TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 01
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập I
ẤN BẢN
2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở núi Gijjhakūṭa. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm đă dựng lên ở sườn núi Isigili những túp lều bằng cỏ rồi vào mùa (an cư) mưa. Đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm cũng đă dựng lên túp lều bằng cỏ và vào mùa (an cư) mưa.
2. Sau đó, khi đă sống qua mùa mưa đến hết ba tháng, các vị tỳ khưu ấy đă tháo gỡ các túp lều cỏ, thu xếp cỏ và gỗ lại, rồi ra đi du hành trong xứ sở. C̣n đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă cư trú mùa mưa ở chính nơi ấy, mùa lạnh ở nơi ấy, và mùa nóng ở nơi ấy.
3. Sau đó, lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
4. Đến lần thứ nh́, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă gom góp cỏ và gỗ rồi dựng lên túp lều cỏ. Đến lần thứ nh́, lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
5. Đến lần thứ ba, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă gom góp cỏ và gỗ rồi dựng lên túp lều cỏ. Đến lần thứ ba, lúc đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi.
6. Khi ấy, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă khởi ư điều này: “Quả thật đă đến lần thứ ba, lúc ta đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Vả lại, ta đă khéo học tập nghề làm đồ gốm ở nơi thầy ta, không sai sót, và có tay nghề thiện xảo; hay là ta nên đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều toàn bằng đất sét?”
7. Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều toàn bằng đất sét, rồi đă thu nhặt cỏ, củi, phân ḅ khô, và nung chín túp lều ấy. Túp lều ấy đẹp đẽ, đáng nh́n, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến. Giống như tiếng vang của cái chuông nhỏ, âm thanh của túp lều ấy cũng tương tợ như thế.
8. Sau đó, đức Thế Tôn trong lúc từ núi Gijjhakūṭa đi xuống cùng với nhiều vị tỳ khưu đă nh́n thấy túp lều đẹp đẽ, đáng nh́n, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến ấy, sau khi nh́n thấy đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, cái vật đẹp đẽ, đáng nh́n, xinh xắn, có màu đỏ như cánh kiến kia là vật ǵ vậy?”
9. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, v́ sao kẻ rồ dại ấy lại đích thân nhồi trộn đất bùn và tạo nên một túp lều toàn bằng đất sét? Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại ấy quả không có sự quan tâm, không có ḷng thương xót, không có tâm vô hại đối với các sanh mạng! Này các tỳ khưu, hăy đi và phá vỡ túp lều ấy. Chớ để loài người sau này (theo gương đó) gây nên việc giết hại các sanh mạng. Này các tỳ khưu, không nên thực hiện cốc liêu toàn bằng đất sét; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.
10. - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn đă đi đến túp lều ấy, sau khi đến đă phá vỡ túp lều ấy. Khi ấy, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này các đại đức, v́ sao các vị phá vỡ túp lều của tôi vậy?” - “Này đại đức, đức Thế Tôn bảo phá vỡ.” - “Này các đại đức, nếu bậc Pháp Chủ bảo phá vỡ th́ các vị hăy phá vỡ đi.”
11. Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă khởi ư rằng: “Quả thật đă đến lần thứ ba, lúc ta đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Ngay cả túp lều toàn bằng đất sét được ta tạo nên cũng đă bị đức Thế Tôn cho phá vỡ. Và có viên quản lư kho gỗ là người đồng đạo với ta; hay là ta nên yêu cầu viên quản lư kho gỗ các cây gỗ rồi tạo nên túp lều bằng gỗ?”
12. Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đi đến gặp viên quản lư kho gỗ, sau khi đến đă nói với viên quản lư kho gỗ điều này: - “Này đạo hữu, quả đă đến lần thứ ba, lúc ta đă đi vào làng để khất thực, những cô cắt cỏ, những cô mót củi đă tháo gỡ túp lều cỏ, đoạt lấy cỏ và gỗ, rồi (mang) đi. Ngay cả túp lều toàn bằng đất sét được ta tạo nên cũng đă bị đức Thế Tôn cho phá vỡ. Này đạo hữu, hăy cho ta các cây gỗ; ta muốn thực hiện túp lều bằng gỗ.” - “Thưa ngài, các cây gỗ mà tôi có thể dâng ngài th́ các loại như thế ấy không có. Thưa ngài, có những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng pḥng lúc hữu sự, nếu đức vua bảo cho các thứ ấy th́ thưa ngài, ngài hăy bảo người mang đi.” - “Này đạo hữu, đă được đức vua cho rồi.”
13. Khi ấy, viên quản lư kho gỗ (nghĩ rằng): “Các Sa-môn Thích tử này quả thật là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp. Ngay cả đức vua cũng tịnh tín những vị này. Không thể nào (họ) lại nói: ‘Đă được cho!’ về vật chưa được cho,” nên đă nói với đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm điều này: - “Thưa ngài, ngài hăy cho người mang đi.” Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă cho người cắt xẻ các cây gỗ ấy thành từng miếng, đă cho chuyển đi bằng các xe tải, rồi đă thực hiện túp lều bằng gỗ.
14. Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra là quan đại thần xứ Magadha trong lúc đi thanh tra các công việc trong thành Rājagaha đă đi đến gặp viên quản lư kho gỗ, sau khi đến đă nói với viên quản lư kho gỗ điều này: - “Này khanh, có những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng pḥng lúc hữu sự, những cây gỗ ấy đâu rồi?” - “Thưa quan lớn, những cây gỗ ấy đă được đức vua cho đến ngài Dhaniya con trai người thợ gốm rồi.”
15. Khi ấy, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha đă trở nên không hoan hỷ (nghĩ rằng): “V́ sao đức vua lại cho Dhaniya con trai người thợ gốm những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng pḥng lúc hữu sự?”
16. Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, nghe nói những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng pḥng lúc hữu sự đă được bệ hạ cho đến Dhaniya con trai người thợ gốm, có đúng không vậy?” - “Ai đă nói như thế?” - “Tâu bệ hạ, viên quản lư kho gỗ.” - “Này Bà-la-môn, vậy th́ khanh hăy cho lệnh gọi viên quản lư kho gỗ.”
17. Sau đó, Bà-la-môn Vassakāra quan đại thần xứ Magadha đă truyền lệnh trói viên quản lư kho gỗ. Đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă nh́n thấy viên quản lư kho gỗ bị trói lại và đang bị dẫn đi, sau khi nh́n thấy đă nói với viên quản lư kho gỗ điều này: - “Này đạo hữu, v́ sao ngươi bị trói và bị dẫn đi vậy?” - “Thưa ngài, v́ sự việc của những cây gỗ ấy.” - “Này đạo hữu, ngươi cứ đi. Ta cũng đi nữa.” - “Thưa ngài, ngài nên đi đến trước khi tôi bị giết chết.”
18. Sau đó, đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm đă đi đến hậu cung của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi đến gặp đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nói với đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm điều này:
19. - “Thưa ngài, nghe nói những cây gỗ thuộc quốc khố là vật liệu tu bổ thành phố được để riêng pḥng lúc hữu sự đă được trẫm cho đến ngài, có đúng không vậy?” - “Tâu đại vương, đúng vậy.” - “Thưa ngài, chúng tôi là những vị vua có nhiều phận sự, có nhiều việc phải làm, ngay cả sau khi đă cho chúng tôi cũng không thể nhớ được. Thưa ngài, giờ xin hăy nhắc lại.” - “Tâu đại vương, ngài có nhớ khi được phong vương lần thứ nhất ngài đă tuyên bố lời như vầy: ‘Cỏ, gỗ, và nước đă được dâng đến các Sa-môn và Bà-la-môn, hăy để cho các vị sử dụng.’” - “Thưa ngài, trẫm đă nhớ rồi. Thưa ngài, có những Sa-môn và Bà-la-môn khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy có sự hối hận cho dù sự việc là nhỏ nhặt, và vật đă được trẫm nói có liên quan đến các vị ấy là vật vô chủ ở trong rừng. Thưa ngài, ngài đây suy nghĩ dùng mưu mẹo ấy để lấy vật chưa được cho là các cây gỗ. Làm sao trẫm đây có thể hành hạ, hoặc giam giữ, hoặc trục xuất vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn đang cư ngụ trong lănh thổ được? Thưa ngài, ngài hăy đi. Ngài được tự do nhờ vào h́nh tướng. Ngài cũng chớ có tái phạm việc như vầy nữa!”
20. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có Sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đă bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đă bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đă không c̣n! Phạm hạnh của các vị này đă không c̣n! Các vị này c̣n đánh lừa ngay cả đức vua, th́ c̣n ǵ nữa đối với những người khác?”
21. Các tỳ khưu đă nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm lại lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua vậy?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
22. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm rằng: - “Này Dhaniya, nghe nói ngươi lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại lấy vật chưa được cho là các cây gỗ của đức vua vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
23. Vào lúc bấy giờ, có vị nọ trước kia là quan đại thần xử án nay đă xuất gia ở nơi các tỳ khưu, đang ngồi cách đức Thế Tôn không xa. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, với mức bao nhiêu th́ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (sẽ) hành hạ, hoặc giam giữ, hoặc trục xuất kẻ trộm cắp sau khi bắt được?” - “Bạch Thế Tôn, với một pāda, hoặc tương đương với một pāda.” Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha năm māsaka th́ bằng một pāda.[1] Khi ấy, đức Thế Tôn đă khiển trách đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào lấy vật không được cho theo lối trộm cướp; tương tợ như trong vụ đánh cắp, các vị vua sau khi bắt được kẻ trộm th́ có thể hành hạ, hoặc có thể giam giữ, hoặc có thể trục xuất (phán rằng): ‘Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp;’ tương tợ như thế, vị tỳ khưu khi lấy vật không được cho, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[Sự quy định căn bản]
1. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm mang về tu viện chia nhau. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, các vị thật là đại phước! Có nhiều y đă được phát sanh đến các vị.” - “Này các đại đức, do đâu mà chúng tôi có phước? Hôm nay, chúng tôi đă đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm.” - “Này các đại đức, không phải điều học đă được đức Thế Tôn quy định hay sao? Này các đại đức, tại sao các người lại lấy trộm gói đồ nhuộm?” - “Này các đại đức, đúng vậy. Điều học đă được đức Thế Tôn quy định và điều ấy là ở trong làng, không phải ở trong rừng.”
2. - “Này các đại đức, điều ấy không phải là như thế hay sao? Này các đại đức, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các đại đức, v́ sao các đại đức lại lấy trộm gói đồ nhuộm?
Này các đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này các đại đức, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.
3. Sau đó, khi đă khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đă đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào lấy vật không được cho từ làng hoặc từ rừng theo lối trộm cướp; tương tợ như trong vụ đánh cắp, các vị vua sau khi bắt được kẻ trộm th́ có thể hành hạ, hoặc có thể giam giữ, hoặc có thể trục xuất (phán rằng): ‘Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp;’ tương tợ như thế, vị tỳ khưu trong khi lấy vật không được cho, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[Sự quy định lần hai]
4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ‘Vị đi khất thực’ là tỳ khưu. ―(như trên)― vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Làng nghĩa là một túp lều cũng là làng. Hai túp lều cũng là làng. Ba túp lều cũng là làng. Bốn túp lều cũng là làng. Làng có người. Làng không có người. Làng được rào lại. Làng không được rào lại. Nơi các bầy ḅ chăn thả dừng lại tạm nghỉ cũng được gọi là làng. Thậm chí đoàn xe tải của thương buôn dừng lại trên bốn tháng cũng được gọi là làng.
Vùng ven làng nghĩa là (tính đến) chỗ rơi xuống của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) hạng trung đứng ở bục cổng của ngôi làng được rào lại, (hoặc tính đến) chỗ rơi xuống của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) hạng trung đứng ở vùng biên của các ngôi nhà thuộc ngôi làng không được rào lại.
Rừng nghĩa là trừ đi làng và vùng ven làng, phần c̣n lại gọi là rừng.
Vật không được cho nghĩa là vật nào chưa được cho, chưa được trao, chưa được dứt bỏ, được bảo vệ, được canh giữ, có sở hữu chủ, được quản lư bởi người khác; vật ấy là vật không được cho.
Theo lối trộm cướp: có tâm trộm cướp, có tâm lấy trộm.
Lấy: vị lấy đi, vị mang đi, vị lấy trộm, vị làm thay đổi tư thế, vị làm di chuyển khỏi vị trí, vị vượt qua sự quy định.
Có h́nh thức như thế nghĩa là một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda.
Các vị vua nghĩa là các vị vua (cai trị) toàn trái đất, các vị vua của một xứ, các vị vua của một vùng, các vị trưởng bộ tộc, các quan xử án, các quan đại thần, hoặc các vị nào điều khiển việc gia h́nh, các vị này gọi là các vị vua.
Kẻ trộm nghĩa là kẻ nào lấy đi theo lối trộm cướp vật không được cho trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, kẻ ấy gọi là kẻ trộm.
Hoặc có thể hành hạ: Họ có thể hành hạ bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng roi, hoặc bằng gậy, hoặc bằng dùi cui, hoặc bằng cách làm cho tàn phế.
Hoặc có thể giam giữ: Họ có thể giam giữ theo cách trói bằng dây thừng, hoặc theo cách trói bằng xiềng xích, hoặc theo cách trói bằng cùm, hoặc bằng cách giam trong nhà ngục, hoặc bằng cách giữ trong thành phố, hoặc bằng cách giữ trong làng, hoặc bằng cách giữ trong thị trấn, hoặc họ có thể thực hiện việc cho người canh gác.
Hoặc có thể trục xuất: Họ có thể trục xuất ra khỏi làng, hoặc ra khỏi thị trấn, hoặc ra khỏi thành phố, hoặc ra khỏi khu vực, hoặc ra khỏi xứ sở.
Ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ ngu, ngươi là kẻ khờ, ngươi là kẻ cướp: Điều này là sự quở trách.
Có h́nh thức như thế nghĩa là một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda.
Trong khi lấy: trong khi lấy đi, trong khi mang đi, trong khi lấy trộm, trong khi làm thay đổi tư thế, trong khi làm cho rời khỏi vị trí, trong khi vượt qua sự quy định.
Vị này cũng: được đề cập liên quan đến vị trước đây
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như chiếc lá vàng đă ĺa khỏi cành không thể xanh trở lại, tương tợ như thế vị tỳ khưu lấy đi theo lối trộm cướp vật không được cho có giá trị một pāda, hoặc tương đương một pāda, hoặc hơn một pāda th́ không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử; v́ thế, được gọi là ‘vị phạm tội pārājika.’
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, v́ thế được gọi là ‘không được cộng trú.’
*****
[Tiêu đề hướng dẫn]
1. Vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không, vật ở trong nước, vật ở trên chiếc thuyền, vật ở trong xe, vật là gói hàng, vật ở trong vườn, vật ở trong trú xá, vật ở trong ruộng, vật ở trong khu đất, vật ở trong làng, vật ở trong rừng, nước, tăm xỉa răng, cây rừng, vật được mang đi, vật được kư gởi, trạm thuế, sinh mạng, loài không chân, loài hai chân, loài bốn chân, loài nhiều chân, người theo dơi, người bảo vệ vật kư gởi, lấy trộm theo kế hoạch, hành động theo sự quy định, hành động theo dấu hiệu.
2. Vật ở trong đất nghĩa là vật được đặt xuống, được chôn, được phủ kín ở trong ḷng đất. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong đất: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai, hoặc t́m kiếm cái thuổng hay cái giỏ, hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; chặt cây hoặc dây leo mọc ở nơi ấy th́ phạm tội dukkaṭa;[2] đào đất, hoặc xắn ra, hoặc lấy lên th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào cái hũ th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Sau khi đưa vật đựng của ḿnh vào (trong hũ)[3] rồi khởi tâm trộm cắp vật có giá trị năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; bỏ vào trong vật đựng của ḿnh hoặc tách ra một nắm tay th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp vật làm theo dạng sợi: hoặc là dây thắt lưng, hoặc là dây chuyền cổ, hoặc là dây chuyền ở hông, hoặc là tấm vải choàng, hoặc là khăn xếp đội đầu, sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; nắm vào chóp (của một vật nào) rồi nâng lên th́ phạm tội thullaccaya; chà xát rồi bỏ xuống th́ phạm tội thullaccaya; đưa ra khỏi miệng hũ cho dù khoảng cách chỉ mảnh như sợi tóc th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp bơ lỏng, hay dầu ăn, hay mật ong, hay nước mía rồi uống trong một lần trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka th́ phạm tội pārājika. Ngay tại chỗ đó, đập bể, hoặc đổ bỏ, hoặc đốt đi, hoặc làm cho không c̣n sử dụng được nữa th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Vật ở trên đất nghĩa là vật được đặt xuống ở trên mặt đất. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trên mặt đất: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
4. Vật ở trên không nghĩa là vật di chuyển ở trên không, hoặc là chim công, hoặc là chim đa đa, hoặc là gà gô, hoặc là chim cun cút, hoặc là tấm vải choàng, hoặc là khăn xếp đội đầu, hoặc là bạc, hoặc là vàng đang bị bể ra và rơi xuống. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trên không: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; làm gián đoạn sự di chuyển th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
4. Vật ở khoảng không nghĩa là vật được đặt ở khoảng không (cách khoảng với mặt đất) hoặc là ở trên giường, hoặc là ở trên ghế, hoặc là ở sào máng y, hoặc là ở dây treo y, hoặc là ở chốt đinh đóng ở tường, hoặc là ở cái móc ngà voi, hoặc là được treo trên cây, thậm chí chỉ ở trên vật kê b́nh bát. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở khoảng không: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
6. Vật ở trong nước nghĩa là vật được đặt ở trong nước. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong nước: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; lặn xuống hoặc nổi lên th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp hoặc là đóa sen xanh, hoặc là đóa sen hồng, hoặc là đóa sen trắng, hoặc là ngó sen mọc ở nơi ấy, hoặc là cá, hoặc là rùa trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
7. Thuyền nghĩa là vượt qua (hồ, sông, biển, v.v...) bằng vật ấy. Vật ở trên chiếc thuyền nghĩa là vật được đặt ở trên thuyền. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trên chiếc thuyền: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp chiếc thuyền: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; tháo dây buộc th́ phạm tội dukkaṭa; sau khi tháo dây buộc, sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển lên, hoặc xuống, hoặc ngang, cho dù khoảng cách chỉ mảnh như sợi tóc th́ phạm tội pārājika.
8. Xe nghĩa là xe có mui, xe kéo hai bánh, xe tải hàng, xe ngựa kéo. Vật ở trong xe nghĩa là vật được đặt ở trong xe. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong xe: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp chiếc xe: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
9. Gói hàng nghĩa là gói hàng ở trên đầu, gói hàng ở vai, gói hàng ở hông, vật được đeo. Vị khởi tâm trộm cắp gói hàng ở trên đầu rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; đưa xuống vai th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào gói hàng ở trên vai th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; đưa xuống hông th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp gói hàng ở hông rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; cầm bằng tay th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp gói hàng ở tay rồi đặt xuống mặt đất th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp rồi nhấc lên khỏi mặt đất th́ phạm tội pārājika.
10. Vườn nghĩa là vườn hoa, vườn trái cây. Vật ở trong vườn nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong vườn: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong vườn: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp vật mọc ở nơi ấy hoặc là rễ cây, hoặc là vỏ cây, hoặc là lá cây, hoặc là bông hoa, hoặc là trái cây trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị kiện cáo về khu vườn th́ phạm tội dukkaṭa; làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về sở hữu chủ) th́ phạm tội thullaccaya; người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Khu vườn) sẽ không c̣n là của tôi nữa!” th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thắng người chủ th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thua th́ phạm tội thullaccaya.
11. Vật ở trong trú xá nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong trú xá: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong trú xá: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị kiện cáo về trú xá th́ phạm tội dukkaṭa; làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về sở hữu chủ) th́ phạm tội thullaccaya; người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Trú xá) sẽ không c̣n là của tôi nữa!” th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thắng người chủ th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thua th́ phạm tội thullaccaya.
12. Ruộng nghĩa là nơi sản xuất thóc lúa hoặc rau xanh. Vật ở trong ruộng nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong ruộng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong ruộng: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp thóc lúa hoặc là rau xanh trồng ở nơi ấy trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị kiện cáo về mảnh ruộng th́ phạm tội dukkaṭa; làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về sở hữu chủ) th́ phạm tội thullaccaya; người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Thửa Ruộng) sẽ không c̣n là của tôi nữa!” th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thắng người chủ th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thua th́ phạm tội thullaccaya. Vị di chuyển cọc ranh, hoặc dây ngăn, hoặc hàng rào, hoặc ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa; khi phần việc cuối cùng chưa hoàn tất th́ phạm tội thullaccaya; khi phần việc cuối cùng ấy đă hoàn tất th́ phạm tội pārājika.
13. Khu đất nghĩa là khu đất vườn, khu đất trú xá. Vật ở trong khu đất nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong khu đất: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong khu đất: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị kiện cáo về khu đất th́ phạm tội dukkaṭa; làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về sở hữu chủ) th́ phạm tội thullaccaya; người chủ buông bỏ trách nhiệm: “(Khu đất) sẽ không c̣n là của tôi nữa!” th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thắng người chủ th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thua th́ phạm tội thullaccaya. Vị di chuyển cọc ranh, hoặc dây ngăn, hoặc hàng rào, hoặc tường thành th́ phạm tội dukkaṭa; khi phần việc cuối cùng chưa hoàn tất th́ phạm tội thullaccaya; khi phần việc cuối cùng ấy đă hoàn tất th́ phạm tội pārājika.
14. Vật ở trong làng nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong làng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong làng: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
15. Rừng nghĩa là nơi nào có được sự quản lư của con người, nơi ấy tức là rừng. Vật ở trong rừng nghĩa là vật được đặt ở bốn nơi trong rừng: vật ở trong đất, vật ở trên mặt đất, vật ở trên không trung, vật ở khoảng không. Vị khởi tâm trộm cắp vật ở trong rừng: “Ta sẽ lấy trộm,” rồi kiếm thêm người thứ hai hoặc đi (một ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Vị khởi tâm trộm cắp hoặc là cây gỗ, hoặc là dây leo, hoặc là cỏ mọc ở nơi ấy trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
16. Nước nghĩa là nước đă được đưa vào trong chậu, hoặc ở trong là hồ chứa, hoặc ở trong đập ngăn. Vị khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. Sau khi đưa vật đựng của ḿnh vào, vị khởi tâm trộm cắp số nước trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm cho (nước) vào hẳn trong vật đựng của ḿnh th́ phạm tội pārājika. Vị phá vỡ tường thành th́ phạm tội dukkaṭa; sau khi phá vỡ tường thành rồi làm cho thoát ra lượng nước trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka th́ phạm tội pārājika; làm cho thoát ra lượng nước trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka th́ phạm tội thullaccaya; làm cho thoát ra lượng nước trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka th́ phạm tội dukkaṭa.
17. Tăm xỉa răng nghĩa là đă được cắt hoặc chưa được cắt. Vị khởi tâm trộm cắp vật trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
18. Cây rừng nghĩa là cây gỗ có sự hữu dụng được con người quản lư. Vị khởi tâm trộm cắp rồi (dùng dao) chặt th́ phạm tội dukkaṭa theo mỗi nhát dao; khi nhát dao cuối cùng chưa hoàn tất th́ phạm tội thullaccaya; khi nhát dao cuối cùng đă hoàn tất th́ phạm tội pārājika.
19. Vật được mang đi nghĩa là vật được mang đi thuộc về người khác. Vị khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi người khuân vác cùng với vật” rồi làm di chuyển bước chân thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ nh́ th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhặt lấy vật bị rơi” rồi làm cho (vật) rơi xuống th́ phạm tội dukkaṭa.Vị khởi tâm trộm cắp vật bị rơi xuống trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
20. Vật kư gởi nghĩa là vật được ủy thác. Khi được nói rằng: “Cho tôi vật (đă kư gởi)” vị trả lời: “Tôi không có giữ” th́ phạm tội dukkaṭa; làm cho người chủ khởi lên sự nghi hoặc (về việc kư gởi) th́ phạm tội thullaccaya; người chủ buông bỏ vấn đề: “Người này sẽ không trao cho ta!” th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thắng người chủ th́ phạm tội pārājika. Trong khi thực thi công lư, (nếu) thua th́ phạm tội thullaccaya.
21. Trạm thuế nghĩa là ở khe núi, hoặc ở bến đ̣, hoặc ở cổng làng đức vua đă quy định rằng: “Hăy thâu thuế đối với người đi vào nơi này.” Sau khi đi vào nơi đó, vị khởi tâm trộm cắp vật có thuế phải đóng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; vượt qua khỏi trạm thuế bước thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; vượt qua bước thứ nh́ th́ phạm tội pārājika. Vị đứng ở giữa trạm thuế và ném ra khỏi trạm thuế th́ phạm tội pārājika. Vị tránh né việc đóng thuế th́ phạm tội dukkaṭa.
22. Sinh mạng nghĩa là sinh mạng con người được đề cập đến. Vị khởi tâm trộm cắp rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước” rồi làm di chuyển bước chân thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ nh́ th́ phạm tội pārājika.
23. Loài không chân nghĩa là loài rắn, loài cá. Vị khởi tâm trộm cắp (loài không chân) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
24. Loài hai chân nghĩa là loài người, loài có cánh.[4] Vị khởi tâm trộm cắp (loài hai chân) rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước” rồi làm di chuyển bước chân thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ nh́ th́ phạm tội pārājika.
25. Loài bốn chân nghĩa là loài voi, loài ngựa, loài lạc đà, loài ḅ, loài lừa, loài gia súc. Vị khởi tâm trộm cắp (loài bốn chân) rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước” rồi làm di chuyển bước chân thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ nh́ th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ ba th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân thứ tư th́ phạm tội pārājika.
26. Loài nhiều chân nghĩa là loài ḅ cạp, loài rết (trăm chân), loài sâu róm. Vị khởi tâm trộm cắp (loài nhiều chân) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ dẫn đi từng bước” rồi làm di chuyển bước chân thứ nhất th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển cứ mỗi bước chân th́ phạm tội thullaccaya; làm di chuyển bước chân cuối cùng th́ phạm tội pārājika.
27. Người theo dơi nghĩa là sau khi theo dơi vật dụng rồi nói rằng: “Hăy lấy trộm vật dụng tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia lấy trộm vật dụng ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.
28. Người bảo vệ vật kư gởi nghĩa là ǵn giữ vật đă được mang đến. Vị khởi tâm trộm cắp (vật kư gởi) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka rồi sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa; làm lay động th́ phạm tội thullaccaya; làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
29. Lấy trộm theo kế hoạch nghĩa là sau khi nhiều vị bàn thảo rồi một vị lấy trộm đồ vật th́ tất cả đều phạm tội pārājika.
30. Hành động theo sự quy định nghĩa là lập nên sự quy định rằng: “Hăy lấy trộm vật ấy vào giờ quy định ấy, hoặc là trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày” th́ phạm tội dukkaṭa; (vị kia) lấy trộm đồ vật ấy vào giờ quy định ấy th́ cả hai phạm tội pārājika; (vị kia) lấy trộm đồ vật ấy trước hay sau giờ quy định ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị lấy trộm phạm tội pārājika.
31. Hành động theo dấu hiệu nghĩa là lập nên dấu hiệu rằng: “Hoặc là tôi sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hăy lấy trộm vật ấy theo dấu hiệu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa; (vị kia) lấy trộm vật ấy theo dấu hiệu ấy th́ cả hai phạm tội pārājika; (vị kia) lấy trộm vật dụng ấy trước hay sau dấu hiệu ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị lấy trộm phạm tội pārājika.
32. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết vật ấy rồi lấy trộm vật ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.
33. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết vật ấy rồi lấy trộm vật khác th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị lấy trộm phạm tội pārājika.
34. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết vật khác rồi lấy trộm vật ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.
35. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia nhận biết vật khác rồi lấy trộm vật khác th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị lấy trộm phạm tội pārājika.
36. Vị tỳ khưu (A)[5] chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hăy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hăy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hăy lấy trộm vật tên như vầy’” th́ vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa. Vị (nào) nói cho vị khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị lấy trộm (D) đồng ư th́ vị khởi xướng (A) phạm tội thullaccaya; vị ấy (D) lấy trộm vật ấy th́ tất cả đều phạm tội pārājika.
37. Vị tỳ khưu (A) chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hăy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hăy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hăy lấy trộm vật tên như vầy’” th́ vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa. Vị ấy (B) chỉ thị vị khác (D) th́ vị ấy (B) phạm tội dukkaṭa. Vị lấy trộm (D) đồng ư th́ vị ấy (D) phạm tội dukkaṭa; vị ấy (D) lấy trộm vật ấy th́ vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị lấy trộm (D) phạm tội pārājika.
38. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia đi rồi quay trở lại (nói rằng): “Tôi không thể lấy trộm vật ấy.” Vị ấy lại chỉ thị thêm: “Khi nào ngươi có thể th́ khi ấy ngươi hăy lấy trộm vật ấy” th́ phạm tội dukkaṭa. Vị kia lấy trộm vật ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.
39. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận nhưng không nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia lấy trộm vật ấy th́ cả hai phạm tội pārājika.
40. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đă được ngài chỉ thị” rồi lấy trộm vật ấy th́ vị khởi xướng vô tội, c̣n vị lấy trộm phạm tội pārājika.
41. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hăy lấy trộm vật tên như vầy” th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rơ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có lấy trộm.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại th́ cả hai vô tội.
42. Vị lấy vật không được cho phạm tội pārājika do năm yếu tố: là vật thuộc về người khác; biết vật thuộc về người khác; là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội thullaccaya, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
43. Vị lấy vật không được cho phạm tội thullaccaya do năm yếu tố: là vật thuộc về người khác; biết vật thuộc về người khác; là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội thullaccaya.
44. Vị lấy vật không được cho phạm tội dukkaṭa do năm yếu tố: là vật thuộc về người khác; biết vật thuộc về người khác; là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội dukkaṭa.
45. Vị lấy vật không được cho phạm tội pārājika do sáu yếu tố: biết vật không thuộc về ḿnh; lấy không phải do sự thân thiết; không phải (mượn) trong thời hạn; là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội thullaccaya, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội pārājika.
46. Vị lấy vật không được cho phạm tội thullaccaya do sáu yếu tố: biết vật không thuộc về ḿnh; lấy không phải do sự thân thiết; không phải (mượn) trong thời hạn; là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội thullaccaya.
47. Vị lấy vật không được cho phạm tội dukkaṭa do sáu yếu tố: biết vật không thuộc về ḿnh; lấy không phải do sự thân thiết; không phải (mượn) trong thời hạn; là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội dukkaṭa.
48. Vị lấy vật không được cho phạm tội dukkaṭa do năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác; nghĩ là vật thuộc về người khác; là vật dụng quan trọng trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội dukkaṭa.
49. Vị lấy vật không được cho phạm tội dukkaṭa do năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác; nghĩ là vật thuộc về người khác; là vật dụng tầm thường trị giá hơn một māsaka hoặc kém năm māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội dukkaṭa.
50. Vị lấy vật không được cho phạm tội dukkaṭa do năm yếu tố: là vật không thuộc về người khác; nghĩ là vật thuộc về người khác; là vật dụng tầm thường trị giá một māsaka hoặc kém một māsaka; và tâm trộm cắp có hiện diện; sờ vào th́ phạm tội dukkaṭa, làm lay động th́ phạm tội dukkaṭa, làm dời khỏi vị trí th́ phạm tội dukkaṭa.
51. Tưởng là của ḿnh, khi lấy do sự thân thiết, (mượn) trong thời hạn, thuộc về người chết, thuộc về loài thú, nghĩ là vật bị quăng bỏ, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Dứt tụng phẩm thứ nhất về việc trộm cắp.
--ooOoo--
Năm chuyện được thuật lại bởi những người thợ nhuộm, và bốn chuyện về những tấm vải choàng, năm chuyện về ban đêm, năm và sáu chuyện nữa liên quan đến việc mang vác.
Năm chuyện được thuật lại về lối nói, hai chuyện khác về gió, ở (thi thể) chưa hoại, việc rút thăm cỏ kusa, với chuyện nhà tắm thứ mười.
Năm chuyện được thuật lại về vật thú ăn thừa lại, và cũng năm chuyện liên quan đến việc vô căn cứ, lúc khó khăn vật thực, cơm, thịt, và bánh nướng, bánh ngọt, và thịt ngọt.
Vật dụng, túi xách, tấm nệm, sào máng y, vị đă không đi ra, và vật nên được ăn do thân thiết, hai chuyện khác về lầm tưởng của ḿnh.
‘Chúng tôi không lấy trộm’ có bảy chuyện, và họ đă lấy trộm cũng bảy chuyện, họ đă lấy trộm của hội chúng bảy chuyện, hai chuyện khác về bông hoa.
Và nhân danh người khác nói có ba chuyện, đem qua ba viên ngọc ma-ni, các con heo rừng, nai, và cá, và vị đă di chuyển luôn cả chiếc xe.
Chim tha đi hai chuyện, hai chuyện về khúc gỗ, vải quăng bỏ, hai chuyện về nước, theo lần lượt, sự phân công, chuyện khác về việc ấy đă chưa làm cho đủ số.
Bốn chuyện về nắm tay ở trong thành Sāvatthī, phần c̣n thừa hai chuyện, hai chuyện về cỏ, (trái cây) thuộc hội chúng, họ đă chia phần có bảy chuyện, và bảy chuyện nữa về không có chủ.
Gỗ, nước, và đất sét, hai chuyện về cỏ, họ đă trộm vật thuộc hội chúng có bảy chuyện, và cũng không nên di chuyển vật có chủ nhân, có thể mang đi vật có chủ trong một thời hạn.
Ở Campā, và luôn cả Vương Xá, và vị Ajjuka ở thành Vesālī, chuyện Bārāṇasī, và ở Kosambī, và vị Daḷhika ở thành Sāgalā.
*****
1. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Điều học đă được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đă phạm tội pārājika?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (1)
2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến chỗ nhuộm y nh́n thấy tấm vải quư giá nên đă khởi lên tâm trộm cắp. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đă phạm tội pārājika?” Vị ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vô tội trong việc sanh khởi tâm.” (2)
3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến chỗ nhuộm y nh́n thấy tấm vải quư giá nên khởi tâm trộm cắp rồi đă sờ vào. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (3)
4. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến chỗ nhuộm y nh́n thấy tấm vải quư giá nên khởi tâm trộm cắp rồi đă làm lay động. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (4)
5. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đến chỗ nhuộm y nh́n thấy tấm vải quư giá nên khởi tâm trộm cắp rồi đă làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (5)
6. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ sau khi nh́n thấy tấm vải choàng quư giá đă khởi lên tâm trộm cắp. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă sờ vào. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă làm lay động. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (6-9)
7. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy đồ vật vào ban ngày rồi đă làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm vật ấy. ―(như trên)― nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm vật khác. ―(như trên)― nhận ra vật khác rồi đă lấy trộm vật ấy. ―(như trên)― nhận ra vật khác rồi đă lấy trộm vật khác. ―(như trên)― Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (10-13)
8. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy đồ vật vào ban ngày rồi đă làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm (nhầm) đồ vật của chính ḿnh. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (14)
9. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ, trong lúc mang đồ vật của người khác, khởi tâm trộm cắp gói đồ ở trên đầu rồi đă sờ vào. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă làm lay động. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă đưa xuống vai. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă sờ vào gói đồ ở trên vai. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă làm lay động. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă đưa xuống hông. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp gói đồ ở hông rồi đă sờ vào. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă làm lay động. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă cầm lấy bằng tay. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp gói đồ ở tay rồi đă đặt xuống đất ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp rồi đă nhấc lên khỏi mặt đất. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (15-25)
10. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă căng y ở ngoài trời rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu khác (nghĩ rằng): “Chớ để y này bị hư hỏng” nên đă đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đă hỏi vị tỳ khưu ấy rằng: - “Này đại đức, y của tôi đă bị ai lấy trộm?” Vị ấy đă nói như vầy: - “Đă bị tôi lấy trộm.” Vị kia đă giữ vị ấy lại (nói rằng): - “Ngươi không phải là Sa-môn. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― Vị ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con (đáp lại) thuận theo câu nói.” - “Này tỳ khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.” (26)
11. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă để y ở trên ghế. ―(như trên)― đă để tấm lót ngồi ở trên ghế ―(như trên)― đă để b́nh bát ở dưới ghế rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu khác (nghĩ rằng): “Chớ để b́nh bát này bị hư hỏng” nên đă đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đă hỏi vị tỳ khưu ấy rằng: - “Này đại đức, b́nh bát của tôi đă bị ai lấy trộm?” Vị ấy đă nói như vầy: - “Đă bị tôi lấy trộm.” Vị kia đă giữ vị ấy lại (nói rằng): - “Ngươi không phải là Sa-môn. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.” (27-29)
12. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ đă căng y ở hàng rào rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỳ khưu ni khác (nghĩ rằng): “Chớ để y này bị hư hỏng,” nên đă đem cất đi. Vị ni kia đi ra rồi đă hỏi vị tỳ khưu ni ấy rằng: - “Này ni sư, y của tôi đă bị ai lấy trộm?” Vị ni ấy đă nói như vầy: - “Đă bị tôi lấy trộm.” Vị ni kia đă giữ vị ni ấy lại (nói rằng): - “Cô không c̣n là nữ Sa-môn nữa.” Vị ni ấy đă có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc (đáp lại) thuận theo câu nói.” (30)
13. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy tấm vải choàng bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ,” rồi đă nhặt lấy. Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không có tâm trộm cắp.” - “Này tỳ khưu, vị không có tâm trộm cắp th́ vô tội.” (31)
14. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp cái khăn xếp đội đầu bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy (nghĩ rằng): “(Phải hành động) trước khi những người chủ nh́n thấy,” rồi đă nhặt lấy. Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (32)
15. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi vào nơi nghĩa địa đă nhặt lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại. Và có ngạ quỷ trú trong thi thể ấy. Khi ấy, ngạ quỷ ấy đă nói với vị tỳ khưu điều này: - “Thưa ngài, xin chớ lấy đi tấm vải choàng của tôi.” Vị tỳ khưu ấy không chú ư đến nên đă nhặt lấy. Khi ấy, thi thể ấy đă đứng dậy và đi sát phía sau vị tỳ khưu ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi vào trú xá và đóng cửa lại. Khi ấy, thi thể ấy đă té xuống ngay tại chỗ ấy.[6] Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại; vị nào lấy th́ phạm tội dukkaṭa.” (33)
16. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc phân chia các y của hội chúng khởi tâm trộm cắp nên đă tráo thăm và đă lấy được y. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (34)
17. Vào lúc bấy giờ, ở trong nhà tắm hơi đại đức Ānanda (lầm) tưởng y nội của vị tỳ khưu khác là của ḿnh nên đă mặc vào. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này đại đức Ānanda, sao đại đức lại mặc y nội của tôi?” “Này đại đức, tôi tưởng là của tôi.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là của ḿnh th́ vô tội.” (35)
18. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc từ núi Gijjhakūṭa đi xuống đă nh́n thấy phần thịt ăn c̣n thừa của sư tử nên đă cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, (trong trường hợp) phần thịt ăn c̣n thừa của sư tử th́ vô tội.” (36)
19. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc từ núi Gijjhakūṭā đi xuống đă nh́n thấy phần thịt ăn c̣n thừa của loài cọp ―(như trên)― đă nh́n thấy phần thịt ăn c̣n thừa của loài beo ―(như trên)― đă nh́n thấy phần thịt ăn c̣n thừa của loài linh cẩu ―(như trên)― đă nh́n thấy phần thịt ăn c̣n thừa của chó sói nên đă cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, (trong trường hợp) vật thuộc về loài thú th́ vô tội.” (37-40)
20. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi cơm của hội chúng được phân chia (đă nói rằng): “Hăy trao cho tôi phần của vị khác” rồi đă lấy phần của vị không có hiện hữu. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya trong việc cố t́nh nói dối.”[7] (41)
21. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia ―(như trên)― trong khi bánh nướng của hội chúng được phân chia ―(như trên)― trong khi mía cây của hội chúng được phân chia ―(như trên)― trong khi dưa của hội chúng được phân chia ―(như trên)― (nói rằng): “Hăy trao cho tôi phần của vị khác” rồi đă lấy phần của vị không có hiện hữu. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya trong việc cố t́nh nói dối.”1 (42-45)
22. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ khưu nọ sau khi đi vào cửa hàng bán cơm đă khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm phần cơm đầy bát. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (46)
23. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ khưu nọ sau khi đi vào cửa hàng bán thịt đă khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm phần thịt đầy bát. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (47)
24. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực có vị tỳ khưu nọ sau khi đi vào cửa hàng bán bánh nướng đă khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm phần bánh nướng đầy bát. ―(như trên)― đă khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm phần bánh ngọt đầy bát. ―(như trên)― đă khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm phần thịt ngọt đầy bát. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (48-50)
25. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy vật dụng vào ban ngày rồi đă làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm vật ấy. ―(như trên)― Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm vật khác. ―(như trên)― Vị ấy nhận ra vật khác rồi đă lấy trộm vật ấy. ―(như trên)― Vị ấy nhận ra vật khác rồi đă lấy trộm vật khác. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (51-54)
26. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy vật dụng vào ban ngày rồi đă làm dấu hiệu (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đă lấy trộm vật dụng của chính ḿnh. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (55)
27. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy túi xách ở trên ghế (nghĩ rằng): “Trong khi lấy từ chỗ này th́ ta sẽ phạm tội pārājika” nên đă di chuyển luôn cả cái ghế rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (56)
28. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư định trộm cắp và đă lấy trộm nệm của hội chúng. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (57)
29. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư định trộm cắp và đă lấy trộm y ở sào máng y. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (58)
30. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi lấy trộm y ở trong trú xá (nghĩ rằng): “Khi đi ra khỏi đây th́ ta sẽ phạm tội pārājika,” rồi đă không đi ra khỏi trú xá. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại ấy dầu có đi ra hay không đi ra cũng đă phạm tội pārājika.” (59)
31. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu là bạn bè, một vị đă đi vào làng để khất thực. C̣n vị thứ nh́, trong khi vật thực cứng của hội chúng được phân phát, đă nhận phần của người bạn và đă thọ dụng do sự thân thiết với vị ấy. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, và đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ? - “Bạch Thế Tôn, con lấy do sự thân thiết.” - “Này tỳ khưu, trường hợp lấy do sự thân thiết th́ vô tội.”[8] (60)
32. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia, các phần chia của tất cả các vị đă được mang đến và để ở bên cạnh. Có vị tỳ khưu nọ (lầm) tưởng phần chia của vị tỳ khưu khác là của ḿnh nên đă thọ dụng. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, và đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là của ḿnh th́ vô tội.” (61)
33. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng đang được phân chia, phần chia của vị tỳ khưu nọ được mang lại bằng b́nh bát của vị tỳ khưu khác và được để gần đó. Vị tỳ khưu chủ nhân của b́nh bát (lầm) tưởng là của ḿnh nên đă thọ dụng. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, và đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là của ḿnh th́ vô tội.” (62)
34. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đă hái xoài rồi mang theo gói (xoài) ra đi. Những người chủ đă đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nh́n thấy những người chủ, các kẻ trộm đă đánh rơi gói (xoài) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đă bảo nhặt lấy rồi đă thọ dụng. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, và đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, (khi ấy) các ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, chúng con (lầm) tưởng là vật quăng bỏ.” - “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (63)
35. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng ―(như trên)― các kẻ trộm trái bánh ḿ ―(như trên)― các kẻ trộm trái mít ―(như trên)― các kẻ trộm trái chà là ―(như trên)― các kẻ trộm mía ―(như trên)― các kẻ trộm dưa sau khi gom các quả dưa lại rồi đă mang theo gói (dưa) và bỏ đi. Những người chủ đă đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nh́n thấy những người chủ, các kẻ trộm đă đánh rơi gói (dưa) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ khưu tưởng rằng gói (dưa) ấy là vật quăng bỏ nên đă cho người nhặt lấy rồi đă thọ dụng. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (64-69)
36. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đă hái xoài rồi mang theo gói (xoài) và bỏ đi. Những người chủ đă đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nh́n thấy những người chủ, các kẻ trộm đă đánh rơi gói (xoài) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ khưu khởi tâm trộm cắp: “(Phải hành động) trước khi những người chủ nh́n thấy” rồi đă thọ dụng. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (70)
37. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng ―(như trên)― các kẻ trộm trái bánh ḿ ―(như trên)― các kẻ trộm trái mít ―(như trên)― các kẻ trộm trái chà là ―(như trên)― các kẻ trộm mía ―(như trên)― các kẻ trộm dưa sau khi gom các quả dưa lại rồi đă mang theo gói (dưa) và bỏ đi. Những người chủ đă đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nh́n thấy những người chủ, các kẻ trộm đă đánh rơi gói (dưa) rồi tẩu thoát. Các vị tỳ khưu khởi tâm trộm cắp: “(Phải hành động) trước khi những người chủ nh́n thấy” rồi đă thọ dụng. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (71-76)
38. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm xoài của hội chúng ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm trái táo hồng của hội chúng ... trái bánh ḿ của hội chúng ... trái mít của hội chúng ... trái chà là của hội chúng ... mía của hội chúng ... dưa của hội chúng. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (77-83)
39. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến vườn hoa, khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm bông hoa đă được hái trị giá năm māsaka. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (84)
40. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến vườn hoa đă hái các bông hoa, rồi khởi tâm trộm cắp, đă lấy trộm (hoa) trị giá năm māsaka. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (85)
41. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, nhân danh đại đức tôi sẽ nói với gia đ́nh hộ độ của đại đức.” Vị ấy sau khi đi đến đă bảo đem lại một tấm vải choàng và đă sử dụng cho bản thân. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nói rằng: ‘Nhân danh đại đức tôi sẽ nói;’ vị nào nói th́ phạm tội dukkaṭa.” (86)
42. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến ngôi làng nhỏ. Có vị tỳ khưu nọ đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, nhân danh tôi đại đức hăy nói với gia đ́nh hộ độ của tôi.” Vị ấy sau khi đi đến đă bảo đem lại hai tấm vải choàng rồi đă sử dụng cho bản thân một tấm và đă trao cho vị tỳ khưu kia một tấm. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nói rằng: ‘Nhân danh tôi đại đức hăy nói;’ vị nào nói th́ phạm tội dukkaṭa.” (87)
43. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ đă nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, nhân danh đại đức tôi sẽ nói với gia đ́nh hộ độ của đại đức.” Vị kia cũng đă nói như vầy: - “Nhân danh tôi đại đức hăy nói với gia đ́nh hộ độ của tôi.” Vị ấy sau khi đi đến đă bảo đem lại một āḷhakaṃ bơ lỏng, một tulaṃ mật đường, và một doṇaṃ[9] gạo rồi đă thọ dụng bởi chính bản thân. Vị kia biết được đă quở trách vị ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nói rằng: ‘Nhân danh đại đức tôi sẽ nói,’ và không nên nói rằng: ‘Nhân danh tôi đại đức hăy nói;’ vị nào nói th́ phạm tội dukkaṭa.” (88)
44. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang theo viên ngọc ma-ni quư giá cùng đi đường xa với vị tỳ khưu nọ. Sau đó, khi nh́n thấy trạm thuế người đàn ông ấy đă lén bỏ viên ngọc ma-ni vào trong túi xách của vị tỳ khưu ấy và sau khi qua khỏi trạm thuế đă lấy lại. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con không biết.” - “Này tỳ khưu, vị không biết th́ vô tội.” (89)
45. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang viên ngọc ma-ni quư giá cùng đi đường xa với vị tỳ khưu nọ. Sau đó, khi nh́n thấy trạm thuế người đàn ông ấy giả vờ bị bệnh rồi đă trao gói đồ của ḿnh cho vị tỳ khưu ấy. Sau đó, khi đă qua khỏi trạm thuế người đàn ông ấy đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, xin hăy trao gói đồ cho tôi. Tôi không có bệnh.” - “Này đạo hữu, tại sao ngươi đă làm như thế?” Khi ấy, người đàn ông ấy đă kể lại sự việc ấy cho vị tỳ khưu ấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không biết th́ vô tội.” (90)
46. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đường xa cùng với đoàn xe. Có người đàn ông nọ đă dùng vật chất mua chuộc vị tỳ khưu ấy, đến khi nh́n thấy trạm thuế đă trao cho vị tỳ khưu ấy viên ngọc ma-ni quư giá (nói rằng): - “Thưa ngài, hăy đem viên ngọc ma-ni này qua khỏi trạm thuế.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă đem viên ngọc ma-ni ấy qua khỏi trạm thuế. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (91)
47. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ v́ ḷng thương xót con heo rừng bị mắc bẫy nên đă gỡ ra. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con v́ ḷng thương xót.” - “Này tỳ khưu, vị v́ ḷng thương xót th́ vô tội.” (92)
48. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp con heo rừng bị mắc bẫy: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă gỡ ra. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (93)
49. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ v́ ḷng thương xót con nai bị mắc bẫy nên đă gỡ ra. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp con nai bị mắc bẫy: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă gỡ ra ―(như trên)― v́ ḷng thương xót những con cá bị vướng vào rọ nên đă gỡ ra. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp những con cá bị vướng vào rọ: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă gỡ ra. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (94-97)
50. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi nh́n thấy gói đồ ở trong chiếc xe (nghĩ rằng): “Trong khi lấy từ chỗ này th́ ta sẽ phạm tội pārājika” nên đă đi vượt lên trên, xoay vần (gói đồ), rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (98)
51. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă nhặt lấy miếng thịt bị chim ưng tha đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có tâm trộm cắp th́ vô tội.” (99)
52. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có tâm trộm cắp miếng thịt bị chim ưng tha đi: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă nhặt lấy. Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (100)
53. Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc (các khúc gỗ) lại thành bè rồi thả xuôi ḍng sông Aciravatī. Khi dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đă bị phân tán trôi đi. Các vị tỳ khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đă vớt lên. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (101)
54. Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc (các khúc gỗ) lại thành bè rồi thả xuôi ḍng sông Aciravatī. Khi dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đă bị phân tán trôi đi. Các vị tỳ khưu khởi tâm trộm cắp: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă vớt lên. Những người chủ đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (102)
55. Vào lúc bấy giờ, có người chăn ḅ nọ đă treo tấm vải choàng trên cây rồi đi đại tiện. Có vị tỳ khưu nọ tưởng là vật quăng bỏ nên đă nhặt lấy. Khi ấy, người chăn ḅ ấy đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (103)
56. Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị tỳ khưu nọ đang lội qua sông, có tấm vải choàng bị truột khỏi tay của những người thợ nhuộm (trôi đến) vướng vào bàn chân (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy đă nhặt lên (nghĩ rằng): “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có tâm trộm cắp th́ vô tội.” (104)
57. Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị tỳ khưu nọ đang lội qua sông, có tấm vải choàng bị truột khỏi tay của những người thợ nhuộm (trôi đến) vướng vào bàn chân (của vị ấy). Vị tỳ khưu ấy khởi tâm trộm cắp: “(Phải hành động) trước khi các người chủ nh́n thấy” rồi đă nhặt lấy. Những người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (105)
58. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nh́n thấy hũ bơ lỏng nên đă thọ dụng mỗi lần một chút ít. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.”[10] (106)
59. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đă cùng nhau phân công rồi ra đi (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ lấy trộm đồ vật.” Một vị đă lấy trộm đồ vật. Các vị ấy đă nói như vầy: - “Chúng ta không phạm tội pārājika. Vị nào lấy trộm, vị ấy phạm tội pārājika.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (107)
60. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu sau khi đă cùng nhau phân công rồi đă lấy trộm đồ vật và chia phần. Trong khi được phân chia bởi các vị ấy, phần chia cho mỗi một vị không đủ năm māsaka. Các vị ấy đă nói như vầy: - “Chúng ta không phạm tội pārājika.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, các ngươi đă phạm tội pārājika.” (108)
61. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī trong lúc có sự khó khăn về vật thực, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp rồi đă lấy trộm một nắm gạo của người chủ tiệm. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (109)
62. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī trong lúc có sự khó khăn về vật thực, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp rồi đă lấy trộm một nắm đậu ―(như trên)― một nắm đậu tây ―(như trên)― một nắm hạt mè của người chủ tiệm. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (110-112)
63. Vào lúc bấy giờ, trong rừng Andha ở thành Sāvatthī, các kẻ trộm đă giết con ḅ cái rồi ăn thịt, sau khi thu xếp lại phần c̣n thừa rồi đă ra đi. Các vị tỳ khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đă cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Các kẻ trộm đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (113)
64. Vào lúc bấy giờ, trong khu rừng Andha ở thành Sāvatthī, các kẻ trộm sau khi giết con heo rừng, đă ăn thịt, sau khi thu xếp lại phần c̣n thừa, rồi đă đi. Các vị tỳ khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đă cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Các kẻ trộm đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị (lầm) tưởng là vật quăng bỏ th́ vô tội.” (114)
65. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến cánh đồng cỏ khởi tâm trộm cắp rồi đă lấy trộm cỏ được cắt sẵn trị giá năm māsaka. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (115)
66. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến cánh đồng cỏ đă cắt cỏ, rồi khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm (c ỏ) trị giá năm māsaka. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (116)
67. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu văng lai đă bảo chia phần xoài của hội chúng rồi thọ dụng. Các tỳ khưu thường trú đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, (khi ấy) các ngươi có tâm ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, chúng con có nhu cầu về thọ thực.” - “Này các tỳ khưu, (trường hợp) có nhu cầu về thọ thực th́ vô tội.” (117)
68. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu văng lai đă bảo chia phần trái táo hồng của hội chúng ―(như trên)― trái bánh ḿ của hội chúng ―(như trên)― trái mít của hội chúng ―(như trên)― trái chà-là của hội chúng ―(như trên)― mía của hội chúng ―(như trên)― dưa của hội chúng rồi thọ dụng. Các tỳ khưu thường trú đă quở trách các vị tỳ khưu ấy rằng: - “Các người không phải là Sa-môn.” Các vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, (trường hợp) có nhu cầu về thọ thực th́ vô tội.” (118-123)
69. Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ vườn xoài dâng trái xoài đến các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này” nên ngần ngại rồi không thọ nhận. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, trong việc bố thí của người giữ vườn th́ không phạm tội.” (124)
70. Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ vườn táo hồng ―(như trên)― những người canh giữ vườn cây bánh ḿ ―(như trên)― những người canh giữ vườn mít ―(như trên)― những người canh giữ vườn cây chà-là ―(như trên)― những người canh giữ vườn mía ―(như trên)― những người canh giữ vườn dưa dâng những quả dưa đến các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này” nên ngần ngại rồi không thọ nhận. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc bố thí của người giữ vườn.” (125-130)
71. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lấy cây gỗ của hội chúng trong một thời hạn để chống đỡ bức tường của trú xá thuộc về bản thân. Các tỳ khưu đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc, rồi đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm ǵ? - “Bạch Thế Tôn, con (lấy) có tính cách tạm thời. - “Này tỳ khưu, (trường hợp) có tính cách tạm thời th́ vô tội.” (131)
72. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm nước của hội chúng. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm đất sét của hội chúng. ―(như trên)― khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm cỏ muñjakita của hội chúng. ―(như trên)― Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (132-134)
73. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đă đốt cháy cỏ muñjakita của hội chúng. ―(như trên)― Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (135)
74. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm giường của hội chúng. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (136)
75. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đă lấy trộm ghế của hội chúng ―(như trên)― nệm của hội chúng ―(như trên)― gối của hội chúng ―(như trên)― cánh cửa sổ của hội chúng ―(như trên)― cánh cửa lá sách của hội chúng ―(như trên)― đà gỗ của hội chúng. Vị ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đă phạm tội pārājika.” (137-142)
76. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sử dụng sàng tọa là vật dụng trong trú xá của nam cư sĩ nọ tại địa điểm khác. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các ngài lại sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác? Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa.” (143)
77. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại di chuyển (thảm lót) đến nhà hành lễ Uposatha và pḥng hội họp nên ngồi xuống ở nền nhà. Các thân ḿnh và y phục đều bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, Ta cho phép lấy đi trong một thời hạn.” (144)
78. Vào lúc bấy giờ, ở xứ Campā vị tỳ khưu ni học tṛ của tỳ khưu ni Thullanandā đă đi đến gia đ́nh hộ độ tỳ khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Ni sư muốn uống cháo gồm ba thứ;” sau khi bảo nấu, đă mang đi, rồi đă thọ dụng bởi chính bản thân. Vị ni Thullanandā biết được đă quở trách vị ni ấy rằng: - “Ngươi không phải là nữ Sa-môn.” Vị ni ấy đă có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị ni ấy không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya về việc cố t́nh nói dối.” (145)
79. Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha vị tỳ khưu ni học tṛ của tỳ khưu ni Thullanandā đă đi đến gia đ́nh hộ độ tỳ khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Ni sư muốn ăn mật viên;” sau khi bảo nấu, đă mang đi, rồi đă thọ dụng bởi chính bản thân. Vị ni Thullanandā biết được đă quở trách vị ni ấy rằng: - “Ngươi không phải là nữ Sa-môn.” Vị ni ấy đă có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị ni ấy không phạm tội pārājika mà phạm tội pācittiya về việc cố t́nh nói dối.” (146)
80. Vào lúc bấy giờ, ở thành Vesālī người gia chủ hộ độ đại đức Ajjuka có hai đứa trẻ trai: (một) là con trai và (đứa kia) là cháu trai. Khi ấy, người gia chủ ấy đă nói với đại đức Ajjuka điều này: - “Thưa ngài, trong hai đứa trẻ trai này, đứa nào có đức tin và mộ đạo th́ ngài nên thông báo cơ hội này cho đứa ấy.” Vào lúc bấy giờ, đứa cháu trai của người gia chủ ấy th́ có đức tin và mộ đạo. Khi ấy, đại đức Ajjuka đă thông báo cơ hội ấy cho đứa trẻ trai ấy. Với của cải ấy, người ấy đă bảo quản được tài sản và c̣n thể hiện việc bố thí nữa. Sau đó, người con trai của vị gia chủ ấy đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Thưa ngài Ānanda, ai thật sự là người thừa tự của người cha, là con trai hay là cháu trai?” - “Này đạo hữu, người con trai chính là người thừa tự của người cha.” - “Thưa ngài, đại đức Ajjuka này đă bảo rằng của cải của chúng tôi là thuộc về người anh (em) họ của chúng tôi” - “Này đạo hữu, đại đức Ajjuka không phải là Sa-môn.” Sau đó, đại đức Ajjuka đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này đại đức Ānanda, hăy cho tôi cuộc phân xử.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Upāli là thuộc về phe của đại đức Ajjuka. Khi ấy, đại đức Upāli đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này đại đức Ānanda, vị (tỳ khưu) được sở hữu chủ nói rằng: ‘Hăy thông báo cơ hội này cho người tên như vầy’ rồi đă thông báo cho người ấy (điều đă được dặn ḍ) th́ vị (tỳ khưu) ấy phạm tội ǵ?” - “Thưa ngài, vị ấy không phạm bất cứ tội ǵ cho dù là tội dukkaṭa đi nữa.” - “Này đại đức, đại đức Ajjuka này được sở hữu chủ nói rằng: ‘Hăy thông báo cơ hội này cho người tên như vầy’ rồi đă thông báo cho người ấy (điều đă được dặn ḍ). Này đại đức, đại đức Ajjuka không phạm tội.” (147)
81. Vào lúc bấy giờ, ở thành Bārāṇasī gia đ́nh hộ độ đại đức Pilindivaccha bị bọn đạo tặc cướp bóc và hai đứa trẻ trai đă bị bắt đi. Khi ấy, đại đức Pilindivaccha bằng thần thông đă đưa hai đứa trẻ ấy về lại và để ở ṭa nhà. Dân chúng sau khi nh́n thấy hai đứa trẻ ấy (biết rằng): ‘Đây là năng lực thần thông của ngài Pilindivaccha!’ rồi đă đặt trọn niềm tin nơi đại đức Pilindivaccha. Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao đại đức Pilindivaccha lại đưa về những đứa trẻ đă bị bọn đạo tặc bắt đi?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trong lănh vực về thần thông vị có thần thông th́ vô tội.” (146)
82. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu là bạn bè, Paṇḍaka và Kapila. Một vị cư trú ở ngôi làng nhỏ, vị kia cư trú ở thành Kosambī. Khi ấy, trong lúc vị tỳ khưu ấy từ ngôi làng nhỏ đi đến thành Kosambī, ở giữa đường trong lúc lội qua con sông, có xâu thịt mỡ bị truột khỏi tay đám thợ săn heo rừng (trôi đến) vướng vào bàn chân (vị ấy). Vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ trao lại cho các người chủ” rồi đă nhặt lấy. Các người chủ đă quở trách vị tỳ khưu ấy rằng: - “Ngươi không phải là Sa-môn.” Có cô chăn ḅ nọ sau khi nh́n thấy vị ấy đi ngang qua đă nói điều này: - “Thưa ngài, hăy đến. Ngài hăy thực hiện việc đôi lứa.” Vị ấy (nghĩ rằng): “Tự trong bản chất, ta không phải là Sa-môn nữa rồi!” nên đă thực hiện việc đôi lứa với cô ấy, sau đó đă đi đến thành Kosambī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị ấy không phạm tội pārājika trong việc trộm cắp, mà phạm tội pārājika trong chuyện gắn bó vào việc đôi lứa.” (149)
83. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāgalā vị tỳ khưu đệ tử của đại đức Daḷhika bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đă lấy trộm khăn xếp đội đầu của người chủ tiệm rồi đă nói với đại đức Daḷhika điều này: - “Thưa ngài, tôi không phải là Sa-môn, tôi sẽ hoàn tục.” - “Này đại đức, ngươi đă làm điều ǵ?” Vị ấy đă kể lại sự việc ấy. Sau khi bảo đem lại (vật ấy) vị Daḷhika đă cho định giá. Trong khi được định giá, vật ấy có giá trị không đến năm māsaka. ―(như trên)― “Này đại đức, không phạm tội pārājika.” Rồi vị ấy đă thuyết Pháp. Vị tỳ khưu ấy đă trở nên hoan hỷ. (150)
Dứt điều pārājika thứ nh́.
--ooOoo--
[1] Theo ngài Buddhaghosa, đơn vị tiền tệ thời ấy là kahāpaṇa và 1 kahāpaṇa = 4 pāda = 20 māsaka (VinA. ii, 297). Ven. Thumana, ở bản dịch sang tiếng Anh của bộ Luật Pārājikapāḷi do Department for the Promotion and Propagation of the Sāsanā xuất bản ở Miến Điện, lấy đơn vị tiền tệ làm sự so sánh nên cho rằng: “Nếu lấy trộm ¼ kyat sẽ phạm tội pārājika” (1 US dollar # 1000 kyat vào năm 2002). Hơn nữa, baht đơn vị tiền tệ ở Thái Lan chính là từ pāda của Pāli (1 US dollar # 45 baht vào năm 2002). Tài liệu Luật Xuất Gia Tóm Tắt của HT. Hộ Tông cũng cho rằng 1 pāda tương đương 6 cắt bạc VN năm 1966. Nếu so sánh theo cách này th́ chỉ cần trộm 1 vật có giá trị rất nhỏ cũng đă phạm tội pārājika. Tài liệu Vinayamukha của Ngài Mahāsamaṇa Chao (Thái Lan) có giới thiệu một cách tính như sau: “Theo Sớ Giải (Ṭīkā), 1 māsaka trị giá bằng số vàng có trọng lượng tương đương trọng lượng của 4 hạt gạo.” Như vậy 1 pāda sẽ có giá trị vàng có trọng lượng tương đương trọng lượng của 4 x 5 = 20 hạt gạo, nghe đâu có người đă ước lượng vào khoảng 5 phân vàng. Mặt khác, theo câu chuyện duyên khởi của điều nissaggiya thứ 18, th́ 1 pāda lúc bấy giờ chỉ mua được một miếng thịt nhỏ vừa miệng ăn của một đứa bé. Thêm vào đó, các câu chuyện dẫn giải cũng có thể giúp cho người đọc có thêm được khái niệm về trị giá của 5 māsaka vào thời bấy giờ.
[2] Lẽ ra phải là tội pācittiya (ND).
[3] V́ không thể đưa hũ lên khỏi hố chôn được (VinA. ii, 316).
[4] Loài có cánh (pakkhajātā) có ba loại:
cánh bằng lông (lomapakkhā) như chim công, gà gô,
cánh bằng da (cammapakkhā) như loài dơi,
cánh bằng xương (aṭṭhipakkhā) như loài ong (VinA. ii, 363).
[5] A, B, C, D được thêm vào cho dễ hiểu dựa theo Chú Giải (VinA. ii, 368-370).
[6] Do sự luyến ái với tấm vải choàng nên người có tấm vải choàng ấy đă bị tái sanh làm peta ở nơi thi thể ấy. Peta có khả năng làm thi thể ấy đứng dậy. Sau khi cửa bị đóng lại, peta ấy biết đă bị mất tấm vải choàng nên đă từ bỏ thi thể ấy rồi theo nghiệp đi tái sanh lần nữa; do đó, thi thể ấy bị té ngă xuống đất (VinA. ii, 374).
[7] Là tội pācittiya thứ nhất.
[8] Này các tỷ-kheo, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người hội đủ năm điều: là vị quen biết, là vị thân thiết, vị ấy đă nói trước, vị ấy c̣n sống, và vị lấy biết được rằng: ‘Nếu được ta lấy th́ vị ấy sẽ hoan hỷ’ (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VIII, trang 211).
[9] Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở bộ sách Vinayamukha th́ āḷhakaṃ và doṇam là đơn vị đo thể tích: Một āḷhakaṃ ước lượng khoảng tám bụm tay, và bốn āḷhaka là một doṇam. C̣n tulaṃ là đơn vị đo trọng lượng.
[10] Trường hợp này chúng ta có thể thắc mắc rằng: “Nếu tổng số bơ lỏng vị ấy đă thọ dụng trị giá bằng năm māsaka hoặc hơn năm māsaka th́ vị ấy có phạm tội pārājika hay không?” (Yếu tố ‘có tâm trộm cắp’ được hiểu ngầm). Đương nhiên là vị ấy phạm tội pārājika. Tuy nhiên, trường hợp của vị này có chút khác biệt. Chúng tôi hiểu như sau về lời giải thích của ngài Buddhaghosa: Vị ấy thọ dụng mỗi lần một chút ít như thế trị giá bằng một māsaka hoặc kém một māsaka nên chỉ phạm tội dukkaṭa cho mỗi lần thọ dụng. Sau khi thọ dụng lần thứ nhất, vị ấy sám hối, quyết tâm rằng: “Ta sẽ không làm như thế nữa.” V́ đă trong sạch trở lại, nên vào ngày kế khi vị ấy thọ dụng thêm một chút ít th́ lại phạm tội dukkaṭa nữa. Vị ấy lại sám hối tội. Tiến tŕnh phạm tội và sám hối được tiếp diễn. Chính v́ lư do đó, số lượng bơ lỏng vị ấy đă thọ dụng không được tính gộp lại mà chỉ tính riêng cho mỗi lần thọ dụng. Nếu vị ấy không sám hối tội, th́ sẽ tùy theo tổng số lượng bơ lỏng vị ấy đă thọ dụng mà định tội (VinA. ii, 385).