THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
ĐẠI PHẬT SỬ - TẬP 1.B
Nguyên tác: Mingun Sayadaw
Tỳ khưu Minh Huệ biên dịch
[Trước] [Mục lục tập 1B] [Tiếp theo]
Chúng ta sẽ bắt đầu phần này bằng những bài giải thích về tướng trạng, phận sự, thành quả và nhân cần thiết. Tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa và ý nghĩa chính của các pháp Ba-la-mật cùng với tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết chung và riêng của chúng.
Trí tuệ phá ngã kiến (atta-diṭṭhi) chỉ xảy ra nhờ sự thông đạt những thực tại cùng tột của danh (nāma) và sắc (rūpa) qua pháp quán mỗi thực tại về tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết của nó. Tương tự, chỉ khi nào người ta biết được tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết chung và riêng của các pháp Ba-la-mật, khi đó người ta mới hiểu biết rõ ràng về chúng. Do đó, các bộ kinh thường mô tả bốn cách định nghĩa về các pháp Ba-la-mật.
Lakkhaṇa - Tướng trạng: Chú giải định nghĩa rằng: Sāmaññaṃ vā sabhāvo vā, dhāmmānaṃ lakkhanaṃ mataṃ - Tướng trạng có hai phương diện: (1) tướng chung (sāmañña) và (2) tướng riêng (sabhāva) (ví dụ: địa đại (paṭhavī) có hai loại đặc tánh, đó là (a) thay đổi, vô thường, bất toại nguyện, không chịu sự kiểm soát và (b) tánh cứng. Những đặc tánh trong phần (a) là chung đối với những đại khác, trong khi đó tánh cứng (b) là đặc tánh riêng của địa đại, những đại khác không có đặc tánh này).
Rasa - Phận sự: Chú giải định nghĩa rằng: Kiccaṃ vā tassa sampatti, rasati paridīpaye. Phận sự được giải thích cũng bằng hai cách: kicca và sampatti. (1) Kicca rasa: phận sự cần phải làm, và (2) Sampatti rasa: phận sự thành tựu.
Paccupaṭṭhāna - Sự hiện khởi: Chú giải định nghĩa rằng: Phalaṃ va paccupaṭṭhānaṃ upaṭṭhānākāropi vā. Bất cứ khi nào người ta quán xét sâu sắc về một đối tượng nào đó của tâm, điều gì thường xuất hiện trong tâm của người ấy liên quan đến bản chất của cảnh pháp (đối tượng của tâm) đang được suy xét, liên quan đến phận sự, nguyên nhân và kết quả của nó. Như vậy, bất cứ ai xuất hiện trong tâm của một người liên quan tới cảnh pháp anh ta đang nghĩ đến, được gọi thành quả hay sự hiện khởi.
Chú thích: Sự hiện khởi nên được hiểu là phala và upaṭṭhānākāra.
(a) phala: quả, là kết quả của các thực tại cùng tột và (b) upaṭṭhānākāra: sự vận hành hiện khởi trong tâm của hành giả (yogī). Bất cứ khi nào vị hành giả quán xét sâu sắc về một thực tại cùng tột nào đó, pháp liên quan đến bản chất, phận sự, nguyên nhân hoặc kết quả của thực tại ấy sẽ xuất hiện trong tâm. Như vậy sự liên hệ đến một trong bốn điều này và xuất hiện trong tâm của hành giả thì được gọi là hiện khởi.
Padaṭṭhāna - Nguyên nhân gần: Chú giải định nghĩa rằng: Asannakāranam yaṁ tu, padaṭṭhānanti tam matam - nhân tố phụ trợ cấp thiết cho sự sanh khởi một thực tại cùng tột (pháp Chân đế) được gọi là nguyên nhân gần.
Như vậy bốn điểm chính của các pháp Ba-la-mật là gì? Câu trả lời là: Trước hết bàn đến những điểm chung cho cả mười pháp Ba-la-mật, (1) chúng có đặc tánh là phục vụ lợi ích cho người khác (2) chúng có phận sự (kicca rasa) là giúp đỡ kẻ khác, hoặc thực hiện ngay (sampatti rasa), (3) sự hiện khởi của chúng là sự xuất hiện trong tâm của vị hành giả sự hiểu biết rằng chúng có bản tánh mong mỏi phúc lợi cho kẻ khác hay kết quả được thành Phật; (4) nguyên nhân gần của chúng là tâm Đại bi (Mahā-karunā) và Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla- ñāṇa).
Bốn nét đặc thù của mỗi pháp Ba-la-mật là: Ý chí được thành lập dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa để buông bỏ, bố thí, đem tài sản của mình cho kẻ khác thì được gọi là Bố thí Ba-la-mật (Dāna) (a) Dāna có đặc tánh buông bỏ; (b) Phận sự của Dāna là tiêu diệt sự tham luyến đối với những vật chất cho đi. (c) Sự hiện khởi của Dāna là trạng thái vô tham xuất hiện trong tâm của hành giả (bản chất của Dāna) hoặc sự giàu sang, thịnh vượng và kiếp sống hạnh phúc (kết quả của Dāna) (d) Nguyên nhân gần là vật cho đi, vì sự bố thí chỉ xảy ra khi nào có vật thí.
1. Bố thí Ba-la-mật (Dāna Paramī) được hiểu rõ chỉ khi nào nó được nghiên cứu rành mạch qua bốn khía cạnh này. Khi đã nghiên cứu như vậy, nó trở nên rõ ràng và hiểu rằng bố thí là hành động có đặc tính là dứt bỏ. Đồng thời nó tiêu diệt sự tham luyến đối với vật cho. Trong tâm của vị hành giả mà suy xét sâu sắc và cẩn trọng, sẽ xuất hiện trạng thái vô tham đối với những vật bố thí cúng dường hoặc sẽ xuất hiện loại nghiệp mà có thể đem lại một kiếp sống giàu sang và thịnh vượng. Bố thí chỉ xảy ra chỉ khi nào người ta có một cái gì đó để cho đi.
(Sự suy xét như vậy cũng được áp dụng cho tất cả những pháp Ba- la-mật còn lại).
2. Hành động thiện về thân và lời nói dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa thì được gọi là Giới Ba-la-mật (Sīla Paramī). Theo tạng Abhidhamma, Giới có nghĩa là kiên tránh những hành động sái quấy không được vi phạm (tức là những Sở hữu giới phần – virati cetasika) và tác ý (cetanā) để làm các phận sự cần phải làm.
(a) Giới có đặc tánh không cho phép những hành động về thân và lời nói sai trái, mà giữ chúng ở trong con đường thiện. Nó cũng có đặc tánh là làm nền tảng cho tất cả mọi hành động thiện lành. (b) Phận sự của giới là ngăn cản người ta làm những việc đi ngược với đạo đức - tức là ba ác nghiệp về thân và bốn ác nghiệp về khẩu. Hoặc nó giúp người ta đạt đến tình trạng có giới đức với các hành động về thân và lời nói vô tội và trong sạch. (d) Nguyên nhân gần của nó là hổ thẹn (hirī) và ghê sợ tội lỗi (ottapa).
3. Dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, nhóm tâm và các sở hữu tâm mong muốn thoát ly các kiếp sống dục trần, sau khi nhận rõ những tội lỗi của vật dục (vatthu kāma), phiền não dục và các kiếp sống khác nhau thì được gọi là Xuất gia Ba-la-mật (Nekhamma Paramī).
(a) Xuất gia Ba-la-mật có đặc tánh thoát ly khỏi các dục và cõi dục.
(b) Phận sự của nó là làm rõ nét những tội lỗi của các dục và cõi dục.
(c) Sự hiện khởi của nó là sự giác ngộ của hành giả, thấy rằng đang từ bỏ, xa lánh những trạng thái này của cõi dục.
(d) Nguyên nhân gần của nó là yểm ly trí (saṃvega-ñāṇa). (Saṃvega-ñāṇa - Yểm ly trí là trí được hình thành do sự ghê sợ (ottappa) các khổ nạn như sanh, già, bịnh, chết và các khổ cảnh)
4. Dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, sở hữu trí tuệ thông đạt các đặc tánh chung và riêng của các pháp là Trí tuệ Ba-la- mật (Paññā Paramī).
(a) Trí tuệ Ba-la-mật có đặc tánh thông đạt bản chất thật của các pháp; hoặc nhận biết chính xác các đặc tánh chung và riêng của các đối tượng qua sự suy quán, giống như người bắn cung thiện xảo bắn tên trúng vào mắt của con bò. (b) Phận sự của nó là soi sáng đối tượng giống như ngọn đèn (tiêu diệt bóng tối của vô minh (moha) che dấu bản chất của các đối tượng). (c) Sự hiện khởi của nó (về bản chất) là trạng thái không lẫn lộn trong tâm của hành giả, liên quan đến các đối tượng suy quán, như người hướng đạo chỉ đường cho khách bộ hành bị lạc trong rừng. Hoặc về kết quả, nó có kết quả lợi ích là thoát khỏi sự si mê đối với các đối tượng suy quán. (d) Nguyên nhân gần là định (samādhi) hoặc Tứ Thánh đế.
5. Dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa những cố gắng về thân và tâm vì phúc lợi của người khác thì được gọi là Tinh tấn Ba-la- mật (Viriya Paramī).
(a) Tinh tấn Ba-la-mật có đặc tánh là nỗ lực (rất cố gắng). (b) Phận sự của nó là hỗ trợ và làm các yếu tố sanh chung với nó tăng lên sức mạnh để chúng không lơi lỏng trong sự thực hành các việc phước thiện. (c) Sự hiện khởi của nó là tánh kiên trì trong tâm của hành giả, có tánh chất đối nghịch với sự dể duôi khi thực hành các việc phước thiện. (d) Nguyên nhân của nó là yểm ly trí (saṃvega-ñāṇa) hoặc tám nhân tố khơi dậy sự tinh tấn (viriyārambha-vatthu). Viriyārambha-vatthu: Đại đức Mahā Visuddhārama Sayadaw trong bộ sách Paramattha-sarūpa Bhedani của Ngài, ở phần nói về thiền quán, đã mô tả tám yếu tố khơi dậy tinh tấn (viriyārambha vatthu):hai yếu tố liên quan đến sự sửa sang và duy trì tinh tấn, hai yếu tố liên quan đến cuộc lữ hành, hai yếu tố liên quan đến sức khỏe; và hai yếu tố liên quan đến sự thọ thực.
(i) Vị tỳ khưu suy nghĩ như vầy: “Ta phải sửa y áo, v.v... Khi bận rộn như vậy, ta sẽ không dễ dàng chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Thế Tôn. Ta sẽ cố gắng chuyên tâm học giáo pháp trước khi bắt đầu công việc sửa y áo.”
(ii) Sau khi hoàn thành việc sửa y áo, vị ấy lại suy nghĩ: “Ta đã làm xong công việc. Trong khi làm việc ấy, ta không thể chú tâm vào giáo pháp của Đức Phật. Bây giờ ta phải siêng năng thực hành giáo pháp để bù vào thời gian phí phạm ấy.”
(i) Vị ấy suy xét như vầy: “Ta phải đi xa. Trong khi đi xa, ta khó chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Phật. Ta sẽ cố gắng thực hành giáo pháp trước khi đi xa.”
(ii) Sau khi đến nơi rồi, vị ấy suy xét: “Ta đã trải qua một chuyến lữ hành. Trong khi thực hiện chuyến đi, ta không thể chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Phật. Bây giờ ta phải siêng năng thực hành giáo pháp để bù lại thời gian bỏ phí ấy.”
(i) Lúc bắt đầu bịnh nhẹ, vị ấy suy xét như vầy: “Ta mới bị bịnh nhẹ; bịnh có thể nặng hơn. Vậy trong lúc này ta phải tranh thủ hành đạo trước khi bịnh trở nên nặng hơn.”
(ii) Khi đang bình phục, vị ấy suy xét như vầy: “Ta vừa mới khỏi bịnh; nó có thể tái phát bất cứ lúc nào. Ta sẽ tinh tấn hành đạo trước khi bịnh cũ tái phát.”
(i) Khi vật thực đi bát ít ỏi, vị ấy suy xét như vầy: “Ta chỉ nhận được chút ít vật thực sau khi đi bát về. Bữa ăn ít ỏi sẽ làm cho thân ta được nhẹ nhàng, linh hoạt, không lười biếng giải đãi. Ta phải cố gắng hành đạo ngay.”
(ii) Khi kiếm được đầy đủ vật thực, vị ấy suy xét như vầy: “Ta đi bát về với đầy đủ vật thực. Nó sẽ giúp ta mạnh khỏe để tinh tấn hành đạo. Ta phải cố gắng hành đạo ngay.”
Đây là tám yếu tố để tăng cường tinh tấn (viriyārambha-vatthu). Trái ngược với tám yếu tố này, có tám yếu tố khác làm khởi dậy giải đãi (kusīta-vatthu).
Khi phải làm công việc may vá nào đó, vị tỳ khưu trì hoãn viện cớ rằng: “Làm việc này rất mệt, ta sẽ ngủ một giấc cho khỏe rồi làm.” Khi phải đi xa, vị ấy cũng viện cớ như vậy.
Khi bắt đầu cảm thấy không khỏe, vị tỳ khưu than phiền về tình trạng khó ở của mình và đi ngủ. Khi vị ấy đã có đủ vật thực, vị ấy cũng nằm ngủ vì nặng bụng. Khi may vá xong, hoặc đi xa về, hoặc vừa mới khỏi bịnh, hoặc có ít vật thực, vị ấy cũng than phiền: “Mệt quá! Ta sẽ nghỉ một lát.” Bằng cách này, vị tỳ khưu đã viện đủ lý do một cách ngớ ngẩn để không cố gắng tu tập các phước lành.
Tám viriyārambha-vatthu và tám kusīta-vatthu được giải rõ ở bài kinh 10-Saṅgīti, Pāthika Vagga của Trường bộ kinh
6. Dựa trên tâm Đại bi (mahā-karuṇā) và Phương tiện thiện xảo trí (upāya-kosalla-ñāṇa) nhẫn nại chịu đựng những hành động sai trái của kẻ khác (hoặc theo tạng Abhidhamma, nhóm tâm và những sở hữu khởi sanh trong cách nhẫn nại như vậy, dẫn đầu là sở hữu vô sân (adosa) là Kham nhẫn Ba-la-mật (Khanti Paramī).
(a) Kham nhẫn Ba-la-mật có đặc tánh là chịu đựng bằng sự nhẫn nại; (b) Phận sự của nó là vượt qua cả những cảnh đáng yêu và đáng ghét. (Người không có pháp nhẫn nại thường khởi tâm tham khi gặp cảnh khả ái; và nổi sân khi gặp cảnh trái ý, nghịch lòng. Người như vậy được xem là kẻ bị cuốn theo cảnh. Người có pháp nhẫn nại thường vững vàng, kiểm soát được cả tham lẫn sân. Sự nhẫn nại như vậy được xem là chiến thắng tất cả mọi cảnh dù thuận hay nghịch). (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là sự nhẫn nại, chịu đựng đối với cả cảnh thuận lẫn cảnh nghịch; (d) Nguyên nhân gần của nó là thấy rõ thật tánh của các pháp.
7. Dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, việc nói lời chân thật và giữ lời hứa là Chân thật Ba-la-mật (Sacca Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, nó là sở hữu giới phần (viratī cetasika) đồng sanh với sở hữu tư (cetanā cetasika) hoặc sở hữu trí tuệ (paññā cetasika) tùy thuộc vào hoàn cảnh).
(a) Chân thật Ba-la-mật có đặc tánh chân thật. (b) Phận sự của nó là làm sáng tỏ đúng sự thật. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là tánh cao quý, ngọt ngào và dễ chịu. (d) Nguyên nhân gần của nó là sự trong sạch trong hành vi, lời nói và ý nghĩ.
8. Dựa vào Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, quyết tâm bất di bất dịch theo đuổi các việc phước là Chí nguyện Ba-la-mật (Adhiṭṭhāna Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, đó là nhóm tâm và sở hữu đồng sanh khởi sanh trong hành động quyết định như vậy).
(a) Chí nguyện Ba-la-mật có đặc tánh là sự quyết tâm bất di bất dịch trong việc thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, sự hy sinh, và thực hành giới như là những tư lương cho sự giác ngộ. (b) Phận sự của nó là vượt qua những bất thiện pháp đối nghịch với những pháp dẫn đến sự giác ngộ. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là tánh kiên định trong việc thực hành viên mãn các pháp dẫn đến giác ngộ. (d) Nguyên nhân gần của nó là những pháp dẫn đến giác ngộ.
9. Dựa trên Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của thế gian là Tâm từ Ba-la-mật (Mettā Paramī). Nó là sở hữu vô sân theo định nghĩa của tạng Abhidhamma.
(a) Tâm từ Ba-la-mật có đặc tánh là mong ước sự thịnh vượng đến chúng sanh.
(b) Phận sự của nó là làm các việc lợi sanh để hoàn thành mong ước ấy (hoặc) phận sự của nó là đoạn trừ chín nguyên nhân của sự oán giận (xem ở chương Nhẫn nại Ba-la-mật, cuốn I phần I, Anudīpanī).
(c) Sự hiện khởi của nó trong tâm của hành giả là trạng thái khinh an.
(d) Nguyên nhân gần của nó là nhìn tất cả chúng sanh đều đáng thương (sự tu tập tâm từ không thể có kết quả nếu người ta nhìn chúng sanh bằng cặp mắt không thân thiện).
10. Dựa trên tâm Mahā-karunā và Upāya-kosalla-ñāṇa, thái độ vô tư, không thiên vị đối với những chúng sanh đáng mến và đáng ghét, do đã loại trừ thương và ghét là Hành xả Ba-la-mật (Upekkha Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, đó là Sở hữu Hành xả (tatramajjhattatā) sanh lên trong những cách ấy) (a) Hành xả Ba-la- mật có đặc tánh là giữ tâm ở vị trí giữa thương và ghét. (b) Phận sự của nó là có cái nhìn vô tư. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm của hành giả là sự vắng lặng của thương lẫn ghét. (d) Nguyên nhân gần của nó là sự quán xét rằng tất cả chúng sanh đều có nghiệp (kamma) là tài sản riêng của họ.
Mỗi bài mô tả trên về các pháp Ba-la-mật bắt đầu bằng nhóm chữ chỉ điều kiện phải có: “Dựa trên tâm Đại bi (Mahā-karuṇa) và phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṇa)”. Hai thuộc tánh này hình thành những đức tính cơ bản luôn hiện diện trong dòng tâm của chư vị Bồ tát và chỉ khi nào những hành động như dāna, sīla, v.v… được thực hành dựa trên hai đức này, khi ấy chúng mới được gọi là Pāramī.
Mục lục chính Tập 1A Tập 1B Tập 2 Tập 3 Tập 4 Tập 5 Tập 6A Tập 6B