẩn cư được rải rắc bởi bụi phấn từ tua nhụy của các hoa sen.

 

6460. Ở nơi này, có các cây siṅghāṭaka thô kệch, các giống lúa tự nhiên saṃsādiyā và pasādiyā. Và ở nơi này, có nhiều con cua di chuyển cùng với các con cá và rùa. Có mật ngọt tiết ra từ các củ sen, rồi sữa và bơ lỏng tiết ra từ các rễ sen.

 

6461. Có mùi thơm ngát thổi vào khu rừng ấy, hòa quyện cùng với các hương thơm khác loại. Khu rừng ấy dường như làm cho con người say đắm với hương thơm, với những cành hoa. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

 

6462. Rồi ở nơi này, còn có những con chim, gồm nhiều loài chim có các màu sắc khác nhau. Chúng vui đùa cùng với các con chim mái, hót líu lo với nhau.

 

6463. Có bốn loài chim làm tổ cạnh hồ nước, có bốn tiếng hót khác nhau, chúc mừng vị Vessantara sống vui vẻ, hạnh phúc cùng với hai con yêu dấu.

 

6464. Tựa như những tràng hoa đã được kết lại đứng thẳng, tựa như những cây cờ hiệu được nhìn thấy, với những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau được kết lại khéo léo bởi các tay thợ thiện xảo, nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6465. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.”

 

(Lời Bà-la-môn Jūjaka)

6466. “Đây là phần ăn lúa mạch của ta, đã được trộn đều với mật ong, và các cục mật ong đã khéo được vo lại. Ta biếu ngươi phần ăn lúa mạch của ta.”

 

6467. “Hãy để lại phần ăn đi đường cho chính ông. Tôi không cần phần ăn đi đường. Này vị Bà-la-môn, ông hãy bắt đầu từ đây. Này vị Bà-la-môn, ông hãy đi một cách thoải mái.

 

6468. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Tại nơi ấy, còn có vị ẩn sĩ Accuta, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện.

 

6469. Vị ấy, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ chỉ đường cho ông.”

 

6470. Nghe xong điều này, vị thân quyến của đấng Brahmā đã đi nhiễu quanh người thợ săn xứ Ceta, rồi với tâm phấn khởi, đã khởi hành đi đến nơi vị ẩn sĩ Accuta đang ở.

 

Phần Mô Tả Khu Rừng Nhỏ được hoàn tất.

 

6471. Trong lúc đang đi, lão (Jūjaka) dòng họ Bhāradvāja ấy đã nhìn thấy vị ẩn sĩ Accuta. Sau khi nhìn thấy vị ấy, lão Bhāradvāja đã tỏ ra thân thiện với vị ẩn sĩ ấy rằng:

 

6472. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

 

6473. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

 

(Lời vị ẩn sĩ Accuta)

6474. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi được an khang. Và thưa vị Bà-la-môn, tôi được vô sự. Tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

 

6475. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

 

6476. Và có nhiều cây cau cho tôi đây khi tôi sống ở khu ẩn cư. Tôi không biết đến bệnh tật không thích ý đã được sanh khởi.

 

6477. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ngài đã đến và việc đi đến tốt lành của ngài. Thưa ngài, xin ngài hãy đi vào bên trong. Xin ngài hãy rửa sạch hai bàn chân của ngài.

 

6478. Thưa vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka, piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ngài hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

 

6479. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy uống nước từ nơi ấy nếu ngài muốn.”

 

6480. “Vật bố thí quý giá của tất cả các vị làm ra đã được ta nhận lãnh. Có người con trai ruột của đại vương Sañjaya đã bị lưu đày bởi những người dân xứ Sivi. Ta đi đến để gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.”

 

6481. “Ngài đi đến gặp đức vua xứ Sivi không có mục đích tốt lành. Tôi nghĩ rằng ngài ước ao người vợ chung thủy của đức vua.

 

6482. Tôi nghĩ rằng ngài muốn Kaṇhājinā là tớ gái và Jāli là tôi trai. Hay là ngài đã đi đến để đưa ba mẹ con rời khỏi khu rừng. Thưa vị Bà-la-môn, các của cải, tài sản, và lúa gạo của vị vua ấy không thấy có.”

 

6483. “Thưa ngài đạo sĩ, ta không có dáng vẻ giận dữ, ta không đi đến để cầu xin. Việc nhìn thấy các bậc thánh thiện là tốt đẹp. Việc cộng trú (với họ) luôn luôn an lạc.

 

6484. Từ khi đức vua xứ Sivi bị lưu đày bởi những người dân xứ Sivi, ta chưa được gặp lại. Ta đi đến để gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.”

 

6485. “Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6486. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

 

6487. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những ngọn núi của giống cây añjana, có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây.

 

6488. Các loại cây dhava, cây long thọ, cây nhục quế, cây sāla, các giống dây leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ lảo đảo một khi đã uống say.

 

6489. Ở phía trên những hàng cây, tựa như có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim najjuha, các bầy chim cu cu (líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác.

 

6490. Các chiếc lá của những cành cây được lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng; nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6491. Vị ấy đang khoác lên bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

 

6492. Những chùm hoa kareri lan rộng ở vùng đất làm cho thích ý. Mặt đất xanh tươi màu cỏ mới; tại nơi ấy không có bụi bặm bốc lên.

 

6493. Các cọng cỏ (có màu sắc) giống như cái cổ của loài chim công, (mềm mại) tương tự như sự xúc chạm với bông gòn, và không vươn lên quá bốn ngón tay ở xung quanh.

 

6494. Các trái xoài, mận đỏ, táo rừng, và các trái sung chín muồi ở chỗ thấp bên dưới. Với các giống cây sản xuất ra hoa quả, khu rừng ấy là nơi làm tăng trưởng niềm thích thú.

 

6495. Ở tại nơi ấy, cũng có dòng nước trôi chảy với nước trong sạch, có mùi thơm, tương tự màu sắc của ngọc bích, được lai vãng bởi những đàn cá.

 

6496. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư Thiên.

 

6497. Thưa vị Bà-la-môn, ở trong hồ nước ấy có ba giống hoa sen với nhiều màu sắc: một số màu xanh, một số màu trắng, và một số màu đỏ.

 

6498. Các hoa sen ở tại nơi ấy tựa như vải sợi len. Hồ nước ấy có tên là Mucalinda, được che phủ bởi các loài sen trắng, súng trắng, và cây kalamba.

 

6499. Rồi ở nơi này, các hoa sen nở rộ được nhìn thấy như là vô số kể. Chúng nở rộ vào mùa nóng, vào mùa lạnh; chúng vươn cao đến đầu gối, và che lấp phần ở bên dưới.

 

6500. Có những hương thơm tỏa ra bao trùm các bông hoa nhiều màu sắc. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

 

6501. Rồi ở nơi này, thưa vị Bà-la-môn, có những giống cây sống ở trong nước. Các cây kadamba, các cây pāṭalī nở rộ, và các cây kovilāra đã được trổ hoa.

 

6502. Các cây aṅkola, các cây kaccikāra, và các cây pārijañña đã được trổ hoa. Có những cây vāraṇa và sāyana ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

 

6503. Các cây keo, các cây setapārīsa, các cây padmaka tỏa ra làn gió tốt lành. Các cây nigguṇḍī, các cây sirinigguṇḍī, và các cây asana ở nơi ấy được đã được trổ hoa.

 

6504. Các cây paṃgura, các cây vakula, các cây sāla, và các cây sobhañjana đã được trổ hoa. Các cây ketaka, các cây kaṇikāra, và các cây kaṇavera đã được trổ hoa.

 

6505. Các cây ajjuna, các cây ajjukaṇṇa, và các cây mahānāma đã được trổ hoa. Các cây kiṃsuka đứng thẳng, với các ngọn đã được trổ hoa trọn vẹn, tựa như đang cháy sáng.

 

6506. Các cây setapaṇṇi, các cây thất diệp, các cây chuối, các cây kusumbhara, các cây dhanu, các cây takkārī, cùng với các cây siṃsapā và các cây varaṇa có các bông hoa.

 

6507. Các cây acchiva, các cây sabala, các cây sallakī, các cây setageru, các cây tagara, các cây maṃsi, các cây kuṭṭha, và các cây kulāvara đã được trổ hoa.

 

6508. Các cây mới lớn và các cổ thụ ở nơi này không bị cong queo, đã trổ hoa, mọc ở cả hai bên của khu ẩn cư, xung quanh ngôi nhà thờ lửa.

 

6509. Rồi ở nơi này, các cây phajjaṇika được sanh trưởng nhiều ở trong nước, có các loại cây họ đậu như muggati và karati, có nhiều rong rêu và loài thủy thảo siṃsaka.

 

6510. Nước hồ được bao bọc bởi các bờ đất và bị xao động bởi gió. Có các loài ong tên gọi là hiṃgujāla. Và ở nơi này, có các cây dāsīma và các cây kacaka, có nhiều cây kalamba nhỏ thấp.

 

6511. Thưa vị Bà-la-môn, các cây còn sống được bao phủ bởi giống dây leo eḷambaraka; hương thơm của chúng được lưu lại bảy ngày.

 

6512. Các bông hoa xinh đẹp tồn tại ở hai bên hồ Mucalinda. Được bao phủ bởi các loài hoa súng xanh, khu rừng ấy trở nên rạng rỡ; hương thơm của chúng được lưu lại nửa tháng.

 

6513. Các loài dây leo nīlapupphī, setavārī, girikaṇṇikā đã được trổ hoa, Khu rừng ấy được bao phủ bởi các cây kaṭeruka và các bụi cây tulasī.

 

6514. Khu rừng ấy dường như làm cho con người say đắm với hương thơm, với những cành hoa. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

 

6515. Thưa vị Bà-la-môn, có ba loại dây bí đã mọc lên ở cái hồ nước ấy. Và một số có trái lớn bằng chậu nước, hai loại kia có trái lớn bằng cái trống con.

 

6516. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải, cây tỏi màu xanh, cây asī tựa như cây thốt nốt sinh trưởng; có nhiều hoa súng xanh có thể ngắt (bằng tay).

 

6517. (Có các loài dây leo như) cây apphoṭā, cây suriyavallī, cây kāḷiyā, cây madhugandhiya, cây asoka, cây mudayantī, cây vallibha, và cây khuddapupphiya.

 

6518. Các bụi cây koraṇḍaka, cây anojā, các loài dây leo nāgā và vallikā đã được trổ hoa. Các loài dây leo kiṃsuka đã leo lên thân cây rồi sinh trưởng, và nở rộ hoa.

 

6519. Các cây kaṭeruha, cây vāsantī, cây yūthikā, cây madhugandhiya, cây nīliyā, cây hoa nhài trâu, cây bhaṇḍī, cây padumuttara rạng ngời rực rỡ.

 

6520. Các cây hoa kèn, cây samuddakappāsi, và cây kaṇikārā đã trổ hoa, được nhìn thấy tựa như tấm lưới bằng vàng, sáng lấp lánh tương tự ngọn lửa.

 

6521. Bất cứ những loài hoa nào đã sinh trưởng ở đất liền và ở trong nước, tất cả đều được nhìn thấy ở tại nơi ấy; hồ Mucalinda chứa đựng khối nước lớn đáng yêu như vậy.

 

6522. Rồi hồ nước này có nhiều loài thủy tộc, như là cá rohita, cá naḷapī, cá siṅgu, cá sấu, cá kiếm, và cá susu.

 

6523. Mật ong, cây cam thảo, và cây tālīsa, cây piyaṅguka, cây unnaka, cây bhaddamutta, cây satapuppha, và cây lolupa.

 

6524. Và các loại cây có mùi thơm là vô số như cây tagara, cây tuṅgavaṇṭaka, cây padmaka, cây narada, cây kuṭṭha, cây jhāmaka, và cây hareṇukā.

 

6525. Các cây nghệ, các loại đá thơm, và các cây hirivera, cây guggula, cây vibhedikā, cây coraka, cây kuṭṭha, cây long não, cây kaliṅgu.

 

6526. Rồi ở nơi này, có các con sư tử, các con cọp, các nữ Dạ-xoa mặt lừa, các con voi, các con sơn dương, các con hoẵng, và có cả các con hươu, các con nai rừng.

 

6527. Hai loài chó: chó koṭṭhu và chó suṇa, các con nai nhỏ, chồn bay, sóc, bò mộng, hai loài nai: nai calanī và nai laṅghī, ba loài khỉ: khỉ jhāpitā, khỉ makkaṭā, và khỉ picu.

 

6528. Hai loài nai lớn: nai kakkaṭa và nai katamāya, gấu, trâu rừng là có nhiều, tê ngưu, heo rừng, cáo, và sóc đen là vô số ở nơi này.

 

6529. Các con trâu rừng, chó nhà, chó rừng, và các con vượn ở khắp nơi; các con kỷ đà, tắc kè, nai đốm, và cả các con báo.

 

6530. Các con thỏ rừng, diều hâu, sư tử, chim quạ, gà lôi, nai, chim công, thiên nga trắng, và chim trĩ.

 

6531. Các con gà gô, gà rừng, các con voi cất tiếng hót đối đáp qua lại; có các chim cò, chim diệc, gà nước, chim le le, chim kuñja, và chim vādika.

 

6532. Các chim ưng, chim diều hâu đỏ, chim pampaka, chim jīvajīvaka, chim kapiñjara, chim đa đa, chim kulāva, và chim paṭikuttaka.

 

6533. Các con chim maddālaka, chim celakedu, chim bhaṇḍu, và chim tên đa đa, chim celābaka, chim piṅgulā, chim godhaka, và chim aṅgahetuka.

 

6534. Các con chim karaviya, chim vagga, chim cú mèo, chim ưng biển. (Khu rừng) được đông đúc với những bầy chim khác loại, líu lo với nhiều giọng hót khác nhau.

 

6535. Rồi ở nơi này, có những con chim màu lục sẫm có tiếng hót du dương; chúng vui đùa với những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

 

6536. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, có cặp mắt đẹp với đuôi mắt màu trắng, có chùm lông đuôi nhiều màu sắc.

 

6537. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, là những con chim công với những cái cổ màu lục, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

 

6538. Các con chim trĩ, chim kulīraka, chim gõ kiến, chim pokkharasātaka, chim kāḷāmeyya, chim balīyakkha, chim kadamba, chim két, và chim sāḷika.

 

6539. Rồi ở nơi này, các con chim naḷaka màu vàng nghệ, màu đỏ, màu trắng là có nhiều, chim vāraṇa, chim hiṅgurāja, chim kadamba, chim két, và chim cu cu.

 

6540. Các con chim ưng, chim ó biển, chim thiên nga, chim bồ nông, chim parivadantika, chim pākahaṃsa vô cùng mạnh mẽ, chim najjuha, và chim jīvajīvaka.

 

6541. Các con chim bố câu, chim ravihaṃsa, chim hồng hạc, chim nadīcara, chim vāraṇa với tiếng kêu đáng yêu, cất lên tiếng hót vào cả hai thời điểm (ban ngày và ban đêm).

 

6542. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau; chúng vui đùa cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

 

6543. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau, tất cả bọn chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

 

6544. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh tên gọi karaviya; chúng vui đùa cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

 

6545. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh tên gọi karaviya; tất cả bọn chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

 

6546. Khu rừng đông đúc với các con sơn dương, các con hoẵng, được tới lui bởi các con voi, được che phủ bởi những loài dây leo khác nhau, được lai vãng bởi các con nai kadali.

 

6547. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải, nhiều lúa mọc hoang và đậu varaka, lúa sāli đơm hạt không phải cày bừa và cây mía ở nơi ấy không phải là ít.

 

6548. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Người đã đạt đến nơi ấy không tìm thấy sự đói, sự khát, và sự bất mãn, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

 

6549. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.”

 

6550. Nghe được điều này, lão Bà-la-môn đã đi nhiễu quanh vị ẩn sĩ, rồi với tâm phấn khởi, đã khởi hành đi đến nơi vị Vessantara đang ở.

 

Phần Mô Tả Khu Rừng Lớn được hoàn tất.

 

(Lời vị Vessantara)

6551. “Này Jāli, con hãy đứng lên và hãy đứng ngay ngắn. Được nhìn thấy như là trước đây, như khi cha nhìn thấy vị Bà-la-môn, các niềm vui lan tỏa ở nơi cha.”

 

6552. “Thưa cha, con cũng nhìn thấy; vị ấy có vẻ như là vị Bà-la-môn, dường như vị ấy đi đến có mục đích. Chúng ta sẽ có khách.”

 

(Lời trao đổi giữa Bà-la-môn Jūjaka và vị Vessantara)

6553. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

 

6554. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

 

6555. “Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được an khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

 

6556. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

 

6557. Suốt bảy tháng chúng tôi sống cuộc sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nhìn thấy người này đầu tiên, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo cây gậy bằng gỗ beḷuva, cái bật lửa, và bình nước uống.

 

6558. Này vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ông đã đến và việc đi đến tốt lành của ông. Xin ông hãy đi vào bên trong. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho ông. Xin ông hãy rửa sạch hai bàn chân của ông.

 

6559. Này vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka, piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ông hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

 

6560. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hãy uống nước từ nơi ấy nếu ông muốn.

 

6561. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, mà ông đã đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

 

6562. “Giống như dòng nước chảy luôn luôn được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta đã đi đến để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hãy ban cho ta hai người con.”

 

6563. “Tôi sẽ ban cho, tôi không do dự. Này vị Bà-la-môn, ông là chủ nhân, ông hãy dẫn chúng đi. Vào buổi sáng, nàng công chúa đã ra đi, chiều tối, nàng sẽ trở về sau việc thu nhặt củ quả.

 

6564. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra đi, để nàng ấy tắm rửa, xức dầu thơm, rồi đeo tràng hoa cho chúng.

 

6565. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra đi. Này vị Bà-la-môn, ông sẽ ra đi mang theo hai đứa trẻ đã được che phủ với các bông hoa khác nhau, đã được tô điểm với nhiều hương thơm khác nhau, đã được chất đầy với các loại củ quả khác nhau.”

 

6566. “Ta không thích thú việc ở lại, việc ra đi được ta vui thích. Có thể có sự nguy hiểm cho ta, thưa đấng thủ lãnh xa binh, ta cần phải ra đi.

 

6567. Bởi vì nàng ấy không sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, có thể gây trở ngại. Các nữ nhân biết được quỷ kế. Họ nắm giữ mọi thứ theo sự sai trái.

 

6568. Đối với người đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và quả), chớ nhìn người mẹ của những đứa trẻ ấy. Nàng ấy thậm chí có thể gây trở ngại, thưa đấng thủ lãnh xa binh, ta cần phải ra đi.

 

6569. Xin ngài hãy thông báo cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ của chúng. Đối với người đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và quả), như vậy phước báu được tăng trưởng.

 

6570. Xin ngài hãy thông báo cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ của chúng. Tâu bệ hạ, sau khi bố thí tài sản đến người như ta đây, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.”

 

6571. “Nếu ông không muốn gặp người vợ chung thủy của tôi, ông hãy cho cả hai Jāli và Kaṇhājinā gặp mặt ông nội.

 

6572. Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này, ông nội sẽ sung sướng, có thiện ý, hân hoan, rồi sẽ ban cho ông nhiều tài sản.”

 

6573. “Ta sợ hãi về tội bắt cóc. Thưa thái tử, xin ngài hãy lắng nghe tôi. Đức vua có thể ban cho ta hình phạt, có thể bán ta đi, hoặc giết chết ta. Bị thất bại về tài sản và những kẻ nô tỳ, ta sẽ bị chê trách bởi vị nữ Bà-la-môn (người vợ).”

 

6574. “Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này, vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đứng vững ở công lý, sau khi đạt được tâm phỉ lạc, sẽ ban cho ông nhiều tài sản.”

 

6575. “Ta sẽ không làm theo điều mà ngài chỉ bảo cho ta. Và ta sẽ dẫn hai đứa trẻ về làm người hầu hạ cho vị nữ Bà-la-môn.”

 

6576. Vì thế, sau khi nghe được lời nói của kẻ hung ác, cả hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā, bị bức hiếp, đã bỏ chạy đến nơi này nơi khác.

 

(Lời vị Vessantara nói với con trai Jāli)

6577. “Này con thương, con hãy đến. Này con trai yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo lời nói của cha.

 

6578. Và con hãy là phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha sẽ giúp cho cả thế gian luôn cả chư Thiên vượt qua.”

 

(Lời vị Vessantara nói với con gái Kaṇhājinā)

6579. “Này con thương, con hãy đến. Này con gái yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo lời nói của cha.

 

6580. Và con hãy là phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha sẽ nâng đỡ thế gian luôn cả chư Thiên.”

 

6581. Sau đó, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đã dắt hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã bố thí vật thí đến lão Bà-la-môn.

 

6582. Sau đó, vị Vessantara đã dắt hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã hân hoan bố thí vật thí tối thượng – là hai đứa con nhỏ – đến lão Bà-la-môn.

 

6583. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc hai đứa con nhỏ được ban ra, trái đất đã rúng động.

 

6584. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc đức vua, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã chắp tay lại, và đã bố thí vật thí – là hai đứa trẻ đã được sống sung sướng – đến lão Bà-la-môn.

 

6585. Sau đó, lão Bà-la-môn hung ác ấy đã dùng những chiếc răng cắn đứt sợi dây rừng, và đã trói hai cánh tay của hai đứa trẻ lại bằng sợi dây rừng, rồi đã dùng sợi dây rừng quất vào chúng.

 

6586. Kế đến, lão Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã cầm lấy cây gậy, rồi vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi đức vua xứ Sivi đang dõi mắt nhìn theo.

 

6587. Tiếp đó, hai đứa trẻ, sau khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, đã bỏ đi. Đứa bé trai ấy đã ngước nhìn cha với cặp mắt tràn đầy nước mắt.

 

6588. Đứa bé trai đảnh lễ hai bàn chân của người cha, trong khi đang run rẩy tựa như chiếc lá sung. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân của người cha, nó đã nói lời nói này:

 

6589. “Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố thí chúng con. Thưa cha, hãy chờ đến khi chúng ta gặp lại mẹ rồi cha sẽ bố thí chúng con.

 

6590. Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố thí chúng con. Thưa cha, cha chớ bố thí chúng con cho đến khi mẹ về lại với chúng con. Khi ấy, hãy để cho lão Bà-la-môn này bán chúng con hoặc giết chết tùy ý.

 

6591. Bàn chân (của lão) to rộng, móng dơ dáy, mông xệ xuống, môi trên trề ra, nhểu nước miếng, nhe răng nanh, mũi bị gãy.

 

6592. Bụng (của lão) như cái lu, lưng còng, rồi hai mắt không đều, râu màu hung đỏ, tóc màu vàng, da nhăn nheo, lấm tấm các chấm tàn nhang.

 

6593. Hai mắt như mắt mèo, hông, lưng, và thân cong quẹo, bàn chân bị biến dạng, mặc y phục da dê đồ sộ và thô kệch, không giống con người, là kẻ gây nên nỗi sợ hãi.

 

6594. Thưa cha, lão là người hay là Dạ-xoa có thức ăn là thịt và máu, mà lão đã từ làng đi vào rừng cầu xin cha tài sản? Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?

 

6595. Phải chăng trái tim của cha là tảng đá, là cục sắt có sự trói buộc chặt chẽ, khi cha không biết đến chúng con bị lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập chúng con như là đánh đập trâu bò?

 

6596. Hãy để Kaṇhā ở lại ngay tại nơi này. Nó không hiểu biết bất cứ việc gì. Nó tựa như con nai cái nhỏ bị lạc khỏi bầy, thèm khát sữa mẹ, kêu khóc.

 

6597. Việc (bị đánh đập) như thế này không là điều khổ sở đối với con, bởi vì việc này loài người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy mẹ, việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này.

 

6598. Việc (bị đánh đập) như thế này không là điều khổ đau đối với con, bởi vì việc này loài người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy cha, việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này.

 

6599. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

 

6600. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

 

6601. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu ẩn cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

 

6602. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu ẩn cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

 

6603. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên khô cạn.

 

6604. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên khô cạn.

 

6605. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về cha, hôm nay, chúng con từ giã những giống cây đa dạng ấy.

 

6606. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, hôm nay, chúng con từ giã những loại trái cây đa dạng ấy.

 

6607. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi chúng con đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

 

6608. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con mang đi trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

 

6609. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con ăn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

 

6610. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, chúng con đùa giỡn với chúng trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.”

 

6611. Hai đứa trẻ ấy, trong khi bị lôi đi, đã nói với người cha điều này: “Cha ơi, cầu mong mẹ sẽ sống mạnh khỏe, và cầu mong cha được an lạc.

 

6612. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, cha có thể trao chúng cho mẹ; với chúng mẹ sẽ vơi đi nỗi sầu muộn.

 

6613. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, trong khi ngắm nhìn chúng, mẹ sẽ dẹp đi nỗi sầu muộn.”

 

6614. Sau đó, khi đã bố thí xong vật thí (hai con), đức vua Vessantara, vị Sát-đế-lỵ, đã đi vào gian nhà lá và đã than khóc một cách bi thương rằng:

 

6615. “Vậy thì hôm nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị đói, bị khát? Ai sẽ cho chúng thức ăn lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ?

 

6616. Vậy thì hôm nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị đói, bị khát lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ rằng: ‘Mẹ ơi, chúng con đói. Hãy cho chúng con ăn’?

 

6617. Làm thế nào chúng có thể đi bộ đường xa, không giày dép, bị mệt nhọc với hai bàn chân bị sưng vù? Ai sẽ nắm lấy bàn tay chúng (dẫn đi)?

 

6618. Tại sao lão ấy không có xấu hổ trong khi đánh đập chúng ngay trước mặt ta, trong khi hai đứa con của ta không phải là những đứa trẻ tồi bại? Lão Bà-la-môn quả thật vô liêm sỉ!

 

6619. Người có sự liêm sỉ thì ai sẽ đánh đập kẻ vô cùng hư hỏng, khi chính kẻ ấy có thể là tôi trai, tớ gái, hay là kẻ hầu hạ nào khác của ta?

 

6620. Lão sỉ vả và đánh đập hai đứa con yêu quý của ta, trong khi ta tựa như con cá đã bị giam hãm ở miệng của chiếc lưới đánh cá.

 

6621. Ta sẽ cầm lấy cây cung và buộc thanh gươm ở phía trái, rồi sẽ dẫn đi hai đứa con của mình, bởi vì sự đọa đày của hai đứa con là nỗi khổ đau.

 

6622. Điều này là không có cơ sở, là trạng thái khổ đau về việc hai đứa trẻ có thể bị giết chết. Người nào đã hiểu rõ truyền thống của các bậc thiện nhân mà còn bị tiếc nuối sau khi đã bố thí?”

 

(Lời Lời than van của bé trai Jāli)

6623. “Nghe rằng sự thật là như vầy, một số người ở thế gian này đã nói rằng: ‘Người nào (có cha) mà không có mẹ của mình thì giống như là không có; ta đây là như thế ấy.

 

6624. Này Kaṇhā, hãy đến. Chúng ta sẽ chết. Mạng sống của chúng ta không có ý nghĩa gì. Chúng ta đã được cha bố thí cho lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, là kẻ đánh đập chúng ta như là đánh đập trâu bò.

 

6625. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về cha, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những giống cây đa dạng ấy.

 

6626. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những loại trái cây đa dạng ấy.

 

6627. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi chúng con đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng ta từ giã chúng.

 

6628. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng ta mang đi trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.

 

6629. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng ta ăn trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.

 

6630. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng ta, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng ta, chúng ta đùa giỡn với chúng trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.”

 

6631. Hai đứa trẻ ấy, trong khi bị lôi đi, sau khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, cả hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā đã bỏ chạy đến nơi này nơi khác.

 

6632. Sau đó, lão Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã cầm lấy cây gậy, rồi vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi đức vua xứ Sivi đang dõi mắt nhìn theo.

 

6633. Kaṇhājinā đã nói điều ấy với cha rằng: “Cha ơi, lão Bà-la-môn này đánh con bằng cây gậy như là đánh đứa tớ gái đã được sanh ra ở trong nhà.

 

6634. Và cha ơi, lão này không phải là Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lý. Cha ơi, gã Dạ-xoa với vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn thịt. Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?”

 

(Lời than van của bé gái Kaṇhājinā)

6635. “Các bàn chân nhỏ của chúng con đau nhức, và cuộc hành trình dài là vô cùng khó đi. Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp, và lão Bà-la-môn thúc giục chúng con bước đi.

 

6636. Chúng con cầu khấn các thần linh, các ngọn núi và các khu rừng. Chúng con xin cúi đầu đảnh lễ (các gia tộc loài rồng cai quản) hồ nước và (đang cư ngụ) ở dòng sông có những bến tắm xinh đẹp.

 

6637. Thưa các loài cỏ, các giống dây leo, các thảo dược, các ngọn núi và các khu rừng, xin các ngài hãy chúc sức khỏe cho mẹ. Lão Bà-la-môn này dẫn chúng con đi.

 

6638. Xin các ngài hãy nói với mẹ Maddī, là mẹ của chúng con, rằng: ‘Nếu mẹ muốn đuổi theo, mẹ nên mau chóng đuổi theo chúng con.

 

6639. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Mẹ nên đi theo chính lối đi ấy, mẹ có thể mau chóng nhìn thấy chúng con.

 

6640. Ôi, hỡi người mẹ có tóc bện, hỡi người mẹ mang lại rễ và trái cây rừng, sau khi nhìn thấy khu ẩn cư trống không, điều ấy sẽ là nỗi đau khổ cho mẹ.

 

6641. Phải chăng quá tốn thời gian cho mẹ trong việc đạt được không ít củ quả thu nhặt? Và mẹ không biết chúng con bị lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập chúng con như là đánh đập trâu bò?

 

6642. Ôi, ước gì hôm nay chúng con cũng còn nhìn thấy mẹ trở về vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Mẹ sẽ mời lão Bà-la-môn món trái cây trộn với mật ong.

 

6643. Một khi đã được ăn no, đã được thỏa mãn, lão này có thể không thúc giục chúng con một cách tàn nhẫn. Lão Bà-la-môn quả thật đã thúc giục một cách tàn nhẫn khiến các bàn chân của chúng con bị sưng vù.’” Với sự mong ngóng mẹ, hai đứa trẻ đã than van tại nơi ấy như thế.

 

Đoạn Về Hai Đứa Trẻ.

 

6644. Sau khi nghe lời than vãn của hai đứa trẻ, các Thiên nhân đã nói với ba vị Thiên tử lời nói này: “Ba ngài hãy biến thành ba loài thú dữ trong khu rừng là: sư tử, cọp, và beo.

 

6645. Chớ bao giờ để nàng công chúa của chúng ta trở về vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Chớ bao giờ để các loài thú ở trong khu rừng vắng vẻ của chúng ta giết hại nàng ấy.

 

6646. Nếu loài sư tử, cọp, và beo giết hại người mẹ gương mẫu ấy, làm sao bé trai Jāli và bé gái Kaṇhājinā có thể sống còn? Với cả hai điều ấy, hãy để con người gương mẫu được sống đến già với chồng và hai người con.”

 

(Lời công chúa Maddī)

6647. “Cây xẻng nhỏ của ta rơi xuống, và con mắt phải co giật, các cây có trái trở nên không còn trái, tất cả phương hướng đối với ta trở nên mờ mịt.

 

6648. Đối với ta đây, vào thời điểm chiều tối là việc trở về lại khu ẩn cư. Khi mặt trời đã lặn xuống, các thú dữ đã rình rập ở con đường.

 

6649. Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp, và khu ẩn cư thật sự là còn xa. Và vật mà ta sẽ mang về từ nơi này là thức ăn mà họ có thể thọ dụng.

 

6650. Có lẽ vị Sát-đế-lỵ ấy một mình ngồi yên ở gian nhà lá, đang dỗ dành hai đứa trẻ bị đói bụng sau khi nhìn thấy ta còn chưa về.

 

6651. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống sữa.

 

6652. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống nước.

 

6653. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con bê thơ dại trông chờ bò mẹ.

 

6654. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn con.

 

6655. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta ở chỗ không xa khu ẩn cư.

 

6656. Có con đường chỉ vừa đủ cho một người đi bộ, là con đường độc đạo, bên hông là hồ nước và đầm lầy. Ta không nhìn thấy con đường nào khác theo đó có thể đi về khu ẩn cư.

 

6657. Xin kính lễ các loài thú là các vị vua có sức mạnh vĩ đại ở chốn rừng thẳm. Theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta.[2] Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.

 

6658. Ta là vợ của vị thái tử có sự vinh quang và đã bị đày đọa. Nhưng ta không khinh thường chồng, tựa như nàng Sīta chung thủy không khi dễ Rāma chồng nàng.

 

6659. Các ngài có thể nhìn thấy các con lúc chiều tối, khi đến giờ đi ngủ. Và ta có thể gặp lại các con, cả hai Jāli và Kaṇhājinā.

 

6660. Rễ củ và trái cây này là có nhiều, và thức ăn này không phải là ít. Ta sẽ để lại một nửa trong số này. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.

 

6661. Mẹ của chúng ta là con gái của vua, và cha của chúng ta là con trai của vua. Theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.”

 

6662. Sau khi lắng nghe lời nói êm ái chứa đựng nhiều bi thương của nàng lúc nàng ấy đang than vãn, các con thú dữ đã rời khỏi con đường bỏ đi.

 

(Lời công chúa Maddī)

6663. “Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con bê thơ dại trông chờ bò mẹ.

 

6664. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn con.

 

6665. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta ở chỗ không xa khu ẩn cư.

 

6666. Chúng tựa như những con thú con, vểnh tai lên, hối hả chạy đến gần bên, vui vẻ, mừng rỡ, nhảy nhót, làm rung động trái tim người mẹ. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6667. Tựa như con dê cái, con nai cái rời bầy thú con, tựa như con chim được tự do khỏi chiếc lồng, tựa như con sư tử cái thèm muốn thức ăn, ta đã rời khỏi hai con và đã đi ra ngoài. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6668. Dấu chân này của chúng tựa như dấu chân như của các con voi ở ngọn núi. Có những đống cát rải rác ở chỗ không xa khu ẩn cư. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6669. Hai đứa con nhỏ, bị phủ đầy đất cát, bị lem luốc bụi bặm, hối hả chạy đến gần bên. Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

 

6670. Trước đây, chúng thường đi ra đón ta đang trở về ở đằng xa, từ phía khu rừng. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6671. Tựa như bầy thú con đi ra đón dê mẹ, nai mẹ, hai đứa trẻ từ khu ẩn cư đi ra đón ta, trông ngóng ta ở đằng xa, Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

 

6672. Đồ chơi này của chúng, trái beluva màu vàng nhạt, đã bị rơi lăn lóc. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6673. Hai bầu vú này của ta căng đầy sữa, và lồng ngực của ta tan nát. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6674. Chúng bám lấy hông của ta, một đứa đeo một bầu vú. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6675. Vào lúc chiều tối của ta đây, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, quây quần ở bên hông của ta. Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

 

6676. Khu ẩn cư này đây, lúc trước, đối với ta có vẻ như là hội chợ. Hôm nay, trong khi ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy, khu ẩn cư tựa như quay tròn.

 

6677. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

 

6678. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

 

6679. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối qua. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

 

6680. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối qua. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

 

6681. Ôi tướng công của thiếp, phải chăng các con thú đã ăn thịt hai đứa trẻ? Ai đó trong khu rừng cằn cỗi, hoang vu đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp?

 

6682. Hay chúng đã được phái đi làm sứ giả? Hay hai đứa trẻ ăn nói dễ thương đã ngủ? Hay chúng mải mê ở các trò chơi rồi chạy ra bên ngoài?

 

6683. Mái tóc của chúng vẫn không nhìn thấy, tay chân của Jāli cũng không. Có phải các con chim đã bắt đi? Ai đó đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp?

 

6684. Giống như vết thương bị đâm thủng bởi mũi tên, việc này còn khổ đau hơn thế. Hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6685. Việc này cũng là mũi tên thứ hai làm rung động trái tim của thiếp. Việc thiếp không nhìn thấy hai con và việc chàng không nói chuyện với thiếp.

 

6686. Thưa hoàng tử, nội ngày nay, trong đêm này, nếu chàng không thông báo cho thiếp, thiếp nghĩ rằng thiếp có mạng sống đã chấm dứt. Sáng sớm mai, chàng sẽ thấy thiếp đã chết.”

 

(Lời đức Bồ-tát Vessantara)

6687. “Này công chúa Maddī cao sang, có danh vọng, phải chăng nàng đã ra đi lúc sáng sớm cho việc thu nhặt củ quả, tại sao nàng lại trở về vào lúc chiều tối thế này?”

 

(Lời công chúa Maddī)

6688. “Phải chăng chàng đã nghe âm thanh của loài sư tử và cọp gầm rống khi chúng đi đến hồ nước để uống nước và tiếng hót (của bầy chim)?

 

6689. Đã có dấu hiệu báo trước cho thiếp trong khi thiếp đang đi lang thang ở khu rừng rộng lớn: Cây xẻng nhỏ của thiếp đã rời khỏi bàn tay rơi xuống, và thậm chí cái quai giỏ bị trượt khỏi bờ vai.

 

6690. Khi ấy, thiếp đã bị ức chế, bị khiếp sợ, thiếp đã lần lượt chắp tay lại lễ bái tất cả các phương, mong sao có được sự bình yên từ việc này.

 

6691. Vị thái tử của chúng tôi chớ bị giết chết bởi loài sư tử hay loài báo. Hoặc hai đứa trẻ chớ bị tấn công bởi các con gấu, chó sói, và chó rừng.

 

6692. Sư tử, cọp, và beo là ba loài thú dữ ở khu rừng. Chúng đã bao vây thiếp ở con đường; vì thế, thiếp đã trở về vào lúc chiều tối.

 

6693. Thiếp là người nữ có tóc bện, có thực hành Phạm hạnh, đã chăm sóc chồng và hai con ngày đêm, tựa như chàng trai trẻ chăm sóc vị thầy dạy học.

 

6694. Sau khi khoác lên các tấm da dê, mẹ đi lang thang ngày đêm, mang về rễ và trái cây rừng bởi vì lòng thương mến các con, hỡi hai đứa con nhỏ.

 

6695. Củ nghệ màu vàng này và trái beḷuva màu vàng nhạt đã được mang lại, và mẹ đã mang về các trái cây chín; này hai con nhỏ, các thứ này là đồ chơi dành cho các con.

 

6696. Thưa vị Sát- đế- lỵ, chàng hãy ăn củ sen, ngó sen, ngó súng, và hạt dẻ nước này được trộn với các loại mật ong cùng các con.

 

6697. Chàng hãy cho Jāli đóa sen hồng, rồi cho con gái bông súng trắng. Chàng hãy nhìn các con có đeo tràng hoa đang nhảy múa. Thưa ngài Sivi, xin chàng hãy gọi các con.

 

6698. Sau đó, thưa đấng thủ lãnh xa binh, xin chàng hãy lắng nghe giọng nói du dương, dễ thương của Kaṇhājinā khi con đang đi đến gần nơi ẩn cư.

 

6699. Đã bị trục xuất khỏi đất nước, cả hai chúng ta sướng khổ cùng nhau. Chàng cũng hãy cho thiếp nhìn thấy những người con của Sivi, cả hai Jāli và Kaṇhājinā.

 

6700. Phải chăng thiếp đã nguyền rủa các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn chuyên chú hành Phạm hạnh, có giới hạnh, có kiến thức rộng ở thế gian, nên hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā?

 

6701. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về chàng, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy những giống cây đa dạng ấy.

 

6702. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy những loại trái cây đa dạng ấy.

 

6703. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6704. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã mang đi trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6705. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã ăn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6706. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của các con, và những con trâu (đồ chơi) này của hai con, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6707. Những con nai vàng, thỏ, cú mèo này, và nhiều con nai kadali, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6708. Các con chim thiên nga, các con cò này, và các con công có chùm lông đuôi nhiều màu sắc, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6709. Những khóm cây rừng này đây được trổ hoa vào mọi thời điểm, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6710. Những hồ nước này đây đáng yêu, với những con hồng hạc kêu ríu rít, được che phủ bởi những loài thủy thảo và những hoa sen hồng sen xanh, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

 

6711. Các thanh củi không được chàng chẻ nhỏ, nước không được chàng mang lại, thậm chí ngọn lửa cũng không được chàng chăm sóc, chàng trầm tư điều gì tựa như kẻ ngu khờ?

 

6712. Người thương sau khi gặp gỡ với người thương, sự mệt nhọc của thiếp được tan biến. Hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

 

6713. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của thiếp đã bị hãm hại!

 

6714. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!”

 

6715. Sau khi than khóc tại chỗ đó, nàng ấy đã đi đến các ngọn núi và các khu rừng, rồi khu ẩn cư thêm một lần nữa và khóc lóc bên cạnh chồng rằng:

 

6716. “Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của thiếp đã bị hãm hại!

 

6717. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

 

6718. Ôi bệ hạ, trong khi đi lang thang ở các gốc cây, ở các ngọn núi, và ở các hang động, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi.”

 

6719. Nàng công chúa Maddī cao sang, có danh vọng, đã đưa hai cánh tay lên kêu khóc như thế, rồi đã ngã xuống ở trên mặt đất, ngay tại chỗ ấy.

 

6720. Khi nàng công chúa bị ngã xuống, vị Vessantara đã rảy nước cho nàng ấy. Sau khi biết được nàng ấy đã được tỉnh táo, vị Vessantara đã nói với nàng ấy điều này:

 

6721. “Này Maddī, ngay từ ban đầu, ta đã không muốn tạo ra sự khổ đau cho nàng. Có lão hành khất Bà-la-môn nghèo khó, già cả, đã đi đến nhà. Hai con đã được ta ban cho lão ấy. Này Maddī, nàng chớ lo sợ. Hãy bình tĩnh.

 

6722. Này Maddī, nàng hãy nhìn ta. Nàng chớ than khóc cho các con quá nhiều. Chúng ta sẽ nhận lại các con. Chúng ta sẽ sống và khỏe mạnh.

 

6723. Sau khi nhìn thấy người hành khất đi đến, bậc thiện nhân có thế bố thí vật thí là các đứa con, gia súc, thóc lúa, và tài sản khác ở trong nhà. Này Maddī, nàng hãy tùy hỷ với ta về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ.”

 

6724. “Thưa bệ hạ, thiếp tùy hỷ với chàng về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ. Sau khi bố thí, chàng hãy khiến cho tâm được tịnh tín và hãy là người ban bố vật thí nhiều hơn nữa.

 

6725. Thưa quân vương, giữa những người có trạng thái bỏn xẻn, chàng đây đã ban vật thí đến vị Bà-la-môn, chàng là bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi.

 

6726. Vì chàng trái đất đã gầm rú, vì chàng tiếng động đã đi đến Thiên cung, các tia chớp đã phát ra ở khắp nơi, tựa như các ngọn núi đã có sự đồng ý.

 

6727. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và Pabbata tùy hỷ đối với chàng đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā, vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và Vessavaṇa, tất cả chư Thiên ở cõi Trời Đạo Lợi với Thiên Chủ Inda đều tùy hỷ.”

 

6728. Nàng công chúa Maddī cao sang, có danh vọng đã tùy hỷ vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ của vị Vessantara như thế.

 

Đoạn Về Nàng Maddī được hoàn tất.

 

6729. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc mọc lên của mặt trời, Thiên Chủ Sakka, với vóc dáng Bà-la-môn, đã hiện ra với hai người ấy[3] vào lúc sáng sớm.

 

(Lời Thiên Chủ Sakka)

6730. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

 

6731. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

 

(Lời đức Bồ- tát Vessantara)

6732. “Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được an khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

 

6733. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

 

6734. Suốt bảy tháng chúng tôi sống cuộc sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nhìn thấy người này lần thứ nhì, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo cây gậy bằng gỗ beḷuva, đang mặc áo choàng da dê.

 

6735. Này vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ông đã đến và việc đi đến tốt lành của ông. Thưa ông, xin ông hãy đi vào bên trong. Xin ông hãy rửa sạch hai bàn chân của ông.

 

6736. Này vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka, piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ông hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

 

6737. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hãy uống nước từ nơi ấy nếu ông muốn.

 

6738. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, mà ông đã đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

 

6739. “Giống như dòng nước chảy luôn luôn được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta đã đi đến để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hãy ban cho ta người vợ.”

 

6740. “Này vị Bà-la-môn, tôi sẽ ban cho, tôi không do dự việc mà ông yêu cầu tôi. Tôi không cất giấu vật đang có. Tâm của tôi vui thích trong việc bố thí.”

 

6741. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở bàn tay và cái bình đựng nước, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đã ban vật thí đến vị Bà-la-môn.

 

6742. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Trong lúc vị ấy ban tặng nàng Maddī cho người này, trái đất đã rúng động.

 

6743. Nàng Maddī không có chút cau mày, không bất bình, không khóc lóc. Nàng chỉ nhìn, im lặng (nghĩ rằng): “Chàng biết việc ấy là cao quý.”

 

6744. Trong khi dứt bỏ con trai Jāli, con gái Kaṇhājinā, và hoàng hậu Maddī người vợ chung thủy, Ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

 

6745. Cả hai đứa con không có bị ta ghét bỏ, hoàng hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với Ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế Ta đã bố thí những người thân yêu.

 

(Lời công chúa Maddī)

6746. “Khi còn con gái, thiếp là vợ của chàng. Người chồng là chủ nhân của thiếp. Chàng có thể ban tặng thiếp cho người nào chàng muốn, hoặc có thể bán đi, hoặc có thể giết chết.”

 

6747. Biết được ý định của hai người, vị chúa của chư Thiên đã nói điều này: “Ngài đã chiến thắng tất cả các chướng ngại thuộc cõi Trời và cõi người.

 

6748. Vì ngài trái đất đã gầm rú, vì ngài tiếng động đã đi đến Thiên cung. Các tia chớp đã phát ra ở khắp nơi, tựa như các ngọn núi đã có sự đồng ý.

 

6749. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và Pabbata tùy hỷ đối với ngài đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā, vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và Vessavaṇa, tất cả chư Thiên đều tùy hỷ, bởi vì ngài đây làm được công việc khó làm.

 

6750. Trong khi họ cho vật khó cho, trong khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được; pháp của những người tốt là khó đạt đến.

 

6751. Vì thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau, những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cõi trời.

 

6752. Việc ngài đã bố thí hai đứa trẻ, đã bố thí người vợ trong khi sống ở trong rừng được gọi là cỗ xe tối thượng; sau khi không đọa vào khổ cảnh, việc ấy hãy thành tựu kết quả cho ngài ở cõi Trời.

 

6753. Ta ban lại cho ngài nàng Maddī, người vợ có sự xinh đẹp toàn thân. Chính ngài là tương xứng với nàng Maddī, và nàng Maddī là tương xứng với chồng.

 

6754. Giống như sữa và vỏ sò, cả hai có màu sắc giống nhau, tương tự như vậy, ngài và nàng Maddī có tâm ý tương đồng.

 

6755. Bị đày đọa, cả hai vị sống ở nơi này, trong khu rừng, tại khu ẩn cư. Hai vị là Sát-đế-lỵ, được thành tựu về dòng họ, thuộc dòng dõi cao sang về bên mẹ và bên cha. Hai vị có thể làm phước thiện như thế trong khi tiếp tục bố thí.

 

6756. Ta là Sakka, chúa tể của chư Thiên, đã đi đến bên cạnh ngài. Thưa vị ẩn sĩ của hoàng gia, ta ban cho ngài tám điều ước muốn.”

 

6757. “Tâu Thiên Chủ Sakka, tâu vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ước muốn, mong rằng phụ vương có thể tùy thuận cho tôi từ nơi này trở về lại nhà của mình, và có thể trao lại vương vị; tôi chọn điều ước muốn thứ nhất ấy.

 

6758. Tôi không vui thích việc xử tử con người, dầu là kẻ đã gây tội ác, tôi có thể giải thoát kẻ tử tù khỏi cái chết; tôi chọn điều ước muốn thứ nhì này.

 

6759. Các lão niên, các thanh niên, và các trung niên có thể sống nương tựa vào chính tôi; tôi chọn điều ước muốn thứ ba này.

 

6760. Tôi không quyến rũ vợ người khác, trung thành với vợ của mình, không bị ở dưới quyền lực của nữ nhân; tôi chọn điều ước muốn thứ tư này.

 

6761. Thưa Thiên Chủ Sakka, mong rằng con trai của tôi được sanh ra, nó được sống lâu và có thể trị vì trái đất một cách công minh; tôi chọn điều ước muốn thứ năm này.

 

6762. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc mọc lên của mặt trời, các thực phẩm của cõi Trời sẽ hiện ra; tôi chọn điều ước muốn thứ sáu này.

 

6763. (Vật thí) không bị cạn kiệt trong khi tôi đang bố thí, tôi không hối tiếc sau khi bố thí, tôi có tâm tịnh tính trong khi bố thí; tôi chọn điều ước muốn thứ bảy này.

 

6764. Trong khi được giải thoát từ nơi này, tôi có sự đi đến cõi Trời, là sự ra đi đặc biệt, từ nơi ấy tôi không có sự tái sanh nữa; tôi chọn điều ước muốn thứ tám này.”

 

6765. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của Vessantara, vị chúa của chư Thiên đã nói điều này: “Quả thật, không bao lâu nữa, người cha của ngài sẽ đi đến để gặp lại ngài.”

 

6766. Sau khi nói điều này, vị Trời Đế Thích, đấng Thiên Vương, chồng của nàng Sujā đã ban điều ước muốn cho Vessantara rồi đã trở về lại tập thể cõi Trời.

 

Đoạn Về Thiên Chủ Sakka được hoàn tất.

 

(Lời đại vương Sañjaya)

6767. “Khuôn mặt này là của ai mà chói sáng tựa như vàng được nấu chảy bởi ngọn lửa, tựa như đồng tiền bằng vàng rực rỡ ở miệng bễ lò rèn?

 

6768. Cả hai có các bộ phận cơ thể tương tự, cả hai có đặc điểm tương tự, đứa bé trai giống như Jāli, đứa bé gái giống như Kaṇhājinā.

 

6769. Tựa như hai con sư tử đang đi ra khỏi hang, cả hai có hình dáng giống nhau. Hai đứa trẻ này có vẻ như được làm toàn bằng vàng.

 

6770. Này vị Bhāradvāja, từ nơi nào mà lão dẫn lại hai đứa trẻ này? Hôm nay, ngài đã đến được vương quốc, này vị Bà-la-môn, ngài từ nơi nào đi đến?”

 

(Lời Bà-la-môn Jūjaka)

6771. “Tâu bệ hạ, hai đứa trẻ ấy thuộc về thần. Tâu đại vương Sañjaya, chúng đã được ban cho với sự hân hoan. Kể tử khi hai đứa trẻ đã được bố thí cho thần, đến nay là mười lăm đêm.”

 

6772. “Bằng lời nói ngon ngọt nào (mà lão đã đạt được hai đứa trẻ)? Lão hãy làm cho trẫm tin bằng cách thức đúng đắn. Ai đã bố thí cho lão vật thí ấy – hai đứa con nhỏ – là vật thí tối thượng?”

 

6773. “Đức vua Vessantara là nơi nương tựa của những người cầu xin, tựa như trái đất là nơi nương tựa của các sinh linh, vị vua ấy đã bố thí cho thần hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng.

 

6774. Đức vua Vessantara là đích đến của những người cầu xin, tựa như biển cả là đích đến của các dòng sông, vị vua ấy đã bố thí cho thần hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng.”

 

(Lời các quan đại thần)

6775. “Quả thật vị vua có đức tin trong lúc đang ở nhà đã làm điều sai trái. Vậy tại sao kẻ bị đày đọa ở trong rừng vẫn có thế bố thí hai đứa con nhỏ?

 

6776. Hỡi quý ông, hết thảy quý ông đã tụ hội ở nơi này, xin quý ông hãy chú tâm lắng nghe điều này: Tại sao đức vua Vessantara đã bố thí hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng?

 

6777. Vị ấy có thể bố thí tôi trai và tớ gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái và voi đực, tại sao vị ấy lại bố thí hai đứa trẻ?”

 

(Lời bé trai Jāli)

6778. “Thưa ông nội, người không có tôi trai, tớ gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái, voi đực, và long tượng, người ấy có thể bố thí cái gì?”

 

6779. “Này hai con nhỏ, chúng ta không khen và chúng ta không chê việc bố thí của người này, vậy trái tim của người này đã như thế nào sau khi đã bố thí hai con cho người nghèo khổ?”

 

6780. “Trái tim của người này đã khổ sở, và ngài cũng nhìn thấy sức nóng của nó. Với hai mắt đỏ ngầu như ngôi sao Rohiṇī, cha đã để cho các giọt nước mắt tuôn trào.

 

6781. Điều mà Kaṇhājinā đã nói với cha rằng: ‘Cha ơi, lão Bà-la-môn này đánh con bằng cây gậy như là đánh đứa tớ gái đã được sanh ra ở trong nhà.

 

6782. Và cha ơi, lão này không phải là Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lý. Cha ơi, gã Dạ-xoa với vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn thịt. Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?’”

 

(Lời đại vương Sañjaya)

6783. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha của hai con là thái tử. Trước đây, hai con đã trèo vào lòng của ông, giờ hai con tại sao lại đứng ở đằng xa?”

 

(Lời bé trai Jāli)

6784. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha của hai con là thái tử. Chúng con là nô lệ của lão Bà-la-môn; vì thế, chúng con đứng ở đằng xa.”

 

6785. “Cháu yêu, chớ nói như thế. Trái tim của nội bị đốt nóng. Thân thể nội tựa như giàn lửa thiêu, nội không đạt được sự thoải mái ở chiếc ghế ngồi.

 

6786. Cháu yêu, chớ nói như thế. Chớ tạo thêm nỗi sầu muộn cho nội. Nội sẽ chuộc lại với giá cao, các cháu sẽ không còn là nô lệ.

 

6787. Này cháu, cha đã định giá hai cháu thế nào rồi trao hai cháu cho lão Bà-la-môn? Cháu hãy nói đúng theo sự thật với nội. Hãy để các giá cả khiến lão Bà-la-môn chấp nhận.

 

6788. Thưa nội, bởi vì cha đã trao con cho lão Bà-la-môn với giá một ngàn, còn Kaṇhājinā thơ ngây là con gái với giá một trăm voi và (các thứ khác mỗi thứ một trăm).”

 

6789. “Này quan thủ kho, khanh hãy đứng dậy và cấp tốc chi trả cho vị Bà-la-môn. Khanh hãy xuất ra một trăm tớ gái, một trăm tôi trai, gia súc, voi, bò mỗi thứ một trăm, và một ngàn tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ.”

 

6790. Sau đó, viên quan thủ kho đã cấp tốc chi trả cho vị Bà-la-môn. Vị ấy đã xuất ra một trăm tớ gái, một trăm tôi trai, gia súc, voi, bò mỗi thứ một trăm, và một ngàn tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ.

 

6791. Sau khi đã chuộc lại, vị đại vương đã bảo người cho hai đứa trẻ tắm rửa, ăn uống, trang điểm với vật dụng, rồi cho đặt vào ngồi ở trong lòng.

 

6793. Khi hai đứa trẻ đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, đức vua, tức ông nội, đã đặt chúng vào lòng và hỏi han.

 

6794. Khi hai đứa trẻ đã được chưng diện với mọi vật trang điểm, có vòng hoa, và bông tai kêu leng keng, đức vua đã đặt Jāli vào lòng và đã nói lời nói này:

 

6795. “Này Jāli, phải chăng cả hai người họ, mẹ và cha của cháu, đều khỏe mạnh? Phải chăng họ nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

 

6796. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát, và không có sự hãm hại đến với họ ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

 

6797. “Tâu bệ hạ, cả hai người họ, mẹ và cha của cháu, đều khỏe mạnh. Họ nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

 

6798. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát, và không có sự hãm hại đến với họ ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

 

6799. Trong khi đào các củ khoai mỡ, củ cải, củ hành, và củ takkala, mẹ đã mang về trái táo rừng, hạt dẻ, trái bella, rồi nuôi dưỡng chúng con.

 

6800. Mẹ là người mang về rễ và trái cây rừng, bất cứ vật gì mà mẹ mang về, tất cả chúng con đã quây quần lại và ăn vật ấy, ban đêm và ban ngày.

 

6801. Và mẹ của chúng con, trong khi mang trái cây về, đã trở nên gầy ốm, vàng vọt, mảnh mai bởi gió và nắng, tựa như đóa sen bị bàn tay dày vò.

 

6802. Các sợi tóc của mẹ trở nên mỏng manh trong khi mẹ đi lang thang ở khu rừng rộng lớn, ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo.

 

6803. Mẹ đã buộc các sợi tóc thành bện và mang đất ở nách, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

 

6804. Những đứa con trai đã được sanh ra ở thế gian đều được mọi người yêu quý. Ông nội của chúng con chắc chắn đã không có lòng yêu thương con trai!”

 

6805. “Này cháu Jāli, quả thật là điều đã làm sai trái của nội. Nội đã tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển. Nội đây vì lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đã trục xuất người không tồi bại.

 

6806. Bất cứ vật gì của ta có ở nơi này, tài sản và thóc lúa hiện có (nội cho tất cả đến cha cháu). Hãy để Vessantara trở về làm vua, hãy để Vessantara lãnh đạo đất nước Sivi.”

 

6807. “Tâu bệ hạ, với lời nói của cháu thì con người vô cùng cao cả của xứ Sivi sẽ không trở về. Chính đích thân bệ hạ hãy đi đến và ban tặng các của cải cho người con trai ruột.”

 

6808. Sau đó, đại vương Sañjaya đã ra lệnh cho vị tướng lãnh quân đội rằng: “Hãy cho các đoàn quân gồm có tượng binh, mã binh, xa binh, và bộ binh nai nịt để đón rước vị ấy. Còn các thị dân và các vị quan tế tự Bà-la-môn hãy đi theo trẫm.

 

6809. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến, đã được nai nịt, đã được trang phục với nhiều màu sắc khác nhau, hãy cấp tốc đi đến.

 

6810. Nhiều vị mang y phục màu xanh, nhiều vị mặc màu vàng, nhiều vị khác có khăn đội đầu màu đỏ, nhiều vị mặc màu trắng, đã được nai nịt, đã được trang phục với nhiều y phục khác nhau, hãy cấp tốc đi đến.

 

6811, 6812. Giống như ngọn núi tuyết Gandhamādana – có hương thơm, được che phủ bởi nhiều loại cây khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên, – chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương bởi các loại thảo dược của cõi Trời, các vị đã được nai nịt hãy cấp tốc đi đến, hãy chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương.

 

6813, 6814. Kế đến, hãy thắng yên cương cho mười bốn ngàn con voi, là những con khổng tượng có dây đai bằng vàng, có trang phục là yên cương bằng vàng, được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay. Các viên quản tượng đã được nai nịt, đã được nhìn thấy ngồi trên mình của các con voi, hãy cấp tốc đi đến.

 

6815, 6816. Kế đến, hãy thắng yên cương cho mười bốn ngàn con ngựa, là những con ngựa Sindhu thuần chủng về dòng dõi, có sức chuyển vận mau lẹ, được cỡi lên bởi các kỵ mã có mang gươm và cung. Các kỵ mã đã được nai nịt, đã được trang phục, ngồi trên lưng của các con ngựa, hãy cấp tốc đi đến.

 

6817. Kế đến, hãy thắng ngựa cho mười bốn ngàn con cỗ xe, có các vành bánh xe được làm cẩn thận bằng sắt, có các khung xe được khảm bằng vàng.

 

6818. Ở trên xe, hãy treo lên các cờ hiệu và các mộc che bằng da thú, và hãy cho các cung thủ có tài nghệ vững chắc giương các cây cung. Các xa phu ở trên các cỗ xe, đã được nai nịt, hãy cấp tốc đi đến.

 

6819. Hãy để sẵn các cánh hoa để tung lên, các bông hoa, các tràng hoa, nước thơm, dầu thơm, và các vật có giá trị dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

 

6820. Hãy bày ra ở mỗi ngôi làng một trăm chum rượu ủ men và rượu nấu, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

 

6821. Hãy bày ra các món thịt, các loại bánh ngọt, bánh saṅkulī, bánh kem, được kết hợp với các món cá, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

 

6822. Hãy bày ra bơ lỏng, dầu ăn, sữa đông, sữa tươi, và nhiều rượu làm từ hạt kê, làm từ hạt lúa, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

 

6823. (Hãy tập hợp) các thợ nướng bánh, các đầu bếp, các vũ công, các kịch sĩ, các ca sĩ, các nghệ sĩ hát theo nhịp vỗ tay, các nghệ nhân biểu diễn chum và trống, các nữ ca sĩ giọng trầm, các nghệ sĩ giải khuây.

 

6824. Hãy cho tấu lên tất cả các cây đàn vīṇā, các trống lớn, và các trống con, hãy cho thổi lên các tù và vỏ ốc miệng lớn, và hãy làm vang lên các chiếc trống một mặt.

 

6825. Hãy cho vỗ lên các trống nhỏ, các chập chõa, các tù và vỏ ốc, các nhạc cụ godha, các đàn dây, các trống con, và các chiếc trống kuṭumba.”

 

6826. Đạo quân vĩ đại ấy, binh đội của xứ Sivi đã xuất phát, đã khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo sự hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli.

 

6827. Con khổng tượng, con voi sáu mươi năm tuổi, rống lên tiếng kêu của loài voi. Con voi rống lên tiếng kêu của loài voi trong khi yên cương đang được buộc vào.

 

6828. Các con ngựa thuần chủng đã hí vang, tiếng động của bánh xe đã nổi lên, bụi mù đã che phủ bầu trời, binh đội của xứ Sivi đã xuất phát.

 

6829. Đạo quân vĩ đại ấy, mang theo vật cần thiết, đã xuất phát, đã khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo sự hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli.

 

6830. Họ đã đi vào khu rừng rộng lớn, có nhiều cành cây, có nhiều đầm nước, được che phủ bởi cả hai loại: các cây cho hoa và các cây ăn quả.

 

6831. Tại nơi ấy, ở thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót hòa theo con chim đang hót.

 

6832. Họ đã đi đoạn đường dài (sáu mươi do-tuần). Khi đã trải qua nhiều ngày đêm, họ đã đi đến gần khu vực ấy, nơi vị Vessantara cư ngụ.

 

Đoạn Về Vị Đại Vương được hoàn tất.

 

6833. Sau khi nghe được tiếng động của những người ấy, Vessantara đã trở nên hoảng sợ. Vị ấy đã leo lên ngọn núi, và hoảng sợ quan sát đạo quân.

 

6834. “Này Maddī, nàng hãy lắng tai nghe. Có tiếng động như thế này ở khu rừng: các con ngựa thuần chủng hí vang và các cờ hiệu được nhìn thấy.

 

 6835. Phải chăng những gã thợ săn này đã dùng các tấm lưới rào quanh, rồi lùa các bầy thú ở khu rừng rơi xuống hố liền khi ấy, và trong lúc la hét, chúng giết chết những con thú ngon nhất trong số đó bằng những lao nhọn?

 

6836. Giống như chúng ta là những người không tồi bại, những kẻ bị đày đọa ở trong rừng đã bị rơi vào bàn tay của kẻ thù. Nàng hãy nhìn xem kẻ sát hại những người yếu đuối.”

 

6837. “Các kẻ thù không có thể áp bức được chàng, tựa như ngọn lửa ở trong biển nước. Chàng hãy suy xét đến chính điều ấy,[4] cũng có thể có sự bình yên từ việc này.

 

6838. Sau đó, đức vua Vessantara đã leo xuống núi, rồi đã ngồi xuống ở gian nhà lá, sau khi đã củng cố lại tâm ý.

 

6839. Sau khi đã bảo cỗ xe quay lại và sau khi đã cho bố trí quân lính bảo vệ, người cha (đại vương Sañjaya) đã đi đến gặp người con (đức vua Vessantara) đang sống một mình ở trong khu rừng.

 

6840. Sau khi leo xuống từ mình voi, vị đại vương đã khoác hoàng bào một bên vai trái, chắp tay lại. Được tùy tùng bởi các quan đại thần, ngài đã đi đến để phục hồi vương vị cho người con trai.

 

6841. Tại nơi ấy, ngài đã nhìn thấy vị vương tử có dáng vẻ đáng yêu, bình tĩnh, ngồi ở gian nhà lá, đang trầm tư, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.

 

6842. Và sau khi nhìn thấy người cha ấy đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đã đi ra đón tiếp và thi lễ.

 

6843. Nàng Maddī đã đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của cha chồng (nói rằng): “Tâu bệ hạ, thần thiếp chính là Maddī, con dâu của bệ hạ, xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài.” Tại nơi ấy, vua cha đã ôm chầm lấy hai người và vuốt ve bằng bàn tay.

 

(Lời trao đổi giữa hai cha con, đại vương Sañjaya và đức vua Vessantara)

6844. “Này con trai, phải chăng con được an khang? Này con trai, phải chăng con được vô sự? Phải chăng các con nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

 

6845. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

 

6846. “Tâu bệ hạ, chúng con có cách kiếm sống, và cách ấy là thấp kém. Sinh kế quả thật khó khăn, chúng con nuôi mạng bằng việc thu nhặt củ quả.

 

6847. Tâu đại vương, tựa như người đánh xe rèn luyện con ngựa chưa được thuần phục, chúng con đây chưa được thành tựu, nhưng đã được rèn luyện; sự bất hạnh rèn luyện chúng con.

 

6848. Tuy nhiên, là những người bị đày đọa ở trong rừng, có cuộc sống sầu muộn, tâu đại vương, chúng con có thân thể bị ốm o, do việc không nhìn thấy cha và mẹ.

 

6849. Thậm chí, cả hai Jāli và Kaṇhājinā – những người thừa kế còn chưa được thành tựu của cha là vị đứng đầu xứ Sivi – thì đã ở dưới quyền lực của lão Bà-la-môn vô cùng hung ác; gã đánh đập hai trẻ như là đánh đập trâu bò.

 

6850. Nếu cha biết về hai đứa con ấy của công chúa Maddī, xin cha hãy thông báo. Xin cha hãy mau chóng làm chủ cho chúng con, tựa như cứu chữa người thanh niên bị rắn cắn.”

 

6851. “Cả hai đứa trẻ đã được chuộc lại, cả hai Jāli và Kaṇhājinā, sau khi cha đã ban bố tài sản cho lão Bà-la-môn. Này con trai, chớ sợ hãi, hãy bình tĩnh.”

 

6852. “Thưa cha, phải chăng cha được an khang? Thưa cha, phải chăng cha được vô sự? Thưa cha, phải chăng mắt của mẹ con không bị hư hoại?”

 

6853. “Này con trai, cha được an khang. Và này con trai, cha được vô sự. Này con trai, còn mắt của mẹ con không bị hư hoại.”

 

6854. “Phải chăng bầy thú kéo xe của cha không có bệnh? Và phải chăng cỗ xe hoạt động tốt?Phải chăng các xứ sở được thịnh vượng? Phải chăng mưa không bị gián đoạn?”

 

6855. “Bầy thú kéo xe của cha không có bệnh, và cỗ xe hoạt động tốt. Còn các xứ sở được thịnh vượng, và mưa không bị gián đoạn.”

 

6856. Trong khi hai người đang trao đổi như vậy, mẫu hậu – cũng là một công chúa, đi bộ, không giày dép – đã được nhìn thấy trong số mọi người, ở lối đi vào ngọn núi.

 

6857. Và sau khi nhìn thấy người mẹ ấy đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đã đi ra đón tiếp và thi lễ.

 

6858. Nàng Maddī đã đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của mẹ chồng (nói rằng): “Thưa mẫu hậu, thần thiếp chính là Maddī, con dâu của mẫu hậu, xin đảnh lễ hai bàn chân của mẫu hậu.”

 

6859. Và hai đứa con nhỏ, đã đi đến bình yên, sau khi nhìn thấy nàng Maddī từ đằng xa, đã khóc lóc chạy đến mẹ, tựa như hai con bê thơ dại chạy đến bò mẹ.

 

6860. Và nàng Maddī, sau khi nhìn thấy từ đằng xa hai đứa con nhỏ đã đi đến bình yên, trong lúc đang run rẩy tựa như người bị phi nhân nhập, đã tiết ra hai dòng sữa từ hai bầu vú.

 

6861. Vào lúc các thân quyến đã gặp lại nhau, có tiếng động lớn đã sanh lên, các ngọn núi đã cùng nhau gào thét, trái đất đã bị rúng động.

 

6862. Trong khi ban cho đám mây mưa, trời đã đổ mưa ngay lập tức. Khi ấy, đức vua Vessantara đã gặp gỡ với các thân quyến.

 

6863. Hai cháu nội, con dâu, con trai, vị đại vương, và hoàng hậu đã ở chung một nơi. Vào lúc họ gặp gỡ nhau, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông.

 

6864. Tất cả dân chúng đã tụ tập lại ở khu rừng khiếp đảm, chắp tay lên hướng về vị ấy, khóc lóc, thỉnh cầu Vessantara và Maddī rằng: “Ngài là chúa tể, là đức vua của chúng tôi. Xin cả hai vị hãy trị vì xứ sở của chúng tôi.”

 

Đoạn Về Sáu Vị Sát-đế-lỵ.

 

(Lời đức Bồ-tát Vessantara)

6865. “Trong khi con đang trị vì xứ sở một cách công minh, cha và luôn cả dân chúng nữa, cùng các thị dân đã tụ họp lại, các người đã trục xuất con ra khỏi đất nước.”

 

6866. “Này con trai, quả thật là điều đã làm sai trái của cha. Cha đã tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển. Cha đây vì lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đã trục xuất người không tồi bại.

 

6867. Bằng bất cứ cách thức nào đó, thậm chí là bằng sinh mạng của mình, con nên nhấc lên nỗi khổ đau cho cha, cho mẹ, và cho cả em gái nữa.”

 

6868. Sau đó, đức vua Vessantara đã cho gột rửa bụi bặm và cáu ghét. Sau khi đã cho gột rửa bụi bặm và cáu ghét, vị ấy đã trở lại vóc dáng thật sự.

 

6869. Vị ấy đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, sau đó đã cỡi lên con voi Paccaya và đã buộc chặt thanh gươm là vật làm cho kẻ thù phải bực bội.

 

6870. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến, được sanh ra cùng ngày, đã vây quanh, tạo niềm vui cho đấng thủ lãnh xa binh.

 

6871. Sau đó, các nàng hầu của đức vua Sivi đã tụ tập lại và cũng đã tắm gội cho nàng Maddī (và chúc tụng rằng): “Mong rằng Vessantara cùng với hai con Jāli và Kaṇhājinā hãy bảo vệ cho nàng. Rồi đại vương Sañjaya cũng hãy hộ trì cho nàng.”

 

6872. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, họ đã tổ chức lễ hội ăn mừng ở trong lòng ngọn núi Vaṅka đáng yêu.

 

6873. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, sau khi gặp lại các con, nàng Maddī đã vui mừng, hân hoan, hài lòng, có được khí sắc.

 

6874. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, cùng với hai con, nàng Maddī đã vui mừng, hân hoan, sung sướng, có được khí sắc.

 

(Lời nàng Maddī nói với hai con)

6875. “Trước đây, mẹ đã ăn ngày một bữa, thường xuyên nằm ngủ ở nền đất. Này hai con thơ, bởi vì mong mỏi các con mà mẹ đã sự hành trì như thế.

 

6876. Hôm nay, sự hành trì ấy của mẹ đã được thành tựu. Này hai con thơ, mẹ đã gặp lại hai con. Này con Jāli, mong rằng hạnh phúc đã sanh lên cho mẹ và đã sanh lên cho cha hãy bảo vệ con. Và mong rằng đại vương Sañjaya cũng hộ trì con.

 

6877. Và có bất cứ phước báu nào đã được tạo ra thuộc về mẹ và thuộc về cha của con, do tất cả các thiện pháp ấy, mong rằng con sẽ không già và không chết.”

 

6878. Mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu các thứ y phục bằng bông gòn, tơ lụa, sợi len, vải xứ Kodumbara; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

 

6879. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu y phục bằng sợi len, vòng đeo cánh tay, vòng đeo cổ tay, đai lưng bằng ngọc ma-ni; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

 

6880. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu y phục bằng sợi len, vòng đeo cánh tay, vòng đeo cổ làm bằng ngọc quý; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

 

6881. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu vật trang sức ở trán, tràng hoa ở bên trán, và các vòng đeo làm bằng ngọc ma-ni nhiều màu sắc; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

 

6882. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu hai vật trang sức khác nữa, thêm vào đai lưng, và vật trang sức ở bàn chân; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

 

6883. Sau khi xem xét vật trang sức có kết chỉ và không có kết chỉ, rồi trang điểm, nàng Maddī là hạng nhất. Nàng công chúa đã chói sáng, tựa như các Thiên nữ ở khu vườn Nandana.

 

6884. Khi đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, nàng công chúa đã chói sáng, tựa như các nữ thần ở cõi Trời Đạo Lợi.

 

6885. Tựa như cây chuối sanh trưởng ở khu rừng Cittalatā được va chạm bởi làn gió, nàng công chúa Maddī có đôi môi đỏ đã chói sáng.

 

6886. Tựa như loài nữ nhân điểu đã được sanh ra có cặp cánh nhiều màu sắc bay lượn, nàng công chúa với cặp môi tương tự như trái bimba chín màu đỏ đã chói sáng.

 

6887. Họ đã đem lại cho nàng ấy con voi, là con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.

 

6888. Nàng Maddī ấy đã leo lên con voi, là con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.

 

6889. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đã không hãm hại lẫn nhau.

 

6890. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đã không hãm hại lẫn nhau.

 

6891. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này đã tập trung lại một chỗ, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6892. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này đã tập trung lại một chỗ, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6893. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này đã không kêu lên các tiếng kêu, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6894. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này đã không hót lên các tiếng hót, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6895. Con đường vua đi đã được sửa soạn, đã được trang hoàng, đã được trải bông hoa, từ nơi Vessantara đã trú ngụ cho đến kinh thành Jetuttara.

 

6896. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6897. Các công nương, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6898. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6899. Các đám đông dân chúng và các đám đông thị dân đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6900. Các dũng sĩ đội mão tròn, mặc da thú, tay cầm gươm, mặc áo giáo đẹp, đã tiến lên phía trước khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

 

6901. Họ đã tiến vào kinh thành đáng yêu, có nhiều tường thành và cổng chào, được đầy đủ cơm ăn, nước uống, với các điệu vũ và lời ca, cả hai loại.

 

6902. Dân chúng đã được hân hoan, các thị dân đã tụ hội lại khi vị thái tử, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã về đến.

 

6903. Họ đã vẫy khăn chúc mừng khi vị bố thí của cải đi đến. Vị ấy đã đem đến sự vui mừng cho thành phố. Vị ấy đã công bố sự tự do khỏi sự trói buộc, giam cầm (cho tất cả chúng sanh).

 

6904. Trởi đã lập tức đổ xuống cơn mưa bằng vàng khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã tiến vào.

 

6905. Từ đó, đức vua Vessantara, vị Sát-đế-lỵ đã ban phát vật thí. Do sự hoại rã của thân, vị có trí tuệ ấy đã tái sanh vào cõi Trời.”

 

Bổn Sanh Vessantara Vĩ Đại. [547]

 

Nhóm Lớn được hoàn tất.

 

BỔN SANH ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.

 

--ooOoo--



[1] Công chúa Phusatī là con gái của đức vua Madda, vợ của đại vương Sañjaya, và là mẹ của Bồ Tát Vessantara (ND).

[2] Ta là con gái của vua loài người, các ngài cũng là con trai của vua loài thú. Như vậy, theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta (Sđd. 558).

[3] Hai người ấy là đức Bồ- tát Vessantara và người vợ là công chúa Maddī (ND).

[4] Lời tiên tri của Thiên Chủ Sakka về việc phụ hoàng sẽ vào rừng để rước Vessantara về lại hoàng cung (JaA. vi, 583). Xem câu kệ 6765 ở trang 463.


[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09[10]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]